LỊCH
SỬ ĐAU ĐỚN CỦA CHÙA BÁO THIÊN
Lê
Quang Vịnh
Báo Thiên Tự, tên đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự, từng là một ngôi
chùa cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất Việt Nam. Chùa tọa lạc tại thôn Tiên
Thị, huyện Thọ Xương, (xưa gọi là phường Báo Thiên), gần hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm),
bên ngoài thành Thăng Long. Khu vực này ngày nay là phố Nhà Chung, nơi có Nhà
thờ Lớn Hà Nội, Tòa khâm sứ cũ, cùng nhiều trụ sở Công giáo khác. (Theo
Wikipedia)
Ở Hà Nội, phía Tây hồ Hoàn Kiếm, dọc theo trục Bắc Nam, có 1 đường
phố ngắn (chỉ 300m) phía Bắc tiếp nối với phố Lý Quốc Sư, phía Nam đụng với phố
Trường Thi, nằm gọn trong phường Hàng Trống thuộc quận Hoàn Kiếm, mang tên Phố
Nhà Chung, thời Pháp thuộc gọi là Rue de la Mission (phố Hội Truyền Giáo hoặc
phố Hội Thừa Sai).
Trên đường phố này xúm xít những cơ sở Công giáo như Nhà Thờ
Lớn, Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội , trụ sở của Hội đồng Giám mục Giáo hội Công giáo
Việt Nam và mấy cơ sở bên “lương” như Câu lạc bộ Thanh thiếu niên [1] Hoàn
Kiếm, Trung tâm ngoại ngữ Đại học Sư phạm… tiếp giáp với ngôi chùa cổ danh
tiếng trong sử sách vẫn ghi là “Đền” Lý Quốc Sư [2].
Phố “Nhà Chung” (Rue
de la Mission dưới thời Pháp thuộc)
dày đặc những cơ sở
Công giáo
Thời tôi còn công tác ở Ban Tôn giáo Chính phủ, tôi đã nhiều lần
đến thăm chùa và nghe vị sư trụ trì [3] chùa Lý Quốc Sư kể chuyện, đưa cho đọc
những tư liệu quí giá mà nhà chùa vẫn còn lưu giữ được về khu đất bên cạnh
chùa. Thật bất ngờ cho tôi khi đọc thấy những chứng tích rằng toàn bộ khu đất
ấy, ngày nay gọi là Phố Nhà Chung (Công giáo), ngày xưa là khuôn viên 1 ngôi
chùa (Phật giáo) cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất nước ta.
Chùa đó có tên gọi tắt là Báo Thiên Tự, gọi đầy đủ là Sùng Khánh
Báo Thiên Tự; trong sân chùa có một ngôi bảo tháp cao vòi vọi (12 tầng), cao đến
mức bóng tháp soi xuống mặt nước hồ [4] Hoàn Kiếm. Tháp này có tên gọi là Đại
Thắng Tư Thiên Tháp, gọi tắt là Báo Thiên Tháp.
Báo Thiên Tự được khởi công xây dựng từ năm 1056 [5] (đời vua Lý
Thánh Tông), đúc 1 quả đại hồng chung nặng đến 1 vạn 2 ngàn cân (7260 kg). Báo
Thiên Tháp có chóp làm bằng đồng, được xây dựng 1 năm sau khi xây dựng xong
chùa.
Trong chùa và tháp có rất nhiều vật hạng bằng đồng như tượng
Phật, thiền trượng, giới đao hộ pháp nhà Phật…cho nên năm 1427, khi quân Minh
xâm lược bị vây khốn trong thành Đông Quan (tức Hà Nội), chúng cố thủ để chờ
quân tiếp viện, đã đến chùa cướp phá tàn bạo: tốc chóp tháp đồng, nấu chảy đại
hồng chung và tất cả những gì bằng đồng, bằng kim loại để làm vũ khí (đúc súng)
chống lại quân Việt Nam của Lê Lợi - Nguyễn Trãi mãi cho đến khi biết rõ là các
đạo quân tiếp viện (Liễu Thăng, Mộc Thạnh) đều đã bị đánh tan cả, mới chịu đầu
hàng.
Tuy nhiên, nhà Lê không để chùa bị bỏ hoang, cho trùng tu và đại
trùng tu nhiều lần ngôi chùa vẫn giữ vị thế bậc nhất nước ta.
Trong chùa Lý Quốc Sư ngày nay vẫn còn lưu giữ bản gấm thêu sắc
tự của đời Cảnh Hưng (tức vua Lê Hiển Tông 1740-1786) về chùa Sùng Khánh Báo
Thiên Tự. Trên nền tháp bị phá, đã được tôn cao bằng 1 đàn tràng cũng gần nơi
bây giờ là nhà thờ lớn.
Về lý do diễn biến đổi thay từ chùa và tháp Báo Thiên, 1 trong
“Tứ đại khí” hay “Tứ bảo khí” của Việt Nam cổ (tạm dịch là 4 công trình to lớn
và quí báu của nước Nam ta) thành ra Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, Hội
đồng Giám mục Giáo hội Công giáo Việt Nam và các tu viện Công giáo xung quanh
đó ngày nay, thì dò theo các quyển sách lịch sử đáng tin cậy như Đại
Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hà Thành thất thủ chính
khí ca (khuyết danh) - bản trường ca về việc Hà Nội bị Pháp đánh chiếm
lần thứ 2 (Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu 1829-1882, NXB Đà Nẵng 2001, trang
54-66), Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Từ điển
địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn văn Tân, NXB Văn hóa Thông tin
, Hà Nội 1998; Từ điển đường phố Hà Nội - NXB Đại học quốc gia
Hà Nội 2000; Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm -Công
giáo và Dân tộc, xuân 1996, Thành phố Hồ Chí Minh ; Tổng tập Nghìn năm
văn hiến Thăng Long -NXB văn hóa thông tin, Thời báo kinh tế Việt Nam,
tập I, 2007… tôi suy ra những kết luận chuẩn xác như sau:
Số là sau khi được triều đình Huế chính thức nhượng 3 tỉnh miền
Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) theo hòa ước 1862 (Nhâm Tuất), đến 1867
(Đinh Mão) quân Pháp lại chiếm luôn 1 cách dễ dàng cả 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh
Long, Châu Đốc, Hà Tiên) nữa, soái phủ Sài-gòn có ý định chiếm nốt xứ Bắc Kỳ,
để thiết lập vững chắc nền đô hộ của Pháp ở Viễn Đông.
Đô đốc Dupré viết thư sang Pháp:
“Xứ Bắc Kỳ rất giàu
và nối liền với nước Tàu. Đó là nơi để các tỉnh phì nhiêu Tây Nam xứ Trung Hoa
tải sản vật sang cho ta. Việc chiếm cứ xứ này là vấn đề sinh tồn cho tương lai
cuộc đô hộ của ta ở Viễn Đông”. (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB
Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 117)
Pháp sử dụng hòa ước 1862 như 1 công cụ “tàm thực” (tằm ăn dâu)
thần hiệu: “… Đạo Thiên Chúa được tự do truyền giáo … Người Pháp và
người Tây Ban Nha được quyền mở 3 hải cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên và tự do
đi lại buôn bán trong nước ta…” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB
Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 87)
Năm 1871, có 1 thương gia người Pháp tên là Jean Dupuis đi tìm 1
con đường sông ở Bắc Kỳ giao thông với tỉnh Vân Nam của Tàu. J.Dupuis mộ lính
Tàu và tập họp 1 băng đầu trộm đuôi cướp về đóng tại Hà Nội .
Quan ta không có quyền đuổi họ đi, bèn tâu về triều, xin phản
kháng với đô đốc thống lĩnh xứ Nam Kỳ. Nhưng đô đốc Dupré chỉ 1 mực bênh vực
Dupuis.
Tháng 5-1873, quan ta bắt giam đồ đảng người Nam và người người
Tàu của Dupuis, thì Dupuis bảo sẽ dùng vũ lực phá nhà ngục, đánh tháo cho những
kẻ bị bắt giam. Dupuis lại đòi mua muối, củi để tàu của mình dùng, nhưng quan
ta không chịu, khiến tình hình càng hết sức căng thẳng.
Thuở ấy, Nguyễn Tri Phương được vua Tự Đức bổ nhiệm chức Bắc Kỳ
Khâm mạng tuyền sát đổng sức đại thần (kinh lược sứ Bắc Kỳ), điều quân từ Sơn
Tây về giữ thành Hà Nội.
Đáp lại thư phản kháng của triều đình Huế, soái phủ Sài-gòn còn
giúp thêm cho J.Dupuis 3 vạn quan tiền.
Ngày 27-7-1873, Dupré đánh điện tín về bộ Hải quân:
“Xứ Bắc Kỳ đã mở
cửa thông thương nhờ công của Dupuis. Việc này có ảnh hưởng lớn đến thương mại
của Anh, Đức, Mỹ. Ta cần phải chiếm xứ này trước, đừng để bọn giặc Tàu hay
người Tây phương khác chiếm. Như thế ta sẽ đem lại cho nước Pháp 1 con đường
buôn bán độc quyền. Tôi không xin thêm viện binh. Tôi sẽ đem quân lực sẵn có đi
đánh. Sự thành công rất chắc chắn”. (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB
Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 119).
Soái phủ Sài-gòn truyền lệnh cho trung tá [6] Francis Garnier
mang 1 tiểu đội chiến thuyền ra Bắc Hà trước để điều tra vụ Dupuis, sau buộc
triều đình Huế mở rộng xứ Bắc Kỳ cho người Pháp buôn bán. Ngày 17-9-1873,
F.Garnier rời bến Sài-gòn và đến ngày 5-11, đem quân đến Hà Nội .
F.Garnier vừa mới gặp Nguyễn Tri Phương đã khiêu khích rất hách
dịch, đòi đóng quân ngay trong hoàng thành, bắt buộc các địa phương phải để cho
người Pháp thông thương trên toàn cõi Bắc Kỳ, nhưng Nguyễn Tri Phương cự tuyệt,
lý do là vì chưa có lệnh triều đình. Thực sự Francis Garnier khiêu khích để
châm ngòi cuộc chiến tranh:
“Tôi nhất định
đánh. Tôi sẽ đem 180 quân bản bộ hạ thành Hà Nội và bắt Nguyễn Tri Phương giải
về Nam, làm tù binh” (Thư của Francis Garnier gởi về Soái phủ Sài-gòn cho
Đô đốc Dupré ngày 10-11-1873).
Ngày 20-11-1873, đúng 6h sáng, Francis Garnier truyền lệnh hạ
thành Hà Nội. Đại bác ta trên thành bắn ra không có tác dụng gì cả, đạn lướt qua
đầu quân Pháp và rớt xuống cả mặt đất phía sau. Quân ta trong lúc hoảng hốt,
quăng xuống vô số đá to, đá nhỏ mà chẳng trúng tên quân Pháp nào. Một đại bác
của Pháp bắn vỡ cửa Đông, quân Pháp ào tới, ập vào thành. Đến 7h, cờ Pháp bay
trên vọng lâu trung ương thành Hà Nội. Phò mã Nguyễn Lâm tử trận. Nguyễn Tri
Phương trúng đạn bị thương nặng ở đùi, bị Francis Garnier bắt được. Francis
Garnier phái các bác sĩ đến băng bó vết thương, đổ cháo và thuốc vào miệng ông
để ông mau phục sức. Nhưng Nguyễn Tri Phương dứt cả băng bó, phun cháo và thuốc
ra, nhất quyết tuyệt thực cho đến chết. Francis Garnier đem thông ngôn [7] đến
ngồi bên giường ôn tồn an ủi. Nguyễn Tri Phương thản nhiên đáp:
“Làm tướng phải chết và chết ở trận tiền không phải là cái
chết nhục nhã” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương, NXB Chính Ký, Sài-gòn
1944, trang123)
Ngày 20-12-1873, Nguyễn Tri Phương trút hơi thở cuối cùng, thọ
74 tuổi (1799-1873).
Francis Garnier lúc ấy đóng quân ở Trường Thi [8] đem toàn
bộ ngôi chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự ở gần đó giao cho người thông ngôn của
mình là Giám Mục Puginier làm nhà ở và nơi làm việc tạm thời. Giám Mục cho
cất thêm mấy gian nhà gỗ trong khuôn viên chùa [9], còn Tòa Giám Mục thì vẫn
đặt tại Sở Kiện. Trong mấy năm sau đó, tình trạng này vẫn không thay đổi vì chỉ
đến ngày 21-12-1873 thì Francis Garnier bị quân Cờ Đen phục kích giết chết,
quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế cai quản theo hòa ước
1874 (Giáp Tuất).
Paul Francois
Puginier(1835-1892), Giám mục Pháp, thông ngôn của Francis Garnier,
được giao cho tiếp
quản chùa Báo Thiên để làm nơi ở và làm việc - H ình Wikipedia
Mãi cho đến 9 năm sau, Soái phủ Sài-gòn mới cử Henri Riviere
[10] ra đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2 (1882-Nhâm Ngọ). Lần này thì Tổng đốc Hà
Ninh [11] là Hoàng Diệu (trọng trấn từ 1879) quá phẩn uất trước cảnh vua và
triều đình bạc nhược chủ hòa [12], không quyết tâm phòng bị, còn các quan chức
kế cận mình thì hèn nhát bỏ trốn trước giờ lâm trận, thậm chí phản bội đầu
hàng, cho nên sau khi viết xong tờ di biểu, ông đã treo cổ tự tử trên cây ổi ở
miếu Công Thần trg Hành Cung Kính Thiên.
Sau khi chiếm được Hà Nội, Henri Riviere sai phá hủy các cổng
thành và nhiều đoạn tường thành, vần hết đại bác trên thành ném xuống
hào. Các chùa miếu quanh thành đều bị phá phách, xô sập tất cả, 1
mặt để lấy gỗ gạch làm công sự [13], mặt khác là để thực hiện chủ trương triệt
hạ nền văn hóa cổ truyền bản địa [14] và độc tôn Thiên Chúa
giáo mà thực dân Pháp vẫn được Vatican tuyên dương là Trưởng Nữ của
Giáo hội. Cũng chính trong thời điểm này, Báo Thiên Tự bị phá hủy hoàn
toàn và biến mất trên bản đồ Hà Nội.
Khu vực chùa và tháp Báo Thiên cũ được ước
đoán theo các tư liệu lịch sử. Có thể chính điện của Chùa nằm trên nền đất
nay là Nhà thờ Lớn và Tòa Tổng giám mục Hà Nội; Tháp Báo Thiên tọa lạc trên
khoảng đất thuộc khu vực Tòa khâm sứ cũ. Khuôn viên vườn chùa (Thời Lý - Trần -
Lê) kéo dài đến qua khu Chủng viện, Dòng mến Thánh giá ra sát Hồ Gươm.
Năm 1884, hàng ước Patenotre được ký kết, triều đình Nguyễn chấp
nhận Pháp bảo hộ và chia Việt Nam thành 3 kỳ: Nam Kỳ là xứ thuộc địa (colonie)
của Pháp, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ (protectorat) của Pháp, Trung Kỳ được gọi là Đế
chế An Nam (Empire d'An Nam) – sự thật thì cả ba kỳ đều chung 1 chế độ lệ
thuộc, ngay trong đế chế An Nam thì vua mặc dù có những vị vua yêu nước muốn
khôi phục độc lập chủ quyền cho Dân tộc, nhưng cuối cùng phải bị bắt bị đày,
bởi “vua thì còn đó, nước thì không “, triều đình quan lại thì mặc dù cũng có
những ông quan tận trung báo quốc nhưng cuối cùng phải bị giết bị tù bởi triều
đình quan lại rút cuộc chỉ là con rối trong tay thực dân Pháp mà thôi, Giám Mục
Puginier mới cho xây dựng lại bằng những vật liệu kiên cố Nhà Thờ Lớn và các
tòa nhà khác của Nhà Chung rồi dời Tòa Giám mục [15] về đây.
Năm 1925, Tòa Thánh Vatican lập Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Việt Nam
(Délégué Apostolique, Apostolic Delegate [16]) và trụ sở ban đầu đặt tại Huế,
đến năm 1951 mới dời ra Hà Nội và Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh được xây dựng ngay trên
khu đất Phố Nhà Chung này. Đến năm 1957, sau khi hiệp định Genève được ký kết,
đất nước Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền tập kết quân đội, đợi ngày hiệp
thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Nhưng chính quyền miền Nam nhất định
không chịu hiệp thương tổng tuyển cử, Tòa Thánh Vatican thì nhất quyết
không thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên chuyển Tòa
Khâm Sứ Tòa Thánh vào Nam (Sài-gòn) là nơi mà Tòa Thánh công nhận là “đại diện
duy nhất” (!) cho nước Việt Nam…
* *
*
Tái bút:
Noel 2007, hàng trăm thanh niên Công giáo Hà Nội đã xông vào địa
chỉ 42 phố Nhà Chung đang là trụ sở của Phòng Văn hóa Thông tin, Nhà Văn hóa
& Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm [1], phát hàng vạn tờ truyền
đơn đòi Nhà nước phải trả lại cho Tòa Tổng Giám Mục khu đất ở địa chỉ này mà họ
cho là của Tòa Khâm sứ (cũ).
Họ trưng ra 1 bức thư của người đại diện Tòa Thánh Vatican khi
rời Hà Nội vào Sài-gòn năm 1959 cám ơn Tòa Giám Mục Hà Nội đã cho mượn đất để
xây dựng Tòa Khâm sứ (cũ).
Tôi không tham gia vào cuộc tranh chấp phức tạp này. Tuy nhiên
tôi không thể không ghi lại lịch sử cụ thể của khu đất bao gồm cả địa chỉ 42 và
40 và toàn bộ phố Nhà Chung (hiện nay) trên đó tọa lạc Tòa Khâm sứ (cũ) và Tòa
Tổng Giám Mục, Nhà Thờ Lớn Hà Nội và các tu viện, đan viện và các cơ sở Nhà
chung khác nữa ở đây, đều nằm trong khuôn viên của ngôi chùa cổ gần 1000 năm và
đồ sộ, nguy nga vào bậc nhất nước Nam xưa.
“Chùa Báo Ân (trên) và
Nhà thờ lớn Hà Nội (Nhà thờ Saint Joseph) chụp lại trên bưu thiếp in năm 1905,
do bác sĩ Ch E. Hocquard chụp vào khoảng 1884-1885. Chùa Báo Thiên , chùa Báo
Ân …bị Pháp tàn phá trong khoảng thời gian ngay sau khi chụp, hoặc một hai năm
kế tiếp. Nhà thờ lớn Hà Nội là xây trên nền chùa Báo Thiên cũ” [còn Bưu Điện
Trung ương Hà Nội ( trên) là xây trên nền chùa Báo Ân (trên) – Theo Wikipedia, NG] – Hình và chú thích của Nguyễn An Tiêm, Tạp chí Khởi
Hành, USA.
Ngôi chùa ấy đã là nạn
nhân cực kỳ đau khổ của quân xâm lược nước ngoài: năm 1426, quân xâm lược
Tàu (Vương Thông nhà Minh) đã phá đổ Đại Thắng Tư Thiên Tháp cao 12 tầng và
cướp phá nghiêm trọng những vật hạng bằng đồng, bằng kim loại trong chùa để đúc
sung. Tuy nhiên sau đó nhà Lê đã cho trùng tu, đại trùng tu nhiều lần ngôi chùa
sắc tứ này. Năm 1873, quân xâm lược Pháp (F.Garnier) lấy ngôi chùa này giao cho
Giám Mục Puginier dùng làm nhà ở và chỗ làm việc tạm khi Giám Mục về Hà Nội làm
thông ngôn cho F.Garnier, tư lệnh cuộc đánh chiếm Hà Nội lần thứ I. Năm 1882,
sau khi đánh chiếm Hà Nội lần thứ II, quân xâm lược Pháp (H.Riviere) đã xô sập
tất cả đền chùa xung quanh Hà Nội để lấy gạch gỗ đá xây dựng công sự; năm 1884,
trên khu đất khuôn viên chùa cũ, Giám Mục Puginier cho xây dựng nên Nhà Thờ Lớn
và dời Tòa Giám Mục về đây (1887)...
Chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự và Đại Thắng Tư Thiên Tháp (tức Báo
Thiên Tháp 12 tầng cao) ngày nay không còn nữa, nhưng chứng tích của nó thì vẫn
rành rành ra đó, không có gì để nghi ngờ bàn cãi. Chuyện xảy ra chỉ mới hơn 120
năm, đối với đời người thì có thể nói là dài, nhưng đối với lịch sử thì chẳng
là bao năm cả.
Chùa và tháp Báo Thiên gắn liền với truyền thống chống xâm lược
của dân tộc ta, với thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, với máu
lệ của “những kẻ tôi trung tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương” [17]
Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.
Lê Quang Vịnh
Chú thích:
[1] nay đã chuyển thành thư viện Hàng Trống.
[2] thờ Vạn Hạnh thiền sư (9?? – 1018 )
[3] Thượng Tọa Thích Bảo Nghiêm
[4] Báo Thiên Tháp Ảnh: Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt
Nam , NXB Văn hóa –Thông tin, Hà Nội 1998, tr 92.
[5] nguyên văn : “Bính thân, năm thứ 3, mùa hạ, tháng 4, xuống
chiếu khuyến nông, làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng
để đúc chuông lớn. Vua (Lý Thánh Tông nổi tiếng thương dân như con) thân làm
bài minh. Đinh dậu, năm thứ 4, mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tư
Thiên, cao vài chục trượng , 12 tầng…” (ĐVSKTT, tập I, NXB VHTT 2004, tr 318).
[6]capitaine de fregate, Trần Trọng Kim dịch là Đại úy, nhưng
tôi (Lê Quang Vịnh ) nhận thấy quá thấp, bởi trg hải quân Pháp cổ, capitaine có
nghĩa là chiến thuyền trưởng chứ không phải là đại úy như trg lục quân, hơn nữa
có 3 cấp capitaine là Capitaine de corvette=thiếu tá hải quân; Capitaine de
fregate=trung tá hải quân; Capitaine de vaisseau=đại tá hải quânèdo đó đề nghị
dịch lại là trung tá hải quân (theo Larousse 1992).
[7] chính là Giám Mục Puginier (theo Việt Nam Sử lược của Trần
Trọng Kim)
[8] khoảng giữa Thư viện KHXH và Trường Kỹ nghệ Hà Nội (theo Hà
Thành thất thủ ca, câu 8)
[9] theo Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, tập I, 2007,
trang
[10] Capitaine de vaisseau=Đại tá hải quân (xem chú thích số 6)
[11] Hà Ninh có 2 nghĩa trái ngược nhau: theo Trần Trọng Kim trg
Việt Nam sử lược là Hà Nội + Ninh Bình, theo Nguyễn Hoàng Viên trg Hoàng Diệu
1829-1882 là Hà Nội + Ninh Bình + Hà Nam, nhưng theo Hoàng Xuân Hãn trg bản
nghiên cứu về Chính Khí Ca thì lại là Hà Nội + Bắc Ninh.
[12] Vua Tự Đức nói: “Bàn hòa là người có công, bàn chiến là kẻ
có tội…” (Đặng Duy Phúc: Thăng Long. Đông Kinh. Hà Nội , nơi hội tụ nhân tài.
NXB Hà Nội 1996)
[13] Trg Hà Thành thất thủ ca có ghi: /Kính Thiên ngài ngự thếp
vàng,/Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu./Các chùa miếu đâu đâu đấy tá,/Can
gì Tây cũng phá tan tành? (câu 115-118)
[14] còn có 1 yếu tố tinh thần khác dẫn đến quyết định của
H.Riviere phá hết các đình chùa ở Hà Nội mà Giáo sư Vũ Khiêu có nhắc tới: “Ngay
từ giờ phút đầu tiên…các đình chùa đều đánh trống, gõ mõ, khua chiêng vang dội
để khoa trương thanh thế áp đảo địch và hỗ trợ cho tinh thần quyết chiến của
quan quân trong thành…” (Giáo sư Vũ Khiêu: Lễ tưởng niệm danh nhân yêu nước
Hoàng Diệu nhân 170 năm sinh tại Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội ngày 30-10-1999.
Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu , NXB Đà Nẵng 2001, trang 216).
[15] tên gọi của Tòa Giám Mục đã thay đổi rất nhiều lần kể từ
khi đạo Thiên Chúa được truyền vào Việt Nam. Năm 1679, Tòa Thánh chia Địa phận
Đàng Ngoài thành 2: Địa phận Tây và Địa phận Đông Đàng Ngoài. Năm 1846, Địa
phận Tây Đàng Ngoài lại được chia làm 2: Địa phận Tây Đàng Ngoài và Địa phận
Nam Đàng Ngoài. Hà Nội nằm về phía Tây nên thuộc về Giáo phận Tây Đàng Ngoài.
Tòa Giám mục lúc ấy được gọi là Tòa Giám Mục Tây Đàng Ngoài. Mãi đến năm 1924
mới lấy tên nơi đặt Tòa Giám Mục làm tên gọi các Giáo phận. Tòa Giám Mục Hà Nội
có tên từ ấy (GHCGVN, niên giám 2004, trang 218)
[16] Apostolic Delegate: Khâm sứ Tòa Thánh (= vị đại diện của
Đức Giáo Hoàng, không làm nhiệm vụ ngoại giao như apostolic nuncio mà chỉ làm
nhiệm vụ của Giáo Hội là liên lạc với các giám mục ở những quốc gia không có
quan hệ ngoại giao chính thức với Vatican (Nguyễn Đình Diễn: Từ điển Công giáo
Anh Việt, NXB Tôn giáo , Hà Nội 2002, trang 49)
[17] Hồ Chí Minh : Lịch sử nước ta à Nước ta nhiều kẻ tôi
trung/Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương /Hoàng Diệu với Nguyễn Tri
Phương /Cùng thành còn mất, làm gương để đời
http://reds.vn/index.php/lich-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét