NHÓM KHỞI xướng
“CUỘC CÁCH MẠNG NHÂN VỊ”:
NGÔ
ĐÌNH DIỆM, NGÔ ĐÌNH NHU
VÀ
SỰ TRỔI DẬY CỦA ĐẢNG CẦN LAO
(Vanguard of the
“Personalist Revolution”:
Ngô Đình Diệm, Ngô
Đình Nhu and the Rise of the Cần Lao Party)
Edward Miller
LỜI GIỚI THIỆU – Năm
2010, Văn Phòng Sử Gia (Office of The Historian) thuộc Sở Công Vụ (Bureau of Public Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có tổ chức một cuộc Hội thảo quốc tế tại
George C. Marshall Conference Center tại Washington DC trong hai ngày 29 và 30
tháng 9 năm 2010 với chủ đề “Kinh nghiệm Hoa Kỳ tại Đông Nam Á, 1946-1975” (The
American Experience
in Southeast Asia, 1946-1975).
Trong buổi sáng ngày thứ nhì của buổi Hội thảo, đề
tài được thảo luận là “Với Bạn Hữu Như
Thế: Hoa Kỳ và Đồng Minh” (With Friends
Like These: The United States and its Allies) với
ba diễn giả. Một trong ba diễn giả là Giáo sư Edward Miller thuộc
Đại học Darmouth
College (Hanover, New Hampshire) với bài thuyết trình có tựa đề
là “Nhóm Khởi Xướng
‘Cuộc Cách Mạng Nhân Vị’: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Sự
Trổi Dậy của Đảng
Cần Lao” (Vanguard
of the “Personalist Revolution”: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu
and the Rise of
the Cần Lao Party).
Phần
thuyết trình của Giáo sư Miller gồm phần trình bày miệng và một xấp hình ảnh
được phân phát cho cử tọa. Dưới đây là bản Việt dịch từ bản chép lại (transcript) chính
thức được đăng trên trang Web của Office of The Historian – Photo và caption
Internet.
[…] Đề tài của tôi hôm nay là một trong những đảng phái chính trị nổi tiếng và ô nhục nhất
[the most famous and infamous] trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Tên chính thức của đảng nầy
là Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Tên dịch tiếng Anh chính thức là “The Revolutionary
Personalist Labor Party”. Nhưng đối với người Việt và người nước ngoài, đảng nầy được biết
đến đơn giản là Đảng Cần Lao. Đảng Cần Lao là một phần chủ chốt của bộ máy an ninh của
chính quyền Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam vào khoảng giữa năm 1954 và năm 1963.
Điều kiện để gia nhập đảng là dựa trên lòng trung thành với Diệm và gia đình họ Ngô.
Sự tồn tại của đảng Cần Lao đã được chính thức thừa nhận, nhưng hầu hết các đảng viên giữ
bí mật đảng tịch của mình, phần lớn vì các đảng viên Cần Lao được dùng làm mật báo viên
cho chế độ trong toàn bộ nhà nước, quân đội, và các định chế khác của Việt Nam. Đảng cũng
có những chức năng khác. Đảng thúc đẩy ý thức hệ chính thức của chính phủ Diệm, được gọi
là chủ nghĩa Nhân Vị, đảng kiểm soát một mạng lưới các lợi ích kinh doanh. Đảng thực hiện
một loạt các nhiệm vụ chính trị và tình báo bí mật.
Thật ra, tất cả những điều này đã được biết đến và thừa nhận từ lâu trong giới học thuật về
chiến tranh Việt Nam và về giai đoạn Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, cho đến nay, các sử gia đã
không dành nhiều nỗ lực để thực sự điều tra đảng nầy và để làm giống như bóc những lớp vỏ
phía sau lớp màn bí mật che đậy đảng nầy. Vì vậy, bài viết này là một nỗ lực sơ bộ để làm
điều đó. Trong cố gắng làm điều này, tôi đã sử dụng một số tài liệu của Mỹ , trong đó có một
số tài liệu trong các tập FRUS [ Foreign Relations of the United States ]. Đặc biệt là tập
“Việt Nam” cho giai đoạn 1958-1960 có rất nhiều tài liệu thú vị, tài liệu có nhiều tiết lộ về
đảng Cần Lao và tổ chức của đảng.
Các tập biên niên FRUS của Bộ Ngoại Giao Mỹ và hình bìa của “CIA and The House of Ngo”
Ngoài ra, còn có một số tài liệu giải mật gần đây rất có giá trị. Thomas Ahern , một sử gia CIA,
đã công bố một nghiên cứu về mối quan hệ của Cục CIA với anh em nhà Ngô. Nghiên cứu nầy
được gọi là “CIA and the House of Ngo” [CIA và Nhà Ngô]. Tài liệu nầy có sẵn để chúng ta tải
về miễn phí trên trang web FOIA của CIA [ http://www.foia.cia.gov/ ]. Nó đã được giải mật
khoảng một năm trước đây. Nhờ vậy, tôi đã lấy thông tin từ đó.
Nhưng như Erin đã nêu rõ [Erin Maham, Sử gia cao cấp của Bộ Quốc Phòng Mỹ - Chủ tọa buồi
Hội thảo], tôi cũng đã lấy thông tin từ các nguồn khác không phải từ người Mỹ. Có rất nhiều
nguồn tiếng Pháp trong các văn khố quân sự và ngoại giao Pháp về đảng Cần Lao. Người Pháp
đã thực sự duy trì một mạng lưới tình báo rất tốt ở Nam Việt Nam sau năm 1954. Tôi cũng đã sử
dụng rất nhiều tài liệu tiếng Việt, trong đó có hồi ký của những cựu đảng viên đảng Cần Lao.
Và như Erin cho biết, điều này được rút ra từ một dự án sách lớn mà tôi đang viết về toàn bộ lịch
sử của chính quyền Diệm.
Còn về
những gì tôi sẽ trình bày
hôm nay, tôi sẽ nói thật ngắn gọn
về nguồn gốc của đảng
Cần
Lao
trong cuối
thập niên 40s và đầu thập niên 50s, và sau đó tôi sẽ tập trung vào giai đoạn
từ năm 1954 đến năm 1960, là
những
năm mà quý vị
có thể nghĩ đến như những năm hình thành của đảng Cần Lao.
[Liệu mọi người
có xấp tài liệu phát
tay
chưa? Có rồi - Tôi đã in ra - Tốt rồi, thật tuyệt vời.]
Về những nguồn gốc của đảng Cần Lao, có người đôi khi gợi ý rằng đảng Cần Lao là tạo phẩm của
CIA hoặc của vài cơ quan khác của Chính phủ Mỹ. Điều này thì đơn giản là không đúng sự thật.
Đảng Cần Lao nổi lên khỏi những hoạt động chính trị của Ngô Đình Nhu trong cuối thập niên 40s
và những năm đầu thập niên 1950s. Trong thời gian này, Diệm không ở Việt Nam. Ông ta đang sống
lưu vong, tự nguyện sống lưu vong tại Mỹ và châu Âu. Tuy nhiên Nhu, em trai của ông ta, ở lại Việt
Nam và tiến hành các hoạt động khác nhau với danh nghĩa của Diệm. Một hoạt động mà Nhu đã
tham gia là thành lập một nhóm ở thành phố Đà Lạt vùng cao nguyên tại miền Nam Việt Nam
khoảng năm 1949. Nhóm này, về cơ bản, bắt đầu như một nhóm nghiên cứu triết học, [và bức
ảnh lớn trên một mặt của xấp tài liệu phát tay là một bức ảnh của nhóm đó]. Trong bức ảnh nầy,
quý vị sẽ thấy Ngô Đình Nhu. Quý vị cũng sẽ thấy một linh mục người Pháp tên là Cha Ferdinand
Parrell. Parrell và Nhu đều rất quan tâm đến triết thuyết Nhân Vị vốn có liên quan đến, trong số
những người khác, một triết gia Pháp tên là Emmanuel Mounier. Và thuyết Nhân Vị sau đó sẽ trở
thành học thuyết chính thức không chỉ của đảng Cần Lao mà còn của chính phủ Diệm nữa. Vậy thì,
cho những vị nào có biết về lịch sử của chính phủ Diệm thì hẵn cũng biết rằng thuyết Nhân Vị đã
được biết đến như một điều gì đó rất sâu sắc, rất khó hiểu. Nhưng điều đó không có nghĩa là thuyết
nầy vô nghĩa hoặc rối rắm. Tôi nghĩ rằng thuyết Nhân Vị đã có một ý nghĩa nào đó cho Diệm và
Nhu và cho các đảng viên thuộc vòng trung ương, và do đó nó quan trọng.
Một
mặt, thuyết Nhân
Vị rất chống Cộng sản. Nó phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tập sản của Marx. Nhưng nó cũng phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tự do, đặc
biệt là chủ nghĩa cá nhân tự do. Và do đó,
những nỗ lực của Mounier trong việc xây dựng học thuyết Nhân Vị này là, về cơ bản, một nỗ lực để chia đều
sự khác biệt, để cố gắng tìm một chủ nghĩa trung dung, một lý tưởng cộng đồng. Vấn đề là chuyển hóa quan điểm trung dung đó, hoặc một con đường thứ
ba đó, thành một chương trình hành động tích cực. Đây là điều mà chính phủ Diệm luôn luôn
gặp khó khăn khi
thực hiện.
Tuy nhiên, tôi cho rằng thuyết Nhân
Vị là quan trọng để đặc biệt hiểu
được những suy nghĩ của Ngô
Đình Nhu trong giai đoạn khởi đầu
này.
Ngoài chuyện triết lý này, Nhu cũng rất bận rộn trong việc xây dựng mạng lưới nhân sự trong những
năm đầu của thập
niên 50s.
Nhu
và Cha Parrell cuối cùng đã mở
rộng nhóm nghiên cứu
này thành
một hoạt động trên toàn Đông
Dương. Họ đã tổ chức một loạt các sự kiện lớn hơn, các sự kiện công cộng tại Hà Nội và Sài Gòn và tại các thành phố khác, và những sự kiện này đã
thu hút sự chú ý của rất nhiều người
Việt chống Cọng nổi tiếng.
Và sau đó, Nhu thiết lập
các mối quan hệ với nhiều người trong số các
người chống Cọng nầy
và đã có thể tuyển dụng một vài
người
trong số họ vào đảng Cần
Lao.
Tổ chức trở thành đảng Cần
Lao đã không thực sự thành
hình mãi cho đến năm 1953. Và vào thời điểm
lần
đầu tiên xuất hiện, nó đã thực sự
chỉ là một liên minh lỏng lẻo. Có những người
trí thức, có các
nhà hoạt động chính trị, có một
ít sĩ quan trong Quân đội
Quốc gia Việt Nam. Có rất nhiều người Công giáo trong đảng Cần Lao vào thời điểm này, nhưng thực sự cũng có rất nhiều người
không-Công giáo nổi
bật.
Và một trong những điều thú vị về đảng Cần Lao là nó trở nên tương đối có nhiều người Công
giáo hơn
sau năm 1954.
Đảng kỳ của đảng Cần Lao theo hồi ức của một nhân vật thời đó
nhớ lại,
với 3 ngôi sao tượng trưng cho tín điều “Tam Vị Nhất Thể” (Chúa ba Ngôi)
của thần học Công giáo La Mã, vốn là tư tưởng chủ đạo của thuyết
Nhân Vị -
Nghị định số 116-BNV/CT do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Nguyễn Ngọc Thơ ban
hành tại
Sài Gòn ngày 2-9-1954 “cho phép thành lập Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng”
Đó
là tình hình lúc bấy giờ,
vào mùa
xuân năm 1954, khi CIA lần đầu tiên bắt đầu dính dự với
đảng Cần Lao. Trạm CIA tại Sài Gòn đã liên lạc với Ngô Đình
Nhu kể từ năm 1951, nhưng lúc đầu Trạm CIA xem Nhu
chủ yếu chỉ như một
nguồn thông tin về chính trường Sài Gòn. Chỉ
đến vào mùa xuân năm 1954, ngay trước khi Ngô Đình
Diệm nắm quyền
lãnh đạo của vùng đất
sẽ trở thành miền Nam Việt Nam, thì Trạm CIA mới đề xuất nâng cấp quan hệ với Nhu. Nhân vật chủ chốt ở đây là cá nhân một sĩ quan của Trạm tên là Paul Harwood, người đứng đầu phân ban hoạt động bí mật. Harwood tìm hiểu về đảng Cần Lao từ Nhu và ông ta đề nghị giúp Nhu
biến nó thành một công tác chuyên hoạt
động chính trị bí mật. Và điều này đã bắt đầu một thời kỳ dài của CIA dính dự với đảng Cần
Lao
và các bộ phận
liên hệ, vốn kéo dài,
lúc có lúc không,
cho đến những năm đầu thập niên
1960s.
Một
trong những lý do mà CIA quyết định dính dự với đảng Cần Lao là vì tại thời điểm đó, Nhu đang chuẩn bị để tái
tổ
chức lại đảng Cần Lao hầu
làm cho nó có tính cơ cấu
hơn và trở thành một công cụ chính trị mạnh mẽ hơn. Và những gì Nhu làm là tạo ra ba bộ phận mới gắn kết với đảng
Cần
Lao. Vì vậy, tôi chỉ muốn
nói ngắn gọn về
ba bộ phận nầy và lãnh đạo của chúng.
■ Một
vài quý vị có
thể quen thuộc
với tổ chức đầu tiên của ba bộ phận này, vốn là
một tổ chức được gọi
là Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (PTCMQG). PTCMQG là một tổ chức chính trị nổi; nghĩa là, nó hoạt động một cách công khai. Đó là một tổ
chức vận động quần chúng. Nó được cho là phương tiện mà chế độ này có thể sử dụng để tranh thủ người dân Việt bình thường ủng hộ chính phủ. PTCMQG sử dụng những kỹ thuật tuyên truyền và tâm lý khác nhau để thực
hiện
điều này, tổ chức nhiều cuộc biểu tình ủng hộ chế độ, các bài phát biểu, các buổi tuyên truyền. Và
cuối cùng nó đã xây dựng được
một
mạng lưới về
tận nông
thôn xuống đến cấp
làng xã.
PTCMQG đã đóng
một vai trò quan trọng trong một hoạt động
gọi
là Chiến Dịch Tố
Cộng,
vốn là
một chiến dịch vận động
khối
lượng lớn quần chúng, được ra mắt vào năm 1955.
Bề
ngoài, PTCMQG
là một đảng chính trị độc lập, nhưng trong thực tế, Phong Trào được điều khiển bởi đảng viên cấp cao của đảng Cần Lao và nó thực sự là một tổ chức ngoại vi của đảng Cần Lao.
Nhân vật chủ chốt của PTCMQG là một người tên là Trần Chánh Thành. [Và nếu quý vị nhìn vào mặt
trái của xấp tài liệu, quý vị sẽ thấy ảnh của ông ta trong đó]. Thành
vừa là Chủ tịch của Phong Trào Cách Mạng
Quốc Gia vừa là
Bộ trưởng Bộ Thông Tin
của chế độ Diệm. Vì vậy, ông ta
cơ bản là chuyên viên tuyên truyền cao nhất trong những năm đầu của chế độ. Giống như những người
anh em nhà Ngô,
ông ta gốc miền
Trung Việt Nam. Điều thú vị là ông ta không phải người Công giáo. Một điều thú vị khác về Thành là ông ta
nguyên là
một cựu quan chức Việt Minh. Ông ta đã gia nhập Việt Minh vào năm 1945. Ông ta đã thực sự phục vụ trong vài năm như một quan chức
trong chính phủ của Hồ Chí Minh trước khi vỡ mộng. Cuối cùng, ông ta về Sài Gòn trong những năm đầu thập niên ‘50s và đó là nơi ông móc nối được với Nhu và trở thành một
đảng
viên sáng lập của đảng
Cần Lao.
Trong
hai năm
1955 và 1956, Thành xây dựng hệ thống tuyên truyền sâu rộng ở Nam Việt Nam,
và trong quá trình đó, quyền lực của ông ta trở nên rất mạnh. Rất nhiều báo cáo tại Nam
Việt Nam trong năm
1955 cho
Thành là
nhân vật quyền lực nhất tại Nam Việt Nam mà không phải là một thành viên
của gia đình họ Ngô.
Vì vậy, dù sao thì có
một lúc,
ông ta
trở nên khá có thế lực.
■ Tổ chức chi nhánh thứ nhì của đảng Cần Lao mà Nhu thiết lập trong năm đầu tiên Diệm cai trị là
một nhóm gì đó mà tên tiếng Việt là Liên Kỳ Bộ Nam-Bắc Việt, đơn giản rút ngắn là Liên Kỳ. Liên
Kỳ rất khác Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia. Một điều rõ ràng là Liên Kỳ nhỏ hơn nhiều. Đó là
một tổ chức bí mật. Nó chỉ gồm các đảng viên đảng Cần Lao, và nó được trao cho một số trách
nhiệm liên quan đến các hoạt động nội bộ của đảng. Điều quan trọng nhất của những trách nhiệm
này là kinh tài. Từ đầu năm 1955, Liên Kỳ bắt đầu xây dựng một mạng lưới kinh doanh do đảng Cần
Lao kiểm soát, và cuối cùng phát triển thành một đế chế kinh doanh khá đáng kể, đến mức mà đảng
Cần Lao đã tham gia vào rất nhiều, nếu không phải hầu hết, các doanh nghiệp và các ngành
công nghiệp lớn ở miền Nam Việt Nam.
Người
được
Nhu chọn để điều hành
Liên Kỳ là Huỳnh Văn Lang. [Một bức ảnh của ông ta cũng xuất hiện
trên xấp
tài liệu]. Ông ta còn rất trẻ. Ông ta chỉ khoảng 26 tuổi vào năm 1955 nhưng đã
có vài phẩm chất giúp tiến cử ông ta với
Nhu. Ông ta
là một người Công giáo. Ông xuất thân từ đồng bằng sông Cửu Long. Ông ta có một bằng cấp cao về kinh tế. Ông vừa du học ở nước ngoài về nên hấp dẫn Nhu. Trước đây, ông ta không phải là đảng viên của đảng Cần Lao. Tuy nhiên, ông ta đã tham dự hội thảo Đà Lạt. [Nếu quý vị lật lại tấm ảnh của buổi hội thảo, nhìn qua hết bên trái của
bức ảnh, người đó chính là chàng thanh niên Huỳnh Văn Lang]. Vì vậy, ông ta thực sự có hiểu
biết
điều gì đó về thuyết Nhân
Vị, và điều nầy làm Nhu thấy hấp dẫn .
Lang
vẫn còn sống. Tôi phỏng vấn ông ta hai năm trước đây. Ông ta giải thích cho tôi làm thế nào ông ta đã xây dựng mạng lưới kinh doanh Liên Kỳ
này. Tôi sẽ không làm quý vị chán
với các chi tiết đẫm máu [gory details] ở
đây, nhưng về cơ bản, ông ta đã có một việc làm – ông ta đã có một việc làm ban ngày trong vai trò là người đứng đầu của Viện Hối Đoái, và ông ta đã có thể rót tiền mà Viện Hối Đoái thu được như
tiền phạt các giao dịch tiền tệ bất hợp pháp chẳng hạn. Ông ta đã có thể rót số tiền
này
vào các hoạt động của Liên
Kỳ. Và trong quá trình đó, ông ta
đã
có thể xây dựng được mạng
lưới các doanh nghiệp nầy.
■ Tổ chức cuối cùng mà Nhu
thiết lập vào giữa những năm 1950s
dưới sự bảo trợ của đảng Cần
Lao là khá kín đáo và có
tên là Sở Nghiên Cứu Chính Trị và
Xã Hội.
Tổ chức này được thành lập như một cơ quan chính thức
của Chính
phủ Nam Việt
Nam, vì vậy nó thực sự - một lần nữa - không phải là một
bí
mật về mặt cơ chế.
Đó là một cơ quan mở. Không giống như các bộ phận khác của đảng Cần Lao, cơ
quan này đã gần như luôn luôn được gọi bằng tên tiếng Pháp của nó, và đặc biệt là gọi bằng cách xếp những mẫu tự tiếng Pháp của mình, S-E-P-E-S
[Services
d' Etudes Politiques Et Sociales], phát âm là "xê-pê".
Các
nhiệm vụ chính thức của SEPES là
rà soát các ứng viên xin vào làm việc cho
chính phủ. Nhưng trong thực tế, SEPES có một
bản toát yếu
rộng hơn nhiều; thực hiện đủ
loại
nhiệm vụ bí mật. SEPES
tiến hành hoạt động gián điệp và tình báo liên quan đến Bắc Việt Nam, hoạt động phản gián chống lại cán bộ đặc vụ Cộng sản tại miền Nam Việt Nam. Việc
giám
sát nhà nước Việt Nam,
giám sát bộ máy hành chánh,
và giám sát quân
đội thì chủ
yếu do SEPES thực hiện. Rà soát các đảng viên mới của đảng Cần Lao, đào tạo và cải tạo tư tưởng, cũng như thực hiện các loại kinh tài - ví dụ, bán giấy phép nhập khẩu và xuất khẩu. Và cuối
cùng, SEPES cũng đã tham gia vào việc bắt
giữ - điều tra, câu lưu,
tạm giữ những ai bị nghi ngờ là kẻ thù của chế độ, bao gồm một mạng lưới các nhà tù đặc biệt.
Người
đứng đầu SEPES là một cá nhân tên là Trần Kim Tuyến. Ông được nhiều người biết đến chỉ đơn giản như
là “Bác sĩ
Tuyến”. Ông là một người Công giáo Bắc Việt Nam.
Ông vốn là
một cựu chủng
sinh Công giáo.
Ông đã từng học
y khoa.
Ông chưa
bao giờ thực sự hành nghề như
một bác sĩ, nhưng vì ông đã học
y khoa nên
tất cả mọi người gọi ông là Bác
sĩ Tuyến.
Về thể chất, tầm vóc của ông rất
nhỏ. [Tấm
ảnh trên tập kèm theo có lẽ không hoàn toàn phản ảnh đúng với ông ấy]. Hình như
ông cân nặng
dưới 45 ký.
Nhưng ông đã tỏa
một cái bóng lớn trên cảnh quan
Nam Việt Nam.
Ông là một nhân vật rất có thế
lực
trong một giai đoạn.
Trong cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên, ông đã tham gia vào những âm mưu chống Cộng trong vùng Công giáo ở
Bắc Việt Nam. Đó là lần đầu tiên ông ta gặp anh em nhà Ngô. Sau đó, ông đã được họ tuyển dụng vào năm 1954 rồi bổ nhiệm đứng đầu SEPES năm 1955.
Từ trái: Trần Chánh Thành - Huỳnh Văn Lang - Trần Kim Tuyến
Tóm
lại, đó là ba
bộ phận chủ chốt của đảng Cần Lao do Nhu thiết lập. Tôi chỉ muốn có hai nhận xét về ba tổ chức nầy. Trước hết, điều quan
trọng là cần nhận
ra rằng ba tổ chức này chỉ hoạt động ở phần phía Nam của Nam Việt Nam, tức là Nam Kỳ cũ, về cơ bản là các khu vực chung
quanh Sài Gòn và Đồng bằng sông Cửu Long. Điều này là vì các phân bộ
của đảng Cần Lao miền Trung Việt Nam thì lại dưới trướng
của Ngô
Đình Cẩn, một trong những anh em nhà Ngô, và lát
nữa,
tôi sẽ nói thêm
về
điều nầy.
Điểm
khác tôi muốn nhận xét ở
đây là CIA đã có mối quan hệ với tất cả ba bộ phận này. Bắt đầu với Paul Harwood và tiếp tục với những người kế nhiệm của ông ta, CIA đã tài trợ và huấn
luyện cho Trần Chánh Thành và Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia. Họ cũng hỗ trợ cho Trần Kim Tuyến và
SEPES một phần vì họ muốn cộng tác trong lãnh vực thu thập tình báo với SEPES. CIA cũng đã
có một mối quan hệ với Huỳnh Văn Lang. Mối
quan hệ nầy hình như không liên quan đến việc hỗ trợ vật chất,
nhưng họ chắc chắn biết ông ta
là
ai và đã tiếp xúc với ông
ta.
Như
vậy, CIA chắc chắn đã dính dự
với
đảng Cần Lao. Mặc dù vậy, CIA không đạt
được những gì họ
muốn từ đảng Cần
Lao. Và công trình nghiên cứu của Thomas Ahern mà tôi
đề cập trước đây thực sự đã trình bày điều này khá rõ ràng. Và
dĩ nhiên câu
hỏi mà điều này đặt ra là tại sao? Tại sao không
xãy
ra như cách
CIA muốn? Cơ quan này kết luận rằng tại vì Nhu có những ưu tiên khác,
rằng ông ta không
thực sự quan tâm đến việc hợp tác với họ. Quan điểm của tôi là tôi không nghĩ rằng điều nầy hoàn toàn đúng. Tôi nghĩ
rằng, trên thực tế, các quan chức Mỹ và Ngô Đình Nhu đã thực sự không phải khác xa nhau về mục tiêu cho đảng Cần Lao. Tôi
nghĩ cả hai bên đều
đồng ý rằng xây dựng đảng Cần
Lao thành
một tổ chức hoạt
động chính trị bí mật
là một mục tiêu cả hai đều mong
muốn. Đối
với Nhu, xây
dựng được
sự hỗ
trợ
của quần chúng cho chế
độ là một điều tốt. Năm 1958 - đây chính là một tài liệu trong tập [FRUS] đầu tiên - Elbridge
Dubrow, đại sứ Mỹ tại
Nam Việt Nam, nói rằng, xin trích dẫn, ông ta "không
phản đối chuyện
đảng Cần Lao giúp điều hành đất nước và phối hợp
kỷ luật với phát triển."
Vì
vậy, vấn đề ở đây không phải là vì người Mỹ thì
đang
cố gắng thúc đẩy những lý tưởng dân chủ trong lúc Nhu thì
lại độc tài toàn
trị.
Tôi nghĩ rằng vấn đề liên quan đến vài đặc
tính của đảng Cần Lao và cách thức mà Nhu lập đảng. Và nói rất ngắn gọn, tôi
nghĩ rằng có hai loại vấn đề với đảng Cần Lao. Một là ý thức hệ; hai là một loạt các vấn đề về tổ chức. Về những vấn đề ý thức hệ, không có bằng chứng cho thấy học thuyết Nhân Vị có sức hấp dẫn rộng
lớn
ở Nam Việt Nam. Và trên
thực tế, không thực sự có
bất kỳ bằng chứng nào cho thấy bất
cứ ai, ngoài Diệm và Nhu và một vài người khác
- một số nhỏ những người ủng hộ chế độ, là có thể thực sự hiểu được những
gì Nhu trình bày về thuyết Nhân Vị.
Thực tế là tôi đã không tìm ra được nhiều
tài liệu của đảng Cần
Lao trong kho lưu trữ tại Sài
Gòn, tuy nhiên, có một tài liệu tôi đã tìm ra, vốn phát hành từ năm 1960, là một tài liệu huấn luyện coi như các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Nhân Vị. Và [trong đó] dường như gợi ý rằng điều quan trọng là các
đảng
viên cần một
khóa học bồi dưỡng bởi vì không ai trong
tổ chức thực sự hiểu triết lý chính thức của chủ nghĩa
Nhân Vị
là gì cả.
Vì vậy, tôi nghĩ rằng ý thức hệ là một vấn đề đối với đảng Cần Lao.
Ngoài
các vấn đề ý thức hệ,
còn có những vấn đề tổ chức.
Ngay từ đầu, đảng Cần Lao đã bị
bao vây bởi tình trạng bè
phái. Các phe phái khác nhau của đảng cạnh
tranh ác
liệt và gay gắt [fierce
and bitter] với
nhau. Tình trạng bè
phái này không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Đúng ra, nó là một
hàm số
của cách thức mà Nhu lập đảng. Đôi khi, có người
gợi ý rằng đảng Cần Lao được tổ chức theo nguyên tắc của Lênin. Người
ta nghĩ rằng mặc
dù thực tế Nhu
là một người chống
Cộng nhưng
thực sự đã vay mượn chiến lược tổ chức của Lênin.
Tôi không nghĩ rằng điều này là đúng. Trong một đảng theo kiểu của Lênin, cuối cùng, quý vị sẽ có một tổ chức rất tập trung. Đảng Cần Lao không bao giờ
có một bộ chính trị hay một ủy ban trung ương. Trong nhiều trường hợp, Nhu đã làm điều ngược
lại. Ông ta
đã thành lập các bộ phận
khác nhau với cách làm thế nào để về cơ bản, sẽ bảo đảm những
tổ chức nầy chống lại nhau.
Vì
vậy, ba bộ phận mà tôi đã
đề cập ở trên đã
có mối quan hệ với rất nhiều tranh chấp gần như ngay từ
đầu.
Ví dụ, bắt đầu từ khoảng năm 1956, Trần Chánh Thành thấy mình là đối tượng của một chiến dịch bôi
nhọ, mà cuối cùng được truy trở lại từ
Bác
sĩ Tuyến
và SEPES. Thành
bị chỉ trích trên báo chí do
Tuyến
điều
khiển. Điều nầy làm nỗ ra một cuộc chiến mà về cơ bản kéo dài cho
đến năm 1960. Kết quả là Thành bị lật đổ khỏi vị trí người đứng đầu của Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia. Ông xoay sở
để
vẫn còn
làm Bộ trưởng Thông Tin cho đến năm 1960, nhưng vào thời điểm đó, cuối cùng, Tuyến cũng đã qua mặt
ông và
Trần Chánh Thành bị
gửi đến nhiệm sở
mới của mình như là Đại sứ Nam Việt Nam tại Tunisia, vốn
ít
hấp dẫn một cách đáng kể
hơn so
với vị trí cũ của mình.
Huỳnh
Văn Lang cũng đã đối
diện với
một cuộc chiến với Bác
sĩ Tuyến.
Năm 1958, Nhu nói với Lang rằng Nhu sẽ giải tán Liên
Kỳ.
Lang điều tra
và phát hiện ra rằng Nhu đang giải
quyết
một số khiếu nại của Bác sĩ Tuyến chống lại Lang. Vì vậy, đã có rất nhiều tranh chấp trong các tổ chức do Nhu thành lập.
Hai anh em thủ lãnh đảng Cần Lao:
Ngô Đình Nhu (1910-1963) trái, và Ngô Đình Cẩn (1911-1964)
Thêm vào tình trạng
nầy là
một cuộc tranh chấp to lớn
khác để
kiểm soát đảng Cần Lao, diễn ra trong nội bộ gia đình họ Ngô. Và ở đây, hai kẻ đối kháng là Ngô Đình Nhu một bên và người em khác mà tôi đã đề cập trước đó, Ngô Đình Cẩn. Kể từ
năm 1954, như tôi đã đề cập, đảng Cần Lao đã có sự phân chia quyền lực theo địa lý. Nhu điều hành phía Nam và Ngô Đình Cẩn là lãnh tụ tối cao ở miền Trung. Lúc đầu, Cẩn đồng ý là chỉ điều hành miền Trung Việt Nam, nhưng khoảng 1957,
ông ta
bắt đầu xâm nhập vào
lãnh thổ của Nhu. Ông ta gửi
người trung thành với mình như các
tỉnh
trưởng để tiếp quản
các tỉnh tại
đồng bằng sông Cửu Long. Ông ta
cũng
mở rộng bộ máy bí mật của mình ở phía Nam.
Cẩn
gửi các cán bộ
của mình vào Sài Gòn và họ bắt đầu thực sự cạnh tranh và xung đột với một số
người của
Nhu. Một số thành viên của nhóm Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị bỏ tù vài tháng vì một tỉnh trưởng ủng hộ Ngô Đình Cẩn, và Trần Kim Tuyến và SEPES thực sự phải thu nhỏ tổ chức lại, giới hạn hoạt
động lại để
nhường chỗ cho Cẩn.
Nhưng,
trong dài hạn, nỗ lực của Cẩn tìm cách một mình kiểm soát hết đảng Cần Lao đã không thành
công. Vào khoảng năm 1960, ảnh hưởng của Cẩn rơi sâu xuống dốc và Nhu mạnh mẽ trở lại. Và điều này rất quan trọng đối với
lịch sử tiếp theo của chế độ Diệm vì Nhu
rất có thế lực,
thực sự trở thành
một nhân vật nổi bật trong chế độ từ năm 1960 trở đi. Tôi sẽ không nói về những lý do của sự trở lại này. Nhưng nếu chúng ta muốn khám phá nó trong phần vấn đáp, chúng ta chắc chắn có thể thảo luận điều đó. Nhưng chúng ta dư sức nói rằng những tác động
lâu dài của sự trở lại
này là rất quan trọng đối với chế độ Diệm. Những sự ganh đua giữa các anh em họ Ngô sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến chế độ, dẫn
đến sự sụp đổ của chế
độ vào năm 1963.
Để
kết luận, tôi chỉ xin nêu
ba điểm.
● Điểm
đầu tiên là, như tôi đã chỉ ra, đảng Cần Lao là một tổ chức hết sức bè phái. Và điều này có ý nghĩa
lớn đối với cách chúng ta hiểu nền chính
trị Nam Việt Nam trong giai đoạn Diệm. Trái ngược với quan điểm phổ biến, đảng Cần Lao không siêu-tập
trung kiểu
Leninit.
Đã có những phân hóa giữa các bộ
phận của
đảng Cần Lao khi Nhu thiết
lập đảng.
Và sau đó, ngoài sự phân hóa trên, lại
có sự cạnh tranh giữa Nhu và Cẩn.
● Điểm thứ hai ở đây là cách ứng phó của Cơ quan Tình báo
Trung ương CIA đối với
đảng Cần Lao cần phải được hiểu trong ánh sáng của tình hình bè phái nói trên. CIA chắc chắn ý thức được có các tranh chấp trong đảng Cần Lao,
nhưng dường như CIA đã
hiểu rất
chậm rằng những
tranh chấp đó
đã ảnh hưởng và phá hoại cái tham
vọng mà họ dành cho đảng Cần
Lao.
● Điểm cuối cùng, và một cách nào đó cũng là điểm quan trọng nhất, liên quan đến những tác động lâu
dài đối với lịch sử của chế độ Diệm từ những phát hiện về đảng Cần Lao. Trong bài thuyết trình này,
tôi sẽ không thảo luận về năm 1963 và các sự kiện dẫn tới sự sụp đổ của chế độ Diệm, nhưng ở đây,
tôi sẽ cung cấp cho quý vị chỉ một sự kiện thú vị về thời kỳ đó.
Năm 1963, tôi chắc chắn rằng tất cả quý vị đều biết, đã có một cuộc khủng hoảng lớn tại Nam Việt
Nam và đã có rất nhiều âm mưu đảo chính đồng diễn ra chống lại chế độ Diệm. Có ba âm mưu đảo
chính tiến hành vào mùa thu năm 1963 được coi là đặc biệt có thực chất hoặc nghiêm trọng. Âm
mưu đầu tiên, tất nhiên, là âm mưu đã thành công. Âm mưu này được lãnh đạo bởi các tướng hàng
đầu trong quân đội miền Nam Việt Nam. Những kẻ cầm đầu âm mưu này là tướng Trần Văn Đôn và
Trần Văn Minh [Dương Văn Minh?]. Họ không phải là đảng viên đảng Cần Lao. Tuy nhiên, để âm
mưu thành công, họ phải tuyển mộ những sĩ quan quân đội là đảng viên Cần Lao. Và sỉ quan Cần
Lao quan trọng nhất trong số này là một vị tướng tên là Tôn Thất Đính, người chỉ huy vùng Sài Gòn.
Vậy thì âm mưu đầu tiên đã có một yếu tố Cần Lao quan trọng trong đó.
Hai
âm mưu
khác cũng đang
được tiến hành vào mùa thu năm 1963, một âm
mưu do Huỳnh Văn Lang,
cựu giám đốc của Liên Kỳ, lãnh đạo.
Và âm mưu kia thì được lãnh đạo bởi không ai khác hơn là Bác sĩ Tuyến, người vào năm 1963 đã hoàn toàn thoát ra khỏi Nhu. Vì vậy, tôi nghĩ rằng
điều này cho thấy đảng Cần Lao là thực sự quan trọng trong lịch sử của chế độ
Diệm, nhưng quan trọng theo
cách - theo cách chính trị mà tôi không nghĩ rằng chúng ta đã hiểu rõ, và hy vọng chúng ta sẽ học hỏi thêm khi
có
nhiều nghiên cứu được thực hiện về chủ đề này.
[Xin
cảm ơn nhiều. Vỗ tay]
Dịch từ “Vanguard
of the “Personalist Revolution”: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu and the Rise of
the Cần Lao Party” của Edward Miller, 2010.
● Nguồn tiềng Anh: https://history.state.gov/conferences/2010-southeast-asia/with-friends-like-these
● Nguồn Việt dịch: http://www.danchimviet.info/archives/103416/nhom-khoi-xuong-cuoc-cach-mang-nhan-vi/2016/06
● Sưu tầm, Nhấn mạnh và
Hình ảnh thêm vào của Kevin Trần
THE
AMERICAN EXPERIENCE IN SOUTHEAST ASIA, 1946-1975
With Friends Like
These: The United States and its Allies
East Auditorium, George C. Marshall Conference
Center
Washington, D.C.
September 30, 2010
·
Chair: Erin Mahan,
Chief Historian, Office of the Secretary of Defense
·
Edward Miller, Dartmouth College, “Vanguard of the “Personalist Revolution”:
Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu and the Rise of the Cần Lao Party”
·
Effie Pedaliu,
University of the West of England-Bristol, “When
‘More Flags’ Meant ‘No European Flags’: The U.S., Its European Allies and the
Vietnam War, 1964–74”
·
Andrew Wiest, The
University of Southern Mississippi, “Anatomy
of a Flawed Alliance: The Nature of the U.S. Alliance with the Republic of
Vietnam Armed Forces during the Vietnam War”
·
Commentator: Fred
Logevall, Cornell University
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét