KẾ HOẠCH RÚT QUÂN KHỎI VIỆT NAM
CỦA KENNEDY LÀ MỘT SỰ KIỆN
CHỨ KHÔNG PHẢI MỘT SUY ĐOÁN
JFK’s Vietnam Withdrawal Plan Is a Fact, Not Speculation
LỜI GIỚI THIỆU - Có một
số người cho rằng Mỹ đã lật đổ ông Diệm vì ông Diệm
không “chấp thuận” cho quân Mỹ vào Việt Nam. Và như một hệ luận, họ cũng cho rằng
sau chính biến 1-11-1963, sự kiện quân đội Mỹ ào ạt đến Việt Nam tuy đã mở rộng
chiến tranh nhưng cuối cùng Việt Nam Cọng Hòa vẫn sụp đổ vào tháng 4 năm 1975, đã chứng minh rằng
chọn lựa “không cho quân Mỹ vào” của ông Diệm là đúng, mà phải như thế mới có thể thắng được quân đội
của Cọng sản Bắc Việt, để bây giờ không phải “tị nạn”tại Mỹ! “Còn Cụ
thì không mất nước”, họ cố thuyết phục nhau như thế!
Điều này là không đúng. Sự thật là Mỹ không muốn đưa
thêm quân vào VN, nơi họ đã có 17.000 “cố vấn”. Ngược lại là khác, từ đầu tháng
10-1963, sau thất bại chính trị-quân sự thê thảm tại Vịnh Con Heo (Cuba,
1961) và trước bầu cử Tổng thống Mỹ (1964),
ứng viên Tổng thống tương lai John F. Kennedy đã không muốn lao vào một
cuộc phiêu lưu chính trị-quân sự viễn chinh nào nữa, nên đã chấp thuận một
kế hoạch rút quân ra khỏi Việt Nam,
mà đợt đầu là 1,000 “cố vấn” vào
ngay cuối năm 1963 đó.
Thật vậy, trong
các tài liệu của chính phủ Mỹ được giải mật, có một Biên bản buổi họp (minutes of the meeting [1]) và một cuộn băng ghi âm (tape [2]) chi tiết nội dung buổi họp nầy tại Phòng Bầu
dục tòa Bạch Ốc vào ngày 5 tháng 10 năm 1963. Cả hai chứng liệu nầy đã chứng minh
là vào ngày đó, TT Kennedy đã chấp thuận kế hoạch rút quân khỏi Việt Nam, mà cụ
thể là bắt đầu rút 1,000 “cố vấn” vào tháng 12 cùng năm, với lý do vì không còn
cần thiết nữa (“… they are no longer needed.”). Như vậy, kế hoạch rút quân đã
được Tổng thống Mỹ chuẫn thuận gần một tháng trước khi có cuộc chính biến lật đổ
ông Diệm xảy ra. Tiếc rằng kế hoạch đó chưa được triển khai thì TT. Kennedy đã bị
ám sát.
Mỹ đã rút quân ra thì ông Diệm có lý do gì mà “chống Mỹ đổ
quân vào đến nỗi bị Mỹ lật đổ”? Do đó, nếu ông bà Nhu có chống Mỹ thì cũng chỉ
là chống ngoài miệng thôi, để che dấu và phục vụ cho một ý đồ khác vốn đã bắt đầu, ít nhất, từ đầu năm1963, trước cả biến cố cấm treo Phật kỳ vào dịp
Phật Đản tại Huế!
Ngoài ra, trong quá
trình truy tầm nguyên nhân dẫn đến chính biến 1963, luận điểm của những người cho rằng "ông Diệm chống Mỹ nên bị Mỹ lật đổ" đã cố tình bỏ qua những yếu tố nội bộ của Việt
Nam (như sự chống đối càng
lúc càng quyết liệt và lan rộng của đảng phái, của quân đội, của Phật giáo, như
tình hình an ninh suy thoái, như ý đồ thỏa hiệp với Hà Nội, …) mà chỉ xoáy mạnh
vào mỗi cái gọi là “yếu
tố Mỹ” mà thôi vốn nó đã là một luận điểm phi logic,
sai lịch sử và không lương thiện rồi.
Nay thì chính “yếu tố Mỹ” què quặt độc nhất đó cũng chỉ là một ngụy tạo không
hơn không kém thì luận điểm đó còn có giá trị gì nữa!
Tuy nhiên, nếu phải đưa
ra một giả thuyết để lý giải thái độ chống Mỹ khó hiểu của anh em ông Diệm lúc
đó thì phải là hành động nầy được phát động để phối hợp với (và tiếp sức cho) một kế hoạch thỏa hiệp
với Hà Nội đang được xúc tiến. Thật vậy, sau Tết Nguyên đán năm1963 với
cành đào của ông Hồ Chí Minh gửi tặng ông Diệm, ông Nhu gặp Phạm Hùng và/hoặc
Trần Độ; giữa tháng 5, ông Nhu tuyên bố với UPI
muốn Mỹ rút một số cố vấn; rồi những vận động của Đại sứ Pháp Lalouette, Đại sứ
Ấn Độ Goburdhun
và Khâm mạng Tòa Thánh Salvatore d’Asta để 3 tháng sau, ngày 25-8-1963, ông Nhu
gặp Đại diện Ba Lan Mieczyslaw Maneli, người đóng vai
trò trung gian giữa Hà Nội và Sài Gòn, mở đầu cho một ý đồ thỏa hiệp dang dỡ vì
bị chính biến 1-11-1963 đập tan.
Dùng Mỹ tháu cáy Hà Nội, lại dùng Hà Nội để dọa Mỹ, ván bài
“xì tố” xảo trá của anh em ông Diệm, đơn phương bí mật chơi tay ba với “đồng
minh” và “kẻ thù”, bất chấp Hiến Pháp VNCH, bất chấp 700 nghìn tín đồ Công giáo
di cư vào Nam, và bất chấp lập trường chống Cọng của quân dân miền Nam, cuối
cùng đã quật ngược lại gia đình họ Ngô.
Giả thuyết nầy logic hơn, bám sát thực
tế lịch sử hơn, và ít nhất cũng lương thiện hơn cái luận điệu “chống Mỹ đổ quân” rất nhiều.
-- o0o --
Năm 2003, sau khi thu
thập và đối chiếu tất cả các tài liệu đã được giải mật, nhất là
phát hiện ra nội dung của buổi họp tại Phòng Bầu dục ngày 5-8-1963, Giáo sư
James Galbraith đã viết một tiểu luận hơn 8,000 từ chứng minh rằng trong năm
1963, TT Kennedy đã có kế hoạch rút quân khỏi Việt Nam. Tựa đề bài tiểu
luận là “Exit
Strategy: In 1963, JFK ordered a complete withdrawal from Vietnam” (Chiến lược Rút ra: Năm 1963, JFK đã ra lệnh
rút hết toàn bộ khỏi Việt Nam), đăng trên tạp
chí Boston Review, số
tháng October/November, năm 2003.
Tiểu luận nầy được nhiều học giả phản hồi, đồng ý cũng
nhiều nhưng có một số không đồng ý. Sau mười năm, tưởng vấn đề đã được giải
tỏa, nhưng vào ngày 21-11-2013, The Nation lại đăng một bài của nhà báo Rick
Perlstein, tựa đề là “Kennedy
Week: JFK’s Uncertain Path in Vietnam” và đặt câu hỏi: “Did
Kennedy intend to bring an end to the Vietnam War after his re-election?”(Ông
Kennedy có định chấm dứt chiến tranh Việt Nam sau khi được tái đắc cử
không?) để phản biện lập luận và chứng cớ của Giáo sư Galbraith.
Ngay ngày hôm sau, Giáo sư Galbraith trả lời bằng bài
viết dưới đây.
[Kevin
Trần dịch từ JFK’s Vietnam
Withdrawal Plan Is a Fact, Not Speculation - A response to Rick Perlstein, The Nation, November 22, 2013:
KẾ HOẠCH RÚT QUÂN KHỎI VIỆT NAM CỦA KENNEDY
LÀ MỘT SỰ KIỆN CHỨ KHÔNG PHẢI MỘT SUY ĐOÁN
Trả Lời Rick Perlstein
Mười năm sau những
bài viết của tôi về quyết định của JFK vào tháng Mười năm 1963 để rút quân lực
Mỹ ra khỏi Việt Nam, Rick Perlstein đã ráng đưa ra một phản biện. Kỷ thuật của
ông ta là thừa nhận luận điểm, nhưng rồi trình bày sai bối cảnh, phủ nhận tầm
quan trọng và vấy bùn lên đống lộn xộn đó bằng những câu văn đầy khinh miệt.
Tiểu
luận của tôi trên Boston Review [“Exit
Strategy…] và Salon xác lập rằng đã có
kế hoạch rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam vào cuối năm 1965. Và rằng Tổng thống
Kennedy đã quyết định thực hiện kế hoạch
đó. Vào năm 2003, sự xác lập nầy đã gây nhiều tranh cải. Nhiểu sử gia phủ nhận
nó. Ngoại trừ Peter Dale Scott, John Newman, và Arthur Schlesinger. Ba vị nầy đã
đúng, và những tài liệu và băng ghi âm được giải mật nhờ đạo luật JFK Records Act cũng chứng tỏ rằng họ đã
đúng. Vấn đề đã được giải quyết vào đầu
năm 2008 khi Francis Bator, vốn là Phó Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống
Johnson, mở đầu thư trả lời lá thư của tôi đăng trên New York Review of Books với những dòng chữ như sau:
Giáo
sư Galbraith đã viết đúng [xem mục Letters, New York Review, ngày 6-12-2007] rằng
“đã có một kế hoạch rút quân Mỹ khỏi Việt Nam, bắt đầu với một nghìn quân vào
tháng Mười Hai 1963, và rút hầu như tất cả quân còn lại vào cuối năm 1965 …Tổng
thống Kennedy đã chấp thuận kế hoạch nầy. Đó đã là chính sách chính thức của nước
Mỹ cho đến ngày Kennedy chết”.
Batow
còn viết thêm một điều kiện, mà chính
Perlstein lập lại:
Nhưng
… kế hoạch đó phải tùy thuộc một cách rõ ràng bởi “sự thẩm định của Bộ trưởng
McNamara và Tướng Taylor rằng phần lớn nhiệm vụ của quân đội Mỹ có thể hoàn tất
vào cuối năm 1965” và “rằng chương trình dài hạn để thay thế nhân sự Mỹ bằng
nhân sự Việt Nam được huấn luyện thành thục [có thể tiến hành] mà không làm suy
yếu nỗ lực chiến tranh”.
Chúng
tôi không đồng
ý với nhau về điểm nầy, nhất là ý nghĩa của đoạn “phần lớn nhiệm vụ của quân đội Mỹ”. Trong băng ghi âm ở Toà Bạch ốc
ba ngày trước đó, ngày 2 tháng 10, Robert McNamara và Tướng Taylor khác nhau về
chuyện liệu có toàn thắng vào năm 1965 hay không. Thay vì vậy, McNamara nói rằng
“Nhưng tôi chắc rằng nếu chúng ta không
hoàn tất đúng vào những ngày đó trong cái nghĩa chấm dứt những chiến dịch quân
sự lớn, thì chúng ta dù sao vẫn có thể rút đi phần lớn lực lượng Mỹ
theo đúng thời biểu mà chúng ta đã thiết kế, đã thi hành, vì chúng ta có thể huấn
luyện cho người Việt tự làm lấy”. Bản ghi nhớ của Tướng Taylor gửi cho Ủy ban Liên Quân ngày 4 tháng 10 năm 1963 để
chuyển đạt quyết định thì không chứa đựng kế hoạch nào để đối phó với tình hình
bất ngờ. Sẽ phải rút quân. “Mọi quy hoach” đều phải căn cứ trên quyết định nầy.
Huấn luyện sẽ
xong. Yểm trợ cho Nam Việt Nam sẽ tiếp tục. Họ có một đội quân trên 200.000 người.
Ngày tàn của cuộc chiến còn xa. Sau năm 1965, ngay cả theo kế hoạch rút quân,
1.500 lính Mỹ sẽ được cử ở lại để lo về tiếp liệu. Nhưng lúc đó thì cuộc chiến
là của người Việt mà thôi, và không có khả năng trở thành một cuộc chiến của Mỹ
trong nhiệm kỳ Kennedy.
Liệu Kennedy có tin rằng ta sẽ chiến thắng
hay không? Perlstein kết tội tôi đã không chú ý đến câu hỏi nầy; thật ra thì tôi
đã dành gần hai nghìn từ của tiểu luận trên Boston
Review cho câu hỏi nầy. Sau đây là tổng kết của McNamara về buổi họp ngày 2
tháng 10 năm 1963, lời bình luận của tôi, và trình bày của McNamara về kết luận
cuả buổi họp:
Một phe thì tin rằng quân đội có tiến bộ tốt và huấn
luyện cũng tiến triễn đến độ chúng ta có thể bắt đầu rút quân. Phe thứ nhì
không thấy chiến tranh có tiến triễn tốt lắm và không thấy quân đội Nam Việt
Nam chứng tỏ đã được huấn luyện thành công. Nhưng phe nầy cũng đồng ý rằng
chúng ta nên bắt đầu rút quân … Phe thứ ba đại diện cho đa số, cho rằng quân đội
Nam Việt Nam thì có thể huấn luyện được nhưng tin rằng kế hoạch huấn luyện của
chúng ta chưa được triển khai đủ lâu để đạt kết quả tốt và, do đó, chúng ta nên
tiếp tục như ở mức độ hiện tại.
Như trong
lịch sử bằng lời năm 1986 của McNamara, được lưu trữ tại thư viện Lyndon Baines
Johnson, đã nói rõ (nhưng sách của ông ta thì không viết ra), McNamara thuộc
phe thứ nhì, ủng hộ sự rút quân mà không chiến thắng – không cần thiết phải thừa
nhận hay thậm chí tiên đoán thất bại, nhưng chấp nhận chuyện không chắc chắn điều
gì sẽ xãy ra. Kết luận đến rất nhanh sau đó: Sau nhiều tranh luận, Tổng thống tán
thành khuyến nghị rút 1.000 lính trể nhất là 31-12-1963 của chúng tôi. Tôi nhớ
lại rằng Tổng thống quyết định như thế mà không cho biết lý do vì sao. Dù sao,
vì có nhiều sự phản đối gay gắt và vì tôi ngờ rằng người khác có thể cố gắng làm
cho Tổng thống đảo ngược quyết định, nên tôi đã thúc giục Tổng thống tuyên bố
quyết định nầy một cách công khai. Điều nầy sẽ làm cho quyết định trở nên không
thay đổi được … Cuối cùng, Tổng thống đồng ý, và lời tuyên bố đã được Pierre
Salinger thông báo sau buổi họp.
Vào
ngày Kennedy qua đời,
tiến trình của chính sách đã được sắp đặt. Đây không phải là suy đoán về một tâm
trạng. Đây là một tuyên bố thực tế về một quyết định.
Nếu Kennedy còn sống, kế hoạch rút quân
vẫn được duy trì theo chính sách, và số quân Mỹ ở Việt Nam sẽ giảm thiểu, ngoại
trừ và cho đến lúc chính sách đó thay đổi. Liệu trong tiến trình đó có lúc nào
Kennedy “đảo ngược lại quyết định” không? Dĩ nhiên là có thể có. Nhưng chúng ta
không có chứng cớ nào cho thấy Kennedy định làm như thế cả.
Thiếu bằng chứng, Perlstein trôi vật vờ trong
mớ bình luận ấu trĩ về phong cách “nam
tính mạnh mẽ “ (“machismo”) của
JFK và hình ảnh của một “tuổi trẻ cường
tráng”. Chống lại phong cách và hình ảnh đó, Perlstein gợi lên những cụm từ
không biểu lộ được gì cả ngoài chính tâm chất của ông ta: “kế hoạch điên rồ”, “… vừa chạy
vừa run”, “… sợ són đái ra quần”. Và Perlstein giả bộ cho rằng vấn đề có
thể gói trong hai từ, là liệu Tổng thống Kennedy có phải là một “closet peacenik” [“tên chủ hòa dấu mặt”] không.
Bạn hãy đoán xem ý nghĩa của biệt danh
giả-Nga “peacenik” đó. Hay ý nghĩa của
từ “closet”.
[Rồi] Một cách chính xác – theo ý bạn -
những từ nầy làm cho bạn nghĩ đến điều gì ?
James Kenneth Galbraith (sinh
ngày 29-1-1952) hiện
là Giáo sư tại trường Lyndon B.
Johnson School of Public Affairs và tại Phân khoa Department of Government, của đại học University of Texas
at Austin. Ông cũng là Học giả cao cấp (Senior Scholar) tại Viện Levy Economics
Institute của Bard College và là thành viên của Ủy ban Điều hành của Hiệp
hội World Economics Association (Theo Wikipedia).
■ CƯỚC
CHÚ của Lời Giới Thiệu:
[1] Vào ngày 5 tháng 10, Kennedy lấy quyết định chính
thức, Newman trích lại từ biên bản buổi họp ngày hôm đó:
Tổng thống cũng nói rằng quyết định của chúng ta rút 1.000 cố vấn Mỹ vào tháng Mười Hai năm
nay không cần phải chính thức nêu lên với Diệm. Thay vào đó, động thái nầy cần
dược tiến hành một cách bình thường như là một phần của tư thế chung của chúng ta là rút bớt người khi họ không
còn cần thiết nữa. - Nhấn mạnh của tác giả
[On
October 5, Kennedy made his formal decision. Newman quotes the minutes of the
meeting that day:
The
President also said that our decision to remove 1,000 U.S.
advisors by December of this year should not be raised formally with Diem.
Instead the action should be carried out routinely as part of our general
posture of withdrawing people when they are no longer needed. (Emphasis added.)]
[2] Tuy nhiên, trên cuộn
băng ghi âm lại buổi họp ngày 5-10-1963, người ta có thể nghe một giọng nói –
có thể là của McNamara hay McGeorge Bundy - hỏi xin Tồng thống John F. Kennedy
“chính thức chấp thuận” các “đề mục Một, Hai và Ba” đọc từ một tờ giấy
dĩ nhiên trước mặt họ. Rõ ràng rằng một trong những đề mục nầy là khuyến cáo
rút 1.000 lính vào cuối năm 1963, với lý do là không còn cần đến họ nữa. Không
nhầm lẫn vào đâu được, cuộc trao đổi ngắn nầy là một lời yêu cầu xin một quyết
định chính thức của Tổng thống về những khuyến cáo của McNamara và Taylor. Sau
một lúc thảo luận ngắn về tác động chính trị tại Việt Nam của quyết định nầy,
ta có thể nghe rõ ràng giọng nói của J.F.K. “Hãy tiến hành và làm đi” và theo sau là một vài tiếng mà sử gia
George Eliades giải đoán là “nhưng đừng
tuyên bố công khai về chuyện nầy”
[“However, on the
tape of the meeting of October 5, 1963, one can clearly hear a voice — it may
be Robert McNamara or McGeorge Bundy—asking President John F. Kennedy for “formal approval” of “items one, two, and three” on a paper
evidently in front of them. It is clear that one of these items is the
recommendation to withdraw 1,000 men by the end of 1963, the rationale being
that they are no longer needed. This short exchange is thus unmistakably a
request for a formal presidential decision concerning the McNamara-Taylor
recommendations. After a short discussion of the possible political effect in
Vietnam of announcing this decision, the voice of JFK can be clearly heard: “Let’s go on ahead and do it,” followed
by a few words deciphered by historian George Eliades as “without making a public statement about it.”]
[1] và [2] Trích từ: James
Galbraith, Exit Strategy: In 1963, JFK
ordered a complete withdrawal from Vietnam,
Boston Review, October/November 2003:
JFK’s Vietnam Withdrawal Plan Is a Fact, Not
Speculation
A response to Rick Perlstein.
NOVEMBER 22, 2013
Ten years after my articles on JFK's October 1963 decision to
withdraw US forces from Vietnam, Rick Perlstein attempts a rebuttal. His technique is to concede the point, but then to
misstate the context, deny the importance and spatter the mess with scornful
phrases.
My
essays in Boston Review and Salon established that the plan to withdraw US forces from
Vietnam by the end of 1965 existed. And that President Kennedy had decided to implement that plan. In 2003, this was
controversial. Many historians had denied it. Peter Dale Scott, John Newman,
and Arthur Schlesinger were exceptions. They were right, and documents and
tapes released under the JFK Records Act proved them right. The issue was
resolved by early 2008 when Francis Bator, who had been President Johnson's Deputy National Security Adviser, opened
his reply to my letter in the New York Review of Books with
these words:
Professor Galbraith is correct [Letters, NYR, December 6, 2007] that “there was a plan to withdraw
US forces from Vietnam, beginning with the first thousand by December 1963, and
almost all of the rest by the end of 1965…. President Kennedy had approved that
plan. It was the actual policy of the United States on the day Kennedy died.
Bator
followed with a qualification, which Perlstein repeats:
But… that plan was explicitly conditioned on Secretary
McNamara’s and General Taylor’s 'judgment that the major part of the US
military task can be completed by the end of 1965…,' that 'the long term
program to replace US personnel with trained Vietnamese [could go forward]without impairment of the war effort[emphasis added].
We
disagree on this point, specifically on what the phrase “the major part of the
US military task” meant. On the White House tapes of October 2, Robert McNamara
differs with General Taylor on whether the war can be won by 1965. Instead he
says: “But I am sure that if we don’t meet those dates in
the sense of ending the major military campaigns, we nonetheless can withdraw the bulk of our US forces
according to the schedule we’ve laid out, worked out, because we can train the
Vietnamese to do the job.” [emphasis added]. Taylor's memorandum to the Joint
Chiefs on October 4, 1963, which conveys the decision, contains no contingency.
The troops were to be withdrawn. “All planning” would be based on that
decision.
Training
would end. Support for South Vietnam would continue. They had an army of over
200,000. The end of the war was not in sight. After the end of 1965, even under
the withdrawal plan, 1,500 US troops were slated to remain, for supply
purposes. But the war would then be Vietnamese only, with no possibility of it
becoming an American war on Kennedy's watch.
Did
Kennedy believe the war was being won? Perlstein accuses me of neglecting this
question; in fact I devoted almost two thousand words of my Boston Review essay to it. Here is Robert
McNamara's summary of the October 2, 1963 meeting, my comment, and his
description of the outcome:
One faction believed military progress had been good and
training had progressed to the point where we could begin to withdraw. A second
faction did not see the war as progressing well and did not see the South
Vietnamese showing evidence of successful training. But they, too, agreed that
we should begin to withdraw. . . . The third faction, representing the
majority, considered the South Vietnamese trainable but believed our training
had not been in place long enough to achieve results and, therefore, should
continue at current levels.
As McNamara’s 1986 oral history, on deposit at the Lyndon
Baines Johnson Library, makes clear (but his book does not), he was himself in
the second group, who favored withdrawal without victory—not necessarily
admitting or even predicting defeat, but accepting uncertainty as to what would
follow. The denouement came shortly thereafter:
After much debate, the president endorsed our recommendation
to withdraw 1,000 men by December 31, 1963. He did so, I recall, without
indicating his reasoning. In any event, because objections had been so intense
and because I suspected others might try to get him to reverse the decision, I
urged him to announce it publicly. That would set it in concrete. . . . The
president finally agreed, and the announcement was released by Pierre Salinger
after the meeting.'
On
the day Kennedy died, the course of policy had been set. This is not
speculation about a state of mind. It is a statement of fact about a decision.
Had
Kennedy lived, the withdrawal plan would have remained policy, and the numbers
of US troops in Vietnam would have declined, unless and until policy changed.
Might Kennedy still have “reversed the decision” at some point? Of course he
might have. But there is no evidence that he intended to do so.
Lacking
evidence, Perlstein drifts off into puerile commentary on JFK's “machismo” and
image of “youthful vigor.” Against these, he conjures phrases that reveal
nothing except his own state of mind: “Bugout
plans.” “…cutting and running.” “…pants-pissing fears.” And he pretends that
the issue turns, in two words, on whether President John F. Kennedy was a
“closet peacenik.”
Just
consider the connotations of that pseudo-Russian epithet. Or those of the word
“closet.” What— exactly— do you suppose— was that
intended to bring to mind?
James K. Galbraith is author of The Predator State: How Conservatives
Abandoned the Free Market and Why Liberals Should Too (Free Press,
August 5, 2008). He teaches at The University of Texas at Austin.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét