CƠN
SỐT OBAMA: GIẤC MƠ MỸ VÀ VIỆT NAM
TT. Thích Nhật Từ
(Giác Tâm Hỷ ghi chép từ bài giảng tại khóa tu
Ngày An Lạc, Chùa Giác Ngộ, ngày 29/05/2016)
1. Nỗ lực khép lại quá
khứ đau thương
Nhân dân Việt Nam đánh giá rất tích cực chuyến viếng
thăm chính thức Việt Nam của tổng thống Hoa Kỳ Barak Obama từ 22-25/5/2016, vào
thời điểm gần cuối nhiệm kỳ thứ hai của ông ở nhà Trắng. Dùng khái niệm “Cơn
sốt Obama”, tôi muốn phân tích bài diễn văn của Tổng thống Obama tại Trung tâm
Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình, vào lúc 12 giờ 10 phút, ngày 24/5/2016.
Hiện nay, trên Internet có tối thiểu 4 bản dịch tiếng Việt từ bài
phát biểu tiếng Anh của tổng thống Barak Obama, đã chạm tới trái tim người Việt
Nam. Tôi sử dụng bản dịch do Văn phòng Thư ký Báo chí của Nhà Trắng công bố
trên trang web của cơ quan này và bản dịch này cũng được Đại sứ quán Hoa Kỳ tại
Việt Nam đăng tải chính thức trên trang web của họ. Bài diễn văn 30 phút này vô
cùng quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt rất tích cực trong quan hệ giữa Hoa Kỳ
và Việt Nam, vốn là hai cựu thù, giờ đây trở thành hai quốc gia có quan hệ hợp
tác toàn diện.
Bắt đầu bài phát biểu, tổng thống Obama bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đối với nhân dân Việt Nam vì đã dành cho ông sự chào đón vô cùng thân
thiện, nồng nhiệt nhất mà trong suốt gần 10 năm, với vai trò là tổng thống Hoa
Kỳ, đã thăm chính thức trên dưới 50 quốc gia, lần đầu tiên ông cảm nhận sự đón
chào đặc biệt này. Nhà lãnh đạo cao nhất của Hoa Kỳ thực sự cảm động về sự mến
khách của dân tộc Việt Nam. Ông cũng bày tỏ sự biết ơn hơn 4000 người đã đến
Trung tâm Hội nghị Quốc gia lắng nghe bài phát biểu của ông. Ông cũng cho rằng
đất nước Việt Nam rất vĩ đại, có những con người trẻ, năng động, đại diện cho
thế hệ tiềm năng, niềm hy vọng của đất nước Việt Nam ở hiện tại và tương lai. Mô
tả con người Việt Nam như thế không chỉ đơn thuần là cử chỉ ngoại giao, mà còn thể hiện
lòng kính trọng thật sự của ông đối với đất nước và con người Việt Nam. Tổng
thống Obama nói: “Trái tim tôi thực sự xúc động khi nhìn thấy những người
dân Việt Nam đứng xếp hàng trên các con phố, tươi cười. Tôi cảm nhận được tình
hữu nghị giữa hai dân tộc”.
Trong các đời tổng thống Hoa Kỳ, tổng thống Barak Obama được người
Việt Nam đón chào nồng nhiệt nhất. Theo đánh giá của Phó an ninh Nhà Trắng tháp
tùng Tổng thống Obama, ít nhất vài trăm ngàn người Việt Nam đã đứng kín trên vệ
đường từ sân bay Tân Sơn Nhất trải qua các con đường mà đoàn xe của tổng thống
Obma đi qua. Chúng ra rất khó tìm thấy cảnh tượng tương tự ở Hà Nội. Điều này
gây nên đánh giá rất trái chiều của những người khác quan điểm. Một số người
nói rằng miền Nam trước năm 1975 theo ý thức hệ Hoa Kỳ. Trong 41 năm qua, người
dân miền Nam chờ đợi, mong mỏi sự quay trở lại của Hoa Kỳ, vì thế họ đã đón
chào tổng thống Hoa Kỳ nồng nhiệt. Ngay tại Hoa Kỳ chưa chắc tổng thống Barack
Obama đã có được sự đón chào nồng nhiệt như vậy.
Chúng ta phải thừa nhận rằng lịch sử quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam có nhiều đau thương và nhiều uất hận lớn. Tổng thống Obama khẳng định: “Trải
qua nhiều thế kỷ, vận mệnh của các bạn lại thường xuyên bị định đoạt bởi các
thế lực bên ngoài. Mảnh đất thân thương này không phải lúc nào cũng là của các
bạn”.
Đó là phát biểu chứa đựng sự thông cảm trước nỗi đau bị ngoại xâm
thôn tính mà đất nước và con người Việt Nam đã phải chịu đựng trong ba ngàn năm
qua. Riêng Trung Quốc đã đô hộ và xâm lược Việt Nam 66 lần. Bảy chục năm trở về
trước, trung bình 150 năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam một lần. Có lẽ trong
lịch sử Trung Quốc, không có vị vua nào chưa từng cho quân đi xâm lược Việt
Nam. Bảy mươi năm trở lại đây, tốc độ xâm lược của Trung Quốc tăng gấp 10 lần,
cứ trung bình 15 năm Trung Quốc gây hấn với Việt Nam một lần. Những cuộc gây
hấn gần đây mà phần lớn ai cũng biết là vào các năm 1958, 1974, 1979 và kéo dài
tới suốt 10 năm sau đó với cuộc chiến khốc liệt ở 10 tỉnh phía Bắc. Việt Nam bị
Pháp đô hộ gần 100 năm, bị phát xít Nhật thôn tính một thời gian ngắn. Cuộc nội
chiến kéo dài suốt ba chục năm với máu đổ từng ngày giữa hai thế hệ chính trị
cộng sản ở miền Bắc và tư bản ở miền Nam đã làm cho đất nước Việt Nam bị tàn
phá, phân hóa và khổ đau.
Theo luật pháp quốc tế, con người Việt Nam phải là chủ nhân của
đất nước Việt Nam. Song trên thực tế mảnh đất thân thương này đã có một quá
trình lịch sử không thuộc về Việt Nam bởi sự xâm lăng, thôn tính chủ quyền của
các cường quốc. Tổng thống Obama đã thừa nhận lịch sử đau thương đó với một sự
cảm thông lớn.
Tổng thống Obama khẳng định: “Tôi không phải là tổng thống Hoa
Kỳ đầu tiên đến Việt Nam trong những năm gần đây”. Có 5 tổng thống Hoa Kỳ
đã tới Việt Nam trong vòng sáu thập niên qua. Thứ nhất là tổng thống Lyndon B.
Johnson, người đã tới Việt Nam vào ngày 12/5/1961, sau đó vào ngày 25/1/1966 và
cuối cùng là ngày 23/12/1967 nhằm tham gia vào cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa
chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Khi đó, nhiều nước tư bản cho rằng chủ
nghĩa cộng sản đang được coi là mối đe dọa cho chủ nghĩa tư bản.
Richard
Nixon (1913-1994) và Lyndon Johnson (1908-1973)
Tổng thống Hoa Kỳ thứ hai tới Việt Nam là Richard Nixon,
ít nhất 7 lần trước khi làm tổng thống Hoa Kỳ. Lần thứ 8 cuối cùng Ông tới Việt
Nam vào tháng 7/1969, trực tiếp điều hành cuộc chiến tranh giữa hai nước.
Hai vị tổng thống Hoa Kỳ nêu trên gắn liền với cuộc chiến tranh
đau thương tại Việt Nam mà hệ quả của nó là hơn 40 năm qua nỗ lực hàn gắn vết
thương chiến tranh, chỉ đến ngày 23/5/2016 cuộc chiến mới thực sự được khép
lại. Tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ về việc tháo dỡ hoàn toàn lệnh cấm vận bán
vũ khí sát thương cho Việt Nam, đánh dấu một bước ngoặt ngoại giao quan trọng
giữa hai nước. Nhắc đến hai vị thổng thống đó, phần lớn người Việt Nam không
thể có cảm tình, bởi cuộc chiến Việt Nam quá thảm khốc gây nên đau thương cho
biết bao gia đình người Việt Nam.
Tổng thống Hoa Kỳ thứ ba là Bill Clinton đến Việt Nam 5 lần. Đây
là vị tổng thống Hoa Kỳ có công trong giai đoạn đầu thiết lập quan hệ ngoại
giao với Việt Nam bằng quyết định cao thượng của mình. Đại diện phía Việt Nam
là nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt, một nhà lãnh đạo tài ba của Việt Nam thời hòa
bình. Nhờ hai tấm lòng cao thượng này, quan hệ ngoại giao Việt Nam và Hoa Kỳ đã
được xác lập lần đầu tiên vào ngày 3/7/1995.
Tổng thống Bill Clinton đã đến Việt Nam vào 17/11/2000, sau đó vào
những năm 2006, 2010 và 2015, đánh dấu 20 năm quan hệ song phương giữa hai nước
Hoa Kỳ - Việt Nam. Bản lĩnh của vị tổng thống được thể hiện ở chỗ: một số vị cố
vấn khuyên tổng thống Clinton đừng nên chạm vào vấn đề Việt Nam vì đây là nỗi
khổ của trên 58 ngàn gia đình người Hoa Kỳ có con em bỏ mạng tại cuộc chiến
Việt Nam. Việc thiết lập quan hệ với Việt Nam không có ích lợi gì. Tuy nhiên,
ông Clinton không nghĩ như thế. Ông muốn lập lại quan hệ bình thường với Việt
Nam, kết thúc cuộc chiến tranh lạnh, để nhân dân hai nước được gặp gỡ nhau, ôm
nhau vào lòng. Nhờ tổng thống Bill Clinton mà từ năm 1995 cho tới năm 2016 quan
hệ Việt Nam và Hoa Kỳ mới thực sự trở lại bình thường.
Hóa giải hận thù là một tiến trình rất lâu dài, đối với Hoa Kỳ và
Việt Nam là 41 năm. Hận thù phân hóa dân tộc giữa những người Việt Nam do bất
đồng ý thức hệ chính trị, một bên là Việt Nam cộng sản, một bên là Việt Nam
cộng hòa; một bên ở hải ngoại và một bên ở trong nước, có lẽ chưa thể kết thúc
sau khi Hoa Kỳ tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Đó là một nỗi
đau.
Trong 4 lần thuyết giảng Phật pháp tại Hoa Kỳ từ năm 2004, mỗi lần
trung bình 2 tháng rưỡi; hai lần thuyết pháp tại Úc châu, từ năm 2000 tới nay,
mỗi lần 2 tháng rưỡi, 3 lần thuyết pháp tại châu Âu cho cộng đồng người Việt,
thuộc 11 giáo hội Phật giáo của Việt Nam ở nước ngoài, tôi cảm nhận rất rõ
những hận thù giữa những người Việt Nam với nhau chỉ về những bất đồng về ý
thức hệ chính trị.
Tổng thống thứ 4 tới Việt Nam là George W Bush. Ông có mặt tại
Việt Nam nhân sự kiện APEC vào những ngày 17-20/11/2006. Ông tham gia các diễn
đàn APEC chính, ở đó ông đã đưa ra quyết định quan trọng của chính phủ Hoa Kỳ:
cho phép Việt Nam được chính thức trở thành thành viên của WTO. Từ đó, cơ hội
mở cửa cho Việt Nam bắt đầu được ló rạng như vầng thái dương xuất hiện vào buổi
bình minh.
Ấn tượng của người Việt Nam về tổng thống Bush không lớn lắm, ông
đến Việt Nam chỉ vì ông gắn kết với sự kiện APEC. Ngoài ra, không có những động
thái gì quan trọng từ phía tổng thống Bush như nỗ lực của tổng thống Bill Clinton,
tiền nhiệm của mình, hoặc như nỗ lực của tổng thống Obama, người kế nhiệm mình.
Ba
Tổng thống Mỹ đến Việt Nam sau năm 1975:
Bill
Clinton, George W. Bush và Barack Obama
Tổng thống thứ 5 của Hoa Kỳ là Barack Obama đã tới Việt Nam vào
các ngày 22-25/5/2016. Chuyến thăm của tổng thống Obama được xem là thành công
lớn nhất, để lại những ấn tượng thân thiện nhất về hình ảnh của người đứng đầu
cao nhất của Hoa Kỳ đối với đất nước và con người Việt Nam. Chúng ra rất khó có
thể tìm thấy được một sự thân thiện nào đặc biệt hơn đối với tổng thống Barack
Obama. Ngay cả tổng thống Bill Clinton, một người rất thân thiện, cởi mở, đã có
những “nỗ lực hòa giải giai đoạn một”, cũng chưa nhận được sự đón chào nồng
nhiệt của người Việt Nam trong nước, cũng như sự theo dõi đặc biệt của trên
dưới 3 triệu người Việt Nam tại hải ngoại như lần này.
Tổng thống Barack Obama đã mang lại cho Việt Nam một cơ hội mở cửa
hợp tác từ phía Hoa Kỳ và thế giới về phương diện chính trị, quốc phòng, kinh
tế, giáo dục và nhiều phương diện khác. Bằng cách này, chính sách trục xoay
sang châu Á của Hoa Kỳ do tổng thống Obama khởi xướng đã trở thành hiện thực
tại Việt Nam. Đó là quyết định và chủ trương rất sáng suốt của vị tổng thống
này.
Cuộc gây hấn của Trung Quốc đối với Việt Nam trong những năm trở
lại đây là một rủi ro mà Việt Nam phải hứng chịu từ sự bành trướng bá quyền của
Trung Quốc. Nhưng đó là một cơ hội “trong họa có phước” để Việt Nam và Hoa
Kỳ trở thành hai đối tác quan trọng và toàn diện như ngày hôm nay. Rủi ro
nào cũng tạo cơ hội mở cửa cho một cơ hội mới. Đó là cái nhìn tương tức, phiền
não tức bồ đề của đạo Phật.
Tổng thống Obama đã tự sự: “Tôi là tổng thống đầu tiên đã
trưởng thành sau cuộc chiến giữa hai nước”. Vào thời điểm năm 1975, tổng
thống Obama mới 13 tuổi. Ông đã tiếp xúc với người Việt Nam tại thành phố
Hawai, nơi ông được sinh ra và lớn lên. Người Việt Nam tại Hawaii để lại trong
ông ấn tượng rất tích cực, tốt đẹp về những người thành đạt, thân thiện. Trong
những năm làm tổng thống, ấn tượng đó tiếp tục tích cực được nuôi lớn.
Hai đứa con xinh xắn của ông cũng như rất nhiều người tới tham gia
bữa tiệc do phía Việt Nam tổ chức đều là những người lớn lên khi hai nước Việt
Nam và Hoa Kỳ đã làm lành với nhau, đã bình thường hóa quan hệ với
nhau. Vì thế họ không cảm nhận được nỗi đau giữa hai dân tộc trong thời kỳ cuộc
chiến Việt Nam khốc liệt và trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Tổng thống Obama
khẳng định: “Tôi đã ý thức về quá khứ, ý thức về những khó khăn của chúng
ta, nhưng cũng hướng đến một tương lai thịnh vượng, an ninh và nhân phẩm mà
chúng ta cùng nhau thúc đẩy”. Đó là cái nhìn ba chiều thời gian: thấy rõ
quá khứ đau thương như là hậu quả của cuộc chiến, thấy rõ những nỗ lực đang
diễn ra trong hiện tại là rất cần thiết và nhìn thấu được tương lai rất ngời
sáng giữa hai đất nước và hai dân tộc.
Mạnh dạn thừa nhận quá khứ đau thương của hai quốc gia không phải
là điều dễ dàng vì hai tổng thống tiền nhiệm của ông là Johnson và Nixon cho
rằng vai trò lịch sử của họ là phải xóa sổ chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam. Họ
coi việc chủ nghĩa cộng sản lớn mạnh ở Đông dương thông qua địa chính trị Việt
Nam là mối đe dọa, vì vậy việc tham chiến tại Việt Nam thể hiện vai trò chính
trị và trách nhiệm to lớn của Hoa Kỳ, đang khi miền Bắc Việt Nam cho rằng phải
Nam tiến để xóa bỏ sự can thiệp của nước ngoài tại Việt Nam, giành lại độc lập
chủ quyền dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ.
Thực ra, cuộc chiến tranh Việt Nam chỉ là một cuộc chiến về ý thức
hệ. Giờ đây, sau mấy chục năm nhìn lại, chúng ta phải nhận thấy rằng đó là một
cuộc chiến vô nghĩa, để lại quá nhiều các tổn thất. Về phương diện này, Đông
Đức và Tây Đức là bài học đáng được tham khảo, rất tiếc là bài học này diễn ra
sau khi Việt Nam được độc lập. Giá mà sự thống nhất nước Đức hoàn toàn không
mất giọt máu nào diễn ra trước năm 1975 thì Việt Nam đã có một ví dụ điển hình
về hòa giải dân tộc để tham khảo.
Theo Phật giáo, xây dựng tinh thần hữu nghị ở hiện tại quyết định
tương lai ngời sáng của chúng ta. Quá khứ phải khép lại, vì đau thương không
xứng đáng để chúng ta nhớ đến hoài trong ký ức. Đức Phật dạy: “Quá khứ đã
qua rồi, chỉ có pháp hiện tại. Chánh pháp chính là đây, không động
không lung lay, vì thế nên tu học.” Đó là chủ trương “thiết thực hiện tại”
của đức Phật. Các nguyên thủ của Hoa Kỳ và Việt Nam đã nhìn thấy quan điểm
thiết thực hiện tại này nên đã nỗ lực cùng nhau khép lại rất thành công những
đau thương của quá khứ hai nước
2. Lịch sử quan hệ giữa
Hoa Kỳ và Việt Nam
Có lẽ trong các bài diễn văn của các tổng thống Hoa Kỳ tại Việt
Nam, bài diễn văn của tổng thống Obma là sâu sắc nhất, gần gũi nhất, chạm đến
trái tim của dân tộc Việt Nam nhất. Nội dung bài diễn văn đã trích dẫn văn hóa
Việt Nam, thơ văn Việt Nam, lịch sử Việt Nam. Có lẽ không ông tổng thống tiền
nhiệm nào của Hoa Kỳ làm được như thế. Người ta phải ghi nhận công lao của chị
Elizabeth Phú, 40 tuổi, cố vấn Hội đồng an ninh quốc gia của Nhà Trắng, đặc
trách về Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra còn có một cây bút đóng vai
trò chấp bút chính cho các bài diễn văn của tổng thống Obama là anh Cody
Keenan, 35 tuổi. Hai nhân vật này cùng nhau nghiên cứu lịch sử Việt Nam và tình
hình quan hệ giữa hai nước, viết bài diễn văn rất xuất chúng của tổng thống
Barak Obama. Tổng thống Obama thừa nhận rằng cả hai nước đã lãng quên một sự
kiện rất quan trọng, đó là hơn 200 năm trước đây, Thomas Jefferson, nhà lập
quốc Hoa Kỳ đã đến Việt Nam trên chuyến du hành của ông và đã thưởng thức cái
mà ông gọi là “gạo trắng thơm ngon và cho
năng suất cao nhất” tại Việt Nam. Khi trở về Hoa Kỳ, qua những miêu tả của
ông, những đoàn thương buôn Hoa Kỳ đã cập cảng Việt Nam, gián tiếp tạo ra mối
quan hệ giữa hai nước trong hòa bình: mua gạo Việt Nam đem về phục vụ cho nhân
dân Hoa Kỳ. Sự kiện lịch sử này không phải ai cũng biết. Thomas Jefferson
mở đầu quan hệ ngoại giao giữa hai nước Hoa Kỳ và Việt Nam bằng con đường giao
thương.
Tổng thống Obama đã kể lại một sự kiện không kém quan trọng khác.
Vào thế chiến thứ 2, Hoa Kỳ đã giúp Việt Nam chống lại giặc ngoại xâm, ở đây là
Pháp và Nhật. Sự kiện đó chúng ta không thể quên được. Nhờ sự giúp đỡ của Hoa
Kỳ mà chủ nghĩa phát xít Nhật đã không thể tồn tại lâu dài ở Việt Nam. Hơn một
triệu người Việt Nam đã bị chết do chủ nghĩa phát xít Nhật ở miền Bắc mà không
có đài tưởng niệm, đang khi một trăm mấy chục ngàn người Nhật bị
chết bởi hai quả bom nguyên tử của Hoa Kỳ tại hai thành phố Hiroshima và
Nagasaki đã có công viên hòa bình, viện bảo tàng hòa bình và đài tưởng niệm rất
trịnh trọng.
Tượng
đài chiến sĩ Mỹ-Việt (California, Mỹ), Công viên Hòa Bình (Hiroshima, Nhật)
và
Tượng đài Mỹ Lai (Quảng Ngãi, Việt Nam)
Kết thúc chuyến thăm tại Việt Nam, các ngày 25-26-27/5/2016, tổng
thống Obama đã có mặt tại Nhật Bản, thăm viếng thành phố Hiroshima, nhưng tuyệt
đối không nói lời xin lỗi đất nước này. Chúng ta phải thấy vai trò của Hoa Kỳ
trong thế chiến thứ hai là góp phần cùng đồng minh kết thúc cuộc thế chiến do
Đức-Ý-Nhật khởi xướng trên toàn cầu. Vai trò đó là rất lớn. Nếu không có sự
tham gia của Hoa Kỳ thì các nước phát xít Đức-Ý-Nhật vẫn tiếp tục bành trướng
trên toàn cầu, gieo rắc tang thương và chết chóc. Có đáng lên án là lên án “tử
thần trên trời” dưới hình thức bom nguyên tử, đã dẫn đến cái chết tập thể của
những người dân vô tội. Thực tình mà nói, nếu không có hai quả bom nguyên tử
đau thương này thì Nhật đã không đầu hàng vô điều kiện 6 ngày sau đó. Chúng ta
phải thấy rõ sự kiện đó để thấy được đóng góp to lớn của Hoa Kỳ trong việc chấm
dứt thế chiến thứ 2, do Nhật gây ra ở châu Á. Tổng thống Obama đã chọn lập
trường không nói lời xin lỗi với đất nước Nhật Bản. Thủ tướng và hoàng gia Nhật
bản cũng không có kỳ vọng nhận lời xin lỗi vì họ thừa nhận rằng họ đã mang lại
khổ đau cho châu Á, mà một trong những nạn nhân nặng nhất của chủ nghĩa phát
xít tại châu Á là Việt Nam.
Tổng thống Obama nhắc lại rằng trong lúc giúp Việt Nam thoát khỏi
giặc ngoại xâm Pháp và Nhật thì những chiếc máy bay của Hoa Kỳ đã bị bắn rơi.
Người Việt Nam đã đến cứu các phi công Hoa Kỳ bị gặp nạn. Đó là cách ôn lại
lịch sử rất khéo léo, để cho thấy trong quá khứ có ít nhất hai sự kiện rất thân
thiện mà các đời tổng thống tiền nhiệm của tổng thống Obama đã quên đi, dẫn đến
cuộc chiến Việt Nam rất đau thương.
Sự kiện thứ ba mà Obama dẫn chứng là vào ngày độc lập của Việt Nam
2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ: “Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Các nguyên thủ Việt Nam trong những lần đến
Hoa Kỳ đã nỗ lực thiết lập quan hệ bình thường với Hoa Kỳ, đều trích dẫn câu
phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vốn trích từ Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ.
Điều đó cho thấy các nguyên thủ của Việt Nam đã ý thức được vai trò của Hoa Kỳ,
nếu Hoa Kỳ bật đèn xanh cho Việt Nam thì thế giới này không còn cô lập Việt Nam
nữa. Cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã khiến cho các tổng
thống Hoa Kỳ tiền nhiệm không đủ mạnh dạn để làm như thế. Chiến tranh lạnh đã
diễn ra hai chục năm 1975-1995, Việt Nam bị bế quan tỏa cảng, nghèo cùng, lạc
hậu chưa từng có trong lịch sử của đất nước này.
Trong bài diễn văn, tổng thống Obama đề cập tới sự đối đầu giữa
hai nước như sau “Sự đối đầu trong chiến tranh lạnh và nỗi lo sợ về chủ
nghĩa cộng sản đã đẩy chúng ta tới xung đột”. Đây là sự thật rất cay đắng.
Obama thừa nhận nỗi đau của chiến tranh gây ra và để lại bất hạnh lâu dài cho
cả hai phía: “Chiến tranh, cho dù mục đích của mỗi bên có là gì đi chăng
nữa, cũng chỉ đem lại đớn đau và bi kịch cho hai bên”. Chỉ có tổng thống Barack
Obama nói mạnh dạn như thế. Tổng thống Bill Clinton cũng đưa ra thông điệp đó,
nhưng không ấn tượng như những lời của tổng thống Obama. Các tổng thống tiền
nhiệm của Hoa Kỳ né tránh vấn đề Việt Nam vì coi đó là nỗi nhục của một siêu
cường quốc, có công góp phần tạo ra hòa bình thế giới nhưng lại bị thảm bại
trước một đất nước Việt Nam nhỏ bé, lạc hậu về kinh tế, thô sơ về vũ khí.
Chỉ người có tấm lòng lớn mới dám đề cập những vấn đề mà rất nhiều
người tránh né, không muốn nhắc đến. Chúng ta thấy cuộc chiến tranh Việt Nam
mang lại tàn khốc, đổ máu, tang thương, phân hóa dân tộc vài thập niên, thậm
chí có thể kéo dài vài thế kỷ. Chưa chắc vết thương chiến tranh có thể hàn gắn
một cách trọn vẹn. Thiết lập quan hệ bình thường, toàn diện với Việt Nam chỉ là
giai đoạn một, hai nước Hoa Kỳ và Việt Nam còn vài thập niên ở phía trước để
hàn gắn những vết thương tàn dư. Cũng giống như Hoa Kỳ và Nhật Bản đã nỗ lực
hàn gắn vết thương chiến tranh trong vòng 7 thập niên, vậy mà cho tới tận bây
giờ vẫn còn những trục trặc, mặc dù hai bên đã trở thành đồng minh quân sự. Obama
là người phá kỷ lục về bình thường hóa quan hệ với các nước có chiến tranh lạnh
với Hoa Kỳ vì ông là tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên đến Nhật Bản sau năm 1945.
Chiến tranh lạnh tạo ra những hiềm khích giữa con người với con
người là rất lớn, là rất khó vượt qua. Đạo Phật cho rằng không có gì là không
làm được, không thể vượt qua, nếu chúng ta nêu ra cam kết lớn, chí nguyện lớn,
được dẫn dắt bởi lòng từ bi lớn. Tương tự, những hiểu lầm, oan trái, khúc mắc,
hiềm khích giữa mình với người thân trong quan hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái,
anh chị em, bà con làng xóm, đối tác…. cũng nên bắt chước các nguyên thủ quốc
gia của Hoa Kỳ và Việt Nam để tháo mở và kết thúc, vì điều đó có lợi ích cho
đôi bên.
Nỗi đau của cuộc chiến Việt Nam kéo theo sự bỏ mạng của 3 triệu
người lính và dân thường ở cả hai phía Việt Nam cộng sản và phía Việt Nam cộng
hòa. Các chiến sĩ chết một cách tức tưởi ở các chiến trường, mà hiện nay xác
của nhiều người tội nghệp đó vẫn còn bị mất tích, chưa tìm được. Về phía Hoa
Kỳ, 58,315 người lính đã hy sinh. Cả hai bên vẫn đau đáu vì những người thân đã
mất vĩnh viễn.
Năm 2007, lần đầu tiên sau 39 năm lưu vong, thiền sư Nhất Hạnh về
Việt Nam, nỗ lực cùng lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thiết lập ba trai
đàn chẩn tế ở miền Nam, miền Trung, miền Bắc. Lúc đó tôi là phó ban tổ chức của
chuyến đi tại thành phố Hồ Chí Minh, thấy rất rõ những nỗ lực cao quý của thiền
sư Nhất Hạnh trong việc hóa giải những hận thù, hiềm khích, những đau thương
của thời hậu chiến. Cần nói thêm rằng trước năm 1966 ở Việt Nam, sau 1966 ở Hoa
Kỳ và sau đó sang Pháp lập Làng Mai, thiền sư Nhất Hạnh không chủ trương cúng
trai đàn chẩn tế và cũng không thực hiện những nghi thức cầu siêu. Việc lập
trai đàn vào năm 2007 có mục đích xóa đi những hiềm khích của thế hệ con cháu
của hai phía tham chiến tại Việt Nam, con cháu của những nạn nhân đã chết trong
chiến tranh Việt Nam. Việc hóa giải hận thù đó rất ấn tượng. Những thành phần
đại diện cho con cháu của hai phía đều có mặt trong chánh điện chùa Vĩnh Nghiêm
lắng nghe ý nghĩa cầu siêu, ý nghĩa xóa bỏ hận thù, khép lại quá
khứ, xây dựng tình thân, hướng tới tương lai tươi sáng cho cả hai bên.
Năm
2007, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh về Việt Nam để tổ chức
ba
lể Đại Trai Đàn Chẩn tế tại ba miền đất nước.
Cả người Việt lẫn người Hoa Kỳ đều phải thừa nhận nỗi đau và sự hy
sinh của cả hai phía. Bên nào cũng nói mình là chính nghĩa và có lý do để tham
gia cuộc chiến Việt Nam. Nguyên thủ nước Hoa Kỳ khi đó nghĩ rằng đất nước Việt
Nam là mọi rợ, tàn ác; chủ nghĩa cộng sản đang giày xéo đất nước này, cho nên
họ kêu gọi trên 58,000 thanh niên Hoa Kỳ thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, vì lý
tưởng tự do cho Việt Nam mà đến để sẵn sàng chết trên chiến trường Việt Nam.
Cha mẹ và thân nhân của các chiến sĩ này dần dần nhận ra rằng cuộc chiến đó là
vô nghĩa, chỉ vì bất đồng ý thức hệ chính trị của các nguyên thủ. Họ bị đẩy vào
các cuộc chiến và chết trong cuộc chiến. Vì thế các cuộc biểu tình đã nổ ra tại
các thành phố lớn ở Hoa Kỳ nhằm kêu gọi hòa bình cho Việt Nam.
Năm 1966 thiền sư Nhất Hạnh được Giáo hội Phật giáo lúc đó biệt
phái sang Hoa Kỳ kêu gọi hòa bình được thiết lập tại Việt Nam. Tác phẩm “Hoa sen trong biển lửa” của thiền sư
Nhất Hạnh bằng tiếng Việt và bằng tiếng Anh đánh dấu nỗ lực to lớn mà ngay sau
đó mục sư Luther King đã đề cử thiền sư Nhất Hạnh nhận giải Nobel hòa bình vào
năm 1968, mặc dù sự đề cử đó không thành công.
Chúng ta thấy, quan hệ chính trị, ngoại giao giữa Hoa Kỳ với Việt
Nam như vừa nêu là một mối quan hệ rất phức tạp. Lúc đầu là bạn, sau năm 1945
là kẻ thù, và từ năm 1995 chúng ta đang nỗ lực trở thành bạn của nhau. Đến
24-5-2016, Hoa Kỳ và Việt Nam mới thật sự là bạn trọng vẹn.
Tổng thống Barack Obama đã thừa nhận sự tiến bộ của Việt Nam. Ông
phát biểu như sau: “Hai thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn
lao.”Hoa Kỳ khi thiết lập bình thường hóa quan hệ với bất kỳ nước nào bao
giờ cũng có những điều kiện tiên quyết, có lợi về chính trị và tôn giáo cho họ
và đương nhiên là cũng có lợi cho Việt Nam. Thừa nhận là Việt Nam có tiến bộ to
lớn, đổi mới về kinh tế, Hoa Kỳ đã bắt đầu thiết lập quan hệ hiệp thương để
giúp cho nền kinh tế Việt Nam được tăng trưởng nhanh. Nay Việt Nam là một trong
những nước tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong khu vực châu Á. Hiện nay Việt
Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình.
Sau 1975 Việt Nam nghèo cùng và khó khăn. Phần lớn thính giả trong
khóa tu tại Chùa Giác Ngộ hôm nay là các Phật tử U40 tuổi trở lên, đều đã từng
trải qua cái nghèo, cái khổ của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh lạnh, do Hoa
Kỳ cấm vận. Hoa Kỳ lúc đó là nước khổng lồ nhưng rất tệ bạc trong ứng xử, đã
cấm vận Việt Nam. Theo đó, không nước nào trên thế giới giao thương, hợp tác
với Việt Nam, đẩy Việt Nam vào tình thế nghèo khó chưa từng có trong lịch sử.
Tổng thống Obama thừa nhận rằng ở Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố
lớn, các nhà tòa nhà chọc trời, các tòa nhà cao đã xuất hiện, có nước sạch, trẻ
em, đặc biệt là trẻ em gái được đến trường. Trình độ biết chữ của Việt Nam cao
hơn nhiều nước nghèo ở châu Á, châu Phi. Tất cả mọi chỉ số phát triển kinh tế,
xã hội được tăng lên. Đó là nhờ tiến bộ của giai đoạn đầu mà nguyên tổng thống
Bill Clinton và nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã gây dựng vào năm 1995. Chúng ta
cần ghi nhận công đức của hai vị nguyên thủ này.
3. Đối thoại chân thành
vì hòa bình
Ấn tượng nhất trong bài diễn văn, tổng thống Obama đã trích dẫn
một câu nói nổi tiếng của thiền sư Nhất Hạnh: “Bằng đối thoại chân thành, cả
hai bên đều sẵn sàng thay đổi”. Điều đó được thiền sư Nhất Hạnh đề xuất
trong tác phẩm “Hoa sen trong biển lửa” năm 1966 và chủ chương này của
thiền sư Nhất Hạnh đã được nhất quán trong mấy chục năm làm đạo trên toàn cầu.
Sau năm 1975 ở miền Nam có xuất bản tác phẩm “Vạch mặt những con thò lò chính trị tại miền Nam Việt Nam” mà tác
giả của nó là giáo sư Trần Văn Giàu, một nhà mác-xít vĩ đại nhất ở miền Nam
Việt Nam. Trong tác phẩm đó, tác giả đã giành cho thiền sư Nhất Hạnh một chương
gần 50 trang, nhiều gấp hai các nhân vật mà ông cho là con thò lò chính trị ở
Việt Nam.
Năm 2005, trước chuyến về của thiền sư Nhất Hạnh, giáo sư Lê Mạnh
Thát và tôi đã đến thăm giáo sư Trần Văn Giàu, thỉnh mời giáo sư đến nghe thiền
sư Nhất Hạnh thuyết giảng để có thể hiểu và vượt qua những oan trái với nhau.
Giáo sư Trần Văn Giàu thừa nhận những nhận xét sai lầm của mình về thiền sư
Nhất Hạnh, nhưng vì những lý do tế nhị và tuổi cao ông đã không thể đến dự các
buổi thuyết giảng của thiền sư Nhất Hạnh. Ông dẫn chúng tôi xem từng lầu nhà
mình. Ở tầng trệt, ông thờ chủ tịch Hồ Chí Minh, lầu một ông thờ Lê nin, lầu 2
ông thờ Khổng Tử, và lầu cuối cùng, ông thờ đức Phật Thích Ca. Ông nói với
chúng tôi rằng: “Hai thầy hãy tự đánh giá, tôi không cần giải thích”. Ở chừng
mực nào đó, ông đã giải tỏa được những ngộ nhận của ông khi viết về thiền sư
Nhất Hạnh trong tác phẩm nêu trên và ông bày tỏ lòng tôn kính đức Phật.
Có giai đoạn tại Việt Nam sau năm 1975 cho đến năm 1989, sách của
thiền sư Nhất Hạnh bị cấm tại tất cả các thư viện trong nước, bị cấm đọc trong
tất cả các chùa, mặc dù không bằng văn bản, chỉ vì một lý do duy nhất: thiền sư
Nhất Hạnh kêu gọi đối thoại chân thành và kêu gọi thiết lập hòa bình bằng hòa
đàm, đang khi lúc đó Hoa Kỳ và Việt Nam đều muốn giải quyết bất đồng bằng chiến
tranh.
Hòa đàm là chủ trương của Liên Hợp Quốc nhằm giải quyết các tranh
chấp và bất đồng, rất phù hợp với thông điệp từ bi, trí tuệ và hòa bình của đức
Phật Thích Ca. Lúc đó, Việt Nam cần thống nhất đất nước, chủ trương phản chiến
của thiền sư Nhất Hạnh được tác giả Trần Văn Giàu với tư cách là một nhà
mác-xít cho rằng đó là đà cản nguy hại, cho nên phía cộng sản cho rằng thiền sư
Nhất Hạnh là cánh tay nối dài của Hoa Kỳ, đang khi Hoa Kỳ cho rằng thiền sư
Nhất Hạnh là cộng sản. Thiền sư bị cả hai phía dồn vào thế phải lưu vong. Từ
năm 1966 thiền sư không được phép quay về Việt Nam. Sống ở Hoa Kỳ quá ngột
ngạt, thiền sư Nhất Hạnh phải định cư tại Pháp, thành lập làng Mai.
Trích dẫn câu nói của thiền sư Nhất Hạnh trong bối cảnh chiến
tranh đau thương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là vô cùng có ý nghĩa. Thiền sư là
người Việt Nam vĩ đại, nỗ lực kêu gọi hòa bình cho Việt Nam, bắt đầu từ đất
nước Hoa Kỳ. Tổng thống Obama khẳng định: “Cuộc chiến chia rẽ chúng ra,
nhưng lại trở thành nguồn cội để hàn gắn cho cả hai bên.” Đây là cái nhìn
tương tức của Phật giáo: Trong bùn có hoa sen, trong nỗi khổ niềm đau có hạnh
phúc, trong phiền não có bồ đề. Phải nói rằng đó là cái nhìn rất đạo Phật. Đó
là cách tốt đẹp để Hoa Kỳ và Việt Nam dễ dàng khép lại quá khứ đau thương. Nếu
không có cái nhìn tương tức đó, hai bên tiếp tục trở thành nạn nhân của nhau,
chỉ chất chứa toàn hận thù. Thông thường, chúng ta dễ nhớ lại những kỷ
niệm đau buồn nhiều hơn những kỷ niệm đẹp về nhau trong mối quan hệ giữa các cá
nhân, tập thể này với tập thể khác, liên minh này với liên minh. Cứ nghiêm túc
đánh giá các mối quan hệ, chúng ta sẽ thấy là chúng ta đã từng có những mối
quan hệ tốt đẹp với nhau. Vì hiểu lầm, vì ứng xử tệ, vì những hành động thiếu
khôn ngoan của một bên, hoặc cả hai bên, đã đẩy chúng ta vào tình thế khổ đau
và chúng ta cần nỗ lực đúng cách để sớm khép lại khổ đau.
Tổng thống Obama đã nhắc đến những nỗ lực hàn gắn bằng đối thoại,
từ đối thoại tiến đến những nỗ lực rất cụ thể. Việt Nam đã giúp Hoa Kỳ tìm kiếm
những chiến sĩ Hoa Kỳ bị chết và mất tích trong cuộc chiến Việt Nam. Phần lớn
trong số 58000 binh sĩ Hoa Kỳ đã được về lại với quê hương và đoàn tụ với người
thân của họ. Đó là việc làm mang tính hợp tác tích cực lớn. Tổng thống Bill
Clinton là người có công lớn nhất về việc truy tìm và hồi hương hài cốt lính
Hoa Kỳ. Ông xắn ống quần lên, cùng với những người Việt Nam lội dưới bùn, vào
rừng để tìm kiếm xác của những binh sĩ Hoa Kỳ. Theo luật Hoa Kỳ, nếu không có
bằng chứng tử vong thì lính chết vẫn được xem là mất tích và chính phủ Hoa Kỳ
phải trả lương cho gia đình họ hàng tháng. Cuộc chiến đã kết thúc mấy chục năm,
nhưng chính phủ vẫn phải trả lương cho những người chưa tìm được xác. Đó là
trách nhiệm đạo đức của chính phủ.
Hoa Kỳ là nước phần lớn theo Tin lành, một số khác theo Thiên chúa
giáo, vốn không tin về kiếp sau, nhưng họ vẫn rất trân quý những tro cốt còn
sót lại sau khi giám định ADN để bày tỏ lòng thương nhớ sâu sắc đối với những
người đã khuất.
Người Việt Nam là nạn nhân của chiến tranh Việt Nam. Số lượng
người Việt Nam chết là 3 triệu, đang khi hơn 58000 người Hoa Kỳ tử trận là con
số rất nhỏ, so với tổn thất nhân mạng của Việt Nam. Việt Nam đã cao thượng bỏ
qua hận thù. Hoa Kỳ đã hồi đáp lại ứng xử buông bỏ hận thù, bằng cách nỗ lực
giúp Việt Nam tháo dỡ các bom mìn còn sót lại trên mảnh đất miền Nam này. Hơn
một thập niên trước, Hoa Kỳ cũng đã nỗ lực loại bỏ chất độc dioxin tại phi trường
Đà Nẵng, tốn kém hàng chục triệu Hoa Kỳ kim. Phải tốn đến cả tỉ Hoa Kỳ kim mới
có thể xóa sạch toàn bộ chất dioxin trên chiến trường Việt Nam mà Hoa Kỳ đã thả
trong những năm cuộc chiến tàn khốc nhất diễn ra trên đất nước Việt Nam.
Sắp tới, Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam tiêu hủy dioxin ở Biên Hòa. Cần
có những giai đoạn, những bước đi một. Các chuyên gia đánh giá rằng phải mất
100 năm nữa, nỗ lực có bài bản này mới giúp Việt Nam tiêu sạch chất độc dioxin.
Mấy trăm ngàn người Việt Nam đã chết bởi chất độc này, hiện nay mấy trăm ngàn
người Việt Nam tiếp tục chịu ảnh hưởng của chất độc này qua thế hệ thứ hai, thứ
ba, thứ tư và thậm chí có thể đến thế hệ thứ mười vẫn tiếp tục còn bị ảnh
hưởng. Việc Hoa Kỳ thả xuống chiến trường Việt Nam các chất độc da cam là vô cùng
tàn ác, vô cùng bất nhẫn.
Tổng thống Obama đã nhắc đến nhân vật nguyên là tù chính trị của
Hoa Kỳ tại Việt Nam lâu nhất. Đó là thượng nghị sĩ John McCain. Ngoài các tổng
thống Barack Obama và Bill Clinton, George Bush, McCain là người thứ tư có công
trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Ông là người lái
trực thăng và bị bắn rơi, bị bỏ tù, bị đánh đập tàn nhẫn trong trại giam tại
miền Bắc. Nhưng rồi ông đã vượt qua chính mình, thông cảm với người Việt Nam.
Ông cảm nhận được nỗi đau của mấy triệu người Việt Nam đã chết và Việt Nam cần
phải độc lập đất nước. Quý trọng việc đó, thay vì hận thù như nhiều cựu chiến
binh Hoa Kỳ, ông đã bày tỏ tình thương sâu đậm đối với Việt Nam bằng những nỗ
lực vận động Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
John McCain có lần đến gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp khi vị đại
tướng này còn khỏe tại tư gia. Ông đã kêu gọi hai nước cần xóa đi hận thù. Hồi
đáp lại, đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu: “Hai nước không nên cứ là kẻ
thù mà hãy là bạn của nhau”. Tất tiếc đại tướng Võ Nguyên Giáp không phải
là nguyên thủ quốc gia, cho nên tiến trình xóa bỏ hận thù đó bị chậm đi. Cũng
rất tiếc John McCain không phải là tổng thống Hoa Kỳ. Nếu McCain và Võ Nguyên
Giáp là các nguyên thủ quốc gia thì việc bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam đã có thể diễn ra sớm hơn, chứ không phải là 41 năm sau chiến tranh
lạnh. Dù sao, nỗ lực của hai vị này rất đáng trân trọng, như một đoạn đường
quan trọng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Hải
quân Trung úy phi công John McCain (1967) và lời chia buồn (2013):
“Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã qua đời – Là một chiến lược gia quân sự xuất sắc,
ông
đã từng nói với tôi rằng chúng ta là một “kẻ thù đáng kính trọng” tại Việt Nam”
Chúng ta cũng không thể quên những đóng góp của các cựu chiến binh
của Hoa Kỳ đã nỗ lực giúp đỡ hai chính phủ hàn gắn vết thương chiến tranh, xây
dựng mối quan hệ hữu nghị mới. Đó là điều mà tổng thống Barack Obama gọi là “lòng
quả cảm vươn đến hòa bình”. Yêu hòa bình, vận động hòa bình và bình thường
hóa là một bản lĩnh. Hướng đến hòa bình là một bản lĩnh, mà không phải ai cũng
làm được. Chúng ta bị tắc nghẽn bởi hận thù, chúng ta bị tắc nghẽn bởi oan
trái, bởi cái nhớ dai, nhớ dài, nhớ dở. Chúng ta bị tắc nghẽn bởi dòng cảm xúc
và ký ức tiêu cực của chúng ta đối với nỗi khổ niềm đau trong quá khứ. Có bản
lĩnh, mà nói theo đức Phật là có sức mạnh từ bi, có bản lĩnh lớn và trí tuệ
lớn, sẽ giúp chúng ta khép lại khổ đau, vươn tới hạnh phúc, hướng tới hòa bình.
4. Hai cựu thù trở thành
đối tác
Kể từ khi thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam vào tháng 7
năm 1995, chúng ta thấy thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng
mạnh. Tính đến thời điểm năm 1995, nhờ Bill Clinton, thương mại giữa hai nước
đã đạt được 200 triệu đô la Hoa Kỳ. Hai mươi năm sau đó, vào năm 2015, thương
mại giữa hai bên đạt được 43.5 tỉ Hoa Kỳ kim/ năm, một con số cực kỳ lớn. Bắt
đầu từ năm 2016 này, thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam có thể tăng lên 50
tỉ,100 tỉ, 200 tỉ và có thể lớn hơn nữa trong tương lai. Điều này cực kỳ có lợi
cho hai nước, chứ không chỉ có lợi cho Việt Nam, như Donald Trump đã nói một
cách rất tiêu cực trong thời gian vận động làm ứng viên tổng thống Hoa Kỳ.
Barack Obama đã nhắc tới những sự kiện học hỏi nhau rất khéo léo:
“Sinh viên, học giả Việt Nam và Hoa Kỳ đã học hỏi lẫn nhau.” Thật
ra, giáo dục Việt Nam còn lạc hậu. Nền giáo dục của Hoa Kỳ là đỉnh cao của thế
giới. Ông Obama rất khiêm tốn, nói rằng Hoa Kỳ học hỏi ở Việt Nam, Việt Nam học
hỏi ở Hoa Kỳ. Đó là sự tôn trọng độc lập chủ quyền Việt Nam về giáo dục. Trung
Quốc ứng xử rất tệ bạc, giang hồ, ma mãnh đối với Việt Nam. Tổng thống Obama
cũng thừa nhận rằng sinh viên Việt Nam đến Hoa Kỳ học đông nhất so với sinh
viên của các nước Đông Nam Á. Việt Nam đã có lịch sử du học tại Hoa Kỳ từ giai
đoạn nội chiến của Việt Nam. Nhờ du học ở Hoa Kỳ, nhiều nhân tài đã trở về
phụng sự cho đất nước.
Năm 1995, cựu tổng thống Bill Clinton đã nhắc lại chuyện con của
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Hoa Kỳ học, một sự kiện hiếm Iixảy ra ở các
nước xã hội chủ nghĩa. Ông Nguyễn Tấn Dũng được xem là thủ tướng có tinh thần
cởi mở, đứng sau nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt. Con rể của thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng là con trai của một quan chức cao cấp của Việt Nam Cộng hòa. Chuyện đó là
tối kỵ về lý lịch trong đảng cộng sản. Đó là cách thiết lập quan hệ bình thường
giữa hai nước và hai ý thức hệ chính trị bằng con đường hôn nhân. Xưa kia các
vị vua khi muốn lập hòa bình với các lân bang thì thường thông qua con đường
hôn nhân, gả công chúa đẹp nhất của nước mình cho quý quốc để thiết lập hòa
bình. Việc đó không dễ làm dưới thể chế xã hội chủ nghĩa, nếu không có bản lĩnh
lớn.
Tổng thống Barack Obama kêu gọi: “Trải qua bao nhiêu năm quan
hệ căng thẳng giữa hai nước, nay đòi hỏi những nỗ lực rất to lớn, từ quan hệ
đối tác chiến lược dẫn đến quan hệ đối tác toàn diện.” Thực ra theo Obama,
đó chỉ là giai đoạn đầu và còn ít nhất là vài thập niên nữa, hai bên tiếp tục
cải thiện quan hệ của nhau. Giống như Hoa Kỳ đã làm việc đó với Nhật Bản rất
thành công. Những nỗ lực tích cực của các nguyên thủ hai nước theo Obama là khó
có thể tưởng tượng được và sẽ trở thành tấm gương quý giá cho thế giới tham
khảo: “Kinh nghiệm của chúng ta sẽ là bài học cho cả thế giới vào thời điểm
mà nhiều cuộc xung đột vô cùng nan giải, dường như không có hồi kết. Chúng ta
đã minh chứng rằng trái tim có thể thay đổi và rằng một tương lai khác sẽ đến
nếu như chúng ta khước từ làm tù binh của quá khứ”. Đánh giá tích cực này
chứa đựng tinh thần Phật học rất sâu.
Obama đã chia sẻ với các phóng viên của thế giới rằng đi đến đâu
ông cũng mang một tượng Phật nhỏ ở bên mình. Một người theo đạo Tin lành mà
mang tượng Phật theo bên mình không phải là chuyện lấy lòng đạo Phật. Đạo Phật
có quyền hành về chính trị và kinh tế đâu mà lấy lòng? Quyền hành chính trị và
kinh tế thuộc về Thiên chúa giáo, Tin lành giáo, Hồi giáo, chứ không phải Phật
giáo. Obama nghiên cứu đức Phật, ông cảm kích trước minh triết sâu sắc của đức
Phật về đạo đức, nhân đạo, xã hội và hòa bình thế giới. Khó có thể có nhà sáng
lập tôn giáo nào có được cái nhìn tương tự như đức Phật Thích Ca. Obama học
Phật giáo gián tiếp qua sách của thiền sư Nhất Hạnh. Ông mời đức Đà Lai Lạt Ma
tới nhà Trắng để trao các giải thưởng cao quý. Về phương diện này, ông còn vượt
trội hơn cả tổng thống Bill Clinton và các tổng thống tiền nhiệm của ông. Đó là
điều rất đặc biệt ở Obama.
Chiến tranh quá khứ đã làm cho chúng ta khổ đau nhiều lắm. Chính
vì thế đức Phật dạy hãy khép quá khứ lại. Người muốn hạnh phúc phải sống trọn
vẹn chánh niệm ở hiện tại. Ai hướng về quá khứ, người đó đang đốt chết hạnh
phúc. Đừng dại dột biến chúng ta trở thành “tù binh của quá khứ” trong các cuộc
chiến tranh lạnh giữa chúng ta và người khác.
Obama tiếp tục phát biểu về nỗ lực hàn gắn thành công của Hoa Kỳ
và Việt Nam: “Chúng ta đã cho thấy hòa bình có thể tốt đẹp hơn chiến tranh
như thế nào. Chúng ta đã minh chứng rằng tiến bộ và nhân phẩm chỉ có thể được
thúc đấy tốt nhất qua hợp tác chứ không phải xung đột. Đó là những gì mà Việt
Nam và Hoa Kỳ có thể minh chứng với thế giới này”. Đây là lời phát biểu hết
sức sâu sắc. Trong các nước cựu thù thì có lẽ Việt Nam và Hoa Kỳ là ví dụ điển
hình nhất. Cả hai đã thành công trong việc xóa bỏ hận thù.
Obama đề nghị hãy xem Hoa Kỳ và Việt Nam là bài học lịch sử về
cách hóa giải hận thù giữa hai nước. Trong khi đó, hận thù giữa cộng đồng người
Việt ở nước ngoài đối với chính thể trong nước vẫn chưa thể xóa được. Rất nhiều
người ở hải ngoại tin rằng việc hóa giải hận thù đó khó có thể xảy ra. Bốn lần
chúng tôi giảng ở Hoa Kỳ có các đề tài “Xóa bỏ hận thù”, “Không có kẻ thù”,
“Chuyển hóa sân hận”, “Hóa giải oan trái”, “Kết thúc nội kết” được chép lại
thành hai quyển sách với tựa đề “Chuyển hóa sân hận” và “Không có kẻ thù”. Các
bài giảng trên đã khiến tôi bị chống đối rất kịch liệt ở Hoa Kỳ. Trong số các
giảng sư tới Hoa Kỳ thuyết giảng, thiền sư Thanh Từ là người bị chống đối lớn
nhất, kế đến là tôi. Tôi kêu gọi xóa bỏ quá khứ, xóa bỏ hận thù, xây dựng tình
thân. Người ta khép tôi vào tội không có thật: “Ông Thích Nhật Từ là cộng sản
nòi, cộng sản nằm vùng, sang Hoa Kỳ làm việc tôn giáo vận, thực hiện nghị quyết
36 của chính phủ Việt Nam. Thời điểm đó, tôi còn không biết Nghị quyết 36 đó là
cái gì nữa!
Năm 2008, có 38 hội đoàn Việt Nam chống cộng cực đoan tại Hoa Kỳ
đã cùng ký vào thông cáo báo chí chống tôi trên kênh truyền hình, trên các tờ
nhật báo, tuần báo, nguyệt san của Việt Nam ở Hoa Kỳ, ở châu Âu, ở Úc, ở Canada.
Về phương diện này, tôi bị chống mạnh hơn thiền sư Thanh Từ.
Nếu tìm kiếm trên mạng google, các vị có thể tìm thấy thông tin
người ta bịa đặt tôi là “thiên tài của cộng sản, 14 tuổi chính thức trở thành
đảng viên đảng cộng sản, đỗ cử nhân tin học ở tuổi 14, được nhà nước đưa đi du
học để sau này về lãnh đạo Phật giáo trong nước, quản lý Phật giáo bằng chủ
nghĩa cộng sản.” Đọc những dòng người ta tâng bốc bịp tôi mà thấy rùng rợn!
Hoa Kỳ và Việt Nam hai cựu thù trở thành đối tác là một hiện thực
lịch sử. Chúng ta và người thân có những oan ức, bất đồng, bế tắc, là thuộc về
nghiệp phàm của con người. Cái gì chúng ta tạo ra được, cái đó chúng ta chuyển
hóa được. Hãy nên tin tưởng điều này để cam kết vượt qua oan trái và vươn lên
hạnh phúc.
5. Các điểm cộng văn hóa
của tổng thống Obama
Có ít nhất 9 điểm cộng văn hóa mà Barack Obama đã để lại trong bài
diễn văn của ông. Về phương diện này, chưa từng có tổng thống Hoa Kỳ nào đã
chạm đến văn hóa Việt Nam, trái tim Việt Nam, tình cảm Việt Nam mạnh mẽ như
tổng thống Barak Obama.
Ông đã nêu ra dẫn chứng cụ thể: “Tôi đã đến thăm phố cổ Hà Nội,
thưởng thức một vài món ngon đặc sắc của Việt Nam. Tôi đã ăn bún chả và uống
bia Hà Nội”. Những từ “bún chả” và “bia Hà Nội” Obama nói bằng tiếng Việt,
tức là ông đã nghiên cứu văn hóa Việt Nam rất cụ thể. Buổi tối khi tổng thống
Obama thưởng thức món bún chả ở quán bún chả Hà Nội là rất đặc biệt.
Ông khẳng định: “Tôi trân trọng những di sản văn hóa lâu đời của
Việt Nam.” Ông nêu ra ví dụ về trống đồng Đông Sơn, vốn được xem là biểu tượng
văn hóa Việt Nam sâu sắc nhất. Ông đề cập đến sông Hồng trên một ngàn tuổi ở
miền Bắc. Ông khẳng định giá trị của những tấm lụa Việt Nam trên thế giới. Ông
nói tới vai trò giáo dục của Văn Miếu ở Hà Nội. Đồng thời, ông cũng đề cập tới
sự kiện người Việt Nam xuống đường biểu tình để kêu gọi chính quyền ở Hà Nội
bảo vệ cây xanh.
Nói khác đi, bài diễn văn của tổng thống Obama đề cập
tới nhiều sự kiện thời sự ở Việt Nam. Ông đề cập đến 36 phố phường ở Hà Nội
trong tác phẩm của Tự lực Văn đoàn, nói về một giai đoạn lịch sử của thời kỳ
Pháp thuộc ở miền Bắc. Ông đề cao vai trò văn hóa của phố cổ Hội An và thành
nội Huế. Kiến thức về văn hóa của Barak Obama là quá tuyệt vời. Ông nói tới
những lời ca của nhạc sĩ Văn Cao và trích nguyên văn: “Từ đây người biết quê người, từ đây người biết thương người”. Đó là
câu kêu gọi cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại biết thương người Việt Nam, biết
thương quê hương Việt Nam, bớt đi hận thù.
Cách thương ở chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có khác nhau.
Có một giai đoạn, cộng sản độc quyền yêu nước và cho rằng chiến thắng 30/4/1975
là chiến thắng của cộng sản. Đến thủ tướng Võ Văn Kiệt ông mới thay đổi tầm
nhìn, ông gọi đó là “cuộc chiến thắng của chúng ta”, trước đó chỉ có khái niệm
“chiến thắng của chúng tôi”, mà “chúng tôi” được hiểu là cộng sản. “Chúng ta”
được hiểu ở đây là toàn thể dân tộc. Chỉ cần thay đổi một khái niệm, chúng ta
mở ra được cả một phương trời mới, xóa đi những mặc cảm của Việt Nam cộng hòa.
Đọc tác phẩm “Bên thắng cuộc” của nhà báo Huy Đức, chúng ta thấy được
nhận thức về vấn đề đó trong suốt mấy chục năm trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Obama trích thơ Nguyễn Du. Ông đề cao triết lý yêu nước của Phan
Chu Trinh. Ông nói về giá trị toán học của Ngô Bảo Châu. Từ lịch sử giai đoạn
xa tới giai đoạn gần, Obama đã chạm tới trái tim người Việt Nam.
Ông đề cao tinh thần bình đẳng giới vốn có từ thời bà Trưng, bà
Triệu, mấy ngàn năm trước. Đó cũng là tinh thần độc lập chủ quyền của Việt Nam
đối với Trung Quốc. Đó là ẩn ý của bức thông điệp mà tổng thống Hoa Kỳ Obama
muốn gửi gắm và người Việt Nam phải xứng đáng làm như thế.
Ông trích thơ nhạc Trịnh Công Sơn “Nối vòng tay lớn” để kêu gọi mở
tấm lòng mình, hiểu thấu suốt trái tim, để nhìn thấu tình người trong mọi chúng
ta. Về phương diện này, Obama đã trở thành nhà hoằng pháp, một nhà tôn giáo,
chứ không chỉ đơn thuần là một nhà chính trị. Đó là một điều rất đáng trân
trọng mà chúng tôi tạm gọi là “điểm cộng về văn hóa” trong bài diễn văn của
Barak Obama.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng phải thừa nhận có một “điểm trừ” về
phương diện văn hóa trong chuyến thăm của vị tổng thống Obama tại Việt Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh có một ngàn sáu trăm năm mươi mấy ngôi chùa. Cố vấn chính
trị và an ninh của Obama đã đề xuất ngôi chùa Ngọc Hoàng, vốn là ngôi chùa
Trung Quốc, có tuổi thọ 100 năm tại Quận Nhất để thăm viếng, đang khi toàn bộ
tinh thần diễn văn của Obama là kêu gọi sự tôn trọng Việt Nam, văn hóa Việt
Nam, văn học Việt Nam, lịch sử Việt Nam, chủ quyền Việt Nam. Như một cọng rác
vẫn bị bỏ sót, chuyến viếng thăm ngôi chùa Trung Quốc của tổng thống Obama tại
TP.HCM. Có lẽ các nhà cố vấn chính trị của Obama đã không phân biệt được đâu là
chùa Trung Quốc, đâu là chùa Việt Nam. Rất nhiều ngôi chùa Việt Nam có bảng
hiệu bằng tiếng Trung Quốc, câu đối bằng tiếng Trung Quốc, cho nên nhìn chùa
Trung Quốc họ tưởng là chùa Việt Nam. Đó là điều đáng tiếc nhất.
Tổng
thống Barack Obama viếng thăm Chùa Phước Hải
(đền Ngọc Hoàng cũ)
trong
dịp ghé lại Sài Gòn ngày 24-5-2016
Năm ngày trước chuyến viếng thăm của tổng thống Obama, lịch trình
chi tiết được phía chính phủ Hoa Kỳ gửi cho Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt
Nam không hài lòng với việc thăm chùa Ngọc Hoàng, có góp ý với chính quyền,
nhưng chính quyền cho rằng cần tôn trọng quyết định của chính phủ Hoa Kỳ. Tổng
thống Obama thăm chùa Ngọc Hoàng đã dấy nên cơn bão truyền thông rằng Giáo hội
Phật giáo Việt Nam là bạc nhược. Thực ra, Giáo hội Phật giáo Việt Nam không có
quyền hạn gì trong vấn đề này. Quyết định địa điểm thăm quan thuộc chính quyền
Hoa Kỳ.
Trên con đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, chúng ta có chùa Vĩnh
Nghiêm to lớn, hoặc Thiền viện Quảng Đức vốn Trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam. Hoặc ở đường Bà Huyện Thanh Quan, chúng ta có chùa Xá Lợi, một ngôi chùa
lịch sử rất quan trọng. Các ngôi chùa này về vai trò lịch sử, quan trọng hơn
chùa Ngọc Hoàng. Chùa Ngọc Hoàng về bản chất là chùa của Lão giáo, về sau, trở
thành ngôi chùa dung hợp giữa Lão giáo và Nho giáo của Trung Quốc. Gần đây khi
trụ trì là một tu sĩ Phật giáo, chùa mới thờ phượng thêm tượng Phật Thích Ca và
các vị Bồ-tát. Chùa Ngọc Hoàng có nghĩa đen là chùa thờ Thượng Đế, trong đó có
các vị thần của Trung Quốc, chẳng có thần nào của Việt Nam.
Có lẽ khi biết điều này thì tổng thống Obama sẽ rất lấy làm tiếc
về mục đích chuyến thăm Việt Nam vốn gửi thông điệp hạn chế sự bành trướng của
Trung Quốc, nhưng rốt cuộc ông lại đi thăm nhằm ngôi chùa Trung Quốc. Điều này
quả là một nghịch lý. Chúng ta hãy coi đây là một sự cố về văn hóa, tạo ra điểm
trừ về văn hóa của chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Obama.
6. Hợp tác vì lợi ích
chung.
Trong bài diễn văn của mình, tổng thống Obama đề cập tới 4 loại
hình hợp tác, dẫn tới sự bình thường hóa quan hệ toàn diện giữa hai nước: hợp
tác về kinh tế, hợp tác về đảm bảo an ninh, hợp tác về bảo vệ môi trường, đồng
thời, đề cao nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do
hội họp, tự do phát biểu ý kiến.
a) Về hợp tác kinh tế
Tổng thống Obama đề cập tới nền kinh tế toàn cầu và đề cao vai trò
của Việt Nam trên thương trường toàn cầu. Về nền kinh tế trí thức, Obama đề cao
trí tuệ Việt Nam, kêu gọi người Việt Nam phải tự lập suy nghĩ, trao đổi ý tưởng
để hướng tới những sáng tạo mới lạ, độc lập. Ông nhắc đến một tình huống rất
thú vị, đó là trong thời kỳ chiến tranh, lính Hoa Kỳ tới Việt Nam mang theo
súng ống, chết chóc, đau thương. Trong thời kỳ hòa bình, tổ chức Peace Corps,
tổ chức hòa bình của Hoa Kỳ, bao gồm những người lính, sẽ tới Việt Nam dạy
tiếng Anh để thiết lập tình hữu nghị giữa hai nước. Đó là một sự thay thế rất
tích cực.
Ngoài ra, một tin vui khác là vào mùa thu năm 2016, trường đại học
Fulbright Việt Nam sẽ được thành lập tại TP.HCM. Đây là trường đại học phi lợi
nhuận, độc lập và theo quy trình giáo dục của Hoa Kỳ để sinh viên Việt Nam
không phải tốn tiền sang Hoa Kỳ nhưng vẫn có thể tiếp nhận nền giáo dục chất
lượng cao của thế giới tại ngay đất nước mình. Hàng năm, người Việt Nam trong
nước bỏ ra tới vài chục tỉ Hoa Kỳ kim để cho con em đi học và du lịch Hoa Kỳ.
Bằng 1/10 số tiền đó, nếu người giàu Việt Nam nối kết nhau, xây dựng một trường
đại học đẳng cấp thế giới, mời được các giáo sư hàng đầu thế giới về dạy thì
chúng ta sẽ có một nền giáo dục ở Việt Nam giỏi ngang bằng với Hoa Kỳ trong
tương lai. Rất tiếc là người Việt Nam chúng ta không đoàn kết được như thế!
Chúng ta đã bị chảy máu chất xám ra hải ngoại, chúng ta bị chảy
máu kinh tế ra hải ngoại. Số tiền mà người Việt hải ngoại gửi về trong nước
cũng lên tới hàng tỉ Hoa Kỳ kim. Số tiền người Việt Nam đi du học và du lịch ở
Hoa Kỳ cũng không nhỏ chút nào. Đó là mâu thuẫn nội tại lớn. Sự khai trương của
trường học Fulbright Việt Nam sẽ mở ra phương trời giáo dục mới. Tổng thống
Obama đã thấy được giá trị của nền giáo dục tiên tiến tại Việt Nam nên đã kêu
gọi chúng ta phải đầu tư cơ sở giáo dục đẳng cấp thế giới tại Việt Nam, bắt đầu
tại TP.HCM.
Tổng thống Obama đề cập tới việc nỗ lực giúp Việt Nam trở thành
thành viên của iêHiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đây là cơ
hội giúp Việt Nam tiến bộ về nhiều phương diện, hưởng lợi từ nhiều quan hệ rộng
rãi đối với nhiều nước trên thế giới. Việt Nam sẽ bớt phụ thuộc vào bất kỳ đối
tác độc tôn nào, chẳng hạn Trung Quốc. Hiện nay, 1% nhập siêu của Trung Quốc
tại Việt Nam bằng 28.9% nhập siêu của Việt Nam trên toàn cầu. Chúng ta bị lệ
thuộc vào kinh tế Trung Quốc quá nhiều.
Với tư cách thành viên TPP, Việt Nam sẽ thu hút vốn đầu tư của thế
giới. Việt Nam sẽ bán nhiều sản phẩm ra thế giới. Việt Nam sẽ bảo vệ được công
nhân của mình và trên nền tảng đó, Việt Nam sẽ thúc đẩy sự phát triển nhân
quyền để hướng tới một chủ nghĩa pháp quyền đúng nghĩa. Việt Nam sẽ loại trừ
được chứng bệnh tham nhũng. Việt Nam sẽ đề cao được quyền sở hữu trí tuệ. Việt
Nam sẽ tốt hơn nữa trong việc bảo vệ môi trường để từ đó dẫn đến sự phát triển
nền kinh tế và bảo đảm được an ninh quốc gia của Việt Nam.
Đó là những ý nghĩa và giá trị lớn lao của Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương mà Hoa Kỳ giúp Việt Nam trở thành một trong những thành viên
của Hiệp định này, trong khi Trung Quốc “thèm chảy nước miếng” mà không được.
b) Về hợp tác an ninh
Ngày 23-5-2016, tổng thống Barak Obama tuyên bố tháo mở lệnh cấm
vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Đây là minh chứng về việc bình thường
hóa quan hệ toàn diện giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Với niềm vui lớn đó, thủ tướng
Nguyễn Sinh Phúc rất tế nhị tuyên bố với các hãng thông tấn thế giới rằng Việt
Nam không quân sự hóa biển Đông, không chạy đua vũ khí ở biển Đông. Đây là cách
ứng xử khéo léo của nước Việt Nam đối với nước láng giềng có nhiều tham vọng
bành trướng bá quyền. Chỉ có cách này mới có thể gìn giữ Việt Nam được hòa bình
lâu dài.
Hợp tác an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chắc chắn sẽ có trong
tương lai. Tôi dự đoán rằng trong vòng vài thập niên tới Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ
trở thành liên minh quân sự như Hoa Kỳ đã từng làm với Nhật Bản.
Cảng Cam Ranh là tầm ngắm mà Hoa Kỳ muốn được Việt Nam ưu tiên
dành cho, vì trước năm 1975 Hoa Kỳ đã từng làm căn cứ quân sự. Khi hai bên tháo
mở được những dị biệt và bớt đi những sự can thiệp của Nga và những tác động
tiêu cực của Trung Quốc, sự thiết lập quan hệ quân sự sẽ làm cho Việt Nam trở
thành liên minh của Hoa Kỳ, lúc đó những cường quốc mới nổi như Trung Quốc muốn
ăn hiếp Việt Nam cũng không dễ dàng gì.
c) Về hợp tác bảo vệ môi
trường
Liên quan tới lĩnh vực hợp tác về môi trường, tổng thống Barak
Obama đã đề cập tới cuộc chiến tranh chống lại sự biến đổi khí hậu trên toàn
cầu mà Việt Nam đã cam kết thực hiện theo tinh thần của tuyên bố Paris.
Tổng thống Obama đã nói tới vẻ đẹp của hành tinh, vẻ đẹp của Việt
Nam, sức khỏe của Việt Nam, đang lúc ấy, chúng ta cần đề cao sự phát triển bền
vững. Ông nhắc tới kỳ quan thiên nhiên vịnh Hạ Long và hang động Sơn Đồng ở Hòa
Bình cần phải được giữ gìn cho thế hệ con cháu của Việt Nam và trên toàn thế
giới. Ông đề cập tới việc nước biển dâng lên, đe dọa các bờ biển và giao thông
đường thủy vốn là huyết mạch của cuộc sống nông dân Việt Nam. Sự quan tâm này
rất sâu sát, thiết thực.
Mặc dù không đề cập trực tiếp đến thảm họa môi trường cá chết ở
bốn tỉnh Bắc Trung Bộ gồm Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Huế, vốn khiến cho
nhiều người Việt Nam công phẫn, xuống đường biểu tình ba lần, tổng thống Obama
đề cập tới việc cần giúp những người dân mưu sinh bằng nghề cá. Đồng thời, ông
kêu gọi sự làm quen với tính thích ứng và cần đem lại nhiều năng lượng sạch đến
những khu vực huyết mạch của miền Nam như đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của
thế giới mà chúng ta cần đến nhằm đảm bảo lương thực cho những thế hệ sau này.
Tổng thống Obama đã quan tâm đến văn hóa Việt Nam, bản chất nông
nghiệp Việt Nam một cách lịch lãm trên được thiết lập quan hệ toàn diện với
Việt Nam. Điều này làm cho người Việt Nam rất cảm động.
Ông kết luận “Chúng ta phải góp phần hình thành môi trường quốc
tế tại Việt Nam theo hướng tích cực,” tức là quốc tế hóa Việt
Nam để tạo Việt Nam trở nên đẳng cấp đặc biệt.
Đồng thời, tổng thống Obama cũng nhấn mạnh rằng sự phát triển nhân
quyền, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận… rõ ràng không đe dọa sự tồn tại của chủ
nghĩa cộng sản. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Hoa Kỳ phát biểu tại Việt
Nam, nói rất lịch sự, nói rất khéo léo, nói rất dễ nghe. Điều đó sẽ thúc đẩy
những cải cách tích cực của Việt Nam ở hiện tại và trong tương lai.
7. Tôn trọng chân lý cơ
bản: Chủ quyền của Việt Nam
Tổng thống Obama đã đề cập đến chân lý cơ bản về gồm, trước nhất
là chủ quyền của Việt Nam, thứ hai là giải quyết tranh chấp về chủ quyền và thứ
ba là những chứng minh rất cụ thể, đề cao chủ quyền độc lập của Việt Nam.
Obama nêu ra một ẩn dụ: “Giống như cây tre, tinh thần bất khuất
của người Việt Nam đã được đúc kết qua áng thơ của Lý Thường Kiệt: “Sông núi
nước Nam, vua Nam ở. Rành rành định phận ở sách trời”. Nguyên thủ của Hoa
Kỳ trích dẫn tuyên ngôn độc lập của Lý Thường Kiệt khẳng định rằng ông ủng hộ
Việt Nam trong việc lên án Trung Quốc xâm lăng biển Đông một cách rất bành
trướng và ngang ngược. Obama nhắc Trung Quốc một cách khéo léo, cần tôn trọng
chủ quyền của Việt Nam: “Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Không có bất kỳ quốc gia nào khác có thể áp đặt ý chí hay định đoạt vận mệnh
của các bạn”. Đó là sự tôn trọng chủ quyền Việt Nam, mà Trung Quốc không
thể lấy tư cách nước lớn hòng ức hiếp Việt Nam.
Cộng đồng Việt Nam trên toàn cầu phải ghi nhớ: Chỉ có người Việt
Nam mới định đoạt được vận mệnh của người Việt Nam, chứ không phải là tổng
thống Hoa Kỳ. Ngay cả khái niệm chuyển luân thánh vương mà đức
Phật đề cập trong kinh nếu thành sự thực thì các vị chuyển luân thánh vương thế
giới đó cũng không thể định đoạt được số phận của người Việt Nam bằng trí tuệ
và sức mạnh của người Việt Nam. Cầu viện các quốc gia khác không phải là giải
pháp cho các vấn nạn mà Việt Nam đang gặp phải. Cần đầu tư và phát triển nội
lực Việt Nam về mọi phương diện. Hợp tác song phương và đa phương về mọi phương
diện nhưng không lệ thuộc vào nước ngoài.
Đức Phật dạy trong kinh Chuyển pháp luân rằng
phải thừa nhận bế tắc, truy tìm nguyên nhân, trải nghiệm hạnh phúc niết-bàn và
giải quyết bế tắc bằng bát chánh đạo. Chúng ta phải tự làm. Người khác chỉ giúp
đỡ, hỗ trợ chứ không giải quyết tất cả cho chúng ta. Cho tới bây giờ, vẫn còn
rất nhiều người Việt Nam nghĩ rằng phải nhờ các tác động từ bên ngoài theo một
cách thức nào đó thì mọi thứ ở Việt Nam mới được tốt. Đó là cách nghĩ một
chiều. Tổng thống Barak Obama của Hoa Kỳ đã không thừa nhận cách giải quyết vấn
đề một chiều là đúng: “Không có bất kỳ quốc gia nào khác có thể áp đặt ý chí
hay định đoạt vận mệnh của các bạn”.
Tổng thống Obama kêu gọi các nước lớn cần tôn trọng chủ quyền của
các nước nhỏ, vì các nước vốn bình đẳng: “Các quốc gia đều có chủ quyền, bất
luận quốc gia đó lớn hay nhỏ, chủ quyền của họ phải được tôn trọng. Lãnh thổ
của họ không nên bị xâm phạm. Các quốc gia lớn không nên bắt nạt các quốc gia
nhỏ hơn.” Khái niệm “quốc gia lớn” rõ ràng ám chỉ Trung Quốc, vốn có thói
quen bắt nạt Việt Nam và một số nước khác trong khu vực, nhằm độc chiếm biển
Đông. Không chỉ tổng thống Obama, nhiều nhà chính trị khác rất khôn khéo, không
cần nêu đích danh Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh độc chiếm biển Đông, bất
chấp luật pháp thế giới, ai cũng hiểu rằng “nước lớn bắt nạt các nước nhỏ” là
Trung Quốc, chứ không phải là ai khác.
Đề cập tới vấn đề giải quyết tranh chấp, Obama nói: “Các tranh
chấp nên được giải quyết một cách hòa bình.” Đây là chủ trương của Việt Nam
trong nhiều năm qua. Nhiều người hăng máu kêu gọi Việt Nam khởi chiến với Trung
Quốc.
Trên thực tế, khởi chiến với Trung Quốc vào giai đoạn này không
phải dễ. Nhiều lần trong quá khứ, Việt Nam thắng Trung Quốc trong các cuộc
chiến vệ quốc vì đường biển quá dài, không có trạm tiếp viện cho Trung Quốc dọc
theo đường biển. Từ năm 1974, Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa, một trạm dừng quân
sự khá lợi hại của Trung Quốc đối với Việt Nam yêu chuộng hòa bình.
Hiện nay về khí tài thì Trung Quốc chỉ thua Hoa Kỳ, Nga, Đức,
Pháp, chưa chắc thua bất cứ một quốc gia nào còn lại. Nếu cuộc chiến vệ quốc
xảy ra thì chúng ta tiếp tục bị đau thương, cho nên các nguyên thủ Việt Nam
hiện nay rất khéo léo, chọn cách nhượng bộ, dùng lời lẽ nhẹ nhàng, kêu gọi
Trung Quốc tôn trọng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, luật biển 1982 để
giải quyết tranh chấp mà không gây nên sự thương vong nào cho các bên có liên
quan. 3000 năm lịch sử với hơn 60 lần ngoại xâm của Trung Quốc là quá đủ cho
Việt Nam rồi. Việt Nam yêu chuộng hòa bình, không cần thêm một chiến tranh nào
nữa.
Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ cho Việt Nam bằng sự hiện diện của họ tại
biển Đông, nhằm hạn chế sự bành trướng và bắt nạt của Trung Quốc: “Chúng tôi
sát cánh cùng với Việt Nam để bảo vệ các nguyên tắc cốt lõi như quyền tự do
hàng hải và hàng không và thương mại hợp pháp, không bị cản trở, giải quyết
tranh chấp một cách hòa bình, thông qua các công cụ pháp lý, theo luật pháp
quốc tế.” Đây là lời nhắc nhở khéo đối với Trung Quốc rằng không nên tiếp
tục ức hiếp các nước nhỏ.
Tổng thống Obama đề cập đến tự do hàng hải tại biển Đông, quyết
không để biển Đông bị độc chiếm vào tay Trung Quốc: “Hoa Kỳ sẽ đưa tàu bay
và tàu thuyền tới bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép và chúng tôi sẽ yêu
cầu tất cả các quốc gia thực hiện việc làm tương tự như vậy.” Trong thời
gian qua, chúng ta thấy máy bay Hoa Kỳ và tàu Hoa Kỳ có mặt tự do ở biển Đông,
thể hiện quyền tự do hàng hải được luật pháp quốc tế cho phép. Trung Quốc lên
tiếng nói rằng Hoa Kỳ xâm phạm, nhưng Hoa Kỳ bất chấp sự lên tiếng vô lý này.
Thực tế, Trung Quốc mới là nước xâm phạm hải phận của các nước nhỏ trong khu
vực, vẽ ra con đường lưỡi bò hoang tưởng để nhằm độc chiếm biển Đông, gây bất
ổn an ninh khu vực, đồng thời, tạo ra nhiều tổn thất quyền lợi cho Việt Nam,
Philippines, Malaysia v.v…
Cuối cùng, tổng thống Obama nói rằng tương lai của Việt Nam sẽ
được quyết định bởi chính quyền và chính con người Việt Nam: “Mỗi đất nước
có con đường riêng của mình. Hai quốc gia chúng ta có những điểm khác biệt, hệ
thống chính trị khác biệt và văn hóa khác biệt.” Đây là sự thừa nhận dị
biệt chính trị và văn hóa giữa các nước, mà không phải dễ gì các quốc gia siêu
cường có được như Hoa Kỳ. Đó là một khẳng định rất tốt đẹp cho Việt Nam, theo
đó, áp lực từ phía bên ngoài sẽ giảm đi, mọi người cần phải nhìn lại để nỗ lực
giúp cho Việt Nam ngày càng phát triển theo cơ chế trở thành một quốc gia của
dân, do dân và vì dân.
8. Giấc mơ Mỹ và giấc mơ
Việt Nam
Cuối cùng, tôi muốn nói đến giấc mơ Mỹ và giấc mơ Việt Nam. Tổng
thống Barack Obama rất lạc quan về tương lai quan hệ giữa hai nước Mỹ - Việt,
khi khẳng định rằng: “Chúng ta đã vượt qua”, gồm vượt qua hận thù, vượt
qua chiến tranh lạnh, vượt qua hiềm khích, vượt qua đau thương, vượt qua sự tù
binh của quá khứ. Hoa Kỳ và Việt Nam từ nay xây dựng tình hữu nghị để cùng nhau
phát triển, vốn là khát vọng chung của hai dân tộc.
Đừng nghĩ rằng “chúng ta đã vượt qua” là chuyện của các nguyên thủ
quốc gia. Đây đồng thời là chuyện của hai dân tộc Hoa Kỳ và Việt Nam. Các
nguyên thủ độc tôn, độc tài thì thích phát biểu rằng đây là quyền của tôi, tôi
muốn nước tôi đi theo hướng nào thì nó phải đi theo hướng đó. Trong thời đại
toàn cầu hóa và dân chủ hóa này, chúng ta phải hiểu tất cả mọi thứ là vì dân
tộc thì mới tồn tại bền vững được.
Đề cập đến giấc mơ Mỹ và Việt Nam một cách bình đẳng, tổng thống
Obama đã trích dẫn câu nói của một người Việt Nam có mặt trong ngày ông đọc
diễn văn tại Trung tâm hội nghị quốc gia: “Ơn Chúa, tôi đã thực hiện được
giấc mơ Mỹ. Tôi rất tự hào là người Hoa Kỳ, nhưng tôi cũng rất tự hào là người
Việt Nam”.
Đó là phát biểu của một người Mỹ gốc Việt. Vì là người theo đạo Thiên
chúa, nên ông tin rằng nhờ ơn Chúa ông đã có thể vượt biên thành công, đang khi
gần một ¼ nửa số người vượt biên khác phải làm mồi cho cá trong khoảng thời
gian từ năm 75 cho tới năm 89. Gần 4 triệu người Việt Nam có mặt trên toàn cầu
hiện nay được hiểu là có khoảng 1-2 triệu người Việt Nam đã bị chết dưới biển,
trong thời gian vượt biên. Ông Việt kiều đã tự hào ông là người Hoa Kỳ, ông đã
biến ước mơ đến Mỹ, thành công dân Mỹ trở thành hiện thực.
Giấc mơ Mỹ là giấc mơ lớn lắm, có nhiều nội hàm. Mục sư Martin Luther
King, Jr. đã có bài phát biểu đi vào lịch sử về chủ đề “I have a dream”
(Tôi có một giấc mơ). Về sau, giấc mơ đó đã được định nghĩa là “the dream of
America”, giấc mơ Mỹ. Giấc mơ Mỹ là giấc mơ rất lớn. Rất nhiều người thất
bại vì giấc mơ Mỹ. Rất nhiều người chết cho giấc mơ Mỹ đó. Cũng có rất nhiều
người được hạnh phúc bởi giấc mơ Mỹ đó. Cái gì cũng có tính đa chiều, đừng nên
nhìn một chiều.
Nhưng khi nhìn lại chính mình, nhìn lại gốc rễ văn hóa của mình,
ông Việt kiều phải thừa nhận nghiêm túc rằng: “Tôi rất hãnh diện, tự hào là
người Việt Nam.” Đó không chỉ là giấc mơ Việt Nam mà còn là một hiện thực
Việt Nam, thuần chất Việt Nam. Đây là cách yêu nước qua gốc rễ văn hóa Việt
Nam. Thật đáng trân trọng.
Chối bỏ căn rễ văn hóa của mình là một nỗi sỉ nhục. Có lần, theo
các phương tiện truyền thông, một vị giám mục của Thiên Chúa giáo đã phát biểu:
“Tôi rất xấu hổ khi cầm hộ chiếu Việt Nam”. Đây là một phát biểu “điểm trừ” rất
lớn. Khi chối bỏ căn rễ văn hóa của mình thì người khác sẽ không bao giờ tôn
trọng chúng ta được. Chúng ta phải xóa bỏ mặc cảm tự ti dân tộc. Chúng ta phải
bỏ đi sự lệ thuộc vào ngoại quốc. Chúng ta phải đề cao chất xám Việt Nam. Chúng
ta phải nỗ lực đóng góp cho Việt Nam giàu mạnh. Đừng để cho hiện tượng chảy máu
chất xám, chảy máu kinh tế Việt Nam ra nước ngoài tiếp tục xảy ra trong tương
lai.
Hai giấc mơ Mỹ và giấc mơ Việt Nam đã từng tồn tại nhiều năm. Giấc
mơ Mỹ mới chỉ có lịch sử hơn 200 năm. Giấc mơ Việt Nam có đến 4000 năm văn
hiến. Đừng vì giấc mơ Mỹ mà chúng ta bỏ giấc mơ Việt Nam. Đừng vì giấc mơ của
bất cứ nước nào mà chúng ta bỏ giấc mơ Việt Nam. Nói rộng hơn, đừng vì giấc mơ
nào mà chúng ta bỏ quên hiện thực ở kiếp sống hiện tại này. Cuộc sống là hiện
tại, bây giờ và tại đây.
Tổng thống Barack Obama đã nói đến hệ quy chiếu của giấc mơ ở
chính mỗi con người: “Tài năng của bạn, con đường của bạn, những giấc mơ của
bạn”. Việt Nam đã có đủ mọi nhân tố để phát triển. Ông đề cao đến giấc mơ
Việt Nam. Tại sao không?
Hoa Kỳ lập quốc từ con số zero, từ không trở thành có, có từ giấc
mơ rồi trở thành hiện thực, trở thành đỉnh cao của thế giới như hiện nay. Việt
Nam chúng ta có bốn ngàn năm lịch sử, thuộc loại là ông bà của Hoa Kỳ về niên
đại lập quốc, tại sao với bốn ngàn năm đó chúng ta không có quyền mơ giấc mơ
Việt Nam, xây dựng đất nước Việt Nam trên giấc mơ cao đẹp đó. Đó là điều chúng
ta có thể làm được. Không nên chối bỏ giấc mơ và hiện thực Việt Nam.
Tổng thống Obama tiếp khẳng định là bạn đồng hành của Việt Nam
trong lúc biến giấc mơ thành hiện thực: “Khi bạn theo đuổi tương lai mà bạn
muốn, tôi muốn bạn biết rằng Hoa Kỳ sẽ ở đó, bên bạn như là đối tác của bạn và
là bạn của bạn”. Ở đây, Obama xác định là Hoa Kỳ không can thiệp vào chuyện
nội bộ của Việt Nam mà trở thành người đồng hành, để giúp Việt Nam có được giấc
mơ Việt Nam, để sau này khi thế giới nghe tới giấc mơ Việt Nam, người ta phải
thèm muốn, quyết nỗ lực học hỏi theo và đạt được. Người bạn quý, người bạn tốt
phải là người bạn giúp chúng ta trở thành chính chúng ta, gây dựng chính những
giá trị mà chúng ta có, chứ không biến chúng ta trở thành người bị lệ thuộc vào
họ, dựa dẫm và mất tự chủ.
Tổng thống Obama xác định rất chính xác và ấn tượng: “Vận mệnh
của bạn nằm trong tay của bạn. Đây là thời điểm của bạn.” Thời điểm của
Việt Nam đã đến rồi. Những người Việt Nam trong nước và nước ngoài phải đề cao
thời điểm đó, nắm lấy thời cơ đó, phải có trách nhiệm lịch sử, trách nhiệm đạo
đức về thời điểm này, để cùng chung xây dựng giấc mơ Việt Nam, cho một tương
lai Việt Nam mà theo Barak Obama qua việc trích dẫn câu truyện Kiều của Nguyễn
Du:
“Rằng trăm
năm cũng từ đây,
Của tin gọi một chút này
làm ghi”.
Trích dẫn câu thơ Kiều
trong bối cảnh bình thường hóa quan hệ Việt-Hoa Kỳ là việc làm quá sâu sắc của
tổng thống Obama. Chưa chắc gì người Việt Nam đã chọn được hai câu thơ sâu sắc
như thế cho sự kiện lịch sử trọng đại này. Hãy trải nghiệm giấc mơ của chúng ta
bằng sự cam kết: “Rằng trăm năm cũng từ đây/ Của tin gọi một chút này làm ghi”!
Thích Nhật Từ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét