THẢO LUẬN VỀ
“THOÁT TRUNG VỀ VĂN
HÓA”
TRÊN VĂN VIỆT
Hoàng Hưng
Văn Việt: Buổi hội thảo “THẢO LUẬN “THOÁT TRUNG VỀ VĂN HOÁ” TRÊN VĂN VIỆT”
tại trụ sở Hội Liên hiệp Khoa học Kỹ thuật Việt Nam do Quỹ Phan Châu Trinh và
NXB Tri Thức tổ chức chiều 15/8/2014 đã có sự tham dự đông đảo, đặc biệt là
thành phần trẻ có tỷ lệ đáng kể. Nhà thơ Hoàng Hưng thay mặt Văn Việt đã tóm
lược những ý kiến chính đã đăng tải trên Văn Việt về chủ đề “Thoát Trung về Văn
hoá”.
Các ý kiến phát biểu sôi nổi khá đa dạng, đa chiều, đặt ra nhiều
vấn đề cần suy nghĩ và tiếp tục đào sâu, cụ thể hoá. Đây cũng là dịp Văn Việt
công khai xuất hiện chính danh như một diễn đàn văn hoá nghiêm túc, có trách
nhiệm xã hội, có vị trí trong công chúng văn hoá nước nhà.
Cuộc thảo luận “Thoát Trung về Văn hoá” do Văn Việt mở từ cuối
tháng 6/2014 đến hôm nay (15/8/2014) đã đăng 19 bài, có một số bài lấy từ các
trang mạng khác. Các tác giả khá đa dạng về lĩnh vực hoạt động và địa bàn cư
trú, gồm nhà hoạt động chính trị, xã hội, nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo,
dịch giả… trong và ngoài nước. Đến đây ta có thể nhìn lại một số ý kiến chính
đã được nêu trong các bài viết, nhằm nhận rõ những gì đã có thể coi là khá
thống nhất, những gì còn khác biệt, những gì cần tiếp tục thảo luận để nhận
thức sáng tỏ và thiết thực hơn về chủ đề lớn này.
Xin lưu ý:
1/Những khái niệm bao quát thường gặp trong cuộc thảo luận này
như “văn hoá”, “dân tộc” có nội hàm rất phong phú, có thể hiểu theo nhiều cách,
nhiều tầng, nhiều cung bậc, tùy theo phạm vi và mục đích sử dụng. Thậm chí gần
đây theo nhà nghiên cứu Trần Quang Đức thì triều đình Việt từng nhiều lần tự
xưng là Trung Quốc, Hoa Hạ, một số nhà nho đầu TK 20 như Hoàng Cao Khải nói
“Dân tộc Nam ta là Hán tộc không còn nghi ngờ gì nữa”… cho thấy sự phức tạp và
biến chuyển trong sự giao thoa, tiếp biến kéo dài mấy nghìn năm trong quan hệ
Trung-Việt, Bắc-Nam.
2/ Những bài viết trên Văn Việt về chủ đề “Thoát Trung về văn
hoá” không mang tính thuần túy học thuật, mà có ý nghĩa “thực dụng”, bàn những
vấn đề cấp bách về chính trị xã hội của đất nước, các văn bản cũng không phải
những tiểu luận chỉn chu mà chỉ là những ý kiến sơ khởi.
A/ NHỮNG Ý KIẾN KHÔNG
ĐỒNG TÌNH
Ngay từ khi Văn Việt tuyên bố mở mục, đã có một số ý kiến không
tán thành xuất hiện trên mạng, tiêu biểu là của nhà báo Phạm Thành gửi cho Văn
Việt: 1/ Văn hoá Việt đồng nghĩa văn hoá Trung Hoa nên nói thoát văn hoá Trung
là hủy văn hoá Việt. 2/ Vấn đề cấp thiết hiện nay là thoát Trung về chính trị
chứ không phải văn hoá.
“Cho nên đặt vấn đề thoát Trung về văn hóa để
thảo luận đồng nghĩa với việc đặt vấn đề tiêu tùng văn hóa Việt, người Việt.
Đó là lý do mà trong một ngàn năm người Việt có chính quyền nhà
nước, chưa từng có triều đại nào đặt đề thoát Trung về văn hóa như mấy nhà điều
hành mạng vanviet.info đang phát động.
Nhưng, mặc dù học tập và ứng dụng đại trà Văn hóa Trung Hoa vào
nước Việt nhưng người Việt vẫn giữ gìn được bờ cõi cương vực, và mặc dù triều
đại nào của nước Trung Hoa cũng đưa quân xâm lược nước Việt, rốt cuộc chúng nó
vẫn bị đánh cho tơi bời, buộc phải cong đuôi rút chạy về nước.”
(Phạm Thành – Thảo luận kiểu chọc tiết lợn đằng đít)
Cũng có một số ý kiến cho rằng việc học văn hoá Trung Hoa để
chống lại Trung Hoa là cần thiết, như học Khổng là thiết yếu để xây dựng nhà
nước phong kiến tập quyền Việt Nam để bảo vệ độc lập.
Ý kiến văn hoá Việt đồng nghĩa hoặc chịu ảnh hưởng rất quan trọng
(theo hướng tốt) của văn hoá Trung Hoa cũng được chia sẻ ở các mức độ khác
nhau, như hai dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng và Trần Đĩnh đều nhấn mạnh giá trị và
sự hấp dẫn không thể phủ nhận của văn học Trung Hoa xưa, điện ảnh Trung Quốc
bây giờ. Hai tác giả cảnh báo phải thận trọng khi nói đến văn hoá, một vấn đề
“rất trừu tượng mà cũng rất cụ thể” (Trần Đĩnh) và không được sa vào chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi (Trần Tiễn Cao Đăng, Trần Đĩnh), vì văn hoá Trung Hoa là sản
phẩm tốt đẹp của nhân dân Trung Hoa qua ngàn năm lịch sử.
B/ Ý NGHĨA THỜI SỰ CỦA
CUỘC THẢO LUẬN “THOÁT TRUNG VỀ VĂN HOÁ”.
Như vậy câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là: Cuộc thảo luận “Thoát
Trung về văn hoá” có thật sự cần thiết? Cuộc vận động “Thoát Trung” nói chung
đang diễn ra sôi sục hiện nay trong lòng xã hội Việt Nam có ý nghĩa thiết thực
gì?
1/ Văn hoá mà Văn Việt đặt vấn đề thảo luận đã được giới thuyết
theo nghiã rộng:
“Văn hoá xin được hiểu theo nghĩa bao gồm các giá trị tinh thần
như ý thức tư tưởng, triết lý, đạo đức, tâm linh, lối sống,… Như thế, Văn hoá
chính là nền tảng sâu xa và lâu bền của sức mạnh dân tộc. Không thể “thoát
Trung” về kinh tế, an ninh, chính trị… nếu không xuất phát từ “thoát Trung về
Văn hoá” (Lời mời tham gia thảo luận)
2/ “Thoát Trung về chính trị” thật ra cũng là “thoát
Trung về văn hóa”. Vì chính trị (quan niệm về chính trị,
cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước…) thực ra cũng là một bộ phận cấu thành và
làm nên những thang giá trị văn hóa trong tiến trình lịch sử của một
dân tộc.
(Quách Hạo Nhiên – “Thoát Trung” hay “thoát Mác –
Lênin”?)
“Nền quốc chính là sản phẩm của văn hóa vừa là tác nhân, nhân tố
quan trọng nhất để xây dựng, bảo tồn và phát triển văn hoá của Dân tộc. Phải có
nền văn hoá đúng, tốt và đẹp mới tạo ra được nền chính trị của đất nước Đúng –
Tốt – Đẹp…”
(Nguyễn Khắc Mai – Giữ gìn và phát triển nền văn hoá dân
tộc với 7 chữ Quốc)
3/ Sự phụ thuộc toàn diện của Việt Nam vào China trong nhiều năm
qua trong đó phụ thuộc văn hoá là nghiêm trọng:
- Không thể coi là ngẫu nhiên những việc như truyền hình dày đặc
phim Tàu, phố xá đầy đèn lồng Tàu, sư tử Tàu nhảy vào án ngữ đền chùa, sách cho
thiếu nhi in hình cờ China là cờ Tổ quốc…
- Việt Nam là phiên bản của Tàu, đặc biệt về tư duy: Theo GS
Nguyễn Văn Tuấn (Australia): “Nói “tương đồng” thì có vẻ oai, chứ Tàu nó chỉ
xem Việt Nam chỉ là một phiên bản của họ. Chính vì thế mà các quan chức Tàu có
thể hống hách và ngổ ngáo trong các tuyên bố như là lời phán của cha mẹ dành
cho con. Việt Nam có vùng vẫy hay suy nghĩ gì thì Tàu cũng đoán trước được, vì
Việt Nam chỉ học từ Tàu thôi, và đâu có thầy nào (nhất là thầy Tàu) mà dạy cho
trò 100% sở trường. Sự lệ thuộc ngoại bang nó ghê gớm ở chỗ làm cho dân tộc
không còn tự chủ và độc lập trong suy nghĩ, và người ngoài nhìn vào với ánh mắt
khinh thường.”
(Nguyễn Văn Tuấn – Một bản sao của Tàu)
- Tình trạng thần phục mù quáng văn hoá China:
Dịch giả Trần Đĩnh phân biệt sự tiếp nhận ảnh hưởng văn hoá có
sáng tạo với sự mù quáng thần phục. Ông thí dụ: “Marx nêu khẩu hiệu “Vô sản
toàn thế giới liên hiệp lại” nhưng sang đến ta thì trở thành”Anh em vô sản bốn
phương một nhà”, “Bốn phương vô sản đều là anh em”. Quan hệ “liên hiệp” tức
bình đẳng biến dạng thành quan hệ “anh em một nhà”, nhất là “một nhà” kiểu gia
đình Á Đông tức là có trên, có dưới thì chết rồi! Từ kháng chiến chống Pháp,
chúng tôi đã được giáo dục để rất tự hào có hai ông anh Liên Xô, Trung Quốc!
Tức là chúng ta đã quá quen với thứ quan hệ “nương tựa”, “trên bảo dưới nghe”
chứ không phải đoàn kết trên cơ sở bình đẳng. Cho nên thoát Trung về văn hoá là
thoát cái quan hệ phụ thuộc, thần phục ấy.”
(Trần Đĩnh – Trao đổi với Văn Việt)
4/ China rất ý thức “bá quyền văn hoá” và dùng văn hoá để ràng
buộc Việt Nam:
Không phải ngẫu nhiên trong hội nghị Thành Đô, Giang Trạch Dân
“ban” cho các đối tác Việt Nam 16 chữ vàng trong đó 8 chữ là “lý tưởng tương
thông, văn hoá tương đồng”.
Đến đây ta có thể nói: quan hệ giữa thoát Trung về chính trị và
thoát Trung về văn hoá là quan hệ tương tác rất căn bản, muốn thoát Trung về
chính trị không thể không thảo luận về nền tảng văn hoá của sự phụ thuộc chính
trị (xét về lâu dài) cũng như ngược lại, ngay lúc này, muốn thoát Trung về văn
hoá lại phải bắt đầu bằng thoát Trung về chính trị.
Vấn đề bây giờ là: xác định cái gọi là văn hoá Trung Hoa mà hôm
nay ta phải thoát nó là cái gì? hoặc những gì trong cái văn hoá ấy?
C/ THOÁT TRUNG VỀ VĂN
HOÁ LÀ THOÁT CÁI GÌ?
“Văn hoá Trung Hoa” là khái niệm quá lớn và phong phú để mổ xẻ.
Ở đây có một điểm nhiều tác giả nhấn mạnh: Phân biệt văn hoá truyền thống của
nhân dân China với thứ văn hoá mà những kẻ thống trị áp đặt cho xã hội China,
nhất là tập đoàn Trung Nam Hải thời hiện đại:
“Tội của chúng thì đầy, nhưng nguy hiểm nhất vẫn là huỷ hoại nền
văn hoá Trung Hoa và tạo nên những thế hệ người máy chỉ biết suy nghĩ theo giáo
điều của đảng, không phân biệt được trắng với đen” (GS Nguyễn Văn Tuấn)
Dịch giả Trần Đĩnh cũng khẳng định: “Cần thấy sự khác biệt giữa
nền văn hoá truyền đời của người dân với cái chính sách văn hoá nhất thời mà
nhà chính trị chọn lựa”, “giới thống trị thoái hoá làm hỏng văn hoá dân tộc”.
Nhà thơ Hoàng Hưng cũng xác định rõ thoát Trung về văn hoá là
thoát cái văn hoá mà giai cấp thống trị phong kiến và các nhà chính trị hiện
đại của China đã xây dựng ở xã hội China và lan truyền khá mạnh ở xã hội Việt
Nam do mối quan hệ “môi răng” đặc biệt.
1/ Tư tưởng bành trướng bá quyền, chủ nghĩa dân tộc Đại Hán:
Đây là tư tưởng chủ đạo của nhà cầm quyền China từ nghìn năm
nay, càng trở nên mãnh liệt với tham vọng ngông cuồng trong thời hiện đại:
(Nguyễn Vi Khải – Nhận diện tư tưởng bành trướng thời
hiện đại)
GS Cao Huy Thuần phân tích nội hàm của danh xưng “Trung Hoa” và
“thiên hạ” trong tư duy chính thống của Trung Quốc ngàn năm và nhấn mạnh nguy
cơ của chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã được đẩy lên hết mức trong thời nay:
“Làn sóng thứ hai là dân tộc chủ nghĩa tấn công: nó nguy hiểm vì đến từ một
nước bá quyền. Nó càng nguy hiểm hơn khi cả một dân tộc sôi sục tấn công, hung
hăng đến nỗi cấp trên phải hãm bớt phanh, sợ chính mình cũng bị đốt cháy, sợ
không điều khiển nổi cơn lũ. Từ một ý thức hệ do Nhà nước đẻ ra để chính đáng
hóa lãnh đạo của mình, thứ “dân tộc chủ nghĩa Nhà nước”(“state
nationalism”) ấy đã trở thành “dân tộc chủ nghĩa xã hội”(social
nationalism) khi nó động viên được cả xã hội. Mearsheimer gọi thứ dân tộc chủ
nghĩa “bình dân” ấy của Trung Quốc ngày nay (popular nationalism) là “siêu
dân tộc chủ nghĩa” (hypernationalism)”
(Cao Huy Thuần – Trung Quốc muốn gì?)
Thoát khỏi tư tưởng bành trướng bá quyền, chủ nghĩa Đại Hán là
hết sức cần thiết, vì trong thực tế xã hội Việt Nam hôm nay còn có bộ phận
không nhỏ bị tư tưởng ấy khuất phục, thậm chí mê hoặc, dẫn đến tâm lý hèn yếu
cam phận chịu nhân nhượng, phụ thuộc, trở thành phiên quốc, thậm chí có thể…
làm “một khu tự trị” (GS Trần Ngọc Vương gọi là tâm thế “nam nhân bắc hướng”).
2/ Yếu tố phải
thoát khỏi trong văn hoá Trung Hoa ngày nay: nằm ở mặt Văn hoá chính
trị, mà cái gốc là ý thức hệ:
- Tư tưởng phản dân chủ của Khổng giáo kéo dài đến hôm nay:
Nhà báo Lê Phú Khải hình ảnh hoá bằng tên gọi “nền văn
hoá quỳ lạy”: “Điều nguy hiểm nhất của triết thuyết Khổng Tử là: Người quân
tử nhờ tu thân mà có vai trò cai trị, nhưng khi quân tử – tức kẻ cai trị –
không tu thân, trở thành những hôn quân bạo chúa thì dân chúng vẫn phải cam
chịu, không được làm cách mạng lật đổ chúng. Vì thế Nguyễn Khắc Viện mới viết: Khổng
Tử từ chối mọi cải cách! Trong xã hội Khổng giáo mấy ngàn năm ở Trung
Quốc, kẻ sĩ đi học là mong được làm quan. Làm quan để được quỳ lạy dưới ngai
vàng. Cáivăn hoá quỳ lạyấy đã kìm hãm nước Trung Hoa trong vòng tăm tối mấy
ngàn năm. Trong nền văn hoá quỳ lạy ấy, chỉ có kẻ trên đúng. Chỉ có vua đúng.
Vua bảo chết là phải chết. Cha bảo chết thì con phải chết. Tóm lại là không có
chân lý. Hay nói khác đi, không ai đi tìm chân lý cả. Chân lý đã có sẵn ở kẻ bề
trên, ở triều đại chính thống, bất kể nó thế nào!
…Nước Trung Hoa cộng sản hôm nay vẫn nguyên hình là một xã hội
Khổng Mạnh trá hình mà thôi!
(Lê Phú Khải – Giã từ nền văn hoá quỳ lạy)
Từ đó sinh ra thứ “văn hóa thảo dân”, tức tâm thức
chấp nhận sự bao cấp tư duy của người có quyền, tình trạng sợ hãi người có
quyền bao phủ xã hội:
“Người dân tự nhận mình là “thảo dân”… Thân phận người dân được
chính họ tự nhận là cây cỏ… Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ toàn trị,
tâm lý thảo dân càng có cơ sở để phát triển do người dân bị không chế toàn diện
cả về kinh tế lẫn chính trị. Nỗi sợ hãi bao trùm xã hội. Người dân sợ bị mất sổ
gạo (sổ mua lương thực), sợ con bị đuổi học, sợ bị đi tù. Từ nỗi sợ đó dẫn đến
tâm lý vâng lời, nghe theo cấp trên để được yên thân. Và, điều tai hại lớn là
sự vâng lời ấy dẫn đến sự bao cấp về tư tưởng”.
(Lê Phú Khải – Từ văn hoá quỳ lạy đến văn hoá “thảo dân”)
Nhà văn Nam Dao tức GS kinh tế Nguyễn Mạnh Hùng (Canada) gọi đó
là “hệ hình văn hoá Hoàng đế”:
“Văn hoá là nền tảng trầm tích của mọi tổ chức xã hội. Tổ chức
đó xây dựng trên cơ sở phân bổ những quyền lực của cộng đồng, tức quyền lực
chính trị. Những quyền lực ở Trung Quốc đó từ hàng ngàn năm nay là gì? […] xã
hội Trung Quốc xưa nay đóng băng trong một hệ hình gọi là hệ hình “hoàng đế’’.
Phải chăng Thoát Trung về văn hóa là thoát cái hệ hình đó?”. Tác giả khẳng định
hệ hình Hoàng đế thời Hậu Mao thể hiện ở thể chế “Vua tập thể”. (Nam Dao
– Thoát Trung?)
- Chủ nghĩa Marx-Lenin?
“Cái quyết định nhất chính là cái vòng kim cô mang tên chủ nghĩa
Mác – Lê (từ đây đẻ ra cái gọi là “ý thức hệ cộng sản” mà lãnh đạo chính quyền
Việt Nam mê muội, không chịu từ bỏ nên đã bị Trung Quốc lợi dụng). Về chuyện
này, dân gian đã khái quát rất hay qua câu thành ngữ có tính phản tỉnh là nếu “trâu
không uống nước thì ai đè đầu trâu” cho được?”
(Quách Hạo Nhiên – “Thoát Trung” hay “thoát Mác –
Lênin”?)
- “Thoát Trung” cần bắt đầu từ việc “đổi tên Đảng”.
Một việc nhỏ thôi nhưng chắc có hiệu quả nhiều mặt. Tôi đề nghị Đảng
Cộng sản Việt Nam thoát khỏi cái danh xưng “cộng sản”, cho khỏi trùng
hợp với cái tên của “Đảng Cộng sản Trung Quốc bành trướng xâm lược”.
(Phùng Hoài Ngọc – Đổi tên Đảng, trước hết, để
thoát Trung)
- Thực chất hơn nữa, và rút lại, chính là thoát ý thức hệ
độc tài, toàn trị:
Hoàng Hưng lập luận rằng thực tế Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng
đang tự thoát khỏi chủ nghĩa Marx-Lenin, xây dựng một xã hội tư bản man rợ, chỉ
giữ lại cái danh để che giấu cái thực là duy trì quyền toàn trị của một tầng
lớp đặc quyền.
Từ đó Hoàng Hưng nói đến cái Văn hoá Giả dối bao
trùm xã hội lâu nay:
“Một khi đã GIẢ DỐI từ những điều thiêng liêng nhất, thì nói còn
ai nghe: lòng dân không tin, không phục, ấy là mầm loạn lớn nhất; và trong khí
quyển giả dối ấy, chỉ những kẻ bất tài cơ hội man trá mới có đất dụng võ, người
trung thực sẽ bị vứt bỏ, bộ máy nhà nước sẽ suy yếu nhanh chóng, ấy là mầm loạn
lớn thứ nhì. Đó là ở bài này, mới chỉ nói trong phạm vi những vấn đề thời sự,
tôi chưa muốn bàn đến hệ lụy lâu dài mà SỰ GIẢ DỐI thống trị gần nửa thế kỷ
trên cả nước đã phá hủy rất căn bản nền tảng đạo đức xã hội của người Việt, mà
tôi coi đó là một tội ác lớn nhất của chủ nghĩa Stalin + Mao đối với dân tộc
ta.”
(Hoàng Hưng – Muốn thoát Trung, phải trung thực)
“Giải cấu trúc triết lý phát triển độc nguyên. Một chính đảng,
một tôn giáo có quyền giữ triết lý độc nguyên của mình. Nhưng một dân tộc thì
không. Nhân loại và các dân tộc tồn tại đến ngày nay đều phải phát triển trong
đa văn hoá. Mô hình xã hội nào chỉ khẳng định độc nguyên sẽ bại vong, hoặc kéo
dài sự trì trệ lạc hậu có khi đến cả ngàn năm mà sớm muộn đều tiêu vong”
(Nguyễn Khắc Mai – Giữ gìn và phát triển nền văn hoá dân
tộc với 7 chữ Quốc)
Dịch giả Trần Đĩnh còn tiến xa hơn khi xác định: vấn đề không
chỉ là thoát văn hoá độc tài vì muốn thoát Trung mà còn là để bảo vệ bản thân
văn hoá, vì độc tài thì kỵ văn hoá.
“Bản thân văn hoá là cởi mở. Một đặc điểm căn bản của kỷ nguyên
hiện đại, khác với kỷ nguyên trung đại là chấp nhận “cái khác”. Mà độc tài là
chống cái khác. Chống cái khác thì dễ chống văn hóa. Vậy muốn xây dựng văn hoá
phải chống độc tài. Độc tài vốn dĩ kỵ văn hoá. Nên biết độc tài chính trị có xu
hướng làm tàn lụi văn hóa. Đặc điểm của độc tài là chính trị hóa cao độ tất
cả sinh hoạt xã hội, thâu tóm toàn bộ sinh hoạt xã hội vào “cái túi
chính trị vạn năng” là vốn liếng riêng biệt của nhà cầm quyền.
Trong khi lẽ ra cần phải để cho văn hóa được quyền mở ra xét duyệt “cái
túi chính trị vạn năng” đó. Hình như có dạo rất hay nói chính trị
hàng đầu, tư tưởng hàng đầu.Thế không phải là độc tài thì là gì? Ai đó chứ dân
đâu được đề ra chính trị, đề ra tư tưởng?”.
(Trần Đĩnh – Trao đổi với Văn Việt)
3/ Rút cuộc, Thoát Trung là phải tự thoát: vì trớ trêu là lãnh đạo Việt Nam còn bám
chắc vào ý thức hệ hơn Trung Quốc:
“Về mặt trung thành với lý tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam cao cả
gấp bội so với đảng bạn bên Trung Quốc! Đảng Trung Quốc chính thức bị chúng ta
coi là kẻ thù từ năm 1979 khi tiến hành chiến tranh xâm lược đẫm máu các tỉnh
biên giới nước ta… Sự trung thành với ý thức hệ đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam
bỏ qua mối thù 1979 (bấy giờ được Đảng coi là nhỏ, so với “đại cục”) để chủ
động xin gặp gỡ đảng bạn, đề nghị chủ trì sự nghiệp cứu vãn phần còn lại của
chủ nghĩ xã hội. Kết quả: Thành công; hội nghị Thành Đô 1990 đã đi đến những
thỏa thuận (nào đó)”.
(Nguyễn Ngọc Lanh – Thoát Trung rốt cuộc là thoát gì?)
Nhà nghiên cứu Đinh Bá Anh cũng khẳng định “trên nhiều phương
diện, Trung Quốc còn “thoát Trung” một cách chủ động hơn, nhanh và xa hơn Việt
Nam”; “cả tư duy và tầm nhìn của giới lãnh đạo lẫn ý thức của người dân về
quyền và trách nhiệm ở Trung Quốc đều cao hơn ở Việt Nam” (Việt Nam có cơ
hội thoát Trung?)
D/ THOÁT VĂN HOÁ TRUNG
ĐỂ ĐI TỚI VĂN HOÁ NÀO?
1/ Khôi phục những truyền thống văn hoá Việt đã bị xoá bỏ hoặc xói
mòn bởi bọn xâm lược Trung Hoa và sự tiếp nhận mù quáng của chính giới lãnh đạo
Việt Nam:
- Cáo Bình Ngô: “xưng nền văn hiến đã lâu… phong tục Bắc Nam
cũng khác”.
- Bảy chữ quốc: Quốc hồn/túy, học, văn, sử, dân/bản, chính, tế
(Nguyễn Khắc Mai)
- Phật giáo Lý Trần với đặc tính khoan dung, mềm dẻo: “Tiếng nói
của ý thức tự chủ và tinh thần tự cường của con dân nước Việt khi Phật giáo
thống nhất chỉ có ở đời Trần. Đó là nền Phật giáo độc lập, là uy tín
của quốc gia Ðại Việt, là xương sống của nền văn hóa Việt Nam tự chủ… Chính
nhờ các đặc tính khoan dung và mềm dẻo của văn hóa đời Trần mà vua quan cùng
dân chúng đã đồng thanh tương ứng chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Văn học
đời Trần rực rỡ và phản chiếu tinh thần từ ái, hòa đồng, thanh thoát, không tỏ
ra khiếp nhược, yếm thế mà tóat lên sự tự lực, tự cường và tiến thủ, thấm nhuần
tính cách dung hợp và khai phóng của đạo Phật… Tinh thần Phật giáo giúp các nhà
chính trị đời Trần áp dụng những chính sách bình dị, thân dân và dân chủ…”
(Thùy Linh – Việt Nam – một số phận nghiệt ngã)
- Chữ “Nhân” là cốt lõi của văn hoá Việt Nam:
“Chữ nhân lần này được thử thách trên một mặt
trận lớn, đưa chúng ta đi xa hơn nữa trong nhân lý giữa bối
cảnh toàn cầu hoá, trong nhân tính của quá trình thế giới hoá,
chúng ta sẽ giữ cho bằng được nhân cách trước đe doạ của chiến
tranh tới từ một đối phương lớn và thô bạo. Đây là một mặt trận vừa mới về nhân
phẩm, vừa lớn vềnhân sinh… Trước thế giới, chúng ta phải đủ vai vóc
của nhân nghĩa, tầm vóc của nhân giáo, nội công của nhân
bản để thắng được đối phương trong lần thư hùng này, chính nghĩa của
ta chính là nhân đạo, mà cha ông của chúng ta đã dạy chúng ta
từ hồi lập quốc, từ khi Việt tộc là Việt tộc.
(Lê Hữu Khoá, GS Nhân học Đại học Charles de Gaulle
– Nhân cách giáo lý Việt tộc)
- Yếu tố dân chủ trong văn hoá “làng xã” dựa trên “tình làng nghĩa xóm” xa lạ với những quy tắc
Khổng Mạnh: “Phép vua thua lệ làng”.
* Lưu ý: Các bài tham gia thảo luận không đề cập đến những yếu
tố tiêu cực cần loại bỏ, khắc phục của chính truyền thống văn hoá dân tộc hình
thành trong xã hội tiểu nông lạc hậu mà nhiều trí thức, đặc biệt các trí thức
trẻ có kinh nghiệm cọ xát với các nền văn hoá ở các nước phát triển nhấn mạnh.
Sau “Thoát Trung”, “thoát ta” sẽ là một đề tài cần đặt lên bàn nghị sự.
2/ Khôi phục những ảnh hưởng tinh tuý văn hoá thế giới phương
Tây mà Việt Nam đã có thời tiếp nhận:
“Thế hệ trí thức lớn lên vào thời Pháp đô hộ được hưởng khá
nhiều lợi ích của nền văn hóa tinh túy bậc nhất thế giới bấy giờ. Có nhiều nét
tính cách của người Thăng Long được thừa hưởng vẻ tài hoa, tinh tế của văn hóa
Pháp. Tiếp nối tính nhân văn, tự trọng, khiêm cung, tự do, khoáng đạt của đạo
Phật thời Lý, Trần, âm ỉ trong suốt thời gian độc trị của Nho giáo, để rồi bắt
nhịp, hòa hợp với văn minh phương Tây, làm nên tính cách người Thăng Long xưa
chăng? Trước năm 45, giới trí thức Hà Nội, Sài Gòn được hưởng làn gió trong
lành về tự do, dân chủ từ Pháp quốc thổi sang… Chính nhờ những ảnh hưởng này đã
sản sinh ra giới trí thức tuyệt vời mà đến giờ gần bị “tuyệt chủng”.
(Thùy Linh)
3/ Tư tưởng hoà bình:
“Đối với Việt Nam – một quốc gia có truyền thống hòa hiếu, đi
theo lộ trình phát triển hòa bình là lựa chọn tất yếu trong hiện tại và tương
lai. Điều này càng trở nên cấp thiết khi chúng ta đối diện với một Trung Quốc
luôn đặt trọng tâm phát triển trên bạo lực, bá quyền và muốn chi phối Việt Nam
trong cái vòng cương tỏa mà họ tự vẽ ra.
Những điều kiện để hình thành một xã hội hòa bình:
- Một nhà nước đối thoại, tương tác (interactive state)… Đây
là cơ sở để hình thành một nền chính trị trách nhiệm (accountable politics).
- Một đời sống văn hóa đa dạng
- Một cộng đồng gắn kết và ôn hòa
(Đặng Hoàng Giang – Sức mạnh của hoà bình và những gợi ý
cho Việt Nam)
THAY LỜI KẾT:
1/ Thoát Trung về Văn hoá, có thể nói chính xác là “giải
Hán hoá”, rút cuộc là thoát sự phụ thuộc, sao chép những yếu tố văn hoá
tiêu cực mà tầng lớp thống trị China đã áp đặt lên xã hội của họ và xã hội Việt
Nam: 1. Tư tưởng Đại Hán, bành trướng bá quyền China là nguyên nhân của thái độ
khiếp nhược, thần phục của một bộ phận người Việt Nam. 2. Văn hóa tập quyền,
độc nguyên là nền tảng của ý thức độc tài. Hai yếu tố này ngăn cản Việt Nam xây
dựng độc lập tự chủ và phát triển bền vững.
2/ Việc xây dựng nền văn hoá Việt độc lập trong thời hiện đại
phải nhìn trong hai mối quan hệ biện chứng: Khôi phục, phát huy những tinh túy
của văn hoá bản Việt “nhân nghĩa, hoà bình” song song đào thải
những yếu tố tiêu cực, lạc hậu; chủ động tiếp nhận ảnh hưởng tích cực của các
nền văn hoá hiện đại thế giới mà tinh thần chủ đạo là “dân chủ, đa
nguyên”.
3/ Vấn đề bao trùm cả thoát Trung, tự thoát, phải chăng là Thoát
Á?
“Đôi khi các giá trị châu Á dường như là một cách gọi các giá
trị “văn hóa Trung Quốc” hoặc Nho giáo, hoặc các lý tưởng về các chế độ được
điều tiết và trung ương tập quyền cao như của Singapore. Trong các trường hợp
khác, các chế độ thực dụng chủ yếu dựa trên các đặc lợi như ở Indonesia hoặc
Trung Quốc, cũng sử dụng các “giá trị châu Á” để hợp pháp hóa quyền hành không
bị hạn chế của các chế độ đầu sỏ quan liêu.
Ở các quốc gia mạnh của châu Á, xu hướng là ép buộc người dân
chấp nhận các ý thức hệ duy nhất, do nhà nước quy định. Thay vì là các cơ chế
để đạt đồng thuận, các thể chế chính trị lại được thiết lập chủ yếu nhằm đảm
bảo an ninh, kỷ cương xã hội và “tính trách nhiệm” trong suy nghĩ và biểu đạt,
nhất là trên các phương tiện truyền thông.
Trên thực tế, “giá trị châu Á” đã trở thành hệ tư tưởng của một
loạt các chế độ kết hợp giữa một biến thể mang tính tập trung quyền lực của chủ
nghĩa bảo thủ chính trị với nền kinh tế thị trường.
(Giá trị châu Á – Richard Robison (1996). “The politics of
‘Asian values’”, The Pacific Review, Vol. 9, No. 3, pp. 309-327 http://nghiencuuquocte.net/2014/07/27/gia-tri-chau-a
4/ Còn câu hỏi lớn: Thoát Trung về văn hoá bằng cách nào?
Đinh Bá Anh cho rằng: Không thể thoát Trung với động cơ “yêu
nước” nặng về tình cảm, mà phải sựa trên sự phân tích tỉnh táo các điều kiện
thoát Trung của Việt Nam, các tương quan về địa chính trị, thời thế, tầm nhìn
của giới tinh hoa chính trị… Ông gợi ý phải chăng “Việt Nam chỉ thực sự thoát
Trung khi nó có khả năng sáng tạo, thiết kế mô hình và đưa ra những luật chơi
khiến Trung Quốc phải tôn trọng (hoặc du nhập)”, cụ thể là chủ động “chuyển từ
một chế độ theo mô hình Lenin sang mô hình dân chủ tự do”.
Với riêng tôi, đất nước có thoát Trung được hay không trước nhất
phải ở sự tỉnh ngộ chân thành và dũng cảm thay đổi của mỗi người chúng ta,
những trí thức đã gần suốt cuộc đời đi theo một niềm tin từ tuổi thanh xuân đẹp
đẽ. Tâm sự của nhà thơ Nguyễn Đình Thi bộc lộ trong những bài thơ cuối đời mà
có lẽ ít người biết khi hoang mang nhìn lại con đường cách mạng mà mình đã theo
suốt đời:
Đã có mùa xuân đời tôi
không nhỉ
Và đã có không cả một
mùa hè
Tôi chỉ nhớ đã đi
nhiều mê mải
Năm tháng đêm ngày
theo một ánh xa
(Mùa thu vàng)
Cuối cùng tự đấm ngực sám hối bi thương:
Người tôi còn nhiều
bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh
nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ
bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc
mình
Thôi xin tha cho mọi
lỗi lầm
Quên cho những dối lừa
khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều
lần ác
Và ngu dại còn nhiều
lần hơn
(Gió bay)
Cầu mong sao chúng ta, nhiều người ở đây đã vào tuổi xế chiều,
kịp thời “tự thoát” để không lâm vào cảnh bi thương như nhà thơ khi nhận ra
những lầm lạccủa đời mình thì không còn thay đổi gì được nữa.
H.H.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét