ĐỨC
PHẬT VÀ SỰ YÊN LẶNG
TRƯỚC
NHỮNG CÂU HỎI SIÊU HÌNH
Hoang
Phong
Có một số câu hỏi đã được
nêu lên để hỏi Đức Phật, nhưng Ngài không trả lời vì đó là những câu hỏi đặt
sai và vô ích. Bám viu vào những câu hỏi ấy bằng những biện luận thuần lý sẽ
rơi vào cạm bẫy của sự hiểu biết quy ước, công thức và nhị nguyên. Cạm bẫy ấy
sẽ đưa đến tranh luận vô tận và thắc mắc tiếp nôi nhau, đánh lạc hướng sự tu
tập. Nhiều vị thầy sống đồng thời với Đức Phật, tức là vào thế kỷ thứ VI trước
Tây lịch, đã từng chũ xướng nhiều chủ thuyết trong lãnh vực triết học siêu
hình. Nhưng Đức Phật đã che chở cho các đệ tử của Ngài tránh khỏi những cạm bẫy
ấy, không phải bằng cách cấm đoán, bằng biện luận hay giải thích, mà bằng sự
yên lặng. Có tất cả 14 câu hỏi đại loại như sau mà Phật không giải
đáp:duc-Phat-yen-lang
1.
Vũ trụ có trường tồn bất
diệt hay không?
2.
Vũ trụ không trường tồn bất
diệt?
3.
Vũ trụ đồng thời vừa trường
tồn bất diệt, vừa không trường tồn bất diệt?
4.
Vũ trụ đồng thờivừa không
trường tồn bất diệt cũng không phải la không trường tồn bất diệt?
5.
Vũ trụ có biên giới hay
không?
6.
Vũ trụ có vô biên hay không?
7.
Vũ trụ đồng thời vừa có giới
hạn lại vừa vô biên?
8.
Vũ trụ đồng thời không phải
là có giới hạn, nhưng cũng không phải là không có giới hạn?
9.
Sự sống và thân xác là một
thứ như nhau?
10. Sự sống và thân xác có phải là hai thứ khác nhau?
11. Một sinh linh được giải thoát có hiện hữu sau khi
chết hay không?
12. Một sinh linh được giải thoat không còn hiện hữu sau
khi chết?
13. Một sinh linh đượcgiải thoát hiện hưu nhưng đồng
thời cũng không hiện hữu sau khi chết?
14. Một sinh linh đượcgiải thoát, đồng thời không hiện
hữu cũng không phải là không hiện hữu sau khi chết?
Trên đây là những gì kinh Cula-Malunkya-sutta đã ghi chép lại, bộ
kinh này trình bày “Những câu hỏi vô ích” do một đệ tử của Phật tên là
Malunkyaputta nêu lên để hỏi Đức Phật. Ngài không trả lời trực tiếp những câu
hỏi ấy, nhưng hướng những thắc mắc của Malunkyaputta vào những gì thiết thực
hơn: những khổ đau đang diễn ra trước măt và những gì đang làm cho
Malunkyaputta phải bấn loạn trong tâm thức:
“ Này
Malunkyaputta, mặc dù có một quan điểm theo đó vũ trụ vô tận và có một quan
điểm [khác] theo đó vũ trụ không vô tận, nhưng trước nhất phải hiểu rằng có
sinh, có già, có chết, có khổ, có than khóc,có đớn đau, xót xa và tuyệt vọng.
[Đối với] Ta, Ta [chỉ] giảng [cho con] về sự chấm dứt những thứ ấy trong thế
giới này, trong chính sự sống này. Vì thế, này Malunkyaputta, hãy giữ lấy trong
tâm những gì Ta giảng, đúng như Ta đã giảng, và những gì Ta không giảng, đúng
như Ta không giảng…”
(Trích kinh Cula-Malunkya-sutta, bản dịch tiếng Pháp của Mohan Wijayaratna)
Kinh sách có chép câu chuyện
như sau: một người bị tên tẩm thuốc độc, nhưng không chịu nhổ mũi tên và băng
bó, chỉ thắc mắc về người bắn mũi tên và dây cung làm bằng loại gì, việc bào
chế thuốc độc ra sao…nếu tiếp tục thắc mắc như thế, người này sẽ chết trước khi
tìm được giải đáp cho thắc mắc ấy. Đức Phật không phải là một giáo chủ áp đặt
những giáo điều, cũng không phải là một triết gia hay khoa học gia để đưa ra
những lời giải thích về vũ trụ hay những biện luận siêu hình, Đức Phật là một
vị Thầy tâm linh chỉ dẫn cho ta nhìn thấy bản chât sự hiện hữu của chính ta,
đồng thời Đức Phật cũng là một vị Lương y chữa chạy cho ta thoát khỏi khổ đau
để tìm thấy sự an vui đích thực và lâu bền. Sau đây là một đoạn khác trong kinh
Cula-Malunkya-sutta nhắc lại tính cách vô bổ của những biện luận siêu hình và
thuận lý:
“ Sự hiểu biết
những thứ ấy không giúp cho sự thăng tiến trên đường tu tập, vì nó chẳng lợi
ích gì cho sự an bình và giác ngộ. Những gì lợi ích cho sự an bình và giác ngộ
mà Đức Phật thuyết giảng cho các đệ tử của Ngài là những điều sau đây: sự thật
về khổ đau, nguồn gốc của khổ đau, sự loạibỏ khổ đau, con đường đưa đến sự loại
bỏ khổ đau”.
(Trích kinh Cula-Malunkya-sutta, bản dịch của
Etienne Lamotte)
Thay vì Đức Phật tham dự vào
những biện luận vô tận của nhị nguyên và quy ước, Ngài đã lôi Malunkyaputta trở
về thực tế để nhìn thẳng vào bản chất thực sự của thực tại. Phật đã trao cho
người đồ đệ Malunkyaputta và cho cả chúng ta hôm nay một viên thuốc thật mầu
nhiệm, nhưng Phật không hề đề cập gì đến kích thước của vũ trụ. Khi viên thuốc
của đạo pháp đã ngấm vào tâm thức ta, làm tan biến những độc tố của vô minh,
bản thể vũ trụ sẽ hiện ra với ta một cách minh bạch, không cần phải hỏi Phật
cái vũ trụ đó có bất diệt hay không.
Yên lặng là một cánh cửa mở
rộng, là không gian vô tận, thắc mắc thuần lý là một hành vi khép lại, một thể
dạng của nhị nguyên và trói buộc. Nếu suy ngẫm kỹ lưỡng, ta sẽ nhận thấy đặc
tính thật tinh tế trong cách trình bày cũng như các lời giảng của Phật trong
kinh sách. Chẳng hạn như cách trình bày các câu hỏi trong kinh
Cula-Malunkya-sutta trên đây, mỗi thắc mắc được nêulên tuần tự bằng bốn câu
hỏi:
- Vũ
trụ bất diệt?
- Vũ
trụ không bất diệt?
- Vũ
trụ vừa bất diệt vửa không bất diệt?
- Vũ
trụ vừa không bất diệt cũng không phải là không bất diệt?
Nểu chỉ đặt một câu hỏi duy
nhất: vũ trụ có bất diệt hay không?
Câu hỏi sẽ “ thiếu sót”, tính cách phiến diện sẽ đưa đến sự tranh cãi triền
miên. Phần thứ hai của câu hỏi; vũ trụ có phải là không bấtdiệt hay không?
Haicách trình bày của câu hỏi nêu lên tính cách đối nghịch của nhị nguyên: có
và không. Phần thứ ba và thứ tư của câu hỏi: vũ trụ vừa bất diệt lại vừa không
bất diệt, vừa không bất diệt cũng không phải là không bất diệt, là cách hóa
giải toàn bộ cho câu hỏi, sự thắc mắc trở nên vô nghĩa. Tóm lại, một câu hỏi
nếu “đầy đủ” sẽ có sẳn câu trả lời là như vậy, sự yên lặng của Phật thật vô
cùng sâu sắc.
Ta hãy nhìn vấn đề trên đây
dưới một khía cạnh khác. Khi hỏi Phật về vũ trụ có bất diệt hay không, thì
chính Malunkyaputta đã vô tình vướng mắc vào các lầm lỗi như sau:
- Xem
vũ trụ là một tổng thể rõ rệt, trong khi đó vũ trụ chỉ là một sự cấu hợp hỗn
tạp.
- Xem
vũ trụ đang hiện hữu một cách vững chắc, nhưng vũ trụ chỉ là sản phẩm của vô
thường.
- Xem
vũ trụ là một thực thể bên ngoài tâm thức, nhưng thật ra vũ trụ chỉ là một
phóng ảnh của tâm thức.
Những lỗi lầm thô thiển như
thế cho thấy câu hỏi của Malunkyaputta là một câu hỏi đặt sai. Tuy nhiên, như
vừa trình bày trên đây, phần thứ ba và thứ tư của câu hỏi liên quan đến thắc
mắc về vũ trụ có phải vừa là bất diệt lạ cũng vừa không bất diệt đã gián tiếp
hóa giải có và không, hiện hữu và không hiện hữu, tức những lạm dụng của ngôn
từ nhị nguyên.
Câu hỏi của Malunkyaputta có
vẻ như hữu lý, nhưng thật ra vô nghĩa, vô nghĩa vì dựa vào cách diễn đạt quy
ước, công thức và đối nghịch. Cũng xin minh chứng thêm với các nhà khoa học và
các triết gia là những người Phật giáo đi tìm sự thật tuyệtđối, một sự thật
đúng thật của thực tại, thoát khỏi bản chất ảo giác, vô thường và biến động, sự
thực ấy người Phật giáo gọi là sự thực tuyệt đối của hiện thực. Họ không đi tìm
sựthực mang tính cách tương đối, xác định bởi sự quan sát, mô tả, đo đạc, những
lập luận dựa trên toán học hay các giả thuyết của người làm khoa học và đồng
thời cũng không dựa vào những những biện luận duy lý của các triết gia.
Tóm lại, sự yên lặng của
Phật là một phương pháp cắt đứt quá trình tư duy thuần lý, phá bỏ tính cách quy
ước và công thức của ngôn từ, kể cả sự hiểu biết tương đối của khoa học và sự
hiểu biết thuần lý của các triết gia. Sự hiểu biết trong Phật giáo là một sự
hiểu biết trực nhận bằng kinh nghiệm, phát hiện bằng tu tập và bằng cách biến
cải tâm linh, một sự hiểu biết siêu nhiên, trong sáng và tuyệt đối. Sự hiểu
biết ấy gọi là Trí tuệ.
HOANG PHONG
Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số
58
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét