VAI TRÒ TRUYỀN THÔNG HOA KỲ
TRONG SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM
Zi Jun Toong
[Biên dịch: Đỗ Hải Yến | Hiệu
đính: Lê Hồng Hiệp]
Nguồn:
Zi Jun Toong (2008).
“Overthrown by the Press: The US Media’s Role
in the Fall of Diem”,
Australian Journal of American Studies, Vol.27, No.1, pp. 56-72.
PHẦN 1/2
Năm 1963 là năm mà các tín đồ
Phật giáo ở miền Nam Việt Nam được cả thế giới chú ý đến. Thông qua các cuộc
biểu tình, văn chương phản kháng, các vụ tuyệt thực và tự thiêu, các tín đồ
Phật giáo đã phản đối sự phân biệt đối xử nhằm vào họ kể từ thời thực dân Pháp,
và sau đó là dưới thời chính quyền Công giáo của Ngô Đình Diệm do Hoa Kỳ hậu thuẫn.
Diễn ra trong bối cảnh thời kỳ Chiến tranh Lạnh của chủ nghĩa toàn cầu, các tín
đồ Phật giáo này nhận thức rằng sự xuất hiện của các cố vấn Mỹ – và quan trọng
hơn cả là báo chí quốc tế – tại miền Nam Việt Nam như một phần của nỗ lực chiến
tranh chống lại Chủ nghĩa cộng sản, đã cho họ cơ hội công khai sự đấu tranh của
mình trước thế giới và thúc đẩy phong trào của họ. Trong khoảng thời gian từ
tháng 5 đến khi chính quyền Diệm sụp đổ vào tháng 11 năm 1963, các cuộc biểu
tình Phật giáo ngày một căng thẳng vốn bị đàn áp càng lúc càng mạnh tay bởi
Chính quyền Nam Việt Nam đều mang lại sự đồng cảm quốc tế dành cho phong trào
Phật giáo và khiến chính quyền Diệm độc đoán bị chỉ trích trên toàn thế giới.
Với việc thế giới theo dõi sát
cuộc chiến do Hoa Kỳ dẫn đầu chống lại Chủ nghĩa cộng sản, Chính quyền Hoa Kỳ
còn phải gánh chịu sự phản đối quốc tế đối với vấn đề hỗ trợ quân sự và tài
chính cho chế độ đàn áp của Diệm. Đồng tình với công chúng và quốc hội Hoa Kỳ,
các chính phủ trên khắp thế giới bắt đầu chất vấn về các biện pháp do chính
quyền Kennedy vận dụng vào cuộc chiến chống lại Chủ nghĩa cộng sản. Lập trường
không thỏa hiệp của Diệm đối với các tín đồ Phật giáo được truyền thông quốc tế
ghi nhận tỉ mỉ như là một tình huống đã chuyển biến thành một cuộc khủng hoảng
chính trị toàn diện. Ngoài ra, việc Diệm không được lòng dân còn trở nên tồi tệ
hơn bởi những tuyên bố bài Phật giáo công khai và thường xuyên của người em dâu
– bà Ngô Đình Nhu – trước truyền thông Mỹ, cho dù tất cả những tuyên bố này
Diệm đều không phản đối. Sau nhiều nỗ lực thất bại nhằm thúc đẩy Diệm hướng đến
những hành động hòa giải đối với các tín đồ Phật giáo, các tin tức truyền thông
mang tính tiêu cực quá mức và sau đó là công luận quốc tế về Diệm và cuộc khủng
hoảng Phật giáo đã đóng vai trò trung tâm trong việc Washington quyết định ủng
hộ một cuộc đảo chính lật đổ Diệm.
Cuộc lật đổ Diệm gây tranh cãi
đã được nhiều sử gia tìm hiểu rộng rãi bởi nó được xem như một trong những bước
ngoặt trọng yếu của Chiến tranh Việt Nam. Tranh cãi tồn tại xung quanh những lý
do giải thích tại sao chính quyền Kennedy lại đi đến quyết định ủng hộ một cuộc
đảo chính. Vài sử gia lập luận rằng các cuộc đàm phán của Diệm với miền Bắc
Việt Nam đã khiến Washington ủng hộ cuộc đảo chính. Tuy nhiên, những tìm hiểu của
tôi, dựa trên việc phân tích các tư liệu chính phủ và tin tức truyền thông, lại
ủng hộ quan điểm cho rằng chính sự phản đối của công luận quốc tế dành cho Diệm
là yếu tố chủ chốt.
Trong cuộc tranh luận xung quanh
việc lật đổ Diệm, vài sử gia tập trung vào Cuộc khủng hoảng Phật giáo. Các sử
gia này tán thành chắc chắn rằng việc xử lý tình thế của Diệm đã góp phần lớn
vào việc ông ta trở thành gánh nặng đối với chính quyền Kennedy. Bài phân tích
này cho rằng dư luận giữ một vai trò nhất định, vì trở thành gánh nặng tức là
không được lòng dư luận, nhưng các tranh luận thường giảm bớt vai trò trung tâm
của truyền thông. Các sử gia như Philip E. Catton, Seth Jacobs và Howard Jones
tập trung vào ảnh hưởng của cuộc lật đổ Diệm lên sự can dự sau đó của Hoa Kỳ vào
miền Nam Việt Nam.[1] Các sử gia khác – chẳng hạn Ross A. Fisher, William
Conrad Gibbons và Francis X. Winters – đã cố gắng xác định những ai bên trong
chính quyền Kennedy chịu trách nhiệm cho quyết định sau cùng nhằm ủng hộ một
cuộc đảo chính chống lại Diệm.[2] Mặt khác, các sử gia John Prado và Ellen J.
Hammer thuật lại chi tiết cuộc khủng hoảng Phật giáo đã dẫn đến cuộc đảo chính
ra sao.[3]
Bài luận này gia tăng sức nặng
đáng kể cũng như bổ sung chi tiết mới vào quan điểm cho rằng Diệm đã trở thành
một gánh nặng gây trở ngại trong dư luận. Sự tập trung của tôi vào vai trò
truyền thông trong cuộc lật đổ Diệm cũng cho thấy truyền thông là một yếu tố
quan trọng định hình nên cuộc Chiến tranh Việt Nam trước cuộc Tổng tiến công
Tết Mậu Thân năm 1968 – sự kiện vốn được biết đến rộng rãi như một bước ngoặt
trong chiến tranh nhờ vào vai trò của báo chí.
Cuộc khủng hoảng Phật giáo bắt
đầu vào ngày 8 tháng 5 năm 1963, khi truyền thông quốc tế ghi nhận tin tức về
các vụ tấn công vô cớ của binh lính chính quyền Việt Nam Cộng hòa (Việt Nam CH)
nhằm vào những Phật tử biểu tình hòa bình tại Huế.[4] Một ngày trước đó, các
tín đồ Phật giáo đã treo cờ tại nhà và chùa trên khắp địa phận Huế để kỷ niệm
lễ Phật đản lần thứ 2507. Theo luật Nam Việt Nam (Nghị định số 189), chỉ có cờ
quốc gia Việt Nam được phép treo công khai.[5] Tuy nhiên, luật này hiếm khi có
hiệu lực, điển hình là việc các tín đồ Công giáo treo cờ giáo hoàng tràn lan
một tuần trước cuộc khủng hoảng Phật giáo nhân lễ kỷ niệm thụ phong chức tổng
giám mục cho Ngô Đình Thục – anh trai Diệm.[6] Vì vậy vào ngày Phật đản, các nỗ
lực thi hành Nghị định 189 của cảnh sát đã gặp phải sự phản kháng. Sau đó cảnh
sát tiến hành giật đổ các lá cờ tôn giáo. Ngày tiếp theo, các tín đồ Phật giáo
tức tối tập hợp tại đài phát thanh ở Huế, nơi bài diễn văn từ người lãnh đạo
của họ là hòa thượng Thích Trí Quang phản đối sự đàn áp thấy rõ của chính quyền
Việt Nam CH đối với tự do tôn giáo và sự thiên vị dành cho các tín đồ Công giáo
bị khước từ không cho phát sóng.[7] Khi những lời hô hào của Tỉnh trưởng không
giải tán được đám đông, quân đội chính quyền Việt Nam CH đã nổ súng và ném ít
nhất mười lăm quả lựu đạn vào đoàn biểu tình hòa bình, làm 9 người chết.[8]
Phản ứng của Diệm trước cuộc đổ
máu ngày 8 tháng 5 về cơ bản đã định hình những nỗ lực hòa giải đối với các tín
đồ Phật giáo xuyên suốt cuộc khủng hoảng. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, ông
ta có cớ để đổ lỗi cho những người Cộng sản, quả quyết rằng một Việt Cộng đã
ném lựu đạn vào đám đông, và rằng quân đội chính quyền Việt Nam CH chỉ nổ súng
nhằm bảo vệ những người biểu tình. Tuy nhiên, lập luận này chỉ làm mất uy tín
của chính quyền Việt Nam CH và khiến các tín đồ Phật giáo tức giận bởi không ai
tin vào điều đó. Các nhân chứng đã tận mắt chứng kiến quân đội chính quyền Việt
Nam CH mở đầu các vụ tấn công vào đám đông dù không có bất cứ khiêu khích
nào.[9] Vì Washington lập tức nhận ra khả năng gây kích động của cuộc tranh cãi
về Phật giáo này và dự đoán trước về ‘một vài phản ứng quốc tế đối với sự kiện’
nên họ đã hối thúc Diệm áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm hòa giải với các tín
đồ Phật giáo.[10] Tuy nhiên, thay vì có những nỗ lực tức thời nhằm khắc phục
tình hình, Diệm chỉ gặp mặt các lãnh đạo Phật giáo vào ngày 15 tháng 5, tạo
thời gian cho họ gia tăng bất bình.
Cuộc
tranh cãi về chuyện treo cờ nhanh chóng chuyển biến thành một cuộc khủng hoảng
chính trị. Các tín đồ Phật giáo thảo ra một tuyên ngôn năm điểm, trong đó đề ra
các mục tiêu chính trị của các cuộc biểu tình diễn ra sau đó, đồng thời yêu cầu
chính quyền Diệm:
1.
Cho phép treo cờ Phật giáo;
2.
Trao cho tín đồ Phật giáo các quyền bình đẳng như tín đồ Công giáo;
3.
Dừng các cuộc bắt bớ và khủng bố những người theo Phật giáo;
4.
Trao quyền tự do thuyết giáo và cử hành lễ nghi tôn giáo cho các tín đồ Phật
giáo;
5.
Bồi thường cho những người bị giết hại vào ngày 8 tháng 5, đồng thời trừng phạt
những kẻ phải chịu trách nhiệm về tội danh “giết người”.[11]
Trong
cuộc họp giữa chính quyền Việt Nam CH với giới Phật giáo, Diệm vẫn duy trì lập
trường cứng rắn đối với các tín đồ Phật giáo. Ông ta khẳng định rằng không có
sự đàn áp tôn giáo tại miền Nam Việt Nam và những bất công mà các tín đồ Phật
giáo gánh chịu cần phải quy cho nhà cầm quyền địa phương.[12] Trong khi Diệm
hứa hỗ trợ tài chính – một khoản khiêm tốn chỉ 500.000 đồng (7.000 USD) – cho
các gia đình nạn nhân, ông ta nhấn mạnh rằng chính quyền Việt Nam CH sẽ không
chịu trách nhiệm về các sự kiện diễn ra vào ngày mồng 8.[13] Chẳng có gì ngạc
nhiên khi cuộc họp này không thể xoa dịu các yêu cầu của các tín đồ Phật giáo.
Cách xử lý hời hợt tình trạng phân biệt đối xử tôn giáo của Diệm khó lòng được
các tín đồ Phật giáo đón nhận. Họ đã dùng đến các cuộc mít-tinh và biểu tình
quần chúng, tuyệt thực, và phổ biến văn chương phản kháng trên khắp Việt
Nam.[14] Các tín đồ Phật giáo sau đó trở thành một nhóm được xem là phe đối lập
chính trị.[15]
Vào những ngày đầu của cuộc
khủng hoảng Phật giáo, công chúng Mỹ và chính quyền Kennedy ít chú ý đến Việt
Nam. Truyền thông Mỹ tràn ngập hình ảnh các cuộc đấu tranh về quyền công dân
tại quê nhà. Vì vậy, Kennedy phải tập trung đối phó với các cuộc biểu tình
chống lại chính quyền của ông ta.[16] Tuy nhiên, từ buổi đầu của cuộc khủng
hoảng Phật giáo, các tín đồ Phật giáo đã thể hiện rõ ý định tranh thủ báo chí
phương Tây; họ mang theo những biểu ngữ bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, đồng
thời chọn một trong số ít những hòa thượng biết nói tiếng Anh làm người phát
ngôn nhằm cho phép những thông điệp của họ có thể tiếp cận độc giả quốc tế.[17]
Ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, trong khi tính hiệu quả truyền thông còn
chưa rõ rệt, các biểu ngữ này rõ ràng là một nỗ lực nhằm gửi đi thông điệp về
sự phản kháng của Phật giáo đến các bộ phận dân cư trên khắp thế giới. Những nỗ
lực này chắc chắn đã góp phần khiến cho Cuộc khủng hoảng Phật giáo lan rộng ra
quốc tế.
Khi tháng 6 đến gần, Cuộc khủng
hoảng Phật giáo đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Diệm áp dụng vũ lực ngày một
mạnh tay nhằm đàn áp các cuộc biểu tình chống chính quyền của ông ta, vốn đang
lan rộng khắp miền Nam Việt Nam .
Vào ngày 2 và 3 tháng 6, quân đội chính quyền Việt Nam CH đã trấn áp các cuộc
biểu tình Phật giáo tại thị xã Quảng Trị và thành phố Huế bằng hơi cay, chất
khí vốn gây khó thở và bỏng da.[18] Riêng ngày mồng 3, báo cáo cho hay 67 thanh
niên phải nhập viện và 3 người chết vì lý do này.[19] Ngày tiếp theo chứng kiến
gần 200 thanh niên tuyệt thực tại chùa Từ Đàm nhằm phản đối sự dã man và phân
biệt đối xử của chính quyền.[20] William Trueheart, đại biện lâm thời của Hoa
Kỳ tại Việt Nam, khăng khăng rằng Diệm đã đưa ra những nhượng bộ rộng rãi trước
các tín đồ Phật giáo nhằm giảm bớt căng thẳng. Điều đó khiến chính quyền
Kennedy thất vọng bởi
Cách xử lý thiếu khéo léo
của chính phủ đã cho phép một sự kiện cục bộ tại Huế phát triển thành một cuộc
khủng hoảng chính trị tiềm tàng. Vấn đề có thể gây ra những hậu quả nghiêm
trọng cho sự ổn định của chính quyền trừ khi Diệm có khả năng đạt được một sự
hòa giải nhanh chóng với các tín đồ Phật giáo.[21]
Một lần nữa, chịu sức ép từ
Washington, Diệm đã đàm phán với các lãnh đạo Phật giáo vào ngày 5 tháng 6. Lần
này, ông ta đã chấp nhận thêm các yêu cầu của các tín đồ Phật giáo và đưa ra
một tuyên bố trên đài phát thanh về các điều khoản của thỏa hiệp.[22]
Ngay khi cuộc khủng hoảng dường
như gần đi đến hồi kết thì các nỗ lực nhằm tạo dựng một thỏa hiệp của Diệm đã
bị bà Nhu phá vỡ. Bà đã phá hoại các cố gắng của chính quyền Việt Nam CH trong
việc nhượng bộ các Phật tử bằng những tuyên bố công khai bài Phật giáo. Một
ngày sau thỏa hiệp, thông qua Phong trào Phụ nữ Liên đới của mình, bà Nhu đã
đưa ra một nghị quyết đi ngược lại chính sách hòa giải của chính quyền trước
báo chí.[23] Nghị quyết chỉ trích những người biểu tình Phật giáo là những
người theo chủ nghĩa phản dân tộc ‘bị cộng sản lợi dụng và kiểm soát’.[24]
Trueheart nhấn mạnh rằng Diệm ‘đã bác bỏ nó’ bởi nghị quyết gây tổn hại cao độ
đến thỏa thuận hòa hoãn.[25] Quan trọng hơn, điều mà Trueheart bận tâm là
Tuyên bố [của bà Nhu] sẽ phá
vỡ sự ủng hộ của công chúng và Quốc hội Mỹ dành cho chính quyền Việt Nam CH.
Chính quyền Việt Nam CH không thể mong đợi chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ
và hỗ trợ chi phí đắt đỏ về nhân lực và vật lực trừ khi chính sách này [được]
người dân Hoa Kỳ hoàn toàn ủng hộ.[26]
Cuối cùng, điều này trở thành lý
do để chính quyền Kennedy quyết định ủng hộ một cuộc đảo chính lật đổ Diệm. Tuy
nhiên, Diệm từng tuyên bố rằng bà Nhu được tự do thể hiện quan điểm của
mình.[27] Với hành động này, Diệm đã đặt ra một tiền lệ khuyến khích bà Nhu về
sau trực tiếp đưa ra những tuyên bố công khai trước truyền thông phương Tây,
điều càng khiến độc giả quốc tế chắc chắn rằng chính quyền Việt Nam CH là một
nền độc tài tàn bạo.
Trong khi các tờ báo lớn dõi
theo tình hình ngày một xấu đi ở Việt Nam, Cuộc khủng hoảng Phật giáo vẫn chưa
chiếm vị trí trung tâm của tin tức thế giới cho đến ngày 11 tháng 6 năm 1963.
Việc đưa tin về đề tài Phật giáo của tờ tạp chí Time phát hành hàng
tuần đã thể hiện điều này (tham khảo Hình 1). Trên thực tế, các bài báo nói về
cuộc khủng hoảng chỉ được xuất bản vào tuần thứ ba của tháng 6, tuần lễ ngay
sau sự kiện vốn thu hút sự tập trung của quốc tế vào chính quyền Việt Nam CH và
buộc độc giả quốc tế phải chất vấn về sự dính líu của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963,
lão hòa thượng Thích Quảng Đức 73 tuổi ngồi tại một ngã tư nối hai con phố chính
của Sài Gòn. Trước sự chứng kiến của khoảng 350 người biểu tình cùng những
người đi đường hiếu kỳ, ông đã tự thiêu đến chết.[28] Phía sau là biểu ngữ bằng
tiếng Anh và tiếng Việt với dòng chữ ‘Một tăng lữ Phật giáo tự thiêu vì năm
nguyện vọng của chúng tôi’.[29] Cảnh tượng này được duy nhất hai phóng viên Hoa
Kỳ ghi lại, những người đã không bỏ qua lời mách nước từ một đại diện Phật giáo
rằng sẽ có “điều quan trọng” xảy ra ngày hôm đó.[30] Phóng viên tờ New York
Times David Halberstam đã miêu tả rõ cảnh tượng mà ông chứng kiến ‘Lúc tự
thiêu, ông ấy không ngồi bất động, không thốt ra một âm thanh nào, vẻ điềm tĩnh
bên ngoài của ông trái ngược hẳn với những người đang rền rĩ kêu khóc xung
quanh ông’.[31]
Ngay cả những người không có mặt
tại hiện trường cũng bị lay động bởi bài tường thuật của Halberstam và sự hy
sinh của vị hòa thượng. Malcolm Browne, một phóng viên của hãng Associated
Press cũng hiện diện và giữ đủ bình tĩnh để chụp ảnh. Khi các bức ảnh của
ông lên trang nhất báo chí ở khắp mọi nơi, những chỉ trích dành cho chính quyền
Diệm tăng lên nhanh chóng. Kennedy sau đó bình luận rằng ‘chưa có tin tức nào
trong lịch sử lại tạo ra quá nhiều xúc cảm trên khắp thế giới như tin tức
ấy’.[32] Sự hy sinh của Thích Quảng Đức đã khiến dư luận quay sang phản đối chế
độ Diệm; ngay cả Marguerite Higgins, một trong số ít những người ủng hộ Diệm
trong báo giới Sài Gòn cũng buộc phải ghi nhận tội lỗi của Diệm:
Tổng thống Ngô Đình Diệm
đang làm gì mà khiến các Phật tử này phải chọn một cái chết khủng khiếp là tự
thiêu như vậy?… Thực tế rằng [câu hỏi này] quy trước tội lỗi cho Diệm cũng
không khiến tôi băn khoăn chút nào… đó cũng là giả định của tôi.[33]
Tác động truyền thông của các vụ
tự thiêu là không thể phủ nhận. Hành động tự sát của Thích Quảng Đức đã thành
công trong việc hướng sự chú ý vào hoàn cảnh tuyệt vọng của các Phật tử ở miền
Nam Việt Nam .
Các cuộc biểu tình của họ đã đánh vào một giá trị mà người Mỹ nâng niu nhiều
nhất: quyền tự do tôn giáo.[34]
Nếu hành động tự sát của Thích
Quảng Đức không khiến dư luận quốc tế chú ý thì cuộc phỏng vấn của CBS với bà
Nhu chắc chắn làm được điều đó. Bình luận về vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức,
bà ta đã nhẫn tâm nói (bằng tiếng Anh – NBT) rằng “Các lãnh đạo Phật giáo đã
làm gì thế này?… Họ đã nướng barbecue một trong những hòa thượng của họ, người
đã bị họ đầu độc…’[35]
Đúng như dự đoán, Diệm khước từ
lên án tuyên bố của bà Nhu.[36] Cho tới lúc này, ngay cả những người Mỹ từng có
thiện cảm với chế độ của Diệm bằng cách tỏ thái độ ngờ vực (với sự việc) cũng
cảm thấy kinh sợ trước việc chính quyền coi vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức như
không có gì và việc Diệm khước từ lên án thái độ ấy.[37] Theo như nhận định của
Jacobs,
Bà Nhu… là em dâu của tổng
thống, bà sống trong dinh và giữ một ghế trong Quốc hội. Cũng là lẽ tự nhiên khi
cho rằng khi tổng thống không bác bỏ bà ta đã phát ngôn thay mặt chính phủ.[38]
CƯỚC CHÚ PHẦN 1/2
[1] Catton lập luận rằng việc lật đổ Diệm đã củng cố
cam kết của Mỹ với Nam Việt Nam, bởi ‘tình trạng lộn xộn về chính trị [kết quả
của việc lật đổ Diệm] đã phá hoại nỗ lực chiến tranh, vì thế dọn đường cho quá
trình Mỹ hóa cuộc xung đột đầy rủi ro’. Mở rộng tranh luận này, Howard Jones –
như tựa đề cuốn sách của ông cho thấy – đã nghiên cứu việc lật đổ Diệm, cùng
với vụ ám sát Kennedy, đã làm kéo dài cuộc Chiến tranh Việt Nam ra sao. Xem
Philip E. Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam,
Đại học Kansas, Kansas, 2002, trang 205; Seth Jacobs, Cold War
Mandarin: Ngo Dinh Diem and the origins of America’s war in Vietnam, 1950-1963,
Rowman & Littlefield, Lanham, Md., 2006, trang 185-189; Howard Jones, Death
of a Generation: How the Assassinations of Diem & JFK Prolonged the War, OUP,
New York, 2003.
[2] Fisher lập luận rằng ‘Diệm có một nhóm lớn những
người ngưỡng mộ cũng như những người chỉ trích bên trong chính quyền Kennedy,
biến vai trò của người Mỹ trong việc lật đổ ông ta thành một giai đoạn mà trong
đó như Robert Kennedy đã nói là ‘chính phủ chia làm hai’’. Ross A.
Fisher, ‘The Kennedy Administration and the Overthrow of Ngo Dinh Diem: What
Happened, Why Did It Happen, and Was It a Good Idea?’, trong Ross A. Fisher,
John Norton Moore và Robert F. Turner (eds.), To Oppose Any Foe: The Legacy
of U.S. Intervention in Vietnam, Carolina Academic Press, Durham, Bắc
Carolina, 2006, trang 4; William Conrad Gibbons, The U.S. Government and
the Vietnam War: Executive and Legislative Roles and Relationships, Part II:
1961-1964, Princeton University Press, Princeton, NJ., 1986; Francis X.
Winters, The Year of the Hare: America in Vietnam, January 25, 1963 –
February 15, 1964, University of Georgia Press, Athens and London, 1997.
[3] John Prados, The Hidden History of the Vietnam
War (Chicago: Ivan R. Dee, 1995); Ellen J. Hammer, A Death in
November: America in Vietnam, 1963 (New York: E.P. Dutton, 1987); Howard
Jones, Death of a Generation: How the Assassinations of Diem & JFK
Prolonged the War, OUP, New York, 2003.
[4] Năm 1963 là một năm thích hợp để các tín đồ Phật
giáo quyết định bắt đầu chủ động gây sức ép lên chính quyền vì quyền tự do tôn
giáo của họ. Đấu tranh Phật giáo bắt đầu từ thời thực dân Pháp cai trị vào thế
kỷ thứ 19 với sự thiên vị công khai dành cho người Việt theo Công giáo; do đó,
xuất hiện một tỷ lệ tập trung bất cân xứng về giáo dục và của cải dành cho nhóm
tôn giáo được thiên vị này. Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam phát triển vào thời
kỳ từ năm 1956 đến 1962, với số thành viên trong các hiệp hội Phật giáo gia
tăng đột ngột. Năm 1962, Tổng hội Phật giáo, đại diện bởi sáu trong số mười sáu
giáo phái Đại thừa ở miền Nam Việt Nam, xác nhận có khoảng 3.000 hòa thượng,
600 ni sư và 3 triệu Phật tử, bao gồm 70.000 đến 90.000 người thuộc các nhóm
thanh niên. Vì vậy, năm 1963, các tín đồ Phật giáo chiếm một tỷ lệ đáng kể
trong dân số Việt Nam. Tuy nhiên, sự tan rã của nền cai trị thực dân vào thập
niên 1950 đã không đồng hành với việc hủy bỏ các đạo luật bài Phật giáo do Pháp
áp đặt, chẳng hạn như Sắc lệnh số 10, vốn là trung tâm cho Cuộc khủng hoảng
Phật giáo. Đó là đỉnh cao của thứ mà Topmiller gọi là ‘thời kỳ Phục hưng của
Phật giáo Việt Nam’, thời kỳ mà các tín đồ Phật giáo giải tỏa cơn thịnh nộ sục
sôi của mình trước sự phân biệt đối xử của chính quyền. – Prados, The
Hidden History of the Vietnam War, trang 89-90.
[5] FRUS of the United States, 1961-1963, Volume
III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007 [sau đây gọi là FRUS]
[6] Như trên; Robert J. Topmiller, The Lotus
Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964-1966, University
Press of Kentucky, Kentucky, 2002, trang 2.
[7] John Helble, ‘Telegram From the Consulate at Hue
to the Department of State’ (9 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume
III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[8] Hai trong số những người chết là trẻ em. – Như
trên
[9] Sự mất uy tín của chính quyền Việt Nam CH được
minh họa bằng thất bại của một cuộc biểu tình do chính quyền bảo trợ – nhằm lên
án ‘hành động khủng bố của Việt Cộng tối ngày 8 tháng 5’ – nhằm lôi kéo sự chú
ý. Trong khi đó, một cuộc biểu tình do các lãnh đạo Phật giáo ở chùa Từ Đàm,
Huế tổ chức vào ngày 10 tháng 5 đã thu hút được năm đến sáu ngàn Phật tử tham
gia. – John Helble, ‘Telegram From the Consulate at Hue to the Department of
State’ (2a.m., 10 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam,
January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; Frederick Nolting,
‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (18 tháng 5
năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn
nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[10] John Helble, ‘Telegram From the Consulate at Hue
to the Department of State’ (3p.m., 10 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963,
Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; Dean Rusk,
‘Telegram From the Department of State to the Embassy in Vietnam’ (9 tháng 5
năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn
nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[11] Các tín đồ Phật giáo cũng đề xuất Diệm bãi bỏ một
đạo luật do Pháp áp đặt, Sắc lệnh số 10, vốn gán cho Phật giáo cái tên “hiệp
hội” thay vì tôn giáo, và vì vậy để thực hiện bất kỳ hoạt động công khai nào,
Phật tử phải được chính quyền cho phép. Mang tính phân biệt đối xử một cách rõ
rệt, Sắc lệnh số 10 còn quy định rằng ‘một địa vị đặc biệt sẽ được giành…cho
các hội truyền giáo Tin lành và Công giáo’. ‘Manifesto of Vietnamese Buddhist
Clergy and Faithful’ (10 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III,
Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963.
[12] Đáp lại bản tuyên ngôn, Diệm tuyên bố cả dân Công
giáo và Phật giáo đều có lỗi trong việc ‘sử dụng bừa bãi’ cờ tôn giáo và lá cờ
quốc gia phải giữ vị trí tối cao. William Trueheart, ‘Telegram From
the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (30 tháng 5 năm 1963), FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; Nolting, ‘Telegram
From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (18 tháng 5 năm 1963).
[13] Nolting, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to
the Department of State’ (18 tháng 5 năm 1963); Jacobs, Cold War Mandarin, trang
144.
[14] Nolting, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam to
the Department of State’ (18 tháng 5 năm 1963).
[15] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in
Vietnam to the Department of State’ (31 tháng 5 năm 1963), FRUS, 1961-1963,
Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[16] Khi nhân viên Hội đồng An ninh Quốc gia Michael
V. Forrestal đưa ra bản báo cáo về các cuộc biểu tình Phật giáo ở Huế, Kennedy
thực sự đã hỏi ‘Những người này là ai?’ John F. Kennedy được Seth Jacobs dẫn
lời trong Cold War Mandarin: Ngo Dinh Diem and the origins of America’s war
in Vietnam, 1950-1963, Rowman & Littlefield, Lanham, Md., 2006, trang
144.
[17] Cụ thể là, vào ngày 10 tháng 5, một đoàn người
gồm năm đến sáu ngàn Phật tử có mặt tại chùa Từ Đàm, giơ cao biểu ngữ viết bằng
tiếng Anh: ‘hãy giết chúng tôi đi, sẵn sàng đổ máu, các tín đồ Phật giáo và
Công giáo đều bình đẳng. Bãi bỏ Sắc lệnh số 10, yêu cầu ngừng bắt bớ và bắt
cóc; ngọn cờ Phật giáo sẽ không bao giờ hạ xuống’. Helble, ‘Telegram From the
Consulate at Hue to the Department of State’ (3p.m., 10 tháng 5 năm 1963).
[18] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in
Vietnam to the Department of State’ (3 tháng 6 năm 1963), FRUS, 1961-1963,
Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; William Trueheart,
‘Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State’ (4 tháng 6
năm 1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn
nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[19] John Helble, ‘Telegram From the Embassy in
Vietnam to the Department of State’ (2p.m., 3 tháng 6 năm 1963), FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[20] Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam
to the Department of State’ (4 tháng 6 năm 1963).
[21] ‘Current Intelligence Memorandum Prepared in the
Office of Current Intelligence, Central Intelligence Agency’ (3 tháng 6 năm
1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn
nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[22] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in
Vietnam to the Department of State’ (1p.m., 6 tháng 6 năm 1963), FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[23] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in
Vietnam (Trueheart) to the Department of State (Hilsman)’ (1a.m., 9 tháng 6 năm
1963), FRUS, 1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn
nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[24] ‘Resolution issued by the Central Committee of
the Women’s Solidarity Movement of Vietnam’ trích trong ‘Telegram From the
Embassy in Vietnam to the Department of State’ (8 tháng 6 năm 1963), FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[25] Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam
(Trueheart) to the Department of State (Hilsman)’ (1a.m., 9 tháng 6 năm 1963).
[26] Dean Rusk, ‘Telegram from the Department of State
to the Embassy in Vietnam’ (12.55p.m., 8 tháng 6 năm 1963), FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[27] Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in Vietnam
(Trueheart) to the Department of State (Hilsman)’ (1a.m., 9 tháng 6 năm 1963).
[28] David Halberstam, The Making of a Quagmire (New
York: Random House), trang 211; Jacobs, Cold War Mandarin, trang
147-149.
[29] William Trueheart, ‘Telegram From the Embassy in
Vietnam to the Department of State’ (trưa, 11 tháng 6 năm 1963), FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[30] Jacobs, Cold War Mandarin, trang 147.
[31] Halberstam, The Making of a Quagmire, trang
211.
[32] Henry Cabot Lodge trích lời John F. Kennedy,
‘Oral history interview with Henry Cabot Lodge, 4 tháng 8 năm 1965’, FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
[33] Marguerite Higgins, Our Vietnam Nightmare, Harper
and Row, New York, 1965, trang 2-3.
[34] George Ball, ‘Telegram from the Department of
State to the Embassy in Vietnam’ (8.52p.m., 1 tháng 7 năm 1963), FRUS,
1961-1963, Volume III, Vietnam, January-August 1963, dẫn nguồn từ: http://www.state.gov/r/pa/ho/frus/kennedyjf/iii/8163.htm, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007; Topmiller, The
Lotus Unleashed, 3.
[35]Bà Ngô Đình Nhu, ‘Madame Nhu’s Response to Thich
Quang Duc’ (video), dẫn nguồn từ http://youtube.com/watch?v=d_PWM9gWR5E truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2007.
[36] Diệm thậm chí tán thành điều này trên một kênh
phát thanh, cho rằng ‘một số người đã mê muội và gây ra cái chết không đáng,
khiến tôi rất lấy làm tiếc’. David Halberstam trích lời Ngô Đình Diệm, ‘Diem
Asks Peace in Religion Crisis’, New York Times, 12 tháng 7 năm 1963,
trang 3; “Trial by Fire”, Time, 21 tháng 6 năm 1963, dẫn nguồn từ http://www.time.com/magazine/article/0,9171,874895,00.html truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2007.
[37] Ngay cả Higgins cũng thừa nhận rằng tuyên bố
“nướng barbecue” là “man rợ”, đồng thời nêu rõ những ý kiến phản đối của người
Mỹ trước sự vô cảm của bà Nhu:
Bất cứ ai có
thể đưa ra nhận xét quá sức vô cảm và nhẫn tâm thì chắc chắn có đủ khả năng trở
thành phạm nhân trong một vụ tra tấn, ngược đãi và các vụ việc trầm trọng hơn
thế.
Higgins, Our Vietnam Nightmare, trang 59-60.
[38] Jacobs, Cold War Mandarin, trang 149.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét