Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013

TỪ KENNEDY ĐẾN NGÔ ĐÌNH DIỆM:
MỘT HUYỀN THOẠI PHẢI DẸP BỎ

Hoàng Nam Giao


Ngày thứ Sáu, 22 tháng 11 năm 1963, đoàn xe chở Tổng thống Kennedy và phu nhân là bà Jacqueline rẽ trái vào đường Elm và bắt đầu chạy vòng quanh quảng trường Dealey Plaza thuộc thành phố Dallas - Fort Worth, bang Texas. Chiếc xe Limousine qua khỏi tòa nhà Texas School Book Depository vừa đúng 12 giờ 30 trưa thì 3 tiếng súng vang lên. Và vị Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ tử nạn. Năm đó ông John Fitzgerald Kennedy 46 tuổi và là vị tổng thống Mỹ thứ tư bị ám sát lúc đang tại chức.

Trước đó đúng 20 ngày, cách trọn nửa trái cầu, một vị tổng thống Công giáo khác là ông Ngô Đình Diệm, người đã từng được hai chính quyền Mỹ hết lòng yểm trợ nhưng rồi lại bị bỏ rơi khi chánh quyền Kennedy quyết định ủng hộ một cuộc chính biến lật đổ ông ta. Một ngày sau đó, ông Diệm bị hạ sát.



Trong bối cảnh đó, để kỷ niệm 50 năm ngày Tổng thống Kennedy bị hạ sát (1963-2013), trong số nhiều tài liệu và sách báo Mỹ đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp của ông Kennedy, có một số tài liệu nối hai cái chết nghiệt ngã nầy với nhau. Một trong những tài liệu đó đã được nhật báo Người Việt ở California giới thiệu với độc giả [1] . Tài liệu nầy ghi lại cuộc phỏng vấn Sử gia Edward Miller [2] ngày 18-11-2013 quanh câu hỏi “Nếu Tổng thống Kennedy không bị ám sát thì điều gì sẽ xãy ra cho Chiến tranh Việt Nam ?” [Vietnam War: What If JFK Hadn’t Been Assassinated ?] [3]  

Cuộc phỏng vấn quay quanh ba đề mục: (i) Tại sao người Mỹ quyết định ủng hộ một cuộc thay đổi chế độ ?, (ii) Điều gì đã xảy ra sau chính biến 1-11-1963 ?, và (iii) Điều gì sẽ xảy ra nếu TT Kennedy không bị ám sát ?
Đặc biệt ngay trong cuộc phỏng vấn, sau khi nghe xong đoạn băng từ tính (vừa được giải mật hôm 4-11-2013 [4]) về buổi nói chuyện của TT Kennedy 2 ngày sau khi ông Diệm bị giết, một câu trả lời của ông Miller trong đề mục (iii) làm tôi lưu ý:

-          Ông Young (hỏi): Nhưng ông nghỉ sao về trường phái cho rằng Chiến tranh Việt Nam đáng lẽ đã không trở thành một thảm họa như ta thấy nếu TT Kennedy không bị giết ?

-          Ông Miller (trả lời): Tôi không nghỉ rằng TT Kennedy sẽ chọn con đường leo thang ồ ạt như TT Johnson đã làm; tuy nhiên, tôi cũng không nghỉ rằng ông ta sẻ chọn rút quân tức khắc đâu. Tôi đoán rằng TT Kennedy sẽ chọn một loại giải pháp trung dung, và có thể sẽ hành động như TT Obama tại Afghanistan sau đó vào năm 2009. Dĩ nhiên, tại Afghanistan, TT Obama đã leo thang chiến tranh trong ngắn hạn, rồi sau đó là rút quân theo từng giai đoạn. Một khi thực hiện điều nầy, tôi có thể tưởng tượng được TT Kennedy sẽ tìm một giải pháp qua đàm phán, một loại dàn xếp như thế nào để cho phép điều gọi là trung lập hóa Nam Việt Nam. [5]

…[không] leo thang ồ ạt” và  “rút quân theo từng giai đoạn” ! Như vậy thì cái luận điểm của những người binh vực ông Diệm, nhất là những người Công giáo ở hải ngoại, rằng ông bị giết vì chống lại chính quyền Mỹ muốn đưa quân vào Việt Nam có còn đúng không ?
Câu hỏi đó dẫn tôi đến một bài viết của ông Đinh Từ Thức mà tôi muốn giới thiệu hôm nay.

*        *
*
Bài viết gồm 2 phần và có tên là “50 năm sau biến cố 1 tháng 11, 1963: xét lại nguyên nhân và hậu quả”. Bài được đăng trên Kho lưu trử của “Tạp chí Da Màu”:
-          http://damau.org/archives/29801 (Phần 1, đăng ngày 1-11-2013)
-          http://damau.org/archives/29843 (Phần 2, đăng ngày 4-11-2013)
(Bài viết rất dài nên tôi không in lại ở đây, xin độc giả cùng hai phe “lên án” cũng như “bênh vực” ông Diệm / chế độ Diệm chịu khó đọc hai phần của bài viết rất cần đọc nầy).

Đây là một bài viết công phu của một người thuộc phe bênh vực ông Diệm, với lập luận chặt chẻ và tài liệu khá cập nhật, vốn là một điều rất hiếm hoi khi so sánh với những bài viết của các ông viên chức Đệ nhất Cọng hòa cũ như Tôn Thất Thiện, Lâm Lễ Trinh, Cao Xuân Vỹ, Huỳnh Văn Lang, v.v…

■ Bài viết chủ yếu nhằm xét lại một cách rốt ráo chính biến 1-11-1963 vì, theo ông Đinh Từ Thức, “về nguyên nhân của cuộc đảo chánh, có một “huyền thoại” cần xét lại.”.
Và huyền thoại đó là [nhấn mạnh là của HNG]:
Trong suốt 50 năm qua, đã có rất nhiều người, nhiều đến nỗi không thể liệt kê hết ở đây, gồm cả những “bình luận gia”, “học giả” hay “sử gia”, hầu như ai cũng nói giống nhau, như một sự thật hiển nhiên, không cần dẫn chứng, Mỹ đảo chánh để có thể mang quân vào trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, vì ông Diệm chống lại việc này. Theo “huyền thoại” này, Mỹ phải lật ông Diệm như loại bỏ một chướng ngại vật, để có thể đổ quân vào VN. Đặc biệt là khẳng định này thông dụng trong dư luận người Việt, nhưng hầu như không được nhắc tới trong tài liệu và sách báo của Mỹ. Tôi chỉ được biết vài ba cuốn sách của Mỹ nói tới điều này, nhưng lại căn cứ từ sách báo Việt ngữ.

■ Rồi trong số “nhiều người đến nỗi không thể liệt kê”, ông đã chọn những người mà ông cho là chứng nhân có thẩm quyền để nói về vấn đề nầy là linh mục Cao Văn Luận, bác sĩ Trần Kim Tuyến, đại sứ Ngô Đình Luyện, đại tá Nguyễn Hữu Duệ; và về người ngoại quốc thì có bà Helen Hammer (tác giả của A Death in November) và một Linh mục Jesuit Mỹ không nêu tên …

Ông Đinh Từ Thức viết [nhấn mạnh là của HNG]:
Trong cuốn A Death in November (ADIN) xuất bản năm 1987, nói về cuộc đảo chánh năm 1963, bà Ellen J. Hammer viết nơi trang 121: “Một người Việt quen thuộc nói: ‘Mọi người gần gũi ông Ngô Đình Diệm đều biết rằng với ông, vấn đề chủ quyền của Việt Nam là tối quan trọng, không có vấn đề nhượng bộ chuyện này với viện trợ ngoại quốc.’” Và “Diệm nói trong riêng tư rằng người Mỹ đã từng đòi quyền thiết lập căn cứ không và hải quân tại Vịnh Cam Ranh hay Đà Nẵng, được điều hành bởi một cơ sở quân sự thường trực, và rằng họ đã tăng gia áp lực kể từ năm 1961. Vào tháng Bảy năm 1962, trong một cuộc kinh lý tại Vịnh Cam Ranh, ông đã chỉ một ngọn núi ở gần, nói với các cận vệ rằng, ‘Người Mỹ muốn lập một căn cứ ở đấy nhưng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận điều đó.’ Cho đến tháng Tám 1963, ông đã nói với Đại Sứ Pháp rằng ông sẽ không bao giờ làm theo những đòi hỏi đó. Một số thành viên đảng Cần Lao của ông coi sự từ chối này là một trong những lý do chính cho việc lật đổ ông Diệm.”
Trong phần chú thích ở trang 336 về trang 121 có đoạn trích dẫn trên, bà Hammer cho biết bà đã căn cứ từ bài viết của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, trên báo Hòa Bình, ngày 8 tháng 8, năm 1970.

Là Tổng Thư Ký tòa soạn báo Hòa Bình vào thời gian này, tôi biết về nguồn thông tin của bà Hammer. Bài báo bà cho là Bác Sĩ Tuyến viết, là loạt bài được mệnh danh “bút ký lịch sử” kéo dài nhiều tháng, mang tựa đề Làm thế nào để giết một tổng thống,” sau khi chấm dứt, đã được xuất bản thành sách ở Sài Gòn. Tôi là người đặt tựa cho loạt ký sự này. Khi bắt đầu đăng báo, Bộ Thông Tin không chịu, yêu cầu đục bỏ, một phần sợ gây “sốc” trong dư luận, phần khác do áp lực từ các tướng chủ chốt trong cuộc đảo chánh, sau khi bị Nguyễn Khánh cho đi an trí một thời gian, đã trở lại là những nhân vật có thế lực, như Nghị Sĩ Quốc Hội. Lúc ấy chế độ kiểm duyệt báo chí mới chấm dứt theo Luật 019/69, do Quốc Hội thông qua, và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký ban hành ngày 30 tháng 12, 1969. Theo luật này, báo có quyền chỉ trích chính phủ, không bị kiểm duyệt, và chỉ có thể bị tịch thu theo lệnh của tòa án. Dựa vào luật mới, tòa soạn nhất quyết giữ y nguyên cả tên lẫn nội dung ký sự, không chịu đục bỏ hay thay đổi, với lập trường là nếu Bộ Thông Tin thấy nhà báo phạm luật, cứ việc truy tố ra toà. Ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba liên tiếp, Bộ Thông Tin vẫn yêu cầu đục bỏ. Từ ngày thứ tư, Bộ để yên.

Tác giả ký sự là hai bút hiệu: Cao Vị Hoàng và Lương Khải Minh. Tuy hai bút hiệu, thực ra chỉ có một người viết, trong khi dư luận, kể cả bà Hammer, nghĩ rằng Lương Khải Minh là bút hiệu của Bác Sĩ Tuyến, nguyên giám đốc sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng Thống; ngôn ngữ bình dân gọi là “Trùm mật vụ”. Ông Tuyến không viết chữ nào trong ký sự này, nhưng có giúp một cách gián tiếp. Với uy tín thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông đã giới thiệu để người mang bút hiệu Cao Vị Hoàng [6] có thể tới phỏng vấn các nhân vật quan trọng của chế độ cũ. Lời kể của họ về anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đệ Nhất Cộng Hòa được ghi lại là chất liệu cho nội dung ký sự, không được kiểm chứng về độ chính xác, nên khó có thể coi như sự thật lịch sử. Có thể nói Lương Khải Minh chỉ là “bút hiệu danh dự” dành cho ông Tuyến, cũng như chiếc ghế trống trong buổi lễ phát giải Nobel Hòa Bình năm 2010, được gọi là chiếc ghế của ông Lưu Hiểu Ba, nhưng ông này chưa bao giờ ngồi ở đó.
Khi cuốn sách của bà Hammer xuất bản ở Mỹ, qua câu chuyện điện thoại từ Mỹ với ông Tuyến ở Cambridge, Anh, tôi đã có dịp cho ông biết về sự sai lầm của tác giả, và hỏi ông có định lên tiếng đính chính không. Bác Sĩ Tuyến trả lời rằng ông không muốn lên tiếng, sợ nhà báo kéo tới phỏng vấn ầm ỹ, trong khi ông chỉ muốn sống ẩn dật. Tuy nhiên, ông Tuyến cũng nói khi nào tôi có dịp gặp bà Hammer, thì nhờ nói với bà ấy về chuyện sai lầm, để sửa lại khi sách có dịp tái bản.

Gần đây, Finding the Dragon Lady, một cuốn sách mới xuất bản vào tháng Chín 2013 nói về cuộc đời bí mật của bà Ngô Đình Nhu, tác giả là bà Monique Demery, đã trích một đoạn từ cuốn sách A Death in November,nhưng ngay cuốn ADIN lại trích từ hồi ký “Bên Dòng Lịch Sử” của Linh Mục Cao Văn Luận, trong đó Cha Luận kể lại cuộc gặp Tổng Thống Ngô đình Diệm tại Dinh Gia Long vào ngày 24 tháng 06, 1963. Cha Luận mới gặp nhiều chính khách quan trọng ở Mỹ, như Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, Nghị Sĩ Mike Mansfield trở về, khuyên ông Diệm nên nhượng bộ những đòi hỏi của Mỹ để tránh đảo chánh, nhưng ông Diệm không chịu, đáp:
- Nếu bây giờ chúng ta nhượng bộ một bước thì Mỹ sẽ lại đòi thêm, biết nhượng bộ đến bao giờ cho vừa lòng họ? Tôi muốn võ trang đầy đủ cho Bảo an, Dân vệ, thanh niên chiến đấu. Mỹ không chịu. Tôi muốn tăng cường quân đội, Mỹ từ chối không cấp vũ khí và phương tiện, Mỹ chỉ muốn đưa quân qua Việt Nam mà thôi.
Có lẽ Tổng Thống Diệm đã đề cập tới nội dung cuộc họp gữa phái đoàn Mỹ do tướng Taylor cầm đầu và ông Diệm vào mùa Thu năm 1961 (sẽ nói thêm sau này) trong đó ông Diệm có yêu cầu Mỹ tăng viện để tăng quân số, và Tướng Taylor đề nghị gửi một đạo quân Mỹ từ sáu đến tám ngàn người tới VN – dưới danh nghĩa cứu lụt, nếu cần – và ông Diệm đã đồng ý, nhưng ông Kennedy không chấp thuận.
Vào năm 2003, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, vốn là Thiếu Tá Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống khi xẩy ra cuộc đảo chánh 1963, nhờ tôi biên tập bản thảo cuốn “Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm”. Ông Duệ viết sở dĩ Mỹ đảo chánh, vì ông Diệm không chịu cho Mỹ đem quân chiến đấu vào Việt Nam và lập căn cứ ở Vịnh Cam Ranh. Tôi hỏi ông Duệ đã căn cứ vào đâu để viết như vậy, ông trả lời “chuyện đó ai chả biết”. Tôi xin ông cố nhớ lại để có thể kể tên đích xác một vài người, sau giây lát suy nghĩ, ông nêu tên ông Trần Sử, bí thư của Tổng Thống Diệm, lúc ấy đã qua đời. Trong cuốn sách đã dẫn, khi xuất bản, ông Duệ viết trong phần nói về Đại Sứ Ngô Đình Luyện rằng ông Luyện đã kể với ông Duệ:
Trước cuộc đảo chính mấy tháng, có một linh mục thuộc Dòng Jesuit Hoa Kỳ đã bí mật sang Anh gặp ông Luyện, muốn ông báo cho ông Diệm biết là sớm muộn gì Mỹ cũng giúp cho cuộc đảo chánh lật ông Diệm. Khi ông Luyện hỏi có thể làm cách nào để tránh được không, vị Linh Mục này khuyên ông Diệm:
“Nên nhượng bộ chính phủ Hoa Kỳ, đồng ý tất cả những gì người Mỹ muốn qua Đại Sứ Hoa Kỳ. (Theo ông Luyện thì người Mỹ muốn Việt Nam nhường cảng Cam Ranh cho người Mỹ trong một thời gian, như Phi Luật Tân nhường cảng Subic, và để cho người Mỹ một thời gian vào Việt Nam)”.
Ông Luyện đã cấp tốc từ London về Sài Gòn gặp anh mình, Đại Tá Duệ kể tiếp:
“Tổng Thống Diệm nói sẽ nghiên cứu kỹ việc này và bảo ông Luyện sang gặp ông Nhu để bàn thêm. Ông Luyện gặp ông Nhu và ông Nhu có vẻ chú ý và cũng đồng ý nhưng ông lo rằng người Mỹ đòi mang quân vào và xử dụng Cam Ranh thì khó đựơc tổng thống chấp thuận. Ông cũng lo rằng nếu ngừơi Mỹ mang quân vào thì Nga và Tầu sẽ giúp miền Bắc nhiều hơn và có thể cũng đem quân vào nữa. Như vậy, Việt Nam sẽ là bãi chiến trường đẫm máu.”
Đó là tất cả những gì tôi được biết từ phía người Việt về chuyện người Mỹ muốn mang quân chiến đấu vào Việt Nam và muốn xử dụng cảng Cam Ranh, tất cả đều do những lời kể lại gián tiếp, không được chứng minh bằng tuyên bố hay văn kiện chính thức.
Sau đó, tác giả Đinh Từ Thức đã chịu khó “lặn lội” trong các ngõ ngách của bộ máy quyền lực của chính quyền Kennedy xem có dấu tích nào nhắc đến kế hoạch tăng quân và/hoặc thuê nhượng Cam Ranh không, nhưng ông đã không tìm ra được tài liệu nào. Ngược lại, ông lại tìm ra những sự kiện sau đây:
- Quyết định của chính quyền Mỹ ủng hộ cuộc chính biến 1-11-1963 khá phức tạp, không chỉ đến từ Tổng thống Kennedy mà thôi.
- Lý do họ ủng hộ cuộc chính biến không phải vì bị ông Diệm từ chối việc đổ quân Mỹ vào Nam Việt Nam mà vì cách cai trị thiếu dân chủ của ông Nhu [7].
- Sau vụ đổ bộ thất bại thê thảm ở Bay Of Pigs tại Cuba, và trước viễn ảnh của cuộc bầu cử Tổng thống sắp tới, ông Kennedy không muốn có những cuộc phiêu lưu chính trị tại nước ngoài nữa. Ông có ý định bỏ rơi miền Nam.
- Chính quyền Kennedy không có ý định đổ quân vào miền Nam (ngoài 16,000 “cố vấn” hiện hữu), lại càng không muốn chiếm đóng lâu dài như Cọng sản tuyên truyền. [8] 
Từ đó, ông đưa ra một nhận định chiến lược tất yếu [nhấn mạnh là của HNG]:
Sau đảo chính 1 tháng 11, 1963, phe chủ chiến Mỹ và phe chủ chiến Cộng Sản Bắc Việt đã gặp nhau ở một điểm: Cả hai bên đều muốn Mỹ trực tiếp tham chiến ở VN; Mỹ muốn sớm chiến thắng bằng quân sự, Bắc Việt muốn Nam VN mất chính nghĩa để cũng sớm chiến thắng bằng quân sự. Vụ Maddox ở Vịnh BV là hành động khiêu khích của cả hai bên.
Bộ Quốc Phòng và các tướng lãnh Mỹ chống lại, hoặc ít nhất không đồng ý đảo chánh, vì vào trước cuộc đảo chánh, tuy tình hình chính trị suy sụp, nhưng tình hình quân sự tương đối còn tốt đẹp. [9]
Ngược lại, nhóm người tích cực thúc đẩy đảo chánh thuộc Bộ Ngoại Giao, tất cả đều chống lại việc đem quân chiến đấu vào Việt Nam.
Do đó, Việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam không phải là nguyên nhân, mà là hậu quả của cuộc đảo chánh 1-11, 1963.
Và để kết bài, ông Đinh Từ Thức khuyên phe “bênh vực” ông Diệm rằng [nhấn mạnh là của HNG]:
Những người yêu mến ông không cần hun đúc tình cảm của mình dựa trên một huyền thoại, là ông đã hy sinh chỉ vì chống lại chủ tâm của Mỹ đưa quân chiến đấu vào Việt Nam. Chính nghĩa chỉ tồn tại khi dựa trên sự thật. Chính nghĩa dựa trên huyền thoại, cũng chỉ là huyền thoại
*        *
*
Dù xét toàn bộ, ông Đinh Từ Thức và tôi không đồng ý với nhau về đánh giá “công và tội” của gia đình ông Diệm (tôi nhấn mạnh chử “gia đình”) cũng như của chế độ Đệ nhất Cọng hòa trong bối cảnh lịch sử của nước ta, nhưng tôi lại tâm đắc với thái độ lương thiện và can đảm của ông trong lời kết nhắn nhủ những “đồng chí” của ông ở trên. Chỉ xin được thay chử “huyền thoại” bằng “sự dối trá”: Chính nghĩa mà dựa trên sự dối trá, thì cái gọi là chính nghĩa đó cũng chỉ là sự dối trá.


Và tôi chỉ xin ghi lại một số suy nghỉ để kết bài:

1-      Đây là lần đầu tiên tôi được biết một trí thức Công giáo, một người pro-Diệm, chấp nhận rằng nguyên nhân của chính biến 1/11/63 không phải là vì "huyền thoại" TT Diệm chống Mỹ gửi thêm quân. Thái độ chấp nhận nầy thật là hiếm và thật là chậm, nhưng chậm và hiếm còn hơn không !

2-      Đây cũng là lần đầu tiên trong lãnh vực nghiên cứu về chủ đề Ngô Đình Diệm mà tôi được biết một trí thức Công giáo “lật tẩy” lời nói láo của các trí thức Công giáo nổi tiếng khác như Cao Văn Luận, Cao Xuân Vỹ, Cao Thế Dung, ... và một cách gián tiếp, như một hệ luận, điểm mặt luôn những người Công giáo khác đã từng khai thác lời nói láo nầy như Lâm Lễ Trinh, Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Hữu Duệ, Tú Gàn Lữ Giang, Huỳnh Văn Lang, ... và vô số âm binh lãi nhải điệp khúc “ông Diệm bảo vệ quyền tự quyết quốc gia nên bị Mỹ giết” trên các diễn đàn Internet.

3-      Quan trọng hơn cả, bài viết nầy của ông Đinh Từ Thức đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng ông Diệm không chống việc Mỹ đem thêm quân mà còn xin thêm quân Mỹ. Nghĩa là cuộc chính biến 1-11-1963 không vì lý do người Mỹ muốn đưa thêm quân. Vậy thì lý do gì đã làm cho người Mỹ ủng hộ cuộc chính biến nầy?
Tài liệu trong bài của ông Đinh Từ Thức cũng như trong rất nhiều tài liệu khác cho thấy consensus của chính khách Mỹ năm 1963 là chính phủ ông Diệm bất lực, không thể thắng Cọng Sản như họ muốn dù đã được yểm trợ nhân lực, vật lực nhiều như vậy trong một thời gian lâu như vậy. Bản phúc trình của Thượng nghị sĩ Mike Mansfield sau chuyến viếng thăm để tìm hiểu và đánh giá tình hình Việt Nam đầu năm 1963 chính là lời ai điếu báo hiệu ngày tàn của chế độ Ngô Đình Diệm. Bản phúc trình đó chỉ rõ hai điểm quan trọng: chế độ ông Diệm không thắng trên chiến trường VÀ không có khả năng thu phục được lòng quân dân miền Nam. Từ đó, vị Thượng Nghị sĩ Dân Chủ đã từng ủng hộ ông Diệm từ ngày đầu, khi ông Diệm mới chỉ là một chính khách vô danh tiểu tốt "lê gót" ở Washington, đã đặt một câu hỏi cốt lõi: “Chúng ta có thể thắng Cọng sản với Diệm không?

4-     Nhưng theo tôi, hậu quả chính trị của câu hỏi đó cũng chưa phải là “nguyên nhân” nếu ông Đinh Từ Thức thật sự muốn “xét lại” sau 50 năm. Tại vì giản lược hóa chỉ còn một nguyên nhân cho một biến cố phức tạp và to lớn như chính biến 1-11-1963 thì hoặc là không hợp lý hoặc là không lương thiện. Trước hết, và nỗi cộm hơn cả, là tinh thần cai trị quốc gia phi dân tộc và phản dân chủ của anh em gia đình ông Diệm. Đó phải là nguyên nhân chính. Các nguyên nhân khác như áp lực của đồng minh Mỹ, phá hoại của đối thủ Cọng sản, chống đối của các lực lượng quốc gia khác, hay uất ức của quân đội khiến họ đã hai lần phản ứng bằng võ lực… chỉ là những nguyên nhân to hay nhỏ, vần vũ chung quanh một nguyên nhân trục: Trong khung cảnh hoàng hôn của phong trào giải thực và dưới gọng kềm của cuộc chiến tranh lạnh, miền Nam Việt Nam đã bất hạnh bị cai trị bởi một gia đình có bản chất phong kiến độc tài nặng tính Ky tô giáo Trung cổ. Đó là một nguyên nhân văn hóa, nên có nhiều khả thể đúng là nguyên nhân chính.

Hoàng Nam Giao
22-11-2013


CƯỚC CHÚ:


[2] Ông Edward Miller là Phó Giáo sư khoa Sử tại Đại học Dartmouth College. Ông cũng là tác giả của cuốn “Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam”, Harvard University Press, 5/2013. Người phỏng vấn là ông Robin Young của chương trình Here & Now thuộc đài phát thanh WBUR trong hệ thống NPR (National Public Radio), Boston.


[4] Được giới thiệu trên BBC-Việt Ngữ: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/11/131104_kennedy_ung_ho_lat_diem.shtml  Cậ̣p nhật: 02:27 GMT - thứ hai, 4 tháng 11, 2013

[5] YOUNG: But what about the school of thought that the Vietnam War wouldn't have turned into the calamity it did if Kennedy hadn't been killed? Your thoughts on that.
MILLER: I don't think that he would have taken the path of massive escalation that Johnson did; however, I don't think he would have opted for an immediate withdrawal either. I suspect that Kennedy would have chosen some kind of middle course, and I think that he might well have done something not unlike what Barack Obama would later do in Afghanistan in 2009.In Afghanistan, of course, Obama chose short-term escalation, followed by a phased withdrawal of U.S. troops. Having done this, I can also imagine Kennedy trying to seek some kind negotiated deal, some sort of settlement that would have allowed for the so-called neutralization of South Vietnam.

[6] Chú thích của HNG: Sau 1975, tại hải ngoại, rất nhiều người biết Cao Vị Hoàng là bút hiệu của ông Cao Thế Dung, một nhân viên cũ của bác sĩ Tuyến và cũng là một người gây rất nhiều tranh cải trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Ông cũng là người “nặn” ra một Đại úy Mỹ CIA tên là James Scott (trong tác phẩm Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống?) mà ông khẳng định chính là người ném bom tại Đài Phát thanh Huế đêm 8-5-1963, mở đầu cuộc đấu tranh của Phật giáo. Và dĩ nhiên, bà Ellen Hammer lại nhắc đến sự kiện “đại úy Scott” nầy trong tác phẩm A Death in November như một sự kiện lịch sử … có thật !. [Trần Lâm, Làm thế nào để dựng đứng một nhân vật lịch sử, @Talawas]

[7] Chú thích của HNG: Điều nầy hoàn toàn phù hợp với rất nhiều công điện và tờ trình của Bộ Ngoại Giao Mỹ trong năm 1963, khi ông Nhu bắt đầu tiếm quyền lãnh đạo của ông Diệm và có những biểu hiện tâm thần bất bình thường. [Foreign Relations of the United States, FRUS 1961-1963, Vol III, Doc. 256 và FRUS 1961-1963, Vol IV, Doc.110 ]

[8] Chú thích của HNG: Ngược lại là khác, đã có lúc TT Kennedy đồng ý lập kế hoạch để rút 1,000 “cố vấn” ra khỏi miền Nam Việt Nam trong khuôn khổ triệt thoái toàn bộ lực lượng võ trang Mỹ. [Ngô Đắc Triết, Tổng thống Ngô Đình Diệm và Quân đội Mỹ, 11/2002, http://www.sachhiem.net/LICHSU/N/NgoDacTriet.php]

[9] Chú thích của HNG: Tác giả Đinh Từ Thức dùng cụm từ “nhưng tình hình quân sự tương đối còn tốt đẹp” là để vớt vát chút nào cho chế độ ông Diệm thôi. Thật ra, ngay từ năm 1961, trong lúc nền kinh tế quốc gia vẫn còn phụ thuộc nặng nề vào kinh viện Mỹ [Bernard C. Nalty, Rival Ideologies in Divided Nations (Vietnam War), tr. 62; và Frances Fitzgerald, Fire in the Lake, tr. 101-104] thì tình hình an ninh hầu như bị suy sụp một cách đáng quan ngại, nhất là ở nông thôn, nơi Việt Cọng kiểm soát 80% [Robert Scigliano, Vietnam, A Country At War] đến nỗi ngày 10-10-1961, ông Diệm phải ban bố “tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. [Sắc lệnh số 209-TTP của Tổng Thống Phủ - Đoàn Thêm, Những ngày Chưa quên” Đại Nam, 1967 – Nam Chi Tùng Thư tái bản]  Và hai tháng sau, ngày 7-12-1961, ông Diệm đã gửi thư cho Tổng thống Kennedy xin tăng thêm viện trợ vì “Việt Nam Cọng Hòa đang phải đối đầu với một thảm họa lớn nhất trong lịch sử” [Marvin E, Gettlemen, Vietnam History, Documents and Opinionsm và Đoàn Thêm, Những ngày Chưa quên” Đại Nam, 1967 – Nam Chi Tùng Thư tái bản].





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét