Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2016


HIỆN TƯỢNG “ZIẾT” SỬ:
LỮ GIANG VÀ NHỮNG CÔNG TRÌNH
KHẢO CỨU CHÂN CHÍNH

Trần Quốc Đại

LGT - Một bài cũ (1999) nhưng vẫn phản ánh đầy đủ tình hình “ziết” sữ của người Việt nói chung, người gốc Việt ở hải ngoại nói riêng: Gian trá, vô học, độc ác và bất lương – NG/2016

Khoảng ít năm qua, tại hải ngoại xuất hiện một phong trào "Ziết" sử trên một số các tờ báo hải ngoại. Lữ Giang, tức Tú Gàn, là cây bút mới nổi trong giới này, đã nhận là người "ziết sử" chân chính và tố cáo kẻ khác là "phịa sử." Một vài tờ báo đã phụ họa với Lữ Giang. Tiến sĩ Trần Chung Ngọc, nguyên Giáo sư Vật lý tại Đại học Wisconsin mới về hưu, đã từng có bài về "ziết sử" để nhắc nhở Tú Gàn-Lữ Giang hay những kẻ dấu mặt giật dây. Tại sao là “ziết sử”? Ziết sử như thế nào để làm gì? Đó là những câu hỏi đặt ra cho kẻ viết bài này.
Lữ Giang là tác giả cuốn Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam. Bí ẩn nào? Phải chăng đó là những chuyện như ông cai này, đội nọ lái xe cho các "quan Thượng [thư]" thời Pháp thuộc ra sao, bưng tráp, cắp ô hầu các quan huyện quan phủ, giắt mối gái hay hối lộ cho chủ quan thế nào, ăn trộm sái nhị ra sao, hoặc các cụ Thượng hay quan lớn dâng vợ, đợ con cho quan Tây ra sao, tát đánh thế nào để vừa thu thuế vừa lột thắt lưng dân đen; vu cáo những người yêu nước là Cộng Sản như thế nào để thăng quan, tiến chức theo kiểu quan huyện Ngô Đình Diệm trong thập niên1920?

“Bí ẩn" phía sau những cuộc thánh chiến" hay "cuộc chiến Việt Nam" mà Lữ Giang muốn vạch ra là bí ẩn nào? Để trả lời câu hỏi đó, trước hết phải xét qua tài viết sử của Lữ Giang. Thứ nữa, thử xét đến một số những lỗi lầm tiêu biểu của Lữ Giang. Và chót hết, thử tìm hiểu xem tại sao Lữ Giang nhảy vào lãnh vực sử?
Lữ Giang bắt đầu lộ ngay chân tướng qua "Lời nói đầu" (tr. i-v), chứ không đợi qua trên 400 trang sách kế tiếp. Chỉ trong vòng vài chục trang đầu (tr. 12-33) Lữ Giang đã mắc phải không biết bao nhiêu điểm sai lầm (chẳng hạn, chi tiết về hòa ước 1862 trong trang 1 và trang 17) . Lữ Giang cũng đã không che dấu được xảo thuật "dẫn chứng đoạn chương," cắt bỏ những phần tài liệu quan trọng trong luận cứ của các học giả, rồi xoáy vào những điểm phụ để cong queo bào chữa cho một thiểu số tội nhân của lịch sử quốc dân Việt Nam. Xảo thuật này rất thường thấy trong sản phẩm của công an mật thám Pháp từng áp dụng để vu cáo nạn nhân của chúng. Sử gia Tư Mã Thiên gọi lối viết cưỡng từ đoạt lý, bất chấp hoặc cố tình bẻ cong sự thực này là "đao bút." Khi ngọn đao bút lọt trong tay kẻ quyền lực và nạn nhân chỉ có đời sống ngắn ngủi, vô phương tự vệ, thì nó cực kỳ nguy hiểm. Nhưng lịch sử là sự thật của ngàn đời không bị che mờ bỏi xảo thuật ấy.
Trong bài này, chúng tôi sẽ lược qua một số lỗi lầm căn bản của Lữ Giang. Sau này, nếu thì giờ cho phép, chúng tôi sẽ nói rõ hơn những kẻ đang gieo rắc hận thù tôn giáo ở hải ngoại này.


Tú Gàn aka Lữ Giang aka Nguyễn Cần
(Biệt danh do những nhà báo ở vùng Bolsa đặt: Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà)

*
*   *

1-      Về Nguồn Tài Liệu Nghiên Cứu của Lữ Giang

1.1- Trong phần Dẫn Nhập cuốn sách kể trên, Lữ Giang nhận đã "tìm đọc các tài liệu được coi là tương đối có giá trị tại các thư viện hay văn khố của Hoa Kỳ và Pháp" (tr. ii). Nhưng Lữ Giang tìm tài liệu ở văn khố Pháp nào? Lướt qua phần "Ghi chú" và "Tài liệu tham khảo" (tr. 474), người ta thấy Lữ Giang chỉ liệt kê được báo cáo của Tướng Casseville gửi Bộ Thuộc Địa Pháp ngày 11/7/1945, và ba tư liệu SPCE 371, 372 và 373 trong "Lưu Trữ Hải Ngoại" (AOM) của Pháp ở Aix-en Provence. Chỉ nguyên chi tiết này đủ chứng tỏ Lữ Giang chưa bao giờ đặt chân tới văn khố Aix-en Provence, và có lẽ cũng chẳng hiểu "AOM" là gì nữa.
"AOM" là tiếng viết tắt của Archives d'Outre-mer, tức văn khố Bộ Thuộc Địa hay Pháp quốc hải ngoại, trước kia đặt ở đường Oudinot, quận 7 Paris. Theo các thân hữu của chúng tôi, từ nhiều năm nay, AOM đã di chuyển xuống Aix-en Provence, gom với Dépôt des Archives d'Outre-mer (viết tắt là DOM) thành Centre des archives d'Outre-mer, tức Trung tâm Các Văn Khố Hải Ngoại, thường được các sử gia viết tắt là CAOM. Như thế, từ đầu thập niên 1990, danh hiệu "AOM" hay "DOM" đã ngừng hiện hữu. Nếu quả thực Lữ Giang từng đào bới các văn khố Pháp, thời gian nghiên cứu chắc chắn không thể trước thập niên 1990. Chỉ cần từng xin phép nghiên cứu tài liệu văn khố ở Aix-en Provence thôi, hẳn Lữ Giang đã thấy tên của văn khố này in rành rành ra đó. Dùng ký hiệu "AOM" để nhắc đến báo cáo của Tướng Casseville là bằng chứng cho thấy Lữ Giang có lẽ đã dựa vào tập Lá bài bí mật của de Gaulle: Hoàng tử Vĩnh Sang của Vũ Ngự Chiêu, nhưng lại cứ làm như bản thân mình đã tới Aix-en Provence để tham khảo tài liệu.
Có thể nói đó là "bí ẩn" đầu tiên, dù chưa hẳn cuối cùng, về chuyện Lữ Giang tìm đọc tài liệu ở "văn khố Hoa Kỳ và Pháp." Nếu ai có rảnh thì giờ, xin hãy so sánh các chi tiết của Lữ Giang nêu ra với nội dung các cuốn Việt Nam Niên Biểu, tập IA và I-B, hay tập III: Nhân Vật Chí của Chính Đạo (tức Vũ Ngự Chiêu) hẳn thấy rõ ngay. Thật vậy, cứ thử xét qua một vài chi tiết như việc từ chức của ông Ngô Đình Diệm năm 1933, việc hôn nhân của ông Ngô Đình Nhu năm 1943, hay văn thư đề cử Ngô Đình Khả làm Giám đốc trường Quốc Học Huế năm 1896 cũng đủ thấy Lữ Giang nhập nhằng như thế nào.
1.1.1. Về việc từ chức của Ngô Đình Diệm, Lữ Giang sử dụng những tài liệu nào mà có những nhật kỳ chính xác như "9/7/1933" (Ngô Đình Diệm ra Quảng trị thăm Nguyễn Hữu Bài), "12/7/1933" (Cụ Diệm của Lữ Giang nạp đơn xin từ chức) hay "22/7/1933" (Bảo Đại cử Thái Văn Toản thay Ngô Đình Diệm)? Thực tế mới chỉ có Vũ Ngự Chiêu công bố lần đầu tiên năm 1993 trong tập Nhân Vật Chí. (Xem Ngô Đình Diệm).
1.1.2. Về đám cưới giữa Ngô Đình Nhu và Lệ Xuân, Lữ Giang viết rằng "trong một tờ trình ngày 26/3/1943 gởi Toàn quyền Decoux, Khâm sứ Grandjean có nói rằng đây là một sự liên kết đáng lo ngại."(Lữ Giang, tr. 418) Tờ trình đó hiện ở đâu? Nội dung ra sao? Lữ Giang có thể trả lời không? Và nếu không thì phải chăng Lữ Giang chỉ cóp lại trong cuốn Nhân Vật Chí của Chính Đạo (ấn bản 1997, tr. 308) mà không nêu rõ xuất xứ? Nhưng đi đêm có ngày gặp ma. Lữ Giang đã bị lộ chân tướng khi tưởng tượng ra rằng Grandjean làm "tờ trình ngày 26/3/1943" về việc đám cưới của Ngô Đình Nhu với Lệ Xuân. "Tờ trình" có nghĩa một báo cáo chính thức, phải sử dụng những mẫu đặc biệt, được đánh số hẳn hoi. Còn tài liệu mà Chính Đạo sử dụng là "thư riêng", viết tay, của Grandjean gửi Decoux. Nếu Lữ Giang quả có tham khảo tài liệu trên thì liệu có thể trích đăng lại phóng ảnh lá thư đó chăng? Hoặc, thử tóm lược xem nội dung thư này ra sao?
1.1.3. Về tờ trình của Broni xin đề cử thông ngôn hạng nhất Ngô Đình Khả làm Giám đốc trường Quốc học (trong đó Broni nêu rõ công trạng của Ngô Đình Khả, ngoài việc phục vụ rất đắc lực cho Khâm sứ Pháp, còn từng cùng Nguyễn Thân ra Hà tĩnh đánh phá mật khu của cụ Phan Đình Phùng năm 1895, và mặc dù cụ Phan đã chết vì bệnh kiết lỵ bọn Nguyễn Thân, Ngô Đình Khả đã đào xác cụ lên mà đốt thành than, trộn với thuốc súng bắn đi), mới chỉ xuất hiện trong các tác phẩm của cựu Thiếu tướng Đỗ Mậu, Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, và tập Hồ Chí Minh: Con người & Huyền thoại của Chính Đạo (ấn bản 1997).
Ngoài ra, kho tài liệu "SPCE 371, 372, 373" tại "AOM" mà Lữ Giang nhắc đến là gì? Không thấy Lữ Giang giải thích rõ ràng.

1.2. Về tài liệu "tìm đọc ở văn khố Hoa Kỳ" thì chẳng thấy Lữ Giang nhắc đến văn khố nào, tài liệu nào. Trong phần thư mục thì chỉ thấy có tập tài liệu Pentagon Papers đề là 5 tập, in năm 1971.
Nhưng đây có thực là tài liệu "văn khố" không? Lại nữa, chỉ có những thư viện lớn mới tàng trữ bộ tài liệu Ngũ Giác Đài tỉnh lược do một Thượng Nghị sĩ Mỹ thu thập này. Tài liệu "văn khố" thứ thực là bộ US-Vietnam Relations, 1945-1965, gồm 12 tập, do Bộ trưởng Quốc phòng McNamara cho lệnh thu thập từ năm 1967. Chưa kể vài ba cuốn sách giá trị hạng hai, hạng ba bằng Mỹ ngữ khác nữa. Cho nên, tài liệu mà Lữ Giang trưng dẫn là tham khảo lại chỉ gồm phần lớn sách tiếng Việt giá trị không cao.
*
*    *
2. Lữ Giang Và Lịch Sử:
"Sách" của Lữ Giang chi chít những lỗi lầm về sử liệu cũng như lối "văn chương" cung văn quen thuộc.

2.1. Về cụ Phan Bội Châu
2.1.1. Lữ Giang viết:"Khi mới sinh ông ra, thân phụ ông đặt tên là Phan Văn San. Nhưng về sau, Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi lấy đế hiệu là Duy Tân, nên thân phụ ông phải đổi lại là Phan Bội Châu vì sợ phạm húy. Vì thế, ông mới có tục danh là San." (tr. 32) Chỉ nguyên câu ngắn ngủi này đã có bốn điểm sai:
2.1.1.1. Theo giấy tờ hộ tịch, Cụ Phan Bội Châu tên thực là Phan Đình Sang, nếu viết theo ngày nay là "San."
2.1.1.2. Cụ Phan sinh năm 1868 tại xã Đông liệt, huyện Nam đàn, tỉnh Nghệ an. Có tài liệu ghi cụ Phan sinh năm 1867 tại làng Đan nhiễm, tổng Xuân liễu (như người đã chú thích tập Tự Phán, nhưng chi tiết này khác với chi tiết trong cuốn Niên Biểu, và tài liệu văn khố Pháp). Lữ Giang đã sao y sai lầm này, và cũng không nêu rõ xuất xứ.
2.1.1.3. Vua Duy Tân lên ngôi năm 1907, mà Cụ Phan Bội Châu đã đi thi từ thập niên 1890. Làm gì có chuyện "thân phụ ông phải đổi lại là Phan Bội Châu vì sợ phạm húy" một ông vua chưa sinh ra đời, nói chi chuyện lên ngôi. Câu chuyện "sợ phạm húy" này là do Lữ Giang bày ra để chứng tỏ mình cũng biết tục lệ "phạm húy."
2.1.1.4. Phụ thân của cụ Phan cũng mất sớm. Làm thế nào phụ thân cụ Phan có phép lạ tái sinh sau năm 1907 để đổi tên cho Cụ? Lại nữa, đó cũng chẳng phải là chuyện "bí ẩn" gì đâu. Tìm mua cuốn Niên Biểu hoặc Tư Phán của cụ Phan sẽ rõ tại sao cụ nấn ná ở quê nhà, chưa muốn ly khai: Thân mẫu cụ mất sớm, trong khi phụ thân già, yếu, bệnh hoạn cần người hầu hạ.
2.1.1.5. Từ sự việc Lữ Giang trích dẫn cuốn Tự Phán, mà không biết chi tiết phụ thân cụ Phan mất trước ngày Hoàng tử Vĩnh San mới lọt lòng mẹ, và mãi tới năm 1907 mới được Pháp cho lên làm vua sau một cuộc khám nghiệm sức khoẻ để loại những ứng cử viên có bệnh "điên gia truyền", ai cũng thấy tài Lữ Giang cóp nhặt lời trích dẫn cuốn Tự Phán của một tác giả nào đó.
2.1.2. Về việc thi cử của cụ Phan Bội Châu, Lữ Giang viết: "Về sau nhờ sự vận động của quan tế tửu trường Quốc Tử Giám là Khiếu Năng Tĩnh, thầy học của ông, ông mới được đi thi lại. Năm 33 tuổi (1900), nhờ sự khuyến khích của thầy Khiếu Năng Tĩnh, ông thi đỗ Giải nguyên tại trường thi Nghệ an. Năm sau ông vào kinh thi Hội nhưng không đỗ. Từ đó ông bỏ khoa cử đi làm chính trị." (tr. 32) Đoạn văn này cũng đầy rẫy lỗi lầm.
2.1.2.1. Cụ Phan tuy nổi tiếng học giỏi từ nhỏ, nhưng đường công danh lận đận. Khóa thi Đinh Dậu (1897), can tội mang tài liệu vào trường thi, và bị cấm thi trọn đời. Từ đó lưu lạc ra Bắc Kỳ, rồi vào Huế làm thầy đồ trong nhà Cử Nhân Võ Bá Hạp. Rồi về quê thụ tang. Tế tửu Khiếu Năng Tịnh chẳng bao giờ là thầy dạy của Phan Bội Châu hồi nhỏ. Theo cụ Phan, nhân dịp dạy học ở Huế, cụ giao du với nhiều người nổi danh như Tế Tửu (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám là Khiếu Năng Tịnh, và Hoàng Giáp Tiến Sĩ Nguyễn Thượng Hiền. Chính Hoàng Giáp Hiền đã "điểm nhãn" cho Phan Bội Châu qua nhiều tác phẩm giá trị như Thiên Hạ Đại Thế Luận của Nguyễn Lộ Trạch; cùng những tác phẩm "mới" (tân văn) của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, cũng như giới thiệu cụ Phan với cụ Tăng Bạt Hổ, một chiến sĩ kháng Pháp đương thời. (Niên Biểu 1971, tr. 24).
Lời chứng này của cụ Phan Bội Châu bất cứ ai có chút hiểu biết về lịch sử cận đại Việt nam đều rõ. Ngoại trừ Lữ Giang!
2.1.2.2. Năm Canh Tý (1900), sau khi thụ tang ở quê, nhờ sự can thiệp của Tổng Đốc Nghệ An là Đào Tiến mà Cụ Phan Bội Châu được dự thi Hương, và đậu đầu trường Nghệ. "Bí ẩn" Khiếu Năng Tịnh chỉ là sản phẩm phịa sử của Lữ Giang.
2.1.2.3. Sau chuyến ra Bắc thất bại của cụ Phan (1902 hoặc 1903), lại chính Đào Tiến, Thượng thư bộ Lễ, cân nhắc cho Phan Bội Châu vào "tọa giám"-- tức ăn lương trường Quốc Tử Giám để chuẩn bị khóa thi Hội năm 1904. Làm gì có Khiếu Năng Tịnh nào ở đây như Lữ Giang bảo? Thử đọc cuốn Niên Biểu của cụ Phan đi thì rõ; đừng cóp nhặt của người khác, rồi bảo là đã "tìm đọc" tác phẩm trích dẫn, mà cương ẩu.
2.1.2.4. Mặc dù đã có ý hướng làm chính trị từ nhỏ, năm 1904 cụ Phan vẫn dự thi Hội, nhưng bị rớt chứ làm gì có chuyện "bỏ khoa cử đi làm chính trị" như Lữ Giang phịa.
2.1.2.5. Cụ Phan cũng vào tọa giám từ năm 1903, không phải đầu năm 1904 như Lữ Giang bày ra (tr. 33). Chi tiết cụ trở lại Huế vào đầu năm 1904, chỉ là trở lại Huế sau một chuyến vào Nam liên kết đồng chí. "Bí ẩn" cụ Phan chỉ vào tọa giám ở Huế năm 1904 thì chỉ phát sinh từ việc Lữ Giang đọc sách không kỹ, không tiêu.
2.1.2.6. Chắc Lữ Giang không biết, hoặc biết mà tảng lờ thêm một chi tiết sau này: Người Pháp và bọn quan lại Ki-tô như Ngô Đình Khả, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, v.. v... đã khai thác vụ cụ Phan trượt Tiến sĩ này mà bôi bác rằng cụ đi làm cách mạng vì không được chức Tiến sĩ!

2.2. Về việc cải cách năm 1932-1933:
Nhà nghiên cứu sử chân chính nào cũng nhìn cuộc cải cách năm 1932-1933 -- tức đưa Bảo Đại về nước, và tái lập chế độ quân chủ ở An-Nam (Trung Kỳ) -- là một thay đổi chính sách đối nội của Pháp, từ "đồng hoá" sang "hợp tác." Lý thuyết gia của cuộc cải cách này là Albert Sarraut và Pierre Pasquier. Bảo Đại, một ông vua trẻ vừa hơn 18 tuổi, được hấp thụ giáo dục Pháp và dưới sự kềm kẹp của Jean Charles, sẽ thủ diễn vở kịch "quân chủ lập hiến" để ngăn cản những ngọn gió chống đối và cách mạng sắt máu qua sự hình thành và nổi dậy tại nội địa của hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng (1930) và Đảng Cộng Sản Đông Dương (1930-1932). Mặc dù những bàn tay của bọn quan lại Việt gian nhúng ngập máu dân lành trong cuộc đánh dẹp suốt ba năm 1929-1932, nhưng người Pháp tự hiểu những cuộc cách mạng chống Pháp mới chỉ khởi đầu. Đưa Bảo Đại về nước, và "duy tân hoá" triều Huế là nhằm mục tiêu chiến lược trên. Nói cách khác, Bảo Đại chẳng có chút quyền lực nào, chỉ "rủ buông tay áo cho người Pháp cai trị".
Để vây quanh Bảo Đại những khuôn mặt tân học cho triều đình Huế có vẻ "tân thời", Pasquier cử Phạm Quỳnh làm Chánh văn phòng cho Bảo Đại. Về Bộ Hình, cử Bùi Bằng Đoàn, một người được coi như thanh liêm nhất. Còn Ngô Đình Diệm, cũng nổi tiếng thanh liêm, được chọn để làm dịu lại sự chống đối của phe Ki-tô giáo và cựu thông ngôn Nguyễn Hữu Bài, v.. v... Nhưng Ngô Đình Diệm chỉ thích"đi tu" hơn lấy con gái Nguyễn Hữu Bài hoặc tham chính, nên có thể (có thể thôi) bị Nguyễn Hữu Bài gài vào cái bẫy "trở lại Hiệp ước 6-6-1884 và qui ước 1885" giống như ấu vương Hàm Nghi ngày nào. Kết quả là thân bại danh liệt. Nếu không có những chuyển biến thế giới từ năm 1939, chẳng biết Ngô Đình Diệm đã lưu lạc tới đâu, cũng có thể đã an phận tu hành trong một nhà tu nào đó, thay vì bị thảm sát trong lòng một chiếc Thiết Vận Xa vào sáng ngày 2-11-1963.

Nhưng chỉ trong ít trang nói về cuộc đảo chính cung đình này (tr. 12-24), người ta có thể tìm thấy hàng chục lỗi lầm của Lữ Giang.
2.2.1. Năm 1932, triều đình Huế không hề có 6 bộ. Trước khi nói về cuộc "đại cải cách" năm 1932, Lữ Giang viết rằng triều đình Huế gồm 6 bộ: Đứng đầu nội các là bộ Lại (tức Bộ Nội Vụ), rồi đến bộ Hộ (tài chánh), Bộ Lễ (hay bộ Học), bộ Hình (Tư Pháp), Bộ Binh (Quốc Phòng) và bộ Công (Công Chánh).(tr. 11)
2.2.1.1. Nếu từng đi tìm "tài liệu văn khố Hoa Kỳ và Pháp", Lữ Giang phải biết rằng từ năm 1907, mặc dù triều đình Huế vẫn còn 6 bộ, nhưng bộ Binh đã bị ghép chung với Bộ Công để lo việc tạp dịch. Nhiệm vụ chính của các quan ở Bộ Binh chỉ là lo việc lương tiền cho các đội lính tập An-Nam, làm gì có "quốc phòng" ở đây. Nhiệm vụ "quốc phòng" giao cho các đội quân da trắng và mật thám Pháp, hay bọn lạp binh, khố đỏ, khố xanh. "Bí ẩn" này có gì khó tìm hiểu đâu.
2.2.1.2. Cũng vào thời gian này, người Pháp lập ra bộ Học, giao cho Cao Xuân Dục cầm đầu. Bộ Lễ hoàn toàn biệt lập với bộ Học chẳng có chuyện "Bộ Lễ hay bộ Học" như Lữ Giang tưởng tượng.
2.2.1.3. Lữ Giang viết rằng sau khi Duy Tân lên ngôi, Trương Như Cương được cử làm Thượng thư Bộ Lại kiêm Cơ Mật Viện trưởng. Đó là Lữ Giang bày ra thôi vì Trương Như Cương làm Thượng thư bộ Lại từ đời Thành Thái.
2.2.2. Trong một đoạn khác (tr. 15), Lữ Giang còn cho rằng Bảo Đại đã "hủy bỏ bộ [Binh] do đề nghị của Nguyễn Hữu Bài."(tr. 15)
2.2.2.1. Bảo Đại có quyền gì để hủy bỏ bộ Binh? Từ trước ngày quyết định cho Bảo Đại về nước làm bù nhìn, Pasquier đã soạn sẵn kế hoạch chi tiết tỉ mỉ rồi. Bảo Đại chỉ có một quyền duy nhất là làm bất cứ điều gì Khâm sứ Pháp sai bảo. Còn Nguyễn Hữu Bài thì ngày càng bị Pháp khinh bỉ, chán ghét, và chuẩn bị thay bằng những "con ngựa Việt gian" khác, uy quyền gì mà đòi này, đề nghị nọ. Chỉ có ông Tuần vũ thích đi tu mới ngốc nghếch nghe theo Nguyễn Hữu Bài xúi dại mà thân danh bại liệt, làm bể "bát cơm Pháp" mà cha là Ngô Đình Khả đã dày công hãn mã mới dành đoạt được làm của thừa kế cho dòng họ. (Xem Paris Xuân 1996 của Nguyên Vũ).
2.2.2.2. Lữ Giang đã sống với Cộng Sản một thời gian -- nếu không phải là nhân vật Lữ Giang từng tham gia hội Công giáo ‘quốc doanh’ và viết báo Nhân Dân về nhà thờ Phát diệm -- chắc biết các tài liệu trong nước về những cuộc thảm sát ở vùng Thanh Nghệ Tĩnh trong giai đoạn 1929-1933. Những thủ đoạn ác độc của bọn quan lại Việt gian -- như treo đầu lâu "giặc" lên những cọc tre để cảnh cáo người khác, bắt dân phải kiểm soát mật báo lẫn nhau, chịu chung trách nhiệm nếu có chuyện gì xảy ra, trói nạn nhân lại như giò để tra tấn, hãm hiếp phụ nữ và thiếu nữ -- được các tác giả Cộng Sản tả lại khá kỹ. Họ không phịa ra như Lữ Giang thường làm đâu, chỉ biết chưa hết đó thôi. Nay Lữ Giang lại phịa ra những câu như đòi bỏ bộ Binh vì không muốn triều đình bị mang tiếng đưa quân đi đánh các phong trào kháng Pháp của người Việt, rồi đặt để vào miệng Nguyễn Hữu Bài (tr. 15). Nhưng dù Lữ Giang có tô hồng, chuốt lục cho Nguyễn Hữu Bài cách nào đi nữa, thì cũng không thể biến một tên đại Việt gian -- bàn tay đẫm máu các nhà liệt sĩ ái quốc Việt Nam từ Bắc Kỳ vào tới Trung Kỳ trong suốt bao năm dài -- trở thành một "lãnh tụ vĩ đại" hay "thánh tử đạo." Nguyễn Hữu Bài hay Ngô Đình Khả và đồng đảng đã và sẽ mãi mãi được quốc dân Việt nhắc đến như những tên đại phản quốc (chỉ trừ trường hợp Nguyễn Văn Thuận, Giám mục cháu ngoại Ngô Đình Khả, tìm được máy bay, tàu chiến và đại pháo của một cường quốc nào tới đánh phá Việt nam, biến Việt nam thành một nước Phi Luật Tân thứ hai. Lúc ấy, những cái tên Petrus Ký, Ngô Đình Khả, Huyện Sĩ, Nguyễn Hữu Bài sẽ được giát vàng và được phong làm "thánh" hay "thần hoàng." Nhưng cả Hồng Y Nguyễn Văn Thuận tới Giáo Hoàng John Paul II cũng đã qua đời. Chỉ trơ lại những người như Lữ Giang và đồng bạn.
2.2.3. Đặt bút viết những hàng trên, Lữ Giang cũng chứng tỏ chẳng biết gì về các cuộc cải cách năm 1917 của Toàn quyền Albert Sarraut. Năm 1917, Sarraut thu nhỏ triều đình còn 4 bộ "kép", và Nguyễn Hữu Bài, sau khi làm tốt công tác lưu đầy cả hai cha con Thành Thái và Duy Tân cho Bửu Đảo vững tâm trên ngôi, được đặc cách làm Thượng thư Bộ Lại kiêm bộ Hộ. Hồ Đắc Trung nắm bộ Học (từ năm 1913), và Đoàn Đình Duyệt nắm Bộ Công và bộ Binh. Mãi tới năm 1929 mới tách bộ Lại và bộ Hộ, tức tăng tổng số triều thần lên năm bộ. (Dưới triều Bảo Đại, mới có bộ thứ sáu tức bộ Nông từ năm 1935). "Bí ẩn" này ít người biết, nhưng nếu từng tìm tài liệu văn khố Hoa Kỳ và Pháp, cũng chẳng khó khăn gì. Chỉ có Lữ Giang không biết.
2.2.4. Phạm Quỳnh chưa là Thượng Thư Bộ Học ngày 2-3-1933: Ở một đoạn khác, Lữ Giang phịa ra cảnh ngày 2-3-1933 Phạm Quỳnh đọc tuyên dụ "suy cử các Thượng thư mới", y hệt như chính mắt mình chứng kiến (tr. 16). Chẳng hiểu cóp nhặt ở đâu hay lại phịa ra cái "bí ẩn" này để bôi bác Phạm Quỳnh?
2.2.4.1. Trong lịch sử Việt Nam, "ngày 2-3-1933" chẳng có nghĩa gì cả. Có lẽ ở đây Lữ Giang muốn nói đến ngày 2-5-1933, là ngày Pasquier cho toàn bộ thượng thư cũ (ngoại trừ Thái Văn Toản) từ chức. Đây có thể là lỗi lầm kỹ thuật (xếp chữ), nhưng cũng có thể Lữ Giang đã sao cóp nguyên văn lỗi lầm của một tác giả nào đó.
2.2.4.2. Chắc chắn là Phạm Quỳnh chưa làm Thượng thư Bộ học ngày 2-3-1933, hoặc ngày 2-5-1933. Tài liệu văn khố Pháp và Việt khẳng định Phạm Quỳnh chỉ được cử làm Thượng thư Bộ học vào ngày 7-8-1933. Bất cứ ai từng tìm đọc "tài liệu văn khố và thư Viện Hoa Kỳ và Pháp" -- như ký giả lão thành Như Phong đang ra công làm việc ở Aix-en Provence -- có thể tìm ra chi tiết này. Các sử gia chân chính thì cho đây là chi tiết nhỏ, nên lướt đi, chờ công bố khi cần thiết. Chỉ có Lữ Giang, chuyên "tìm tài liệu văn khố" trong tác phẩm của người khác, mới để lòi ra hai cục bướu "bí ẩn"trên.

2.3. Lữ Giang và các hòa ước Pháp-Việt:
Bất cứ người Việt nào với một kiến thức phổ thông cũng hiểu biết rõ ràng về các hòa ước ký kết với Pháp. Trừ Lữ Giang, người trí thức Công Giáo kiệt xuất.
2.3.1. Hiệp ước Bảo hộ 6-6-1884 không "chia nước [Việt] ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ" như Lữ Giang bày đặt (tr. 17). Nghe đồn Lữ Giang từng làm thẩm phán trước năm 1975 ở miền Nam Việt Nam, nghĩa là cũng thuộc về giới luật học ở Việt Nam, với những người tài giỏi như quí ông Vũ Quốc Thúc, Mai văn Lễ v.. v... . Nhưng muốn bàn về các Hiệp ước thì phải thận trọng, cân nhắc từng chữ, từng câu. Sai một ly, đi một dặm. Người học luật còn phải thận trọng hơn ai hết.
Hiệp ước 6-6-1884 chẳng có chữ nào "chia" hay "cắt" "nước" làm hai khu vực, và cũng chẳng hề có chữ "Trung Kỳ". Theo văn bản Hòa ước trên, Đại Nam -- lúc này chỉ còn từ Bình thuận tới biên giới Hoa Nam -- nhìn nhận sự bảo hộ của Đại Pháp. Chỉ có thế. Những điều khoản về quyền lực của người Pháp tại Bắc Kỳ có sự khác biệt với các tỉnh từ Thanh hoá trở vào; nhưng chẳng có chương, đoạn hay câu, chữ nào "chia" Đại Nam thành "Bắc Kỳ" và "Trung Kỳ". "Bí ẩn" chia cắt này chỉ có Lữ Giang tốt nghiệp trường Luật, làm đến thẩm phán biết rõ mà thôi.
2.3.2. Nam Kỳ chưa trở thành thuộc địa của Pháp do "Hòa ước 9-5-1862"(tr. 17): Phần lớn học sinh ngày xưa đều biết rằng Hiệp ước 1862 chỉ nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, và mãi tới năm 1874 triều đình Huế mới ký Hiệp ước cắt nhượng hẳn sáu tỉnh miền Nam cho Pháp sau khi các cố đạo Pháp, đặc biệt là Puginier và Gauthier, xúi dục Francis Garnier hạ thành Hà nội và đánh chiếm vùng châu thổ Nhị hà (xem chi tiết trong Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, tập I của Vũ Ngự Chiêu). Chỉ có Lữ Giang cũng không biết, thế mới là điều “bí ẩn.”
2.3.2.1. Lữ Giang tạo ra một "bí ẩn" lịch sử rằng có tới "hai" hoà ước 1862. Hoà ước thứ nhất ký "ngày 9.5.1862", khiến "Nam Kỳ đã trở thành thuộc địa của Pháp" (tr. 17). Hoà ước thứ hai, ký "ngày 5.6.1862" theo đó triều Nguyễn nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.(tr. 10).
2.3.2.1. Chỉ có những trí thức bất thường mới nói đến hai hoà ước xuất hiện cách nhau chưa đầy một tháng; hòa ước thứ nhất thì nhường cả Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa, và Hiệp ước thứ hai thì Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp chỉ chịu cắt có ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, cùng một số điều khoản khác.
2.3.2.2. So sánh "hai hòa ước" trên của "bí ẩn" Lữ Giang, thì sau khi được cắt nhượng cả Nam Kỳ ngày "9-5-1862", chưa đầy một tháng sau, vào ngày 5-6-1862, Đề đốc Bonard đã ép buộc Phan Thanh Giản phải nhận lại ba tỉnh miền Tây. Như thế hai nhà thương thuyết Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp phải được vua Tự Đức khen thưởng hết sức, chớ ai lại nỡ lòng nào mà nghiêm khắc trách mắng là "tội nhân ngàn đời của lịch sử"? Phần ông Bonard trong "bí ẩn" Lữ Giang này cũng thật lạ lùng, sao đùng đùng mang trả lại ba tỉnh miền Tây làm gì khiến 5 năm sau Lagrandière phải mang quân đi chiếm lại.
2.3.2.3. Thực ra, cả vua Tự Đức lẫn ông Bonard đâu có hồ đồ, thiếu lý lẽ như thế. Kẻ hồ đồ chính là Lữ Giang, đã phịa ra hai cái hòa ước 9-5-1862 và 5-6-1862 bằng cách râu bà nọ cắm mép ông kia.
2.3.2.4. Tài liệu "văn khố Hoa Kỳ và Pháp" nào dám nói triều Nguyễn cắt Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa năm 1862? Chắc là tài liệu văn khố Pháp và Hoa Kỳ theo kiểu "Bảo Đại nói với Cụ Cao Xuân Vỹ vào năm 1982 tại California." (Ông Bảo Đại chết rồi, chẳng hiểu ông Vỹ có bằng chứng thành văn hay thành lời nào chăng? Ông Cao Xuân Vỹ từng được giao nắm Thanh Niên Cộng Hòa, rồi theo hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu đi trốn, nhưng không thoát, chẳng hiểu tại sao không bị bắt hay bị giết như hai anh em ông Diệm-Nhu? Nghe đồn ông Huỳnh Văn Lang, một tay Cần Lao hạng gộc, cũng định tấp tểnh làm nghề "ziết sử" và "bí ẩn" như Lữ Giang. Chờ xem.) Thực ra, nếu có chút thận trọng tối thiểu bình thường thì Lữ Giang đã lật sách của Tiến sĩ Nguyễn Thế Anh ra, tập sách dành cho sinh viên dự bị sử, và tránh được những lỗi lầm kể trên.

2.4. Về lá thư của Ngô Đình Thục van nài Decoux ngày 21-8-1944, và các tài liệu khác về họ Ngô:
Cuốn "Bí Ẩn" của Lữ Giang thoạt đọc thì có vẻ là ca ngợi dòng họ Ngô, từ Cụ Khả tới Cụ Diệm. Nhưng người tinh ý sẽ thấy Lữ Giang có vẻ hoặc "sỏ lá kềnh" dòng họ Ngô, hoặc không phân biệt nổi tôn ti trật tự của xã hội Việt Nam.
2.4.1. Ngô Đình Diệm là con Ngô Đình Khả, con nuôi Nguyễn Hữu Bài. Lữ Giang gọi Ngô Đình Khả là "Cụ" mà gọi Nguyễn Hữu Bài là "ông." (tr. 18), thế chẳng lẽ Nguyễn Hữu Bài, bố vợ của Ngô Đình Khôi, chỉ đáng vai con Ngô Đình Khả hay sao?
2.4.2. Lữ Giang còn phạm tội đại bất kính khi gọi Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm hay Ngô Đình Nhu là "Ông" mà gọi Cao Xuân Vĩ là "Cụ" (tr. 17). Ông Khôi, ông Nhu là anh em cùng vai vế với ông Diệm. Ông Vỹ chỉ là thuộc hạ hạng nhì, hạng ba của anh em họ Ngô. Gọi ông Vỹ là "Cụ" thì phải chăng ngầm bảo các ông Diệm, Khôi, Nhu chỉ đáng vai "con" ông Vỹ thôi sao? Nghĩa là "Cụ" Vỹ phải ngang hàng với "Cụ" Khả, và có thể còn là vai trên của bố vợ Ngô Đình Khôi là "ông" Nguyễn Hữu Bài nữa.
2.4.3. Một "bí ẩn" quan trọng hơn là việc Lữ Giang cố tình không đả động gì đến lá thư của Ngô Đình Thục, Giám mục Vĩnh Long, gửi Toàn quyền Jean Decoux ngày 21 tháng 8 năm 1944.
Thư này là một trong những tài liệu cơ bản để nghiên cứu về dòng họ ông Ngô Đình Diệm, từng được công bố từ năm 1989 trên báo Lên Đường ở Houston, rồi trích đăng trong nhiều sách ở hải ngoại, kể cả bản dịch sang tiếng Việt của Thiếu tướng Đỗ Mậu trong hồi ký Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (ấn bản năm 1993 của nhà Văn Nghệ), và in lại trong bộ sách Việt nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn thư của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang (1998). Trong thư, Ngô Đình Thục, Giám mục Vĩnh Long, khẳng định hai điều:
2.4.3.1. Thứ nhất, Ngô Đình Khả đã rất trung thành với Pháp, sẵn sàng vào nguy ra khổ không tiếc gì mạng sống để giúp Pháp thiết lập chế độ Bảo hộ. Một trong những công lao lớn nhất là phụ tá cho Nguyễn Thân đánh tan "loạn đảng" ("rebelles", nguyên chữ của Ngô Đình Thục) Phan Đình Phùng.
2.4.3.2. Thứ hai, Ngô Đình Thục tiết lộ rằng Đảng CSĐD từng thuê một sát thủ người Hoa ra tận Phan Rang ám sát Tuần vũ Ngô Đình Diệm, nhưng Diệm thoát chết, chỉ bị thương. (Vì lời trần tình này của Ngô Đình Thục trong thư, Vũ Ngự Chiêu đã đặt nghi vấn thực chăng Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt 6 tháng vào cuối năm 1945).
2.4.4. Trong tập Paris Xuân 1996, Vũ Ngự Chiêu (bút hiệu Nguyên Vũ) còn trích đăng một trang công điện báo cáo của Giám đốc Cảnh sát Pháp Arnoux về buổi điều tra ở Huế, theo đó, Ngô Đình Nhu thú nhận rằng Ngô Đình Khôi khẳng định chế độ bảo hộ Pháp là "bát cơm" (bol de riz) của dòng họ Ngô. Lữ Giang cũng lấy lại chi tiết Arnoux ra Huế năm 1944 từ sách của Vũ Ngự Chiêu, nhưng lờ đi ba chữ "bol de riz" mà Toàn quyền Decoux đã dùng bút gạch dưới. Sự cố tình bỏ quên này mới là một "bí ẩn".
2.4.5. Lữ Giang và vợ chồng Hoàng Ngọc Thành còn cả tiếng ca ngợi Ngô Đình Diệm và dòng họ Ngô yêu nước. Nhưng "yêu nước" gì mà Ngô Đình Khả cùng đồng đảng đào mả cụ Phan Đình Phùng lên, rồi trộn với thuốc súng mà bắn đi? Yêu nước Pháp chăng? "yêu nước" gì mà cả Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Nhu công khai tuyên bố chế độ Bảo hộ Pháp là "bát cơm" của dòng họ Ngô?
2.4.6. "Bí ẩn" về ngày sinh của Ngô Đình Diệm. Từ nhiều năm nay, Vũ Ngự Chiêu từng công bố ngày sinh nhật "27/7/1897" của Ngô Đình Diệm, khác với ngày sinh đã công bố chính thức là "3-1-1901". Tài liệu của Vũ Ngự Chiêu còn ghi nơi sinh của Ngô Đình Diệm là "Đại phong lộc" hay "Dai phuong" ở Quảng bình. Trong tập Paris Xuân 1996, Vũ Ngự Chiêu nhận xét rằng nếu giấy tờ hộ tịch của Ngô Đình Diệm là đúng, Diệm phải đứng vai anh Ngô Đình Thục. Nhưng có điều nghịch lý: Cách nào bà Phạm Thị Thân, mẹ ruột của Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, v.. v... lại có thể sinh ra hai người con trai trong vòng hai tháng. Nói cách khác, chi tiết trên khiến những người nghiên cứu mai hậu nên tìm hiểu thêm thực chăng đây chỉ do sự man khai hộ tịch (như ông Ngô Đình Luyện tiết lộ), hay Ngô Đình Diệm không phải là anh em cùng mẹ cùng cha với các ông Ngô Đình Thục, Nhu, Cẩn và Luyện. (Ngô Đình Khôi là con vợ cả của Ngô Đình Khả).
Lữ Giang đã đem bà Ngô thị Hiệp ra để tố cáo Vũ Ngự Chiêu là "lầm lẫn" về ngày sinh của Ngô Đinh Diệm trong khi Vũ Ngự Chiêu tố ngược là Lữ Giang sao cóp nhiều sử liệu vào các cuốn sách của mình mà không trưng dẫn xuất xứ.
2.4.6.1. Nhưng Bà Hiệp là em ông Diệm, có thể biết nhiều về gia phả dòng họ Ngô. "Có thể" thôi. Nhưng nếu đụng vào vấn đề bí ẩn của dòng họ, lời chứng của bà Hiệp cần phải được khảo nghiệm kỹ. Bà Hiệp có thể không nói hết sự thực. Bà Hiệp, là phận gái, không được cho biết hết các chi tiết oái oăm của cha mẹ, hay các anh em. Bà Hiệp cũng đã lớn tuổi, trí nhớ không còn minh mẫn nữa. Theo danh từ Luật học, bà Ngô Thị Hiệp là một thứ nhân chứng khó tin.
2.4.6.2. Nếu Lữ Giang hoặc ai đó muốn bác lại năm sinh 1897 của Ngô Đình Diệm thì phải về Phú Cam mà tìm cho được bản sao của cuốn sổ rửa tội hay khai sinh của Ngô Đình Diệm. Hoặc nhờ một người nào tìm hộ. Chưa làm được những chuyện ấy thì cũng chưa thể vội lên án Vũ Ngự Chiêu là phịa sử.
2.4.7. Ngô Đình Diệm có dùng nến đốt hậu môn để lấy khẩu cung nạn nhân hay chăng? Chi tiết ông Ngô Đình Diệm dùng nến đốt hậu môn tù nhân khi thẩm cung do nhà văn Hoàng Trọng Miên và ông Bùi Nhung thuật lại. Trong cuốn Miền Nam Giữ Vững Thành Đồng, Trần Văn Giàu cũng ghi lại lời chứng của Nguyễn Thi, một cán bộ CS tại Bình Thuận, về tội ác vi phạm nhân quyền của anh em họ Ngô cùng bầy Việt Gian quan lại của Pháp. Lữ Giang cho đây là loại tin đầu đường xó chợ, và dựa vào đó cáo buộc Vũ Ngự Chiêu là "phịa sử".
2.4.7.1. Việc Vũ Ngự Chiêu có phịa sử hay chăng thì đã quá rõ. Tài liệu rành rành ra đó: tác phẩm của các ông Trần Văn Giàu, Hoàng Trọng Miên và Bùi Nhung. Người viết sử không sử dụng tài liệu thì lấy gì làm chỗ y cứ? Chẳng lẽ phải theo kiểu Lữ Giang, khai sinh ra hai cái hoà ước 1862, hay bắt phụ thân Cụ Phan Bội Châu phải đổi tên con từ "San" qua "Châu" để tránh phạm úy vua Duy Tân vào thập niên 1890, tức từ ngày Hoàng tử Vĩnh San chưa chào đời?
2.4.7.2. Nếu muốn tranh cãi, Lữ Giang phải tìm cách bác bỏ những lời chứng của các ông Trần Văn Giàu, Hoàng Trọng Miên và Bùi Nhung bằng những tài liệu chứng cớ rành mạch.
Hoàng Trọng Miên là một tác giả thành danh trước Lữ Giang xa, và tập Đệ Nhất Phu Nhân của Hoàng Trọng Miên chứa nhiều dữ kiện lịch sử đáng giá. Lời chứng của Bùi Nhung cũng đáng tin, vì nếu ông Ngô Đình Diệm trong sạch, nhân từ thì tại sao Đảng CSĐD phải thuê sát thủ ra tận Phan Rang mà trừ khử đi, tại sao nghe lời Arnoux lập danh sách những người tình nghi là Cộng Sản để nạp cho Pháp lập công? Lời chứng này của Giám mục Thục rất đáng tin cậy, có thể sử dụng chung với các chứng từ của các ông Trần Văn Giàu, Hoàng Trọng Miên và Bùi Nhung.
Một lời chứng khác cũng nên nêu thêm: Đó là lời chứng của ông McNamara. Theo ông McNamara bà Lệ Xuân là "người vợ trên thực tế" của ông Diệm. Một ông anh chồng làm Tổng thống, từ nhỏ đã hay đòi đi tu, mà có liên hệ vợ chồng "trên thực tế" với em dâu khiến tất cả những gì chúng ta đã biết về ông Diệm cần phải xét lại. Muốn biết ông Diệm có ác hay thiện còn phải xét lại những việc làm khác nữa như cuộc xử bắn Tướng Ba Cụt, việc tiêu diệt đối lập, bắn giết Phật tử năm 1963, mưu toan lật đổ Bảo Đại ngay sau khi Bảo Đại vừa cứu nguy cho ông Diệm trước sự đe dọa của Tướng Hinh và Bảy Viễn. Hay chỉ vì nghi Tướng Dương Văn Minh, người hùng rừng Sát trước dư luận, không chịu giao nạp kho vàng của Bảy Viễn, bắt Tướng Minh ngồi chơi xơi nước vối cho tới năm 1963.
Lịch sử quốc dân vốn không ngả theo này hay phe kia, chỉ là tấm gương soi gáy ố máu. Những tác nhân lịch sử phải chịu trách nhiệm việc làm của họ trước tòa án quốc dân muôn đời. Lịch sử quốc dân không có bánh kẹo cho những kẻ gian ác, phục vụ ngoại bang chỉ vì quyền lợi bản thân, gia đình, dòng họ, đảng phái, tôn giáo của chúng. Cũng không thể chạy chọt, luồn lót theo kiểu các pháp đường VNCH ngày xưa, hay tại Việt Nam hiện nay.
Lữ Giang không đưa ra được chứng cớ nào để phản bác nên đã đánh phủ đầu kẻ khác là dựng "chuyện đầu đường xó chợ", lấy tin của Việt Minh hay Cộng Sản loan truyền ở Liên Khu IV. Đó là lý do khiến Nguyên Vũ phản ứng bằng cách nhắc đến những kẻ đã bán linh hồn cho quỉ, về nhục mạ tổ tiên, giết cả mẹ cha mà vẫn tin mình thánh thiện, cái ý tội (mens rea) của mình là "chân lý" và "việc tội" (actus reus) của mình sẽ khiến mình được phong thánh (xem Paris Xuân 1996, tr. 91, 98, 116-117). Tuy nhiên, không hẳn đây là một trực thoại của Nguyên Vũ với Lữ Giang. Bởi những người đọc sách nếu để ý hẳn sẽ thấy Vũ Ngự Chiêu không liệt kê tựa sách của Lữ Giang vào phần thư mục của các tác phẩm mới như Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, hay Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại?, 55 Ngày & 55 Đêm: Cuộc Sụp Đổ của VNCH. Không biết đây có phải là vì điều mà Vũ Ngự Chiêu - Nguyên Vũ bày tỏ trong cuốn tâm thư Paris Xuân 1996, đó là nỗi e ngại về những âm mưu xúi bẩy các phe phái, tôn giáo kình chống lẫn nhau ở hải ngoại?
Cuốn Paris Xuân 1996 của Nguyên Vũ có lẽ đã đủ để giải quyết một số thắc mắc của người đọc mà Lữ Giang cố tình "bí ẩn" hoá. Vũ Ngự Chiêu công bố các dữ kiện lịch sử, bất kể tác nhân đó thuộc tôn giáo, tổ chức chính trị, hay giai tầng xã hội nào. Ông cũng từng khẳng định không muốn ném thêm những nắm đất hay hòn đá lên huyệt mộ của những tội nhân lịch sử (như Petrus Key, Ngô Đình Khả, Nguyễn Thân, Nguyễn Hữu Bài, v.. v...?) "Thêm một lời bình luận về họ cũng bằng thừa" -- Đó là câu kết luận của Vũ Ngự Chiêu khi có người đặt vấn đề tại sao nhà Văn Hoá cho in bài của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, trong đó Giáo sư Quang gọi đích danh dòng họ Ngô là "ba đời Việt gian" trong cuốn Nhìn lại biến cố 11/11/1960, và bài trả lời báo Văn Nghệ Tiền Phong của Giáo sư Quang.

2.5. Những Lỗi Lầm Khác của Lữ Giang:
Sau đây là một số những "bí ẩn" khác của Lữ Giang:
2.5.1. Lữ Giang tưởng tượng ra rằng Pháp tấn công Đại Nam năm "1851." (tr.8) Chẳng hiểu "bí ẩn" này nó nằm ở văn khố nào vậy? Thực ra Pháp bắt đầu tấn công Đại Nam năm 1859.
2.5.2. Lữ Giang bảo hai Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết "đã đổi di chiếu, phế bỏ Dục Đức, đưa em của Dục Đức là Lạc Quốc Công, húy là Hồng Dật, lên làm vua lấy niên hiệu là Hiệp Hòa."(tr. 8)
2.5.2.1. Lữ Giang có mất công đào bới hết tài liệu văn khố cũng không tài nào tìm ra "bí ẩn" hai Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết "đã đổi di chiếu, phế bỏ Dục Đức". Bởi người sửa đổi di chiếu là chính tự Dục Đức.
2.5.2.2. Lữ Giang cũng bảo rằng Hoàng tử Hường Dật, em thứ 29 của vua Tự Đức, là "em của Dục Đức." Chú út của gia đình vua Thiệu Trị mà biến thành "em" của Hoàng tử cháu là Dục Đức thì quả thực là "bí ẩn" hay "bí tích" kỳ lạ.
2.5.3. Lữ Giang viết rằng "sợ Tôn Thất Thuyết lộng hành, vua Hiệp Hoà đổi Nguyễn Văn Tường qua làm Thượng thư Bộ Binh còn Tôn Thất Thuyết làm Thượng thư Bộ Lại."(tr. 9) Nhưng Nguyễn Văn Tường chẳng bao giờ nắm bộ Binh cả, mà được cử giữ bộ Hộ. Lữ Giang thử tìm Đại Nam Thực Lục hay cuốn Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, tập I: Đại Nam Mất Tự Chủ, 1858-1884 (1999) (tr. 340) mà đọc thì rõ.
2.5.4. Lữ Giang "bí ẩn" rằng "ngày 22.5.1885 Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Quảng trị rồi sau đó đến Quảng bình và ra hịch Cần Vương giúp vua." Chỉ một câu này đã có 3 lỗi quan trọng:
2.5.4.1. Tôn Thất Thuyết không đưa vua ra Quảng trị ngày "22-5-1885." Mãi đêm ngày 22 rạng 23 tháng 5 Ất Dậu (tức đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 7-1885), Tôn Thất Thuyết mới đánh úp đồn Mang cá và tòa Khâm Huế; sau thất bại chạy ra Quảng trị. Lữ Giang "bí ẩn" ra được cái ngày 22-5-1885 này quả thực là hi hữu. Trong phần "Tài liệu tham khảo" Lữ Giang có dẫn cả hai tác giả Phạm Văn Sơn và Trần Trọng Kim. Tác giả Trần Trọng Kim dùng ngày tháng âm lịch, nhưng tác giả Phạm Văn Sơn dùng ngày tháng dương lịch. Đọc kỹ sách Phạm Văn Sơn thôi đã đủ tránh được những lỗi lầm râu bà này (22 tháng 3 âm lịch) cắm cằm ông kia (năm 1885)" này!
2.5.4.2. Vua Hàm Nghi cũng chẳng chạy tới Quảng bình được vì lính Tây và khố đỏ đổ bộ xuống Đồng hới, ngăn chặn đường rút ra Bắc. Phạm Văn Sơn cũng có nói như thế, Lữ Giang có thực đã đọc Phạm Văn Sơn không?!
2.5.4.3. Hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi được ban hành trước khi vua lên đường ra Hà tĩnh, không phải sau khi tới Quảng bình.
2.5.5. Lữ Giang "bí ẩn" ra rằng Tướng Millot của Pháp mang lon "Thống tướng" (tr. 9), và giữa chức "Thống đốc Quân Vụ" (tr. 5).
2.5.5.1. Quân đội Pháp làm gì có chức Thống tướng (kiểu Việt Nam Cộng Hòa). Tướng thì chỉ có ba bậc: Thiếu (hai sao), Trung (ba sao) và Đại tướng (bốn sao). "Thống" thì chỉ có "Thống chế."
2.5.5.2. Tướng Millot chẳng bao giò được giữ chức "Thống đốc quân vụ" như Lữ Giang nói. Thoạt tiên, Millot chỉ được giao chức Tổng Tư lệnh đội quân viễn chinh Pháp, sau đó, từ tháng 12/1883, kiêm giữ thêm quyền hành về dân sự.
2.5.6. Lữ Giang bảo rằng năm 1879, Bộ trưởng Thuộc địa Jauréguiberry mang chức Thượng tướng (tr. 4)
2.5.6.1. Jauréguiberry là một sĩ quan Hải quân, nếu lên đến hàng tướng thì phải có cấp bậc Đề Đốc, Phó Đô đốc hay Đô đốc, cách nào mà được phong chức "Thượng tướng"?
2.5.6.2. "Thượng tướng" là quân hàm của Bắc Việt, tức chức vụ giữa Trung tướng và Đại tướng. Chẳng lẽ Lữ Giang khám phá ra "bí ẩn" rằng Đô đốc Jauréguiberry, Bộ trưởng thuộc địa Pháp trong thập niên 1870, được ban phép lạ để tái sinh vào năm 1949, xin ông Hồ Chí Minh phong cho chức Thượng tướng (dưới quyền Võ Nguyên Giáp và không ghi vào hồ sơ), rồi cưỡi một cái máy thời gian mà ngược về dĩ vãng, hầu tổ chức cuộc xâm lăng Đại Nam?
2.5.7. Lữ Giang nói rằng đến năm 1882, chính phủ Pháp mới cho Thống đốc Nam Kỳ là ông Le Myre de Vilers đưa quân ra Bắc bảo vệ các thương gia Pháp" (tr. 4). Lý do "bảo vệ các thương gia Pháp" này do Lữ Giang "bí ẩn" ra thôi vì lý do thực chính là vì triều Huế không tôn trọng Hiệp ước 1874, và tranh chấp với Trung Hoa. Không tin cứ tìm sách của Cao Huy Thuần hay của Giáo sư Nguyễn Thế Anh mà kiểm chứng lại.
2.5.8. Bourée và Lý Hồng Chương chẳng ký kết một "hiệp ước" nào cả như Lữ Giang nói (tr. 4). Họ chỉ có một qui ước tạm thời (memorandum) phân chia vùng ảnh hưởng giữa Pháp và nhà Thanh. Lữ Giang có hiểu "Memorandum" là gì không?
2.5.9. Lữ Giang "bí ẩn" ra chức "Toàn quyền" của Harmand (tr. 4).
Chức Toàn quyền (Gouverneur général) tại Đông Dương chỉ có từ năm 1887. Chức vụ của Harmand là "Commissaire général civil", có thể dịch là Tổng đại biểu, chịu trách nhiệm vấn đề dân sự ở Đại Nam, nhưng vẫn dưới quyền Thống đốc Sài gòn.
2.5.10. Lữ Giang, qua việc tóm tắt nội dung "hiệp ước" 1883 (tr. 5), chứng tỏ chẳng hiểu gì hoặc chưa đọc bản văn "tạm ước" này. Tạm ước Harmand, ngoài việc chấp nhận sự bảo hộ của Pháp, còn có điều khoản đặt Trú sứ (résident) từ Đèo Ngang trở ra. Vì những điều khoản quá đáng của Tạm ước này, Paris mới cho Patenôtre điều đình Hiệp ước 6-6-1884.
2.5.11. Lữ Giang viết: "Triều đình Huế thất thế phải chấp nhận sửa đổi lại Hòa ước 23.8.1883. Jules Patenôtre, Lãnh sự của Pháp ở Bắc Kinh... " (tr. 5-6). Chỉ vỏn vẹn ba dòng chữ, Lữ Giang đã "bí ẩn" tới bốn lần:
2.5.11.1. Việc triều Huế ký Hòa ước 6-6-1884 thì có gì mà phải do thất thế hay không. Thực ra, Hòa ước 6-6-1884 dễ thở cho triều đình Huế hơn tạm ước Harmand nhiều.
2.5.11.2. Tạm ước Harmand ký ngày 25-8-1883, giữa lúc quan tài vua Tự Đức chưa kịp chôn. Nó không được ký vào ngày "23-8-1883" như Lữ Giang tưởng tượng ra. (Ở một đoạn trên, Lữ Giang ghi đúng ngày 25-8-1883. Nhưng trong trang 5, Lữ Giang hai lần lập lại "hòa ước ngày 23.8.1883". Có thể nói đó là lỗi chính tả khi đánh máy không?)
2.5.11.3. Jean Patenôtre là Đặc sứ Toàn quyền, chức vụ cao gấp bội chức "Lãnh sự" như Lữ Giang bảo.
2.5.12. Hoà ước 1884 cũng chẳng hề "chia Việt Nam thành ba miền với ba chế độ cai trị khác nhau".(tr. 6)
2.5.12.1. Trong bản văn Hiệp định, chẳng có chữ nào là "Việt Nam". Chỉ có tên "Đại Nam" trong bản chữ Hán, và "An-Nam" trong bản tiếng Pháp.
2.5.12.2. Trong Hiệp định chẳng có điều khoản nào "chia" Việt Nam thành "ba miền". Chỉ có điều khoản tái xác nhận Hiệp ước 1874 (tức cắt Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa), và nhìn nhận chế độ Bảo hộ trên phần đất còn lại của Đại Nam. Phải nhiều năm, cho tới thập niên 1890, việc phân chia "hành chánh" giữa Bắc Kỳ và An-Nam mới đưa vào văn bản, qua việc hủy bỏ chức Kinh lược Bắc Kỳ và ủy quyền cho Thống sứ Pháp. Chính vì thế mà Nguyễn Hữu Bài mới mớm cho vua Duy Tân, và rồi Ngô Đình Diệm ý tưởng đòi trở lại với Hòa ước 1884 đó.
2.5.13. Lữ Giang "bí ẩn" rằng vua Đồng Khánh chết ngày "28-1-1888." (tr. 10) trong khi Đồng Khánh thực ra chết ngày 28-1-1889, ít tháng sau ngày vua Hàm Nghi bị đầy qua Algérie. Ở một đoạn khác Lữ Giang "bí ẩn" rằng Richaud, thay Toàn quyền Constans vào tháng 8/1888, "đã bắt vua Thành Thái ký giấy nhượng cho Pháp hải cảng Đà Nẵng, hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng để làm nhượng địa" (tr. 7). Nhưng Vua Thành Thái, làm vua từ 1889 tới 1907, làm sao trở ngược về năm 1888 mà cắt nhượng ba thị xã trên cho Richaud!?
2.5.14. Lữ Giang cho Thành Thái lên ngôi năm 18 tuổi (tr. 10). Điều này có nghĩa Thành Thái sinh vào khoảng năm 1871, và Hoàng tử Dục Đức có con khi mới 11, 12 tuổi. Thực sự, vua Thành Thái lên ngôi khi mới 10 tuổi.
2.5.15. Lữ Giang viết: "Tháng 9 năm 1897, Cơ Mật Viện được thay thế bằng Nội Các" (tr.7). "Bí ẩn" này chẳng hiểu Lữ Giang mò mẫm ở đâu ra? Rõ ràng Lữ Giang cũng chẳng hiểu nghĩa chữ "Nội Các" là gì nữa. Việc này hoàn toàn không có.
2.5.16. Lữ Giang tìm được "bí ẩn" là Diệp Văn Cương đã lấy công chúa Thiện Niệm, chị ruột của Dục Đức trước khi vua lên ngôi.(tr. 10)
Thực ra, Diệp Văn Cương chỉ lấy Thiện Niệm làm vợ nhỏ sau khi đã giúp Bửu Lân lên ngôi. Lữ Giang phải đi tìm cuốn Các Phú Hộ Lừng Danh Nam Kỳ của Hứa Hoành mà đọc để hiểu thêm về gia đình Diệp Văn Cương.
2.5.17. Lữ Giang cho rằng năm 1907, Pháp khám phá ra Thành Thái đã ngầm liên lạc với phong trào Đông Du để cầu viện Nhật giúp đỡ nên ép vua thoái vị (tr. 11). Thực ra, các quan chức Pháp đã cho lệnh điều tra xem Thành Thái đã "rửa tội" hay chưa. Đó mới là bí ẩn thực sự của lịch sử.
2.5.18. Lữ Giang bảo Toàn quyền Broni và Khâm sứ Levecque ép Thành Thái thoái vị và nhường ngôi cho Hoàng tử Vĩnh San.(tr. 11) "Bí ẩn lịch sử" này thực sự chỉ nằm trong văn khố mang tên Lữ Giang mà thôi. Giáo sư Nguyễn Thế Anh có một bài viết rất chi tiết về việc thoái vị của vua Thành Thái mong Lữ Giang chịu khó tìm đọc.
2.5.19. Lữ Giang cho rằng vua Duy Tân, sau khi bị bắt, bị đầy qua Réunion ngày "10-5-1916." (tr. 11) Thực ra, Paris chỉ quyết định đày vua Duy Tân và Thành Thái qua Réunion sau một thời gian tạm giam ở Vũng tàu.
*
*     *
3. Lữ Giang ngụy tạo lịch sử làm gì?
Lữ Giang có thể là một mặt hàng ngụy hoá che đậy một âm mưu nào đó không?
3.1. Những tài liệu "văn khố" và "thư viện" mà Lữ Giang "đã tìm đọc" này vốn được các học giả Việt, như Vũ Ngự Chiêu, công bố khá đầy đủ từ năm 1983.
3.2. Trong tập Paris Xuân 1996, dưới bút danh Nguyên Vũ, Vũ Ngự Chiêu đã gửi gấm cho thế hệ tương lai nhu cầu tìm về dòng lịch sử quốc dân với một lương tâm trong sáng. Tiếc là Lữ Giang đã không đọc.
3.3. Phải chăng mục tiêu của Lữ Giang là xúi dục những cuộc "thánh chiến" bỏ túi ở Hải ngoại, đẩy giới Thiên Chúa Giáo vào các cuộc tranh luận vô nghĩa với những học giả không Thiên Chúa Giáo? Tại sao bỗng dưng đương sự lại mở màn cho cái gọi là "Thánh chiến" ở hải ngoại? Tại sao Lữ Giang khích động cho bằng được những cuộc tranh luận giữa Phật tử và Thiên chúa giáo, khiến những người như Nguyễn Mạnh Quang và Trần Chung Ngọc phải nhập cuộc? Phải chăng những tác phẩm trung thực đến phũ phàng như cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư hay Bài Thơ Cho Con của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, và cuốn Công Giáo Chính Sử của Trần Chung Ngọc đã được gợi hứng từ chủ trương “ziết sử” của những người như Lữ Giang, Tôn thất Thiện, Lâm lễ Trinh, Nguyễn lý Tưởng, Nguyễn văn Chức, Nguyễn gia Kiểng, Lê xuân Khoa, Huỳnh văn Lang hay vợ chồng Hoàng ngọc Thành?
Câu trả lời xin nhường cho chính quí vị, các vị lãnh tụ tôn giáo, những bậc trí thức, quí vị trong giới truyền thông, và toàn thể quí vị đồng hương.
Xin các đấng thần linh hãy phù hộ cho cộng đồng hải ngoại chúng ta.

31/7/1999
Trần Quốc Đại


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét