ĐỌC SÁCH “VIỆT NAM
1945-1995” [4/5]
của Lê Xuân Khoa
của Lê Xuân Khoa
Mấy vấn đề
cần trao đổi
(Phần 4/5)
Chu Sơn
VI – Nội chiến hay Chiến
tranh Uỷ nhiệm ?
“Thực tế thì đây là một cuộc nội chiến giữa hai phe
người Việt Nam đeo đuổi những lý tưởng khác nhau, đồng thời cũng là một cuộc
chiến tranh uỷ nhiệm trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh giữa hai khối tư bản và
cộng sản, với sự tham gia trực tiếp của Hoa Kỳ” (LXK sđd tr 271).
Người học sử Việt Nam không xa lạ với hai từ nội chiến. Các
cuộc chiến tranh giữa Trịnh – Mạc, Trịnh – Nguyễn từ giữa thế kỷ XVI đến giữa
thế kỷ XVII là nội chiến. Đến cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Tây Sơn với Nguyễn Phú Xuân (vào nửa sau thứ kỷ XVII),
các sử gia bắt đầu ngập ngừng. Nhiều người chê trách Nguyễn Ánh đã cõng rắn cắn
gà nhà, rước voi về giày mả tổ khi ông này cầu viện quân Xiêm và nhờ Bá Đa Lộc
đi cầu viện Pháp quốc. Quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện bị Quang Trung đánh tan
tành. Cuộc cầu viện phương Tây dang dở, vì vấn đề nội bộ, Pháp không thực hiện
hiệp ước đã ký với Bá Đa Lộc. Sự cộng tác quá nhiệt tình của Bá Đa Lộc và giáo
hội Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ đã giúp Nguyễn Ánh vượt qua nhiều giai đoạn khó
khăn và có tác động quyết định trong những trận quyết chiến cuối cùng giúp
Nguyễn Ánh đánh bại được Tây Sơn trên đà suy yếu vì lục đục nội bộ, vì đánh giá
thấp vai trò – vị trí miền Nam (của anh em Tây Sơn), và đặc biệt vì cái chết
đột ngột của Quang Trung. Nhưng khi Nguyễn Ánh lên ngôi (Gia Long), hoàn tất
công cuộc thống nhất đất nước do Quang Trung để lại, xây dựng vương triều nhà
Nguyễn trong độc lập và tự chủ, thì cái tội cõng…, rước voi… được xem xét lại.
Bởi các yếu tố cầu cứu ngoại bang của Nguyễn Ánh đã dừng lại tại những vùng đã
xẩy ra chiến sự. Gia Long đã không mang nó về kinh đô Huế khi ông bắt đầu xây
dựng lại đất nước trong hoà bình.
Chúng ta trở lại vấn đề đang bàn.
Theo Lê Xuân Khoa, bên này cuộc nội chiến là Việt Nam Cộng
Hoà với hai thời kỳ tổng thống là Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Và bên này
của cuộc uỷ nhiệm là Hoa Kỳ.
Mà :
– Ngô Đình Diệm, người đứng đầu Việt Nam Cộng Hoà, thì:
(tôi trích dẫn lại lời Lê Xuân Khoa) “Chính phủ Diệm chỉ có thể tồn tại được
nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại dù chính đặc sứ J. Lawton Collins
cũng muốn thay Diệm” (LXK sđd tr428).
Cũng theo Lê Xuân Khoa, trong suốt 9 năm chính phủ Diệm
“tồn tại”, đồng minh “uỷ nhiệm” là Hoa Kỳ đã rất nhiều lần toan tính thay thế,
lật đổ ông, và cuối cùng:
“…và cú đảo chính đã không thể xảy ra nếu không có sự
chuẩn bị của chúng ta” (…Hoa Kỳ - Chu Sơn) (LXK sđd tr457).
“Theo McCone, giám đốc CIA hồi đó, Kennedy vẫn nhấn mạnh
trong các phiên họp là không thể đối xử với ông Diệm cách nào tệ hơn là lưu
đày, nhưng thật khó mà tin là ông không biết được rằng khi Hoa Kỳ cho phép (các tướng lãnh VNCH – Chu Sơn) làm đảo chánh thì có thể sẽ phải có giết chóc” (LXK sđd tr455).
Và:
– Nguyễn Văn Thiệu, người đứng đầu Việt Nam Cộng Hoà giai
đoạn hai, là một trong nhóm các tướng mà người Mỹ gọi môt cách khinh bỉ là
“ hảo hán trẻ ” (LXK dịch từ nguyên văn Young Turks), được Mỹ
tuyển chọn làm Tổng thống của nền Cộng hoà lần thứ hai :
“Ông thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ
trong thời kỳ Mỹ Hoá”chiến tranh, cho đến khi bị Nixon – Kissinger ép buộc chấp
nhận hiệp định Paris 1973” (LXK sdd trg 470).
“Ông khéo thích ứng với chính sách của Hoa Kỳ và tin
tưởng vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho đến khi bị đại sứ Graham Martin thúc dục từ
chức” (LXK sđd tr 476).
“Ông…chỉ có thể tự cứu lấy mình bằng cách ra khỏi nước
khi Hoa Kỳ đã dứt khoát đoạn tuyệt với VNCH…” (LXK sđd tr 479).
Câu thứ ba của đoạn trích dẫn trên, Lê Xuân Khoa muốn cho
độc giả biết rằng nếu Nguyễn Văn Thiệu không tự cứu lấy mình bằng cách tuân
lệnh Hoa Kỳ mà ký hiệp định Paris, mà từ chức và trốn chạy ra nước ngoài, chắc
chắn ông sẽ bị “thảm sát” như trường hợp người đồng nghiệp tiền nhiệm
Ngô Đình Diệm năm 1963.
Chỉ với những trích dẫn trên, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy
rằng sinh mệnh và sự nghiệp của hai nhân vật đứng đầu hai thời kỳ Cộng Hoà tại
miền Nam là Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn nằm trong tay Hoa Kỳ.
Cả hai trường hợp (Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu), Hoa Kỳ đã ứng xử không
như một đồng minh, mà như một ông chủ sẵn sàng giết bỏ các nô lệ của mình, hay
như một bố già Mafia bắn bỏ một thủ lĩnh đàn em cứng đầu.
Trong khi hai nhân vật đó đối với nhân dân miền Nam thì,
cũng theo Lê Xuân Khoa :
“…khi Ngô Đình Diệm làm chủ được tình hình chính trị và
quân sự ở miền Nam (23-10-1955 – Ngô
Đình Diệm trở thành tổng thống qua cuộc trưng cầu dân ý độc diễn và tự gian lận
– Chu Sơn) thì ông lại bắt đầu thiết lập chế độ độc tài gia đình trị” (LXK sđd tr434)
“…ông không chấp nhận những những quan điểm khác biệt và
không tha thứ (bất cứ – Chu Sơn) ai làm trái ý ông. Ngày 15-1-1956 ông giải tán Hội Đồng
Nhân Dân Cách Mạng để loại trừ những người có công với ông…” (LXK sđd tr434)
Nguyễn Văn Thiệu “…chỉ nhờ thời cơ (Lê Xuân Khoa không nói nhờ Mỹ – Chu Sơn) mà trở thành nhà lãnh đạo, và đã dùng sự khôn khéo để xây
dựng được quyền hành để rồi trở thành độc tài” (LXK sđd tr471).
Nguyễn Văn Thiệu “củng cố quyền lực bằng một hệ thống
quan chức và cán bộ theo bè phái và bằng những biện pháp quân phiệt tất nhiên
sẽ đưa đến tình trạng tham nhũng và bất công xã hội trầm trọng, làm mất lòng
tin của dân chúng và làm suy yếu khả năng phát triển đất nước” (LXK sđd tr
471-472).
Thưa giáo sư Lê Xuân Khoa: Khi mà sinh mệnh và sự nghiệp
của hai nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà tuyệt đối nằm trong tay người Mỹ, khi mà
Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu xây dựng chế độ độc tài gia đình trị và độc
tài quân phiệt thì họ lấy quyền đâu, sức đâu để tiến hành cuộc nội chiến ?
Bởi vì, theo những trích dẫn trên, quyền lực đích thực lúc bấy giờ tại miền Nam
nằm trong tay người Mỹ, và dân chúng thì chắc chắn không để cho người cai trị
độc tài và hủ bại đưa mình đến chỗ chết. Dân chúng phải nổi dậy thôi:
– Năm 1963, khi mà sự tuyệt vọng và phẫn nộ lên đến đỉnh
điểm, qua phong trào Phật giáo, nhân dân các đô thị miền Nam đã nổi dậy làm hậu
thuẫn cho cuộc đảo chính của các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà với sự “ cho
phép của Hoa Kỳ ” (nguyên văn của LXK). Chế độ độc tài gia đình trị bị
lật đổ. Anh em Diệm – Nhu – Cẩn bị “ thảm sát ” (từ của LXK).
– Từ sau hiệp định Paris được công bố, nhân dân các đô thị
miền Nam (kể cả một phần của giáo hội Công giáo) rầm rộ nổi dậy tạo điều kiện
thuận lợi cho thời kỳ kết thúc chiến tranh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam, khi Hoa Kỳ – nói theo ngôn ngữ nhẹ nhàng gượng gạo
của Lê Xuân Khoa – giải kết và đoạn tuyệt với Việt Nam Cộng Hoà, Nguyễn Văn
Thiệu bị Mỹ bắt buộc phải từ chức và trốn chạy ra khỏi nước dưới sự áp tải của
CIA. Mười ngày sau khi Thiệu từ chức, sáu ngày sau khi Thiệu “ ra khỏi
nước ” (từ của LXK), Dương Văn Minh – tổng thống mới nhậm chức được
hai ngày – vừa thay mặt cho Mỹ, vừa thay mặt cho Việt Nam Cộng Hoà, vừa là
người đứng đầu của lực lượng chính trị Thứ Ba tuyên bố đầu hàng trước họng súng
của quân Giải Phóng mà ông tưởng là những người anh em.
Mỹ cút – Ngụy nhào, hay Mỹ rút – Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ
cũng thế thôi. Bởi vì nếu không thua, Mỹ đã không rút. Trong trường hợp Mỹ rút
mà Ngụy không nhào, thì Ngụy không còn là Ngụy nữa, mà là Việt Nam Cộng Hoà,
một trong hai phe chính danh của cuộc nội chiến.
Về mặt chứng lí, những trang tôi vừa dẫn luận trên là đầy
đủ để có thể chấm dứt cuộc thảo luận về vấn đề bản chất của cuộc chiến tranh
Đông Dương lần thứ hai (1954-1975).
Sự thật lịch sử là như thế, còn vấn đề ngôn từ, thiết nghĩ
cũng nên thanh lý với Lê Xuân Khoa để làm sáng tỏ thêm:
Uỷ nhiệm có nghĩa là giao phó, là uỷ thác một trách nhiệm:
– Gia Long khi ra xây dựng kinh đô Huế, uỷ nhiệm Lê Văn
Duyệt xử lý mọi vấn đề ở miền Nam.
– Sau Genève, từ Pháp, Bảo Đại (trên hình danh) uỷ nhiệm
Ngô Đình Diệm về nước thành lập và điều hành chính phủ Quốc Gia.
– Kennedy uỷ nhiệm Cabot Lodge đi Việt Nam giải quyết vấn
đề Ngô Đình Diệm khi ông này tỏ ra ngoan cố trong việc thực hiện dân chủ và
bình đẳng tôn giáo nhân cuộc đấu tranh của Phật giáo, và…
Cả ba trường hợp người uỷ nhiệm vắng mặt và người được uỷ
nhiệm có toàn quyền thực thi nhiệm
vụ.
Tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam từ 1954 đến 1975
không diễn ra như thế. Ông chủ Mỹ luôn luôn có mặt, theo dõi sát sao và trực
tiếp điều hành mọi sách lược, chương trình, kế hoạch hành động xây dựng miền
Nam thành tiền đồn chống Cộng và chủ động tiến hành cuộc chiến tranh. Ngô Đình
Diệm, Nguyễn Văn Thiệu chỉ là kẻ thừa hành. Ngô Đình Diệm bị giết là do ông
muốn thoát khỏi sự điều hành trực tiếp của ông chủ Mỹ. Nguyễn Văn Thiệu “tự
cứu lấy mình” khi răm rắp tuân theo các mệnh lệnh, chỉ thị của Hoa Kỳ nên
đã thoát thân.
Lê Xuân Khoa đã sai trong nhận định lịch sử, Lê Xuân Khoa
còn không chính xác khi sử dụng ngôn từ. Nhưng chắc chắn Lê Xuân Khoa vẫn chưa
buông bỏ vấn đề. Ông nói : Còn sự thật lịch sử ở bên kia – miền Bắc ?
Chẳng phải đảng Cộng Sản và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà không nhận uỷ
nhiệm từ Liên Xô và Trung Quốc sao ?
Sau đây là những gì Lê Xuân Khoa viết về Liên Xô và Trung
Quốc trong quan hệ với miền Bắc từ sau Genève cho đến khi kết thúc chiến tranh
Việt – Mỹ, mà ông gọi là Nội chiến và Uỷ nhiệm.
“…Do đó, trong những năm đầu sau Genève, Trung Quốc
không muốn cho giới lãnh đạo miền Bắc tấn công miền Nam để thống nhất đất nước…”
(LXK sđd tr276).
“…Đông Dương không có ưu tiên về an ninh hay quyền lợi
của Cộng Sản Quốc tế, trong khi Liên Xô đang cần ngăn chặn những nỗ lực của Hoa
Kỳ thành lập Cộng Đồng Phòng Thủ Châu Âu… Ngoài ra, Liên Xô không muốn đòi hỏi
tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam… Trước viễn tưởng đó, Liên Xô từ
bỏ ảnh hưởng ở Việt Nam xa xôi…” (LXK sđd tr 276, 277).
“Về mặt quốc tế, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vẫn được
Trung Quốc nhiệt tình ủng hộ từ thời chiến tranh chống Pháp, nay (1960 – Chu Sơn) vì mối mâu thuẫn
giữa Liên Xô và Trung Quốc từ 1956 mà cả hai bên đều phải tăng gia chi viện cho
Hà Nội để giữ được uy tín và ảnh hưởng với các nước Cộng Sản trên thế giới…” (LXK sđd tr.279).
“…Hà Nội lúc này (1966 – Chu Sơn) chịu ảnh hưởng
của Bắc Kinh nên đã bác bỏ đề nghị của Johnson đòi Mỹ rút hết quân khỏi miền
Nam và thừa nhận một chính quyền Trung lập như được hoạch định bởi M.T.G. P. M.
N.” (LXK sđd tr287).
“…Bắc Kinh nhất quyết chống lại mọi nỗ lực giải quyết
chiến tranh Việt Nam bằng thương thuyết…”… “ Bắc Kinh thường xuyên
nhắc nhở các lãnh tụ Hà Nội chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Theo một tài
liệu bắt được của Bắc Việt năm 1967 “Trung Quốc quyết tâm giúp chúng ta chiến đấu đến đời
con đời cháu của chúng ta”. ” (LXK sđd tr.288).
“…Kosygin đang ở Hà Nội (1965 – Chu Sơn) thảo luận vấn đề
viện trợ quân sự đồng thời khuyến cáo các giới lãnh đạo Hà Nội chấp nhận giải
pháp hoà bình ”
“…Karnow cho rằng Hà Nội vẫn chống lại khuynh hướng chủ
hoà của Kosygin đã sắp xếp vụ tấn công Pleiku để buộc Hoa Kỳ phải trả đũa và
đẩy Liên Xô vào thế chẳng đặng đừng ” (LXK sđd tr 290).
“... Hoa Kỳ nghĩ đến
việc trông cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Ngày 19 (tháng 4-1975 – Chu Sơn) Ford (tổng thống Mỹ – Chu
Sơn) thông báo cho Brezhnev ý định nhờ lãnh tụ đảng Cộng Sản
Liên Xô can thiệp để ngưng chiến tại Việt Nam và để thảo luận về một sự thay
đổi tình hình chính trị ở Sài Gòn ” (LXK sđd tr
311).
Với những gì trích dẫn trên đây, kể cả nhiều lần Lê Xuân
Khoa khẳng định rằng là Liên Xô, Trung Quốc vì những mục đích khác nhau đã “phản
bội” đồng minh, bắt ép đảng Cộng Sản và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
ký hiệp định Genève với những điều kiện thua thiệt, không tương xứng với những
thắng lợi trên chiến trường. Và cũng vì những mục tiêu khác nhau, hai nước Cộng
Sản đàn anh này đều muốn Việt Nam bị chia cắt lâu dài hoặc vĩnh viễn (xem LXK
sđd chương 4).
Và mặc dầu Trung Quốc, Liên Xô đều muốn hoà hoãn, chung
sống hoà bình với phương Tây, và lại mâu thuẫn xung đột lẫn nhau từ 1956, nhưng:
“Cả hai đều phải gia tăng chi viện cho Hà Nội để được giữ uy tín và ảnh
hưởng với các nước Cộng Sản khác trên thế giới ” (LXK sđd tr 279).
Như thế là từ 1959, Liên Xô,Trung Quốc đều bị đảng Cộng sản
Việt Nam đặt để trong tình thế chẳng đặng đừng : “phải gia tăng chi
viện”. Sự thể là sau gần 5 năm theo đuổi sách lược đấu tranh hoà bình để
thống nhất đất nước theo tinh thần của hiệp định Genève bất thành với những tổn
thất to lớn, đảng Cộng Sản và các nhà lãnh đạo ở Hà Nội quyết tâm thống nhất
đất nước bằng giải pháp kết hợp chính trị – quân sự qua nghị quyết XV. Đảng
Cộng sản Việt Nam đi cầu viện Liên Xô, Trung Quốc. Để rồi, theo yêu cầu của Hà
Nội, “…cả hai nước phải tăng gia chi viện cho Việt Nam đánh Mỹ”.
Đều phải tăng gia chi viện, nhưng cả hai
nước Liên Xô và Trung Quốc đã không thống nhất trong sách lược và cách thức chi
viện cho Hà Nội, cho nên các nhà lãnh đạo miền Bắc được độc lập và tự chủ trong
quá trình tiến hành chiến tranh với Hoa Kỳ.
– Liên Xô thì vừa chi viện vừa khuyến cáo Hà Nội nên tiến
hành đàm phán với Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh. Thậm chí, khi quân miền Bắc
vào gần sát Sài Gòn, theo sự nhờ vả của Hoa Kỳ, Liên Xô còn can thiệp để có một
giải pháp chính trị gì đó trên phần lãnh thổ còn lại.
– Trung Quốc thì vừa chi viện vừa áp lực để Hà Nội không
thương lượng gì cả với Hoa Kỳ, và “ giúp chúng ta đánh Mỹ đến đời con
đời cháu ” – nhưng đánh nhỏ, đánh cầm chừng, đánh mà không dứt điểm.
Thưa học giả Lê Xuân Khoa, nếu quan hệ giữa miền Bắc và các
nước Liên Xô, Trung Quốc từ sau Genève đến năm 1975 như những gì ông đã viết và
tôi đã tóm lược, đã làm rõ ở trên là chính xác, thì hoàn toàn không có chuyện
uỷ nhiệm và nhận uỷ nhiệm từ các phía liên hệ.
Theo đó, Liên Xô phải từ bỏ mục tiêu dài hạn của mình là
không muốn Việt Nam thống nhất, không muốn đối đầu với Hoa Kỳ tại “ vùng
đất xa xôi Đông Nam Á ”, đã phải chi viện cho Việt Nam, và luôn bị
đồng minh Bắc Việt đẩy vào tình thế “ chẳng đặng đừng ”, đã
giúp đỡ Bắc Việt tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ đến thắng lợi cuối cùng là
“ đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào ”, hoàn thành thống nhất
đất nước.
Và Trung Quốc, như những gì Lê Xuân Khoa đã viết, vào các
thời kỳ khác nhau đã chủ trương ba không (không muốn Việt Nam thống nhất, không
muốn Việt Nam đánh lớn, không muốn Việt Nam thương lượng hoà bình với Mỹ, và
một quyết (“ giúp chúng ta đánh Mỹ đến đời con đời cháu ”),
vẫn “ phải chi viện cho miền Bắc ”, vẫn phải để cho Hà Nội chủ động tiến hành chiến
tranh và đơn phương đấu tranh hoà bình với Hoa Kỳ, đơn phương kết thúc cuộc
chiến tranh như sách lược chính trị và quân sự do đảng Cộng Sản Việt Nam vạch
ra từ 1959.
Lê Xuân Khoa để ra 40 trang (273- 313) để mô tả cuộc chiến
tranh mà ông gọi là Nội chiến và Chiến tranh Uỷ nhiệm tại Việt Nam 1954 – 1975
với tựa đề “Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà”.
Nhưng độc giả chỉ thấy hai từ Nội chiến và Uỷ nhiệm xuất hiện một cách
lạc lõng trong tựa đề của phần Ba và mấy dòng đầu của trang dẫn nhập. Các từ
Trung Quốc, Liên Xô, Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa xuất hiện nhiều hơn ở những trang
đầu của chương 7. Về mặt thời gian, từ 1967 trở về sau (đến 1975), theo những gì
Lê Xuân Khoa viết ở chương này, cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai thực chất là
cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trên chiến trường cũng
như trên bàn hội nghị (Paris).
Việt Nam Cộng Hoà, Nguyễn Văn Thiệu, Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam và những người đại diện của nó được Lê Xuân Khoa nhắc đến nhiều lần
trong vai trò công cụ và lực lượng phụ thuộc. Liên Xô và các nhà lãnh đạo của
nước này được Lê Xuân Khoa đề cập nhiều lần trong vai trò chủ thể chi viện và
trung gian điều đình. Còn Trung Quốc thì hoàn toàn vắng mặt từ trước trận Mậu
Thân (1968) cho đến khi kết thúc chiến tranh. Khi người ta vắng mặt thì không
thể bị cáo buộc này nọ. Uỷ nhiệm chiến tranh lại càng không. Lê Xuân Khoa không
thể không biết đạo lý này. Còn Bắc Việt, kẻ nhận chi viện, không thể không gặp
khó khăn, chịu áp lực, nhận khuyến cáo này nọ trước hai nước Cộng sản đàn anh
đồng thời là chủ nợ đang chuyển dần từ đồng chí qua đế quốc bành trướng, nhưng
họ đã vượt qua một cách khôn khéo và vô cùng bản lãnh, để rồi cuối cùng họ đã
thành đạt gần hết các mục tiêu đề ra.
Thực tế lịch sử là như thế, còn về lí luận thì Trung Quốc
không thể uỷ nhiệm cho đảng Cộng Sản và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cái mục tiêu
do chính đảng Cộng Sản Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đề ra. Trong cuộc
chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1954-1975) Trung Quốc chỉ là nước “phải
chi viện” (nguyên văn của LXK), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là nước nhận chi
viện và đã chủ động thực hiện các mục tiêu của mình : “đánh cho Mỹ cút
– đánh cho Ngụy nhào ”, hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước. Mục
tiêu này hoàn toàn là của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, mâu thuẫn với ý đồ và
quyền lợi lâu dài của Trung Quốc mà Lê Xuân Khoa đã nhiều lần cáo buộc. Tôi xin
tóm lược lại:
– Trung Quốc cùng với Liên Xô, Anh, Pháp
chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia riêng biệt với ý đồ duy trì cuộc chia cắt
lâu dài hoặc vĩnh viễn ; cả hai đều chủ trương chung sống hoà bình với phương
Tây (xem chương 4).
– Trung Quốc “không muốn cho giới lãnh đạo miền Bắc tấn
công miền Nam ” (xem chương 7 trang 276).
– Trung Quốc “ nhất quyết chống lại mọi nỗ lực giải
quyết chiến tranh Việt Nam bằng thương thuyết ” (chương 7 trang 288).
Trong khi đó đảng Cộng Sản (Việt Nam) chủ động đề ra sách
lược (nghị quyết 15) giải phóng miền Nam, chủ động đương đầu với Mỹ trong chiến
tranh cũng như trong thương lượng hoà bình (hội đàm Paris) và hoàn thành công
cuộc đấu tranh vì độc lập và thống nhất đất nước (xem Lê Xuân Khoa sđd từ trang
290 – đến hết chương 7 – Sự sụp đổ của
Việt Nam Cộng Hoà). Chính Lê Xuân Khoa đã
viết ở trang 305 như sau: “Khác với hội nghị Genève có tính cách quốc tế,
hội nghị Paris 1973 chỉ là những cuộc hội đàm song phương giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà…”
Chiến tranh cũng giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mỹ. Đàm
phán hoà bình cũng giữa Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Thực tế lịch sử này,
một lần nữa chứng tỏ kết luận của Lê Xuân Khoa về tính chất của cuộc đụng độ mà
ông gọi là Nội Chiến và Uỷ Nhiệm là không chính xác.
Cũng như các phần, các chương trước, Lê Xuân Khoa đã lắt
léo sử dụng thủ pháp quen thuộc : kết luận một đường (trước khi) chứng
minh một nẻo. Có điều phần chứng minh ông đã thực hiện rất cẩu thả, vụng về.
Tôi đơn cử hai ví dụ:
(1) Ở trang 284, Lê Xuân Khoa viết như sau:
“Tổng số lực lượng thống nhất quân Giải phóng miền Nam
(thường được gọi là Việt cộng) vào năm 1961 là 25.000, chỉ một năm sau đã lên
đến 123.000”.
“Về phần Việt Nam Cộng Hoà, quân số tăng từ 15.000 năm
1960 lên 250.000 năm 1964. Lực lượng của Mỹ cũng gia tăng từ 500 cố vấn năm
1960 lên tới 23.000 năm 1964”.
(2) Ở trang 294, Lê Xuân Khoa viết:
“…đầu năm 1968 tướng Võ Nguyên Giáp quay trở lại mặt
trận Khe Sanh với quân số từ 20.000 đến 30.000 để lôi cuốn thêm lực lượng Hoa
Kỳ vào vòng chiến”.
Cả hai thông tin: về quân số Việt Nam Cộng Hoà năm 1960
(15.000) và về tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy trận Mậu Thân, chứng tỏ:
– Ông không có một nghiên cứu đứng đắn về sự hình thành và
phát triển của quân đội Việt Nam Cộng Hoà, theo ông là một bên của cuộc nội
chiến và là quân đội của một bên nhận uỷ nhiệm (chính quyền Việt Nam Cộng Hoà).
– Ông cũng đã không có một nghiên cứu đứng đắn tối thiểu về
giới lãnh đạo quân sự và chính trị của miền Bắc – bên kia của cuộc nội chiến và
nhận uỷ nhiệm.
Về quân số Việt Nam Cộng Hoà năm 1960
Theo tôi quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào thời điểm 1960 có
vào khoảng 10 lần hơn con số 15.000 Lê Xuân Khoa đưa ra. Đó là không kể quân số
trong các quân binh chủng Hải quân, Không quân đang hình thành – phát triển.
Ngoài ra còn có các lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân ở các tỉnh, quận
huyện, làng xã. Chắc Lê Xuân Khoa sẽ mỉm cười mỉa mai khi một cá nhân thiếu bảo
chứng học thuật như tôi lại tranh cãi với ông, một nhà nghiên cứu, về “những
con số lịch sử”. Vậy thì xin mời ông kiểm chứng qua những tài liệu trích
dẫn sau đây:
“ Ngày 26 tháng 10 năm 1955, khi cử hành lễ đăng
quang của Tổng thống Ngô Đình Diệm và cũng là ngày khai sinh nền Đệ Nhất Cộng
Hoà, quân đội Quốc Gia Việt Nam đổi tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Lúc đó
quân số hiện diện là 167.000 người ” (Quân sử Việt Nam Cộng Hoà,
theo qlvnch.blogspot.com).
“… từ năm 1955,
riêng bộ binh, quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã có 10 sư đoàn gồm 4 sư đoàn dã
chiến và 6 sư đoàn khinh chiến. Các binh chủng Hải quân, Không quân cũng bắt
đầu thành lập từ năm này, với tàu chiến, máy bay, huấn luyện và các trang thiết
bị do quân đội Hoa Kỳ đảm trách và cung cấp. Đến năm 1960 các binh chủng như
Lực lượng Đặc biệt, Thuỷ quân Lục chiến, Biệt động quân, Nhảy dù đã trưởng
thành ở cấp lữ đoàn, liên đoàn, và đang tiến tới thành lập sư đoàn ” (theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Tôi không hiểu vì sao Lê Xuân Khoa đưa ra con số 15.000
quân Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1960?
Nếu năm 1960 Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân thì lấy
sức đâu năm 1954-1955 đương cự với quân của các giáo phái, đánh tan quân Bình
Xuyên, san bằng các chiến khu của Quốc Dân Đảng, Đại Việt, và đặc biệt giành
độc lập từ tay người Pháp như Lê Xuân Khoa đã viết ?
Nếu năm 1960 Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân thì chắc
chắn năm 1954-1955 số quân Việt Nam Cộng Hoà còn ít hơn, và như thế miền Bắc đã
bãi bỏ chủ trương đấu tranh hoà bình, vì vào thời điểm đó họ đã để lại miền Nam
hàng trăm ngàn cán bộ (quân sự – chính trị) với nhiều vũ khí và nhiều tình báo
viên mai phục trong quân đội và chính quyền miền Nam.
Nếu năm 1960, Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 15.000 quân thì rõ
ràng người Mỹ đã ăn không ngồi rồi gần sáu năm sau khi thành lập SEATO, và “mật
ký với Pháp nghị định thư ghi nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là lực lượng Cộng
sản gây hấn, chống lại những ý niệm và quyền lợi của nhân dân tự do ở các quốc
gia liên kết, Pháp và Hoa Kỳ, và hứa ủng hộ Ngô Đình Diệm trong việc thành lập
và duy trì một chính phủ mạnh, chống cộng và có xu hướng quốc gia ”
(LXK sđd tr276).
Một chính phủ mạnh không thể không có một quân đội mạnh,
phải không, thưa giáo sư, học giả Lê Xuân Khoa ? Vào thời điểm 1960 một
chính phủ mạnh không thể có một số quân là 15.000, cho dù chính phủ đó được
lãnh đạo bởi “ Ngô Tổng thống anh minh ” – người mà năm năm trước, ngày 9 tháng 8 (1955) đã dứt
khoát bác bỏ lời kêu gọi thương lượng hoà bình để thống nhất đất nước của thủ
tướng miền Bắc Phạm Văn Đồng. Khước từ hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất
nước, có nghĩa là Ngô Đình Diệm gián tiếp thách đố với miền Bắc về mặt quân sự.
Về “Tướng Võ Nguyên Giáp và chiến dịch TCK/ TKN tết
Mậu Thân ”
Theo tôi, sự kiện tết Mậu Thân, Võ Nguyên Giáp không tham
gia làm kế hoạch, cũng không có vai trò quyết định trong việc chỉ đạo chiến
trường cho đến hết đợt I. Bằng nhiều nguồn thông tin khác nhau, từ sau biến cố
1975, tôi biết được rằng bộ tứ lãnh đạo tối cao thời chống Pháp : Hồ Chí
Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, từ sau hội nghị lần thứ 15
của Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản (1959), đã từng bước bị tước quyền,
trở thành những nhà lãnh đạo thứ yếu ở tuyến hai, nhường quyền thống soái cho
bộ tam Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng ở trung ương, và bộ tam Nguyễn Chí
Thanh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng ở chiến trường miền Nam. Do vậy, không có
chuyện “tướng Giáp quay trở lại mặt trận Khe Sanh…” như Lê Xuân Khoa đã
viết.
Lê Xuân Khoa có thể kiểm tra các thông tin và nhận định của
tôi bằng các tài liệu trích dẫn sau đây:
“Kế hoạch Mậu Thân có nguồn gốc từ những kế hoạch ban
đầu chúng ta hình thành mà một số nhà nghiên cứu gọi là Kế Hoạch X. Kế hoạch
này được khởi phát vào lúc mà cuộc chiến tranh ở miền Nam đang tiến dần đến sự
thay đổi chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ tiến hành ở miền Nam đang sa
lầy, thất bại” (theo PGS/TS Đại tá Hồ Khang – Phó Viện trưởng Viện Lịch sử
Quân sự Việt Nam. Wikipedia trích).
“Tháng 7 và tháng 8 – 1967 cục tác chiến bộ tham mưu bắt
tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 theo tinh thần Bộ chính
trị tháng 6 và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương”.
“Tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng gợi ý cho “Tổ
kế hoạch” do cục trưởng cục tác chiến Lê Ngọc Hiền phụ trách là nên nghĩ đến kế
hoạch và cách đánh khác với cách đánh “truyền thống” mà lâu nay quân Giải phóng
đã làm, thì mới giành thắng lợi quyết định. Trong khi “Tổ kế hoạch” còn đang
suy nghĩ tìm cách đánh mới, thì Tổng bí thư Lê Duẩn khi trao đổi với quân uỷ
Trung ương về kế hoạch tác chiến năm 1968 đã đề xuất giải pháp đánh thẳng vào
sào huyệt của địch trong các thành phố, thị xã. Ý kiến của Lê Duẩn được Quân uỷ
Trung ương và Tổng tham mưu trưởng tán thành và trở thành ý định quyết tâm
chiến lược năm 1968…” (Sự kiện Tết Mậu Thân. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt)
“Thực ra hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã bày tỏ
quan điểm chống lại kế hoạch đó” (Ý kiến của nhà nghiên cứu độc lập Merle
Pribbenow, nguyên là chuyên viên ngôn ngữ của cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ
CIA làm việc tại Sài Gòn trước đây, trình bày tại cuộc hội thảo do Trung tâm
Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức – phóng viên Việt Long ghi – Đài RFA
phát ngày 16 – 3 – 2008)
“Quan niệm về một cuộc tổng công kích nổi dậy thực ra
bắt nguồn từ những năm giữa thập niên 1960. Và kế hoach đó sau cùng là sản phẩm
chung của tướng Văn Tiến Dũng, thuộc cấp cao cấp nhất của tướng Giáp, và tổng
bí thư Lê Duẩn, đối thủ lâu năm của vị tướng được cả quân dân miền Bắc ngưỡng
mộ và thường gọi là anh Văn” (Phát biểu của sử gia Villard tại cuộc hội
thảo do Trung tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức, phóng viên Việt Long
ghi, đài RFA phát ngày 10 – 3 – 2008)
Viết về một cuộc chiến tranh mà chưa nắm rõ sự hình thành
và phát triển lực chính trị và quân sự của bên này, đồng thời lơ mơ về giới
lãnh đạo chính trị – quân sự của bên kia mà còn đưa ra những “Bài học lịch
sử” tràng giang đại hải cho các bên tham chiến, còn lớn tiếng hô hào hoà
hợp, hoà giải dân tộc thì quả là việc làm hoang tưởng, hoặc phản ảnh một ý đồ
chính trị khó lường. Tôi nghiêng về khả năng thứ hai.
Chi tiết 15.000 quân của Việt Nam Cộng Hoà năm 1960 do Lê
Xuân Khoa đưa ra là một sai trật nhỏ trong rất nhiều sai trật ông đã mắc phải
trong quá trình mô tả sự hình thành phát triển phe Quốc Gia nói chung, và miền
Nam như là “một quốc gia riêng biệt” từ sau hiệp định Genève mà “Hoa
Kỳ và Pháp đã “mật ký Nghị định thư ủng hộ Ngô Đình Diệm trong việc thành lập
và duy trì một chính phủ mạnh, chống cộng và có xu hướng quốc gia” (LXK sđd
tr276).
Theo tôi một chính phủ mạnh không chỉ có một quân đội mạnh
mà cần phải có một lực lượng chính trị mạnh được hậu thuẫn bởi một bộ phận quần
chúng nhất định nhằm đánh bại các cuộc tấn công của miền Bắc về cả hai phương
diện chính trị và quân sự. Như thế là cái sứ mệnh mà Thế giới Tự do giao phó
cho chính phủ Ngô Đình Diệm nằm trong “mật ký của Hoa Kỳ và Pháp” là “chống
cộng” và “quốc gia”.
Cho dù Lê Xuân Khoa có nói gì đi nữa, hoặc là ông cố ý
không nói rất nhiều điều, thì “chống cộng” và “quốc gia” theo “mật
ký giữa Hoa Kỳ và Pháp” vào tháng 9.1954 đã trở thành ý thức hệ, là học
thuyết chính trị của hai thời kỳ Cộng hoà tại miền Nam từ Ngô Đình Diệm đến
Nguyễn Văn Thiệu. Không làm sáng tỏ vấn đề này sẽ không hiểu hết bản chất của
cuộc chiến mà Lê Xuân Khoa khẳng định là “Nội chiến và Uỷ nhiệm”.
Nhưng tại sao phải chống Cộng? Các Giám mục, linh mục thừa
sai (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp) và cả giáo hội La Mã cũng như giới lãnh đạo
Pháp và Hoa Kỳ đã trả lời cho một bộ phận người Việt Nam : Vì Cộng sản chủ
trương thực hiện tam vô (vô thần, vô sản và vô tổ quốc) bằng độc tài đảng trị.
Do vậy mà Pháp, Hoa Kỳ, các Giám mục, linh mục và các nhà hoạt động chính trị
Công giáo sau Genève đã hối hả đưa gần một triệu người (đa phần là Công giáo)
từ miền Bắc vào miền Nam “Tị Nạn”, làm hậu thuẫn cho chế độ Ngô Đình
Diệm. Do vậy mà : Từ sau Hội nghị Genève (tháng 7-1954) với sự viện trợ hùng
hậu, sự bày mưu tính kế của Mỹ và một số Việt Minh chiêu hồi :
– Ngô Đình Diệm đã tổ chức Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia để
đối đầu với Mặt Trận Việt Minh.
– Ngô Đình Nhu thành lập đảng Cần Lao với học thuyết duy
Cần Lao – Nhân vị – Duy linh để đối đầu với đảng Lao Động (Cộng sản) chủ trương
chiến tranh nhân dân, đấu tranh giai cấp với liên minh công-nông theo ý thức hệ
Cộng sản (chủ nghĩa Mac – Lê nin) duy vật và vô thần. Ngô Đình Nhu tổ chức đoàn
thanh niên Cộng Hoà, Trần Lệ Xuân thành lập Hội phụ nữ Liên đới là những tổ
chức vòng ngoài của đảng Cần Lao.
– Ngô Đình Thục xây dựng Trung tâm Nhân Vị ở Vĩnh Long (một
loại trường đảng cao cấp) nhằm cải tạo tư tưởng cho các nhân vật chủ chốt chế
độ Ngô Đình Diệm với sự giảng dạy của các Linh mục. Trung tâm Nhân Vị của Ngô
Đình Thục đả phá chủ nghĩa Cộng sản duy vật – vô thần, chửi bới, mạ lị các tôn
giáo khác mà họ gộp chung lại là “bọn tà ma ngoại đạo, phật thần ma quỷ”.
Đặc biệt, Trung tâm Nhân Vị rao giảng truyền bá Thiên Chúa giáo. Cuộc đấu tranh
ý thức hệ này không chỉ bắt đầu từ khi “Nguyễn Ái Quốc từ Nga sang Trung Hoa
năm 1924 để hoạt động cho Comintern”, như Lê Xuân Khoa đã cáo buộc, mà từ
sau cách mạng Nga năm 1917, giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã đã đề xuất sách lược
chống Cộng trên bình diện toàn cầu. Theo tôi, chủ nghĩa chống Cộng chỉ là sản
phẩm của một giai đoạn, nó là một mắt trong một sợi xích dài của nền văn minh
Ky Tô Giáo trong quá trình bung ra khỏi châu Âu đi chinh phục những vùng đất
mới.
Tại Việt Nam, trước khi tiến hành chủ nghĩa chống cộng, các
giáo hội Thiên Chúa giáo (từ Thừa sai đến La Mã) đã tiến hành chủ nghĩa chống
Nho – Phật kéo dài hơn ba trăm rưởi năm (từ đầu thế kỷ XVII đến 1975).
Không phải ngẫu nhiên các thượng thư đứng đầu triều đình
Huế từ sau cuộc khởi nghĩa Cần Vương đều là người Thiên Chúa Giáo (Nguyễn Hữu
Bài, Ngô Đình Khả…) cũng không phải ngẫu nhiên mà người đứng đầu hai thời Cộng
Hoà tại miền Nam (tiền đồn của Thế giới Tự do) từ sau Genève đều là người Thiên
Chúa giáo (Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu). Cũng không phải ngẫu nhiên mà một
tín đồ đạo dòng Thiên Chúa Giáo trở thành Hoàng hậu Nam Phương của triều đình
An Nam Nho – Phật và thờ cúng tổ tiên ông bà.
Khi chế độ gia đình trị bị lật đổ, ba anh em Ngô Đình Diệm,
Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn bị giết chết, Mỹ phải mất hai năm loay hoay để tìm
con ngựa mới cho cuộc Thánh chiến. Chẳng phải Nguyễn văn Thiệu đã không chỉ là
kẻ “thích ứng được với Hoa Kỳ trong thời kỳ Mỹ hoá chiến tranh” như Lê
Xuân Khoa đã nhận định, mà, sau lưng con ngựa Nguyễn Văn Thiệu còn có cả một
tàu ngựa : Giáo hội Công giáo và đảng Cần lao tái sinh dưới tên gọi mới là
đảng Dân chủ. Nhiều tác giả cho rằng chế độ Thiệu là chế độ Diệm không có Diệm
trong thực tế này.
Yếu tố Thiên Chúa giáo (Công giáo) xuyên suốt từ thời kì
thực dân Pháp bắt đầu đánh chiếm và hoàn tất công cuộc xâm lược Việt Nam, qua
cuộc chiến tranh Việt – Pháp, đến hai thời kỳ Cộng hoà giả danh tại miền Nam,
nó làm linh hồn cho hai chế độ độc tài từ gia đình trị qua quân phiệt trị đều
là công cụ của ông chủ Mỹ. Miền Nam – cái tiền đồn của Thế giới Tự do – chỉ có
được dưới 10 % dân chúng là người Công giáo ủng hộ.
Lại nữa, trong số dưới 10 % dân chúng là người Công
giáo ấy, ngày càng phát triển một bộ phận giáo dân, tu sĩ khát khao hội nhập
với đồng bào – tổ quốc mình, thà đi với người Cộng sản còn hơn ở lại với Mỹ.
Khi nhận ra thực tế này, người Mỹ đã muốn nhanh chóng thoát khỏi vũng lầy của
cuộc chiến tranh lầm lạc, chẳng những đã phải chấp nhận gần hết các điều kiện
của đối phương tại hội đàm Paris, mà còn vận động cả thế giới, bất kể Tư bản
hay Cộng sản, bất kể bạn hay thù, bất kể đồng minh hay công cụ – để kìm hãm
cuộc tiến công dứt điểm (phá bỏ hiệp định Paris) của miền Bắc, nhằm tìm kiếm
một giải pháp chính trị trên phần lãnh thổ còn lại (Sài Gòn và các tỉnh Nam
bộ) : thành lập chính phủ liên hợp ba thành phần để “có thêm thì giờ
cho Hoa Kỳ giải quyết được mọi việc trước khi rút hết người và vật liệu cần
thiết ra khỏi Việt Nam” (LXK sđd tr 311…). Nỗ lực khiêm tốn này của Mỹ cũng
không thành, bởi Liên Xô và cả Trung Quốc, theo sự nhờ vả và trao đổi quyền lợi
của Mỹ, chắc đã đề nghị, khuyến cáo thế này thế nọ với miền Bắc, cũng chẳng
giúp được Mỹ thoát khỏi “ cuộc tháo chạy tán loạn ”. Cuộc tháo
chạy tán loạn là tên một bản dịch (của Ngô Dư) cuốn sách có tựa đề The Decent Interval của tác giả Frank Snepp – một chuyên gia phân tích tình
hình của CIA, người đã lái xe, cùng với tướng Timmes, đưa Nguyễn Văn Thiệu lên
phi trường Tân Sơn Nhất vào chiều tối 25-4-1975 để ngài Tổng thống nền đệ nhị
Cộng hoà “ra khỏi nước” theo lệnh và sự sắp xếp của đại sứ Hoa Kỳ
Martin.
Khi làm ngơ để các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà “ thảm
sát ” anh em Ngô Đình Diệm, khi đổ quân mà chẳng cần hỏi ý kiến của
“ nước chủ nhà ”, khi cùng đối phương ký Hiệp định Paris, khi
bắt Thiệu phải từ chức, khi âm thầm và gấp rút áp tải Nguyễn Văn Thiệu “ ra khỏi nước,” người
Mỹ đã thể hiện đầy đủ vai trò ông chủ đích thực của miền Nam, và cuộc chiến
tranh hai mươi năm (1954-1975) với bao nhiêu tội ác và đau khổ đích thực là
cuộc chiến tranh của Mỹ.
Người Mỹ biết mình nói dối khi nào, và với ai. Khi nào
không cần và không thể nói dối nữa, người Mỹ đã tỏ ra thẳng thắn và trung thực
một cách thô bạo trong lời nói cũng như trong việc làm. Mà, chỉ nói thật không
thôi, thông thường đã làm mất lòng những ai bị lừa dối. Huống hồ gì đến hành
động thô bạo của ông chủ Mỹ (giết chết anh em Ngô Đình Diệm, áp lực, sai khiến,
áp tải Nguyễn Văn Thiệu). Lê Xuân Khoa gắn bó với người Mỹ lâu dài, dĩ nhiên
ông không thể không nhận biết đạo lí này.
VII/ Vấn đề hoà giải
hoà hợp dân tộc
Như thế là, Lê Xuân Khoa, một học giả không thể hoà giải
với chính mình trong những vấn đề “Xâm lược – Dân tộc”, “Quốc Gia –
Cộng Sản”, “Nội chiến – Uỷ nhiệm”, của thế kỷ trước, lại khẩn thiết
kêu gọi hai phía Việt Nam đang ở hai bên bán cầu hoà giải, hoà hợp để xây dựng
đất nước “dân chủ”, “phú cường” và tạo lập “cơ hội bình đẳng
cho tất cả mọi người dân” vào mấy năm đầu của thiên kỉ thứ ba (LXK sđd
tr492). Lời kêu gọi xem ra chân thành, những mục tiêu cũng xem ra to lớn và cao
đẹp, chẳng khác biệt bao nhiêu với lời kêu gọi thỉnh thoảng được phát ra do một
thủ đoạn chính trị xảo quyệt nào đó bởi guồng máy cai trị Cộng sản. Nhận xét
như thế, tôi không có ý định đồng hoá Lê Xuân Khoa với “chính quyền trong
nước”.
Theo tôi, Lê Xuân Khoa thuộc về một chính quyền khác, một
cỗ máy khác, cỗ máy mà ông đã đặt tên là “Việt Nam Quốc Gia”, được người
Pháp rèn giũa một số cơ phận để phục vụ trong chế độ thuộc địa, để rồi người Mỹ
tuyển chọn, mài giũa lại, rèn đúc thêm một số cơ phận mới, lắp ráp, đổ xăng
nhớt, vận hành nhằm mục đích canh giữ tiền đồn của Thế giới Tự do. Cái cỗ máy “Việt
Nam Quốc Gia” đó khi mới bắt đầu lắp ráp (sau Genève), theo sự đánh giá của
tổng thống Mỹ Eisenhower và ngoại trưởng Mỹ Dulles, có khoảng 20 % dân
chúng miền Nam ủng hộ. (Dulles cho rằng nếu Tổng tuyển cử vào năm 1956 – Hồ Chí
Minh sẽ thắng. Eisenhower đánh giá cụ thể hơn, nếu bầu cử theo hiệp định
Genève, 80 % cử tri Việt Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh).
Cái cỗ máy “Việt Nam Quốc Gia” đó đến thời điểm ký
kết hiệp định Paris, hai phái đoàn đàm phán : Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà khẳng định một cách đại khái rằng nó là đầu tàu của một trong ba thành phần
chính trị tại miền Nam. Theo tôi (qua những phân tích trên) nó đại diện cho
dưới 10 % nhân dân miền Nam là đồng bào Công giáo đã từng hậu thuẫn cho
hai chế độ độc tài gia đình trị và quân phiệt trị đang bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ
rơi, để rồi hoàn toàn sụp đổ vào ngày 1 tháng Năm năm 1975.
Vậy thì, thưa giáo sư Lê Xuân Khoa, đến thời điểm ông viết
sách Việt Nam 1945-1995, những người vẫn kiên định mình là “Việt Nam Quốc
Gia” chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số 3 triệu (con số Lê Xuân Khoa
cung cấp) đồng bào ở hải ngoại ? Theo tôi biết, đa phần trong số 3 triệu
đồng bào ở hải ngoại ấy, cũng như đa số trong 8 – 9 chục triệu đồng bào ở trong
nước này, không đặt vấn đề hoà giải với chế độ độc tài đảng trị và thần phục
Trung Quốc. Người ta kêu gọi, người ta đấu tranh, người ta hy vọng vượt qua chế
độ độc tài toàn trị và lệ thuộc nhằm đưa đất nước tiến tới một xã hội dân sự,
nhân quyền, tự do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng là nền tảng của một đất nước tự
chủ, một xã hội văn minh và phát triển bền vững. Người ta thừa kinh nghiệm máu
xương và mồ hôi, nước mắt để khẳng định rằng không thể hoà giải, hoà hợp với
các chế độ độc tài, cho dù là độc tài gia đình trị, quân phiệt trị, hay đảng
trị. Bởi các chế độ độc tài “không tha thứ
cho (bất cứ) ai bất đồng chính
kiến” (nhóm từ Lê Xuân Khoa mô tả chế độ Ngô Đình Diệm) và không
chia sẻ cho ai bất cứ lợi quyền nào, hơn thế nữa, còn bất chấp lợi quyền và
những giá trị thiêng liêng của tổ quốc.
Nguyên lý và vận động thực tế của hoà giải, hoà hợp là cùng
chân thành kiểm điểm quá khứ, tương nhượng, phân chia lại quyền lợi, trách
nhiệm và cùng nhìn về tương lai của đất nước bằng những hành động chung trong
hoà bình và tôn trọng lẫn nhau. Các chế độ độc tài và các cá nhân thuộc về nó
không hề biết tự kiểm điểm, chẳng biết lắng nghe, tương nhượng, chẳng hề muốn
phân chia các quyền lợi cho bất cứ ai, chẳng nhắm đến quyền lợi chung của tổ
quốc, của dân tộc trong hiện tại cũng như trong tương lai. Vậy thì đặt vấn đề
hoà giải với “chính quyền trong nước” như chủ trương của Lê Xuân Khoa là
một việc làm khó lí giải được, và vô cùng nguy hiểm đối với đại đa số nhân dân
là đối tượng chuyên chính ngày càng siết chặt của “chính quyền trong nước.”
Khi người “Việt Nam Quốc Gia” quay trở lại hoà giải,
hoà hợp với người “Việt Nam Cộng sản” thì chắc chắn công cuộc đấu tranh
của nhân dân để vượt thoát khỏi chế độ độc tài toàn trị và lệ thuộc vốn đã khó
khăn, lại càng khó khăn, gian khổ, hiểm nguy và lâu dài hơn.
Giả định rằng Lê Xuân Khoa đã vượt thoát được ra ngoài cái
tâm lý của cộng đồng “Việt Nam Quốc Gia” đang nỗ lực bảo lưu ở hải
ngoại, hẳn nhiên ông không khỏi băn khoăn, xao xuyến trước tình cảnh bế tắc,
rớt xuống tận đáy tối tăm của đất nước, sao ông không hoà giải hoà hợp với đồng
bào trong nước, để cùng đấu tranh với đảng Cộng sản nhằm thực hiện các mục tiêu
do chính ông đề ra là “xây dựng đất nước dân chủ, phú cường” và tạo “cơ
hội bình đẳng cho tất cả mọi người dân”.
* * *
Mấy vấn đề cần thảo luận
thêm thay cho phần tạm kết:
Bảy vấn đề nêu ra từ Việt Nam 1945-1995 tôi đã thảo luận
cùng tác giả Lê Xuân Khoa qua những trang trên đây e là không tránh khỏi những
khiếm khuyết trên cả hai phương diện : ý tứ và cách thức giải trình. Và
cũng e rằng còn không ít vấn đề tôi chưa nêu ra hết hoặc phát sinh từ phần phản
biện của tôi. Rất mong tác giả Lê Xuân Khoa và độc giả tiếp tục trao đổi nhằm
làm sáng tỏ hơn nữa sự thật của một khúc đoạn lịch sử Dân tộc – khúc đoạn mà
đến nay vẫn chưa có một đồng thuận đầy đủ trong những nhìn nhận tổng thể cũng
như khía cạnh. Riêng tôi, cũng còn mấy vấn đề cần tiếp tục làm rõ:
I/ Vấn đề “Mỹ hoá” chiến tranh
Ở cuối chương 10, trang 483, Lê Xuân Khoa viết: “Sai lầm
to lớn của Hoa Kỳ trong chính sách “Mỹ hoá” chiến tranh và thái độ vô trách
nhiệm của các tướng lãnh cầm quyền ở miền Nam là những nguyên nhân chính đưa
đến sự thất bại của Mỹ và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà ”.
Qua đoạn trích dẫn này, tôi thấy Lê Xuân Khoa còn nhập
nhằng trong cách sử dụng ngôn từ. Ở trang 28 (Lời Mở Đầu), ông viết: “Tất
cả những lời dẫn chứng hay ý kiến không phải của tác giả đều được để trong
ngoặc kép và được ghi rõ xuất xứ trong phần chú thích”. Chữ “Mỹ hoá” trong
câu trích dẫn trên Lê Xuân Khoa để trong ngoặc kép nhưng không thấy ghi rõ xuất
xứ. Do vậy người đọc sách không hiểu hai từ Mỹ hoá là của tác giả hay là của
ai, và nội dung chính xác của nó là gì? Phải chăng ông muốn cho độc giả hiểu
rằng chính ông cũng chưa vừa ý khi sử dụng hai từ Mỹ hoá để mô tả việc Hoa Kỳ
chủ động tiến hành cuộc chiến tranh của họ tại Việt Nam ? Hay là đến khi
kết thúc công trình nghiên cứu, Lê Xuân Khoa thấy mình đã xích gần với các sử
gia của “chính quyền trong nước” trong nhận định chung cuộc về vai trò
(xâm lược) của Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai ? Một câu
hỏi nữa cần tác giả Lê Xuân Khoa giải đáp:
– Thái độ “vô trách nhiệm” của các tướng lãnh cầm quyền
ở miền Nam là gì và với ai? Với Mỹ? Với “Việt Nam Quốc Gia”? Với nhân
dân miền Nam? Với nhân dân và đất nước Việt Nam?
Theo tôi “sai lầm to lớn” của Mỹ là triết lý phòng thủ
từ xa và hành động chiến lược có nguồn gốc từ học thuyết Đô mi nô bắt đầu từ
việc coi Đông Dương là chiến lợi phẩm cửa các nước đồng minh phương Tây, ủng
hộ, cộng tác với thực dân Pháp trong công cuộc tái chiếm Đông Dương từ 1945,
chủ động thay thế Pháp trong việc “Bảo tồn những vùng đất còn lại” (miền
Nam Việt Nam, Lào, Cam Bốt) từ 1954, phá bỏ hiệp định Genève, sử dụng một thiểu
số người Việt Nam làm trợ thủ trong việc biến miền Nam thành tiền đồn của Thế
Giới Tự Do, một quốc gia riêng biệt. Theo đó Hoa Kỳ thiết trí cuộc đối đầu giữa
hai phe Quốc gia – Quốc tế, Tư bản – Cộng sản trên đất nước Việt Nam.
Vì mục tiêu chống Cộng, vô hình trung, Mỹ bất chấp khát
vọng độc lập, thống nhất, hoà bình và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Do
vậy, chống Cộng cũng có nghĩa là chống dân tộc Việt Nam. Tình trạng này diễn tả
chính xác câu châm ngôn: Giận con rận – đốt cái áo. “Sai lầm to lớn” hay
tội ác của Mỹ nằm ở câu nhận định này.
Việc Hoa Kỳ “ Mỹ hoá ” chiến tranh vào thời điểm 1965
là hành động chẳng đặng đừng trên con đường chiến lược đã sai.
Theo thiết kế ban đầu của Mỹ:
– Bên này chiến tuyến là Mỹ, Liên minh phòng thủ Đông Nam
Á, cộng với một thiểu số người Việt Nam mà các tín đồ Thiên Chúa là nòng cốt và
gia đình Ngô Đình Diệm là đại diện (Lê Xuân Khoa gọi là Việt Nam Quốc Gia –
Việt Nam Cộng Hoà – Miền Nam).
– Bên kia chiến tuyến là đảng Cộng sản (Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà) với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, cùng với đa số nhân dân
Miền Bắc và một bộ phận không nhỏ quần chúng miền Nam (Lê Xuân Khoa gộp chung
lại là Việt Nam Cộng sản – Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà – Miền Bắc).
Thiết trí một cuộc đối đầu như thế, chính quyền Mỹ tin rằng:
– Sức mạnh quân sự vô địch, tiền bạc dồi dào của Mỹ sẽ
thắng súng đạn và tiền bạc vốn nghèo nàn lạc hậu của miền Bắc và phe Xã hội Chủ
nghĩa.
– Chế độ Cộng hoà, tự do, dân chủ do Mỹ dàn dựng, bảo
trợ, và nền văn minh Ky Tô giáo Miền Nam sẽ thắng chế độ độc tài, vô sản, vô
thần của Cộng sản Miền Băc.
– Do sự hơn hẳn về cả hai phương diện vật chất và tinh
thần của Mỹ như thế, nhân dân miền Nam từng bước sẽ ngả về phía Mỹ và Việt Nam
Quốc Gia. Cộng Sản mai phục ở miền Nam nhất định phải bị tiêu diệt, (và đã bị
tiêu diệt gần hết qua các chiến dịch tố Cộng – diệt Cộng). Việt Nam Cộng Hoà sẽ
giàu mạnh và trường tồn làm tiền đề thay đổi tương quan lực lượng quần chúng
trên miền Bắc. Trong trường hợp miền Bắc xâm lăng miền Nam, nhất định sẽ bị
quân lực Việt Nam Cộng Hoà do Mỹ huấn luyện, trang bị, viện trợ và cố vấn đánh
bại.
Nhưng thực tế lịch sử đã không diễn ra như những tính toán
của Mỹ.
Thực tế lịch sử là Mỹ đã thất bại trong việc biến miền Nam
thành tiền đồn của Thế giới Tự do. Sau 9 năm sắm sửa vai trò chủ nhân ông của
miền Nam với những người “Việt Nam Quốc Gia” được tuyển chọn, rèn cặp và
tận tình bảo trợ, Hoa Kỳ đã không gầy dựng nổi một chế độ Cộng hoà tự do, dân
chủ được đại bộ phận nhân dân miền Nam tin tưởng và ủng hộ như dự kiến ban đầu,
mà Mỹ đã chỉ giúp được cho một Ngô Đình Diệm hình thành chế độ độc tài Gia đình
– Cần lao – Thiên chúa giáo trị với khoảng trên dưới 10 % dân số hậu
thuẫn.
Chế độ độc tài Gia đình – Cần lao – Thiên chúa giáo trị Ngô
Đình Diệm đến thời điểm 1963 không chỉ gây thù kết oán với đại bộ phận nhân dân
miền Nam, mà còn muốn giành quyền tự quyết trước ông chủ Mỹ chẳng khác mấy so
với thực dân Pháp trước đây. Bị xúc phạm và đứng trước nguy cơ thất bại, ông
chủ Mỹ – vị Thiên sứ của những giá trị tự do, dân chủ và tinh hoa của nền văn
minh Ky Tô giáo thế kỷ XX, đã hành xử như một bố già Mafia. Anh em Ngô Đình
Diệm bị thanh toán như những thủ lĩnh Mafia đàn em cứng đầu rắp tâm phản trắc.
Nền Đệ nhất Cộng hoà bị lật đổ qua cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà mà người Mỹ đã tổn hao rất nhiều công sức, của cải
để huấn luyện, trang bị, trả lương (gián tiếp qua viện trợ cho Ngô Đình Diệm)
và được chỉ huy bởi các tướng lãnh có gốc gác từ chế độ thực dân và văn hoá
thuộc địa Pháp sau các trận thất bại ở Ấp Bắc, An Lão, Bình Giả, Phù Mỹ,…, chỉ
đủ sức để lật đổ nhà Ngô, chứ không đủ sức đương đầu trước các cuộc tấn công
hai chân (chính trị – quân sự) ba mũi (chính trị – quân sự – binh vận) trên cả
ba vùng chiến lược (thành thị – nông thôn – rừng núi) của Cộng sản. Tiền đồn
của Thế giới Tự do đứng bên bờ vực thẳm. Hoa Kỳ đã “ Mỹ hoá ” chiến tranh
trước tình thế đó.
Để công cuộc “Mỹ hoá” chiến tranh được tiến hành suôn sẻ,
Hoa Kỳ cần một chính quyền bản địa mạnh làm công cụ trấn áp các phong trào đấu
tranh dân chủ, đòi quyền dân tộc tự quyết (cụ thể là phong trào đấu tranh của
Phật giáo và Sinh viên – Học sinh), và bảo đảm trật tự trị an trong các đô thị,
tiến hành các chương trình bình định ở nông thôn. Các tướng già bị loại. Các
tướng trẻ Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu… lần lượt được tuyển
chọn và thử thách. Cuối cùng chế độ độc tài quân phiệt do Nguyễn Văn Thiệu cầm
đầu được chuẩn nhận, củng cố và thuê bao, vì “ ông thích ứng được với
Hoa Kỳ trong thời Mỹ hoá chiến tranh ” (như nhận định của Lê Xuân
Khoa). Từ sau tháng 3-1965, Hoa Kỳ trực tiếp đương đầu với Cộng quân trên các
chiến trường miền Nam và tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân trên miền Bắc (bắt đầu từ giữa năm 1964).
– Không quân, hải quân, lực lượng đặc biệt của Hoa Kỳ đánh
phá các kho tàng, căn cứ quân sự, các khu vực kinh tế, các cầu đường, nhà ga,
bến cảng, sân bay và các phương tiện giao thông đê điều nhằm ngăn chặn các
nguồn tiếp trợ từ phe Xã hội chủ nghĩa cho miền Bắc và huỷ diệt, ngăn chặn các
nguồn nhân lực, vật lực từ miền Bắc tiếp tế cho miền Nam.
– Đường mòn Hồ Chí Minh, con đường chiến lược huyết mạch
Cộng sản dùng để chuyển vận người, hàng hoá vào Nam, và cả con đường vận chuyển
trên biển, sẽ bị cắt đứt bởi một liên quân phối hợp : không quân, hải
quân, thuỷ quân lục chiến, biệt kích, thám báo và hàng rào điện tử.
– Bộ binh, Thuỷ quân lục chiến, các quân binh chủng hỗ
trợ (hải quân ven bờ, không quân, pháo binh, thiết giáp) của Mỹ, Việt Nam Cộng
Hoà, và của các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á phụ trách các chiến
trường miền Nam.
Như thế là : nguồn tiếp tế sẽ bị huỷ diệt, đường tiếp
tế sẽ bị cắt đứt, hai ba trăm ngàn quân Cộng sản (gồm chính quy và du kích) có
mặt tại miền Nam đi chân trần, được trang bị những vũ khí cá nhân, thiếu thốn,
đói khổ trăm bề, chắc chắn sẽ bị tiêu diệt bởi quân Mỹ, quân Đồng minh và quân
Việt Nam Cộng Hoà (vào thời điểm cao trào (1967-1968) lên tới gần một triệu
hai, bao gồm gần 600.000 quân Mỹ và Đồng Minh, trên 550.000 quân Việt Nam Cộng
Hoà) thiện chiến, được trang bị đầy đủ các khí tài hiện đại có sức tàn phá, huỷ
diệt khủng khiếp, được phục vụ dư thừa các nhu cầu của đơn vị và cá nhân.
Theo tính toán của Mỹ : Chiến lược chiến tranh nhân
dân của Cộng quân chắc chắn sẽ bị phá sản trong một thời gian ngắn (tuyên bố
của Westmoreland là trong vòng 18 tháng) trước chiến lược huỷ diệt môi trường
sống bằng thuốc khai quang, bằng sách lược tát nước bắt cá (kéo dân ra khỏi các
vùng Cộng quân làm chủ để tự do bắn phá), bằng các cuộc hành quân lùng và diệt
do quân Mỹ và quân Đồng minh phụ trách ở phía trước, và các chương trình bình
định do quân Việt Nam Cộng Hoà phụ trách ở phía sau.
Tuy nhiên, thực tế chiến trường lại diễn ra theo một tình
thế khác. Sự hơn hẳn trong tương quan lực lượng của Hoa Kỳ và Đồng Minh và trợ
thủ chỉ gây khó khăn trở ngại và thiệt hại to lớn cho đối phương chứ không thể
tiêu diệt được đối phương như dự liệu. Miền Bắc vẫn chi viện được cho miền Nam,
Mặt trận Giải phóng vẫn làm chủ được những vùng rừng núi, nông thôn rộng lớn,
vẫn liên lạc được với một bộ phận không nhỏ quần chúng đô thị và các vùng nông
thôn “ tạm chiếm ”. Và Cộng quân hoàn toàn có khả năng tồn tại lâu
dài, tiếp tục gây tổn thất cho quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng Hoà và Đồng minh.
Công cuộc “ Mỹ hoá ” chiến tranh đứng trước tình trạng bị sa lầy trong lúc
nội tình nước Mỹ chia rẽ nghiêm trọng. Phe chủ chiến lục đục, phe chủ hoà phát
triển mạnh trong quần chúng và quốc hội. Trước bối cảnh đó Cộng quân phát động
chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968).
II/ Về chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu
Thân.
Từ 1963, phong trào Phật giáo phát triển như là một lực
lượng quần chúng có khả năng gây xáo trộn lớn trong các đô thị miền Nam. Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt trận Giải Phóng nương theo phong trào Phật giáo tổ
chức, phát động phong trào đô thị của mình. Các nhà lãnh đạo chiến tranh ở Hà
Nội nghĩ nhiều hơn đến một cuộc tổng tấn công, tổng khởi nghĩa nhắm vào đại bản
doanh của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Đây là cuộc chiến tranh cách mạng có tính cách
quyết liệt trước tình thế “Ngụy quân – Ngụy quyền rệu rã” và “Mỹ xâm
lược” trong quá trình chuyển đổi từ chiến tranh đặc biệt qua chiến tranh
cục bộ (Mỹ hoá). Trong những Thư vào Nam viết từ các năm 1961 đến 1975 (nxb Quân Đội Nhân Dân –
2005), Lê Duẩn, người lãnh đạo tối cao của đảng Cộng sản và Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà, tập trung luận giải và chỉ đạo cho các thuộc cấp ở miền Nam các vấn
đề chiến lược và chiến thuật theo học thuyết của ông: Thực hiện chiến lược Hai
chân (chính trị – quân sự), Ba mũi giáp công (chính trị, quân sự và binh vận)
nhằm đánh sụp Ngụy quân, lật đổ Ngụy quyền, buộc Mỹ chấp nhận thua trong chiến
tranh đặc biệt, điều đình rút lui. Hoặc làm rệu rã ý chí xâm lược trong chiến
tranh cục bộ, buộc Mỹ tìm kiếm phương cách thương lượng hoà bình, từ bỏ cuộc
chiến tranh không thể thắng.
Sau ba năm đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại khốc
liệt của Mỹ trên miền Bắc và chiến lược huỷ diệt môi trường, các cuộc hành quân
tìm diệt, bình định của Mỹ và Đồng minh với những tổn thất to lớn tại miền Nam,
các nhà lãnh đạo chiến tranh tại Hà Nội nhận ra rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ
– Ngụy để thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội chẳng biết bao giờ
mới kết thúc được ! Trước tình thế khó khăn đó, kế hoạch Tổng công kích –
Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân hình thành. Theo đó, lực lượng kháng chiến miền
Nam phải ra sức củng cố các căn cứ ở miền núi, mở rộng vùng kiểm soát ở đồng
bằng – nông thôn làm bàn đạp tấn công bất ngờ và đồng loạt vào các đô thị miền
Nam – nơi trú đóng của các cơ quan đầu não của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà – không
chỉ bằng lực lượng quân sự mà bằng ba mũi giáp công : Chính trị, quân sự
và binh vận. Về quân sự thì quân Giải Phóng từ trên núi xuống. Về chính trị thì
quân chúng nhân dân tại chỗ được cán bộ nằm vùng tổ chức, giáo dục, huấn luyện
đưa vào cuộc đấu tranh khuynh đảo. Binh vận là vận động quân nhân trong quân
đội Việt Nam Cộng Hoà tổ chức binh biến, đào ngũ, phản chiến, tham gia phong
trào quần chúng. Cả ba lực lượng : quân sự, chính trị, binh vận phối hợp
với nhau nhằm đánh sập, hoặc vô hiệu hoá quân đội Quốc Gia, lật đổ chính quyền
Việt Nam Cộng Hoà, xây dựng chính quyền mới liên hiệp và trung lập. Đây là bước
chuyển tiếp dẫn đến thống nhất đất nước và xây dựng Xã hội Chủ nghĩa.
Chiến dịch tết Mậu Thân nhằm hai mục đích, vào hai đối
tượng:
– Một là làm lung lay ý chí của các nhà làm chiến tranh Mỹ.
– Hai là thức tỉnh Lương tri của nhân dân Hoa Kỳ và thế
giới.
Lí luận là : Khi mà ý chí của phe chủ chiến Mỹ lung
lay, khi mà quần chúng và quốc hội Mỹ nhận ra rằng cuộc chiến do chính phủ của
họ chủ trương và đeo đuổi là phi nghĩa (chống lại dân tộc Việt Nam dưới chiêu
bài chống Cộng), gây tổn hại đến đời sống nhiều mặt của đất nước và nhân dân
Hoa Kỳ, thì Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh đang sa lầy là tất yếu. Đây là mục
tiêu lớn nhất cũng có thể là duy nhất trong cuộc Tổng tấn công tết Mậu Thân.
Bởi nó nằm ngoài mưu lược của các nhà làm chiến tranh chuyên nghiệp. Trong Thư
vào Nam, nhiều lần Lê Duẩn nhắc đến cụm từ “đánh quân sự mà tác động chính
trị”. Chính trị ở đây là tình trạng khủng hoảng trong chính trường, tâm lý
xã hội Mỹ và dư luận thế giới.
Chủ trương, sách lược, chiến lược là như thế, và thực tế
cuộc Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân cũng đã kết thúc gần như
thế. Tuy nhiên nó không trùng khớp với kế hoạch “công khai và giả mật” (giả mật : tài liệu "mật" giả hiệu, tung ra để
đánh lừa đối phương – chú thích của Diễn Đàn) của các nhà lãnh đạo tối cao
của đảng Cộng sản. Hầu hết các địa phương từ Bến Hải đến Cà Mâu đều đồng loạt
vang dội tiếng súng của quân Cộng Sản. Tiếng súng làm át cả tiếng pháo Tết gây
nên sự náo động, hoảng sợ và tâm lí mâu thuẫn trong quần chúng, gây choáng váng
cho Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng đó là tiếng đạn pháo từ ngoài bắn vào, hoặc
từ các đội biệt động, đặc công, du kích gài sẵn bên trong. Quân Cộng sản đã
không phối hợp được hai chân (chính trị và quân sự), ba mũi (chính trị, quân
sự, binh vận) đều khắp trong các thành phố, tỉnh lị, ngoại trừ Huế. Do vậy,
quân Cộng Hoà dù rối loạn nhưng chưa bị đánh bại, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà
dù hoang mang nhưng chưa bị lật đổ, chủ yếu vì Mỹ chưa chịu rút lui.
Tại Sài Gòn (mục tiêu tấn công quan trọng nhất trong ba mục
tiêu hàng đầu : Sài Gòn – Đà Nẵng – Huế), cuộc Tổng công kích – Tổng khởi
nghĩa đã không thực hiện được theo mô hình ba mủi giáp công vì bộ binh (lực
lượng nòng cốt của tấn công) không vào kịp, hoặc đã bị ngăn chặn ở một số khu
vực ven đô. Cán bộ nội thành đã không thể phát động quần chúng tại các địa
phương thành một cuộc nổi dậy (tổng khởi nghĩa). Công tác binh vận chẳng có dấu
hiệu nào đáng kể. Do vậy sự cố Mậu Thân tại Sài Gòn chủ yếu do các đội biệt
động, đặc công và du kích thực hiện. Toà Đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, bộ Tổng tham
mưu, đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, bộ Tư lệnh Hải Quân là 6 trong 9 mục
tiêu (theo kế hoạch) đã bị quân Giải Phóng tấn công nhưng không có mục tiêu nào
dứt điểm. Chỉ trong ngày đầu, hay vài ba ngày sau các chiến binh đã liều chết
để thực hiện nhiệm vụ của mình, hơn 90 % bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống bởi
lực lượng bố phòng và chi viện.
Ở Huế (một trong ba trọng điểm) đã có sự phối hợp khít
khao, nhuần nhuyễn giữa lực lượng tấn công (bộ binh và các binh chủng đặc biệt)
từ ngoài vào và lực lượng nổi dậy (khởi nghĩa) đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ bên
trong, nhưng công tác binh vận không thực hiện được. Do vậy mặc dù đã không
chiếm được hai căn cứ quân sự Mang Cá (bản doanh của sư đoàn Một Việt Nam Cộng
Hoà) và Phú Bài, quân Giải Phóng đã đánh chiếm và làm chủ được gần như toàn bộ
các khu vực dân cư trong vòng 24 tiếng đông hồ. 11 giờ trưa ngày 1-2-1968 (Mồng
Một Tết) cờ của Mặt Trận Giải Phóng đã tung bay trên đỉnh Phu Văn Lâu. Chính
quyền Việt Nam Cộng Hoà đã bị vô hiệu hoá. Chính quyền “nhân dân” từ phường xã,
quận huyện, thành phố, tỉnh được thành lập. Do việc Cộng sản triệt hạ chính
quyền cũ, xây dựng chính quyền mới “trên đầu ngọn súng”, tiếp theo là viêc quân
Mỹ, quân Việt Nam Cộng Hoà phản công tái chiếm, truy quét tàn quân Cộng sản và
lập lại chính quyền củ, nên vấn đề “thảm sát” Mậu Thân Huế đã xảy ra.
Đà Nẵng, mục tiêu quan trọng thứ hai trong chiến dịch Mậu
Thân, mặc dù đã diễn ra trước một ngày theo kế hoạch do bởi ngộ nhận ngày tính
theo lịch Bắc – lịch Nam), cũng như các địa phương khác thuộc khu 5 và Tây
Nguyên (Hội An, Tam Kì, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang, Kon Tum, Plây
Cu, Ban Mê Thuộc) chỉ diễn ra những trận pháo kích lớn hay đột nhập nhỏ vào bộ
tư lệnh quân đoàn I, sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn (Non Nước). Cuộc tổng
tấn công – tổng khởi nghĩa ở khu vực này không gây được tiếng vang lớn.
Trong lúc chiến cuộc ở những nơi khác trên toàn miền Nam
sau ngày thứ ba đã lắng xuống, thì tại Huế quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà
bắt đầu cuộc phản công tái chiếm. Bom ào ạt trút xuống từ trời, pháo hạm bắn
vào như mưa từ biển, Bộ binh, Thuỷ quân lục chiến, Kỵ binh bay, Nhảy dù, Biệt
động quân, Hắc báo, Địa phương quân, Cảnh sát… vây áp từ ba phía đông-nam,
đông-bắc và tây-bắc. Cuộc phản công huỷ diệt của ba bốn chục ngàn tay súng Mỹ –
Việt Nam Cộng Hoà, và cuộc chiến đấu cố thủ – liều chết của non chục ngàn tay
súng Việt Cộng đã diễn ra trên từng thước đất, từng căn nhà, từng góc phố. Khu
vực “chiếm giữ và ở lại” ngày một thu hẹp, số thương vong ngày một gia tăng.
Ngày 22 quân Cộng sản mặc dù không được lệnh của Hà Nội đã tự động rút dần ra.
Ngày 26 các chiến binh giữ cờ trên Phu Văn Lâu mới bị tiêu diệt. Trên những nẻo
đường rút lui, các cánh quân Cộng sản kể cả những cán bộ nội thành đã bị lộ,
những thanh niên vừa được quân sự hoá mấy ngày, thương binh và những tù binh
của họ bị truy kích tơi bời bởi đại liên bắn từ trực thăng, pháo từ hạm đội, và
bị băm nát bởi hàng loạt bom rải thảm từ máy bay B52.
Song song với cuộc phản công truy quét, lùng diệt và bình
định, quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà ra sức xây dựng các tuyến phòng thủ
kiên cố và dày đặc chung quanh các thành phố, thị xã, tiểu khu, chi khu, căn
cứ, kho tàng, các trục giao thông… để đề phòng các cuộc tấn công, đột nhập khác
của quân Cộng Sản. Cuộc phản công tuyên truyền tâm lý chiến về vụ “tắm máu” tại
Huế và tình trạng “thảm bại” của Cộng Sản trên toàn miền Nam cũng được Mỹ và
Viêt Nam Cộng Hoà ra sức đẩy mạnh. Trong bối cảnh đó, các nhà lãnh đạo chiến
tranh của Hà Nội ra lệnh tiến hành “Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa” đợt hai
(tháng 5), rồi đợt ba (tháng 8).
Không còn yếu tố bất ngờ, không có lực lượng nổi dậy từ bên
trong để phối hợp, chẳng có mũi nhọn binh vận nào để “giáp công”, chiến dịch
Mậu Thân đợt 2 rồi đợt 3 chỉ thuần túy quân sự.
Ngoại trừ khu vực Trị Thiên đã kiệt sức, các đơn vị quân
Giải Phóng (từ khu 5 trở vào) được lệnh vượt qua các tuyến phòng thủ dày đặc
mới được xây dựng của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà, tiếp tục các cuộc tấn công liều
chết vào Sài Gòn và các mục tiêu “nhạy cảm” khác để tiếp tục gây tiếng vang,
phát huy thắng lợi các cuộc tấn công liều chết và tử thủ đợt 1. Công cuộc phản
công huỷ diệt của quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà lại tiếp diễn, đẩy quân Giải
Phóng vào tình trạng khốn đốn đến hai ba năm. Nhiều cán bộ, cơ sở nội thành bi
giết, bị bắt hoặc bị lộ, các khu vực nông thôn giải phóng bị thu hẹp. Nhiều mật
khu mất an toàn. Nhiều đơn vị lớn của quân Giải Phóng phải chạy qua trú đóng
bên kia biên giới Lào và Cam Bốt để xây dựng lại lực lượng.
Chiến dịch Tổng tấn công – Tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân đối
với Cộng Sản là một tổn thất to lớn trên cả hai phương diện chính trị và quân
sự trong đấu trường nội địa, nhưng là một thắng lợi quyết định trong lòng nước
Mỹ. Nó là các cuộc tấn công liều chết (cũng có thể nói là các cuộc tự sát tập
thể hay thí quân) chỉ với mục đích gây xúc động mạnh trong tâm lý quần chúng
Hoa Kỳ và lương tâm nhân loại. Nó lay động tận gốc rễ ý chí chiến tranh của phe
chủ chiến Mỹ ; nó bày tỏ lòng yêu nước sâu nặng, sức chiến đấu bền bỉ, gan
dạ và sự hy sinh vô bờ bến của quân dân miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng, đồng
thời nó thể hiện quyết tâm, khả năng vận động, lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh
của đảng Cộng sản. Nó đẩy quân Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà vào thế bị động chiến
lược và tiếp tục sa lầy. Nó buộc Hoa Kỳ phải xuống thang để tìm giải pháp
khác : Đấu tranh hoà bình (tại hội nghị Paris, và…) và Việt Nam hoá chiến
tranh.
* * *
Trở lại với Lê Xuân Khoa trong mấy trang (292 – 300) ông
viết về Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa (TCK – TKN) Tết Mậu Thân. Đây là những
trang Lê Xuân Khoa viết gần gũi với sự thật lịch sử hơn hết, tuy vậy vẫn còn có
những gút mắc cần phải được tháo gỡ.
Lê Xuân Khoa cho rằng các nhà chiến lược của Đảng Lao Động
chủ trương tiến hành “một trận đánh như trận Điện Biên Phủ để chấm dứt chiến
tranh” (nguyên văn). Nhưng vì chủ quan : đánh giá quá cao sức mạnh của
mình, đánh giá thấp sức mạnh của đối phương, làm kế hoạch không hợp lí và chủ
trương “tắm máu” nên đã thất bại to lớn cả hai phương diện quân sự lẫn
chính trị. “Tuy nhiên, trận Tết Mậu Thân đã đem lại cho Hà Nội một thắng lợi
to lớn ở Hoa Kỳ” (nguyên văn).
Theo tôi, chiến dịch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết
Mậu Thân không phải là môt trận đánh như trận Điện Biên Phủ, và mục tiêu chưa
phải chấm dứt chiến tranh, mà để buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm
phán để rút lui. Đối với Cộng sản là một tổn thất to lớn chứ không phải là một
thất bại to lớn. Không thể thất bại to lớn cho bên này lại không thể đưa đến
một thắng lợi dù nhỏ cho bên kia. Lập luận như thế e là không ổn. Tôi sẽ lần
lược thảo luận với Lê Xuân Khoa mấy điểm sau đây:
1/ Ở trang 293 Lê Xuân Khoa viết: “… Vì vậy bộ chính trị ở Hà Nội thấy cần phải sớm chấm dứt
cuộc chiến tranh bằng một trận đánh quyết định như trận Điện Biên Phủ 1954”.
Theo tôi chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân không như là
trận Điện Biên Phủ xét trên nhiều khía cạnh. Bất cứ khía cạnh nào cũng không
thể so sánh chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân với trận Điện Biên Phủ được:
– Điện Biên Phủ là một trận đánh quy ước – thuần túy quân
sự. TCK – TKN Tết Mậu Thân là một chiến dịch gồm nhiều trận đánh phối hợp ba
yếu tố (ba mũi) chính trị, quân sự và binh vận – gọi là Tổng công kích – Tổng
khởi nghĩa ; nhưng thực tế là những trận đánh liều chết của bên yếu có
chính nghĩa chống lại bên mạnh hơn (rất nhiều lần), nhưng phi nghĩa.
– Điện Biên Phủ là một trận thách đấu tại một cứ điểm trên
địa bàn rừng núi, là một điểm hẹn xét về mặt thời gian lẫn không gian, hoàn
toàn không có yếu tố bất ngờ.
– Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân là một cuộc
phát động nhiều trận đánh đồng loạt chủ yếu nhắm vào các đô thị, cả thời gian,
không gian và qui mô đều có tính chất bất ngờ, hoàn toàn chủ động từ phía tấn
công, và hoàn toàn bị động từ phía bị tấn công.
– Điện Biên Phủ đối với Việt Minh là đánh bại quyết tâm cao
nhất của Pháp làm bàn đạp đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
TCK – TKN Tết Mậu Thân đối với các chiến lược gia Cộng sản nhằm lung lay ý chí
của chính phủ Mỹ, thức tỉnh lương tri của nhân dân Hoa Kỳ và thế giới, buộc Mỹ
phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán để rút lui.
Trong chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân, Khe Sanh được các
nhà chiến lược của miền Bắc bố trí thành một Điện Biên Phủ giả để thu hút quân
Mỹ. Chính phủ Mỹ đã hy vọng và tập chú vào Khe Sanh ở mức cao đến độ, theo Lê
Xuân Khoa, Tổng thông Johnson đã cho thiết lập tại Phòng Tình Hình (Situation
Room) trong toà Bạch Ốc để tiện theo dõi trận đánh. Westmoreland đã điều
đến đó những đại đơn vị thiện chiến gồm nhiều quân – binh chủng với khí tài
hùng hậu và hiện đại để đánh nát đại quân chính quy của Cộng Sản, buộc Bắc Việt
phải chịu thua, cúi đầu chấp nhận những điều kiện đàm phán của Mỹ và chấm dứt
cuộc xâm lược miền Nam. Nhưng chiến tranh đã không diễn ra ở Khe Sanh theo sự
chuẩn bị của các nhà lãnh đạo chiến tranh Mỹ, mà diễn ra tại ba trọng điểm là
Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và hàng trăm mục tiêu khác khắp miền Nam. Căn cứ vào
những tin tức tình báo giả, Hoa Kỳ đã điều phối và bố trí quân theo chiến lược
do đối phương áp đặt. Chưa đánh mà quân Mỹ đã thua. Chính quyền, Quốc hội, nhân
dân Hoa Kỳ và cả thế giới bàng hoàng khi Cộng quân mở màn chiến dịch tết Mậu
Thân: Toà Đại sứ – lãnh thổ của Mỹ tại Sài Gòn bị tấn công. Dinh Tổng thống và
các cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hoà tại Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các tỉnh
thành khác bị tấn công. Đặc biệt là Huế, Cộng quân đã đánh chiếm thành phố, đã
triệt hạ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, đã treo cờ trên đỉnh Phu Văn Lâu, đã
thành lập chính quyền mới… Qua báo chí, truyền hình và các phương tiện truyền
thông khác, Quốc hội và nhân dân Hoa Kỳ thấy rằng chẳng còn nơi nào trên toàn
miền Nam được yên ổn. Nơi nào Cộng quân cũng có thể đột nhập – cho dù đột nhập
để bị huỷ diệt.
Công cuộc phản công huỷ diệt tái chiếm sau đó là phản ứng
của những anh khổng lồ trước những chiến binh tí hon liều chết. Không khó khăn
lắm để những anh khổng lồ bóp nát các chiến binh tí hon liều chết để tái chiếm,
vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, cho dù các chiến binh tí hon đã chiến
đấu dũng cảm như trế nào.
Tấn công liều chết. Cố thủ liều chết. Nhưng vẫn tiếp tục
tấn công. Vẫn tiếp tục cố thủ. Vẫn tiếp tục liều chết. Đợt 1. Đợt 2. Đợt 3.
Đánh quân sự để tác động chính trị. Chính trị ở đây là chính trị trong lòng đất
nước, xã hội Mỹ và dư luận thế giới. Sức mạnh của những anh khổng lồ khủng
khiếp thật, nhưng giới hạn vì tổ quốc của chúng ở xa, lý do chúng tham dự vào
cuộc chiến mơ hồ thậm chí phi nghĩa. Những chiến binh tí hon ốm yếu nhưng chiến
đấu gan dạ bền bỉ và liều chết vì tổ quốc và Chủ Nghĩa Xã Hội, nên lớp này ngã
xuống, đã có lớp khác tiến lên. Vì đây là chiến tranh nhân dân do đảng Cộng sản
lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo tối cao của đảng Cộng Sản chấp nhận những tổn thất
to lớn ở trong nước để đánh đổi thắng lợi lớn hơn tại Hoa Kỳ.
Lê Xuân Khoa đã không thấy đầy đủ sự thật này, nên ông đã
viết:
“Chiến dịch TCK – TKN là một thất bại to lớn của đảng
Lao Động và Mặt Trận Giải Phóng về cả quân sự lẫn chính trị đối nội, trái với
niềm tin toàn thắng của các chiến lược gia Cộng sản. Tổng công kích thì bị đẩy
lùi, Tổng khởi nghĩa thì nhân dân không nổi dậy để theo “cách mạng” ”
(LXK sđd trang 297).
“Khác với những trận đánh trước, kế hoạch Tổng công kích
Tết Mậu Thân có mục đích chiếm – và – giữ chứ không phải đánh – và – chạy, vì
vậy không có những chỉ thị cho những trường hợp cần phải rút lui. Yếu tố chủ quan
này là nguyên nhân chính gây nên sự thất bại của toàn thể chiến dịch” (LXK
sđd trang 298).
Có lẽ Lê Xuân Khoa đã vội vàng đưa ra nhận định này. Những
người làm chiến lược chủ trương TCK – TKN Tết Mậu Thân trong những chừng mực
khác nhau đều am hiểu vấn đề quân sự và đều nếm trải sức mạnh quân sự Mỹ sau
mấy năm “Mỹ hoá”. Đặc biệt đa số trong họ đều đã tham gia trận Điện Biên Phủ.
Chẳng lẽ họ không biết một kiến thức sơ đẳng khi làm kế hoạch tấn công là không
thể thiếu kế hoạch rút lui ? Chẳng lẽ họ đã quên ở Điện Biên Phủ quân số
của Việt Minh (bên tấn công) gấp hơn 3,5 lần so với quân số của Pháp (bên phòng
thủ). Trong khi đó Việt Minh còn có gần 300.000 dân công chuyển vận các nhu yếu
phẩm cho chiến binh. Về phía Pháp việc tiếp tế cho chiến trường gặp khó khăn vì
cả đường bộ lẫn đường hàng không đều bị ngăn trở bởi du kích và lực lượng phòng
không của Việt Minh. Như thế mà Việt Minh phải chật vật lắm và phải hi sinh rất
nhiều mới đạt được thắng lợi.
Đằng này, trong chiến dịch TCK –TKN Tết Mậu Thân, quân số
của bên tấn công (quân Giải phóng – Việt Cộng) chỉ vào khoảng # 1/4 quân số của
bên bị tấn công (Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà). Các yếu tố cần yếu khác để tiến hành
tấn công thì mức độ chênh lệch càng to lớn hơn, có thể chỉ bằng một phần mười,
một phần trăm, một phần ngàn các phương tiện phản công của Mỹ và Việt Nam Cộng
Hoà. Yếu tố bất ngờ và yếu tố nhân dân (giả định có thật để vận động nổi dậy)
có thể là những yếu tố mạnh nhưng chưa phải là yếu tố quyết định, bởi vì một
khi Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà phản công thì tình thế tức thì đảo ngược. (Mà Mỹ và
Việt Nam Cộng Hoà không thể không phản công). Nhân dân ở giữa hai lằn đạn hoặc
ở phía bị phản công thì chỉ có chết. Chẳng lẽ “các chiến lược gia Cộng sản”
đều mắc bệnh hoang tưởng hết nên mới làm kế hoạch chiếm – và – giữ “với niềm
tin toàn thắng” để rồi trở thành “nguyên nhân chính gây nên sự thất bại
của toàn thể chiến dịch”, như Lê Xuân Khoa nhận định ?
Theo tôi thì “các chiến lược gia Cộng sản” (nhóm từ của Lê
Xuân Khoa) không quan niệm chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân là trận cuối cùng,
“chiếm và giữ”, như các “kế hoạch công khai và giả mật” (tôi tạm dùng nhóm từ
này) mà họ cố tình hư trương. Lê Xuân Khoa đã căn cứ vào các kế hoạch “công
khai và giả mật” này và những sách báo có chọn lọc của phương Tây, cùng những
nhận định của các sử quan viết sách giáo khoa của miền Bắc làm cơ sở cho những
nhận định của ông. Theo tôi ngoài các “kế hoạch công khai và giả mật”, “các nhà làm chiến lược chủ trương
TCK – TKN của đảng Cộng Sản” (trong đảng còn có những người không chủ trương
TCK – TKN, như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp chẳng hạn), còn có kế hoạch tuyệt
mật chỉ có trong đầu các lãnh tụ tối cao, hoặc trong các văn kiện nội bộ tối
cao. Đó là kế hoạch tấn công liều chết (thí quân, hay tự sát tập thể) tôi đã
trình bày ở trên. Còn “các kế hoạch công khai hay giả
mật” chỉ nhằm động viên (hay huyễn dụ) chiến sĩ và quần chúng để đẩy họ vào các
trận tấn công liều chết vì mục tiêu chính trị, hoặc để tuyên truyền, hoặc để
lừa đối phương, hoặc để biện chính cho một chủ trương, một kế hoạch quá táo bạo
và nhẫn tâm.
Tôi có mấy bằng chứng để giải trình luận điểm này:
– 1.1/ Trong thư đề 18 tháng 1 năm 1968, Lê Duẩn gởi cho
Trung ương cục và Quân uỷ miền Nam có đoạn :
…“ Về đợt hoạt động trong dịp Tết sắp tới, Trung
ương dự đoán tình hình phát triển theo ba khả năng:
– Thứ nhất ta thắng lợi ở “trọng điểm” (Sài Gòn – Đà Nẵng và Huế – Chu Sơn), ở nhiều thành phố và vùng nông thôn quan trọng.
– Thứ hai ta thành công ở một số thành phố và vùng nông
thôn, nhưng không thắng lợi ở “trọng điểm”.
– Thứ ba ta chỉ giành được thắng lợi ở mức như các đợt hoạt
động hằng năm trước đây, chỉ khác là lần này hoạt động được mở rộng trong quy
mô toàn miền Nam” (Lê Duẩn – Thư vào Nam trang 184).
Lê Duẩn là chiến lược gia tối cao chủ trương TCK – TKN Tết Mậu
Thân. Qua đoạn thư chỉ đạo trên, chúng ta không thấy ông thể hiện “niềm tin
toàn thắng” “về đợt hoạt động trong dịp Tết sắp tới”.
– 1.2/ Trong hồi ký Huế Xuân 1968, Lê Minh, chỉ huy trưởng
mặt trận Trị Thiên trong chiến dịch Mậu Thân, kể rằng ông được lệnh chuẩn bị,
tổ chức, chỉ huy mặt trận Trị Thiên. Quân của ông đã đánh chiếm Huế, triệt hạ
chính quyền cũ, xây dựng chính quyền cách mạng. Đến khi Mỹ – Ngụy phản kích, do
tương quan lực lượng quá chênh lệch, chiến sĩ hi sinh nhiều, Ban chỉ huy điện
xin Trung ương chuyển quân ra vùng nông thôn, không được trả lời. Tình thế khốn
quẫn : Bị phản công dữ dội, thiếu quân, thiếu vũ khí, lương thực, thuốc
men, điện xin tiếp viện, báo sẽ có, nhưng chờ không thấy có. Đến khi không chịu
đựng được nữa, ngày 22-2, tự động ra lệnh rút lui.
Sau đây là một đoạn trong hồi kí của Lê Minh:
“…Tôi nêu vấn đề: Bàn tấn công không thôi thì được rồi.
Bây giờ tấn công xong rồi ở lại luôn. Nhưng nếu không ở được thì sao ?
Lênin có nói về đường lối quân sự của giai cấp vô sản: “Khi nói đến tấn công
hoàn chỉnh thì phải tính đường rút lui”. Mác nói : “Vũ trang là bà đỡ của
chính quyền mới”. Tôi đưa mấy câu đó ra bàn. Chung quy vẫn còn lại một bóng mờ
trong vấn đề tấn công là chuyện rút lui. (Sau này, anh Chưởng cho biết Trung ương
có dự kiến cả khả năng không giữ được mà phải rút ra. Nhưng cả anh Quang (bí
thư khu uỷ Trị Thiên bấy giờ – Chu Sơn) và anh Chưởng (phó bí thư khu uỷ,
chính uỷ mặt trận Trị Thiên trong chiến dịch Tết Mậu Thân. Chu Sơn) đều không thông báo với khu uỷ, chỉ cho tôi biết một chút
thôi, và bảo đừng bàn chuyện rút lui” (Huế
xuân 68, Lê Minh, trang 46-47) .
Như thế là chuyện rút lui có trong kế hoạch tấn công của “các
chiến lược gia Cộng sản” chứ không phải “các chiến lược gia Cộng sản”
vì hoang tưởng mà có “niềm tin toàn thắng nên không có kế hoạch rút lui”,
để rồi: “chiến dịch TCK – TKN là một thất bại to lớn của đảng Lao Động và
Mặt Trận Giải Phóng cả về quân sự lẫn chính trị”, như Lê Xuân Khoa nhận
định. Có điều kế hoạch rút lui đó phổ biến đến đâu, lúc nào. Đến như Lê Minh –
Chỉ huy trưởng chiến trường Trị Thiên cũng chỉ biết tí chút thôi qua một người
đồng sự (Thiếu tướng Lê Chưởng, được các lãnh tụ tối cao tin hơn), và chỉ biết
về sau. Lê Minh, sau chiến dịch Mậu Thân thắng lợi, bị điều ra Hà Nội ngồi chơi
xơi nước, xem như một hình thức kỉ luật.
– 1.3/ Sau TCK –TKN đợt 1, chắc chắn “các chiến lược gia
Cộng sản” không thể không nhận ra rằng: Ngoại trừ ở Huế, đã không làm được
cuộc TCK – TKN ở Sài Gòn, Đà Nẵng và các địa phương khác. Vì nói như Lê Xuân
Khoa, “Tổng công kích thì bị đẩy lui mà Tổng khởi nghĩa thì nhân dân không
nổi dậy theo “cách mạng”. Tuy vậy “các chiến lược gia Cộng sản” vẫn
ra lệnh TCK – TKN đợt 2 rồi đợt 3 trong điều kiện không còn yếu tố bất ngờ, và
TCK thì chắc chắn không chỉ bị đẩy lui (như Lê Xuân Khoa nhận định) mà còn bị
phản kích huỷ diệt, còn TKN thì hoàn toàn không có khả năng. Vậy thì các sử
quan Hà Nội và cả tác giả Lê Xuân Khoa giải thích thế nào về TCK – TKN đợt 2
rồi đợt 3 ? Họ có “niềm tin toàn thắng” không ? Họ có kế hoạch
chiếm – và – giữ không ? Hay là đánh liều chết !
Phải chăng, cũng như các cuộc tấn công liều chết tại Toà
Đại sứ Mỹ và các mục tiêu khác tại Sài Gòn trong đợt 1, cũng như cuộc tử thủ 25
ngày đêm tại Huế, TCK – TKN đợt 2 rồi đợt 3 ở Sài Gòn chỉ là những cuộc hành
quân thuần túy quân sự – tấn công liều chết, hay thí quân chỉ với mục đích gây
tiếng vang và thể hiện ý chí của kháng chiến Việt Nam (do đảng Cộng Sản lãnh
đạo) nhằm làm lung lay hơn nữa chủ trương chiến tranh của chính giới Mỹ, nhằm
thức tỉnh lương tri dân chúng Hoa Kỳ và thế giới. Thực chất của TCK – TKN đối
với các nhà lãnh đạo chiến tranh ở Hà Nội là một khổ nhục kế. TCK – TKN - “chiếm-và-giữ”
chỉ là những huyễn dụ để thúc đẩy các con chốt thí liều chết lao mình vào cái
khổ nhục kế ấy.
2/ Ở trang 292 – 293, Lê Xuân Khoa viết:
“Trước khi nói về hoà đàm Paris (1968-1973), cũng cần
phải nói đến chiến dịch Tết Mậu Thân. Đây là nguyên do chính khiến Tổng thống
Johnson quyết định rút lui khỏi chính trường, và trước khi ra đi, muốn chấm dứt
chiến tranh Việt Nam bằng con đường thương thuyết. Trận Tổng công kích Tết Mậu
Thân cũng đánh dấu một khúc ngoặt quyết định trong cuộc chiến tranh Việt Nam,
đem lại những điều kiện thuận lợi bất ngờ cho Bắc Việt”.
Nếu bỏ hai chữ bất ngờ tôi mạo muội làm đậm ở trên, chúng ta thấy nhận định chung
cuộc của Lê Xuân Khoa về chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân trùng khớp với một
đoạn trong thư của Lê Duẩn viết cho Trung ương cục và Quân uỷ miền Nam 12 ngày
trước khi chiến dịch bắt đầu:
“Thực chất yêu cầu trước mắt đặt ra cho đợt hoạt động
này là : đối với địch, giáng cho chúng những đòn tấn công sấm sét làm thay
đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ,
buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh” (Lê Duẩn –Thư
vào Nam tr 185).
Theo tôi “những điều kiện thuận lợi” (từ của Lê Xuân
Khoa) đã không “bất ngờ” (từ của Lê Xuân Khoa) “đối với Bắc Việt” (từ của Lê Xuân Khoa). Độc giả đời sau cần biết
thêm rằng ngoài “ba mũi giáp công” (hay các cuộc tấn công liều chết đồng loạt,
liên tục, có khả năng không bao giờ dứt) ở quốc nội, chiến dịch TCK – TKN Mậu
Thân còn có một mũi giáp công thứ tư do các Hội người Việt yêu nước ở hải ngoại
thực hiện : Đó là những đóng góp to lớn của những sinh viên, giáo sư, nhà
khoa học, nhà hoạt động tôn giáo, văn hoá vào phong trào phản chiến, phong trào
hoà bình trong lòng nước Mỹ, châu Âu và các nơi khác trên thế giới. Do vậy: “Những
điều kiện thuận lợi” cũng không bất ngờ với những chiến sĩ đấu tranh trên
mặt trận thầm lặng này.
3/ Về sự kiện “Tắm
máu ở Huế”: ở trang 296 Lê Xuân Khoa viết:
“Đáng nói hơn hết là những nạn nhân dân sự bị giết gồm
công chức, trí thức, lãnh tụ tôn giáo, chính trị và “các phần tử phản động”,
tổng số tìm thấy trong số các mồ chôn tập thể 2810 người, không kể hàng ngàn
người khác mất tích. Theo Douglas Pikes, một chuyên gia về Việt Nam, số nạn
nhân có thể lên tới 5700 người, một số giáo sư hợp tác với đại học Huế cũng bị
tàn sát trong trận này”.
Là người Mỹ gốc Việt, lại là người muốn “hoà giải, hoà
hợp với chính quyền trong nước”, trước và sau khi viết Việt Nam 1945-1995,
chắc Lê Xuân Khoa đã về thăm lại quê cũ nhiều lần, sao ông không nghĩ đến việc
tìm hiểu vấn đề tại chỗ với những người trong cuộc và những nhân chứng đang còn
sống cùng những tư liệu liên quan, mà ông lại viết về “vụ tắm máu” của
Cộng sản qua những tài liệu Mỹ, đặc biệt qua Douglas Pike, một chuyên gia thân
thiết của các cơ quan Thông tin Hoa Kỳ?
Theo tôi, mấy ngàn nạn nhân tại Huế trong Mậu Thân không
chỉ tìm thấy trong các mồ chôn tập thể. Những mồ chôn tập thể cũng không phải
do một mình phía Cộng sản tạo tác. Và thứ tự ưu tiên bị sát hại nếu là do Cộng
sản cũng không bắt đầu bằng “công chức, trí thức, lãnh tụ tôn giáo, chính
trị”, cuối cùng mới là “các phần tử phản động”.
Do không nghiên cứu trực tiếp, nên mấy dòng trên của Lê
Xuân Khoa có nhiều dấu vết từ những tài liệu tuyên truyền của phía Mỹ và Việt
Nam Cộng Hoà phổ biến rộng rãi lúc bấy giờ.
Tết Mậu Thân 1968 tôi bị mắc kẹt tại Huế trong tư cách là
một sinh viên sĩ quan trừ bị (Thủ Đức) đi phép. Tôi trở lại quân trường sau khi
quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng Hoà hoàn tất cuộc tái chiếm thành phố Huế. Tôi đã
viết về vụ “ tắm máu Mậu Thân ” trong cuốn sách tự xuất bản năm
2011 : Nước – Lửa và Sóng (bài Câu chuyện trên
núi Truồi mà Diễn Đàn đã trích đăng tại
đây). Sau đây là phần tóm lược:
Theo tôi, dân Huế bị sát hại trong Mậu Thân cả thảy 4 đợt:
– Đợt thứ nhất do Công Sản tạo tác bắt đầu từ việc đánh
chiếm thành phố, lật đổ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới. Mà chính
quyền bao giờ cũng ở trên đầu ngọn súng. Năm 1954, Ngô Đình Diệm muốn ổn định
chính quyền cũng đã tiêu diệt các đảng phái và các giáo phái, phát động rầm rộ
các chiến dịch tố Cộng, diệt Cộng. Việc Ngô Đình Diệm tố Cộng, diệt Cộng và
việc Ngô Đình Cẩn khẳng định vai trò lãnh chúa miền Trung đã gây nợ máu với rất
nhiều gia đình kháng chiến hay không kháng chiến (nhà giàu), không phân biệt
Cộng Sản hay không Cộng Sản. Kinh nghiệm máu xương của người dân Thừa Thiên Huế
còn kinh qua cuộc đàn áp Phật giáo từ năm 1963 đến năm 1966. Năm 1968 khi những
người Mặt trận từ trên núi xuống, từ trong tù ra, với súng trong tay, họ sẽ làm
gì trong nhiệm vụ triệt hạ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới ? Chắc
chắn họ không phân biệt được hay cố tình không phân biệt giữa việc “đền nợ
nước và trả thù nhà”. Đây là đợt tắm máu thứ nhất.
– Đợt tắm máu thứ hai xảy ra khi quân Mỹ và quân Việt Nam
Cộng Hoà phản công tái chiếm: Việt Cộng ở trong dân, “quân đội Việt Nam Cộng
Hoà và Hoa Kỳ phải chiến đấu rất khó khăn để giành lại từng căn nhà, từng góc
phố” (Lê Xuân Khoa sđd tr 296). “Với các biện pháp lùng – diệt và được
sử dụng hỏa lực thật mạnh một cách bừa bãi, nhiều khi chỉ để phòng ngừa… thường
gây thương vong cho nhiều thường dân vô tội”. “Qui tắc chiến đấu” của
quân đội Mỹ trong chiến tranh chống du kích đã giết hại nhiều thường dân hơn bộ
đội Cộng sản. Nguy hại hơn nữa là mệnh lệnh có tính cách buông thả : “Hãy
giết Việt Cộng”. (Lê Xuân Khoa sđd tr 334). Về phía quân Việt Nam Cộng Hoà
thì trong họ, hay sau lưng họ, không ít những người có thân nhân vừa mới bị
Cộng Sản sát hại, với vũ khí trong tay, họ đã buông thả sự trả thù. Việc tái
lập chính quyền cũ cũng diễn ra trên đầu ngọn súng.
– Đợt tắm máu thứ ba xảy ra trên đường Cộng quân rút lui với
thương binh, thanh niên đi theo và tù binh của họ. Quân Mỹ và quân Việt Nam
Cộng Hoà truy đuổi, trực thăng bắn đại liên xối xả, máy bay oanh kích, đặc biệt
B52 rải thảm. Một số mồ chôn tập thể được hình thành trong đợt này.
– Đợt tắm máu thứ tư là tuyên truyền của Mỹ và Việt Nam
Cộng Hoà trong và sau khi chiến dịch Mậu Thân kết thúc.
Theo tôi, dù dân Huế bị sát hại vào đợt nào thì phía Cộng
Sản cũng là người chịu trách nhiệm chính trước những cái chết không đáng.
Phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà chỉ thừa cơ hội để tương kế
tựu kế, thực hiện sách lược “gậy ông đập lưng ông” mà bất cứ địch thủ
nào cũng làm trong những trường hợp tương tự.
III/ Về lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của các bộ
phận người Việt Nam:
Ở trang 321, Lê Xuân Khoa viết:
“Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Hoa Kỳ
thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội
Cộng sản miền Bắc khiến cho Hoa Kỳ phải đưa quân vào cứu vãn tình trạng nguy
ngập ở miền Nam. Điều đó đúng một phần nhưng không phải người Quốc Gia không
yêu nước bằng người Cộng Sản cho nên quân miền Nam không chiến đấu dũng cảm
bằng quân dân miền Bắc. Trên toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ có một dân tộc, không
thể bảo rằng người Việt miền Nam không can đảm bằng người Việt miền Bắc”
(LXK sđd tr 321).
Qua đoạn trích dẫn này, Lê Xuân Khoa cho độc giả thấy rằng:
Người Việt Nam ai cũng yêu nước cả, ai cũng chiến đấu kiên cường và dũng cảm
cả, bất kể là Việt Nam Quốc Gia hay Việt Nam Cộng Sản, bất kể người Việt ở miền
Nam hay người Việt ở miền Bắc.
Lê Xuân Khoa sử dụng nhận định này để bác bỏ nhận định mà
ông cho là sai của “các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Hoa Kỳ” :
“thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội
Cộng Sản miền Bắc khiến cho Hoa Kỳ phải đưa quân vào cứu vãn tình trạng nguy
ngập ở miền Nam”. Việc Hoa Kỳ đúng sai thế nào trong quyết định “Mỹ hoá”
tôi đã bàn ở trên. Ở đây tôi chỉ thảo luận với Lê Xuân Khoa về lòng yêu nước và
tinh thần chiến đấu của người Việt Nam trong thời đoạn lịch sử từ sau hiệp định
Genève.
Theo tôi, nhận định trên của Lê Xuân Khoa là câu nói đầu
môi chót lưỡi, là lời hiệu triệu của các nhà lãnh đạo chính trị với mục đích
huyễn dụ người nghe, hoặc là lời ngụy biện của những kẻ hèn nhát, vô trách
nhiệm muốn tỏ ta cũng yêu nước như bất cứ ai. Nhà nghiên cứu không nên nói
chung chung mơ hồ như vậy. Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là chứng minh “người
Việt miền Nam” – “người Việt miền Bắc”, “người Việt Quốc Gia”
– “người Việt Cộng Sản” đã thực hiện lòng yêu nước như thế nào ?
Nếu lòng yêu nước mà không thể hiện bằng hành động cụ thể, hoặc thể hiện bằng
hành động trái ngược (có hại cho nước), không đúng chỗ (đứng trong hàng quân
của chính quyền Liên hiệp Pháp như chính phủ Quốc gia của Bảo Đại, hay đứng
dưới quyền lực của ông chủ Mỹ) thì chỉ là lời nói suông với mục đích huyễn hoặc
chính mình và lừa dối kẻ khác (nói một đường làm một nẻo). Cũng như thế : “chính
quyền trong nước” ngày nay (vốn là “người Việt miền Bắc”, “người
Việt Cộng Sản, vốn là một bộ phận của dân tộc”) có còn là người Việt yêu
nước và chiến đấu dũng cảm nữa không ? Hay đã trở thành những kẻ hèn nhát
hại dân hại nước, thậm chí còn buôn dân bán nước?
Sở dĩ Lê Xuân Khoa đưa ra những lời nhận định chung chung
và có tính áp đặt như vậy (người Việt Nam ai cũng yêu nước và chiến đấu dũng
cảm cả) vì ông cứ khư khư những định kiến mà không có một nỗ lực thích đáng nào
để nắm bắt những chuyển biến và sự phát triển các thành phần chính trị cũng như
tâm tư nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân trên cả hai miền Nam – Bắc từ
sau 1954.
Các định kiến đó là : hễ cứ miền Bắc là Cộng Sản, và
miền Nam là Quốc Gia (cũng như định kiến của đa số người Việt hải ngoại hiện
nay là hễ bất cứ ai ở trong nước cũng đều là Cộng Sản cả). Và chỉ có người Quốc
Gia và người Cộng Sản mới yêu nước và chiến đấu dũng cảm.
Tôi muốn phá vỡ định kiến đó bằng một phản biện : Từ
sau 1954 nhiều người cư trú trên miền Bắc nhưng không phải là “Việt Nam Cộng
Sản”. Đa phần nhân dân cư trú tại miền Nam, cũng không phải là “Việt Nam
Quốc Gia”. Trong một hoàn cảnh đặc biệt, những người không Quốc gia, cũng
không Cộng sản đó đã chứng tỏ lòng yêu nước của mình theo một cách riêng: tham
chiến với thái độ bất đắc dĩ khi bị bắt buộc phải vào lính, hoặc trốn lính, đào
ngũ, hoặc đứng ngoài. Bởi vì, theo họ: đi
với Mỹ là phản quốc, theo Cộng sản là đi vào con đường mà họ cho là sai lầm,
tội ác.
Sự thể này manh nha từ một thực tế là sau hiệp định Genève,
miền Bắc được cai trị bởi chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành lập sau
cách mạng tháng Tám và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp với chiến
thắng Điện Biên Phủ vang dội dẫn đến thắng lợi nửa chừng là giành lại được một
nửa đất nước (từ vĩ tuyến 17 trở lên). Đây là một nhà nước nhân dân chính danh,
nhưng đã tự làm ô nhục bằng cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu bạo tàn. Trong lòng
xã hội miền Bắc và chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do những người Việt Nam
Cộng sản lãnh đạo còn có một thiểu số người Việt Nam Quốc Gia không theo kịp
cuộc di cư vào Nam, và một bộ phận người Việt Nam khác (ngày càng gia tăng) kêu
đòi tự do dân chủ – là nạn nhân của tất cả các cuộc cải cách, cải tạo, chỉnh
huấn (cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo văn hoá văn nghệ)
và thực trạng hủ bại của guồng máy quan liêu độc tài toàn trị ngày một củng cố
và phát triển. Những người Việt Nam phi xã hội chủ nghĩa này không đủ sức để
hình thành nên một lực lượng quần chúng hợp nhất, một thành phần chính trị
riêng biệt. Dù muốn dù không, đa số trong họ đều bị cuốn hút, hay bị vô hiệu
hoá trước những biện pháp chuyên chính tàn bạo và đê tiện của đảng Cộng sản.
Điều đáng chú ý là: Vì mục tiêu thống nhất đất nước là nhu
cầu chính đáng và bức thiết của cả dân tộc, những người Việt Nam phi xã hội chủ
nghĩa này buộc phải chấp nhận sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, đã hội nhập cùng
đại đa số nhân dân miền Bắc, đã đóng góp công sức, xương máu và của cải vật
chất cho công cuộc kháng chiến chống “Mỹ – Ngụy, giải phóng miền Nam”.
Bản thân họ, hoặc con em cháu chắt họ đã tình nguyện tham gia quân đội miền
Bắc, cũng đã chiến đấu dũng cảm bên cạnh những đồng đội có gốc gác công nông mà
“các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ đã “khen” so với tinh thần và
hiệu quả chiến đấu “đáng chê” của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà…”, khiến Lê
Xuân Khoa chẳng mấy bằng lòng.
Tại miền Nam tình hình phức tạp theo một chiều hướng
khác : Từ sau khi Mỹ thay thế Pháp trong vai trò là đồng minh hay là ông
chủ của các chính quyền độc tài gia đình – Thiên chúa giáo trị Ngô Đình Diệm,
hay quân phiệt trị Nguyễn văn Thiệu dưới danh xưng là Việt Nam Cộng Hoà, quần
chúng nhân dân chia làm ba bộ phận với ba khuynh hướng chính trị khác
nhau :
– Một bộ phận nương tựa vào quyền lực Mỹ, hy vọng vào
những giá trị tự do dân chủ Mỹ và nền văn minh Ki tô giáo, chủ trương chống
Cộng như một giáo điều, phá bỏ hiệp định Genève, ra sức xây dựng miền Nam thành
một quốc gia riêng biệt và độc tôn Thiên Chúa giáo. Bộ phận này là thiểu số,
vào khoảng hai đến ba mươi phần trăm dân số toàn miền Nam, (Theo nhận định của
Tổng thống Mỹ – Eisenhower: Nếu bầu cử theo tinh thần của hiệp định Geneve,
80 % dân chúng miền Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh). Lê Xuân Khoa gọi bộ
phận quần chúng này là Việt Nam Quốc Gia. Càng về sau, do sự phát triển của
tình hình: Mỹ ngày càng lộ rõ vai trò đế quốc, các chế độ Việt Nam Cộng Hoà kế
tiếp nhau càng lộ rõ tính chât lệ thuộc và độc tài, một số người thuộc thành
phần chính trị này chuyển dần qua hai thành phần sau. Do vậy, tỷ lệ này càng
giảm xuống, có thể đến mức dưới 10 % vào thời điểm 1975.
– Bộ phận thứ hai đông đảo hơn, không có thống kê cụ thể,
nhưng đông hơn rất nhiều số quần chúng ủng hộ phe Quốc gia. Khuynh hướng chính
trị là chống Mỹ–Ngụy, chủ trương thống nhất đất nước, hướng về miền Bắc với
chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, về đảng Cộng sản và chủ nghĩa Xã hội. Họ
tham gia Mặt trận Giải phóng, đặt mình dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng
sản.
– Bộ phận thứ ba đa phần là đồng bào theo đạo Phật và những
người ngoài Công giáo, đã tham gia kháng chiến chống Pháp, đã có kinh nghiệm
độc tài – vô thần của đảng Cộng sản, khuynh hướng chính trị là trung lập (không
Mỹ, cũng không Cộng sản). Tầng lớp trên (của bộ phận quần chúng này) ước mơ về
một nhà nước theo thể chế Xã hội chủ nghĩa phi Cộng sản, hay Xã hội chủ nghĩa
Phật giáo, chủ trương đấu tranh dân chủ, hoà bình, quyền tự quyết của nhân dân miền
Nam, hoà giải và hoà hợp dân tộc. Năm 1963, Phật tử và đồng bào thuộc thành
chính trị thứ hai, thứ ba hưởng ứng cuộc đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng và bình
đẳng tôn giáo do giáo hội Phật giáo miền Trung phát động. Chế độ Ngô Đình Diệm
sụp đổ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (miền Nam) thành lập, chủ trương
cuộc đấu tranh kêu đòi dân chủ, hoà bình và quyền dân tộc tự quyết. Phong trào
bị Mỹ và Thiệu – Kỳ đàn áp đến tan rã vào giữa năm 1966. Năm 1973, Phật tử và
quần chúng thuộc thành chính trị thứ hai, thứ ba tham gia các phong trào đấu
tranh đòi thi hành Hiệp định Paris. Năm 1974, tham gia Lực lượng Hoà giải – Hoà
hợp Dân tộc do Phật giáo Ấn Quang tổ chức. Tháng Tư 1975 hậu thuẫn cho tướng
Dương Văn Minh thành lập chính phủ chuyển tiếp từ Việt Nam Cộng Hoà qua chính
quyền Cách mạng. (xem: Phong
trào Phật giáo miền Trung - Huế – từ Chấn Hưng đến Dấn Thân – Chu Sơn)
(Sự phân chia ba bộ phận quần chúng, ba khuynh hướng chính
trị như thế là tượng trưng, các con số phần trăm ấy chỉ là tương đối. Thực tế
là trong rất nhiều gia đình, đặc biệt những gia đình thuộc tầng lớp trên, đều
có người ở bên này, có người đứng bên kia…)
Về phía quần chúng: bộ phận thứ hai, thứ ba cộng lại là đa
số tuyệt đối (80 %, càng về sau càng gia tăng), nhưng vì cư trú tại miền
Nam – là lãnh thổ tạm thời chịu sự quản lý của chính quyền Liên Hiệp Pháp theo
hiệp định Genève. Về sau, dù muốn, dù không, tất cả đều phải là “công dân
hợp pháp ” của “ nước Việt Nam Cộng Hoà ”, đều phải chịu
sự cai trị của những người mà Lê Xuân Khoa gọi là Việt Nam Quốc Gia được ông
chủ Mỹ chọn lựa. Vì nhu cầu sinh sống, nếu không làm ăn riêng lẻ (nông nghiệp,
thương mại, thợ thủ công …) thì làm thuê cho các cơ sở kinh tế tư nhân, hoặc là
công chức trong các ngành nghề do chính quyền quản lí. Đặc biệt, thanh niên đến
tuổi quân dịch hay tuổi động viên đều phải trở thành binh lính hay sĩ quan của quân
lực Việt Nam Cộng Hoà, đều phải vác súng Mỹ đi đánh nhau với người ruột thịt ở
phía bên kia chiến tuyến ; đều nghe tiếng bom Mỹ vang động từ miền Bắc, từ
rừng núi hay nông thôn ; đều thấy tác hại khủng khiếp của chất độc hoá học
và bom napalm lên con người, cỏ cây, làng mạc, đất đai ; đều thấy lính Mỹ
vênh váo, hoành hành ngang ngược khắp các tỉnh thành miền Nam ; đều chứng
kiến xã hội băng hoại trước sự chi tiêu xả láng của nửa triệu quân nhân Mỹ sau
những cuộc hành quân diệt Cộng. Lê Xuân Khoa đã không nhận ra được sự thật này
nên ông đã phản đối “các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ thường chê
tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội Cộng sản miền
Bắc…”
Thử hỏi, khi một chính quyền, một quân đội quá phụ thuộc
vào nước ngoài (Lê Xuân Khoa bảo là vì Mỹ bỏ rơi nên Việt Nam Cộng Hoà mới
thua) lại được chỉ huy bởi các tướng lãnh “chỉ quan tâm đến việc tranh chấp
quyền hành và bảo vệ quyền lợi phe nhóm”, mà bảo quân đội đó chiến đấu dũng
cảm, liều chết như các chiến binh Cộng sản miền Bắc sao ?
Theo tôi, các nhà chính trị và quân sự của Mỹ đã đúng khi
so sánh tinh thần và hiệu quả tác chiến của quân đội hai phía Việt Nam như
trên. Họ cũng không sai khi bảo rằng những người đang chống lại họ là yêu nước,
và những người cộng tác với họ là không yêu nước. Các nhà cai trị thực dân đế
quốc thường không trọng, hoặc khinh những người bản địa cộng tác với mình,
nhưng ghét và trọng những ai chống lại mình. Đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, nếu
bảo rằng đa số những quân nhân bị ép buộc phải sung vào quân lực Việt Nam Cộng
Hoà đều không yêu nước là sai. Thực tế, đa phần những quân nhân Việt Nam Cộng
Hoà bất đắc dĩ này đã yêu nước trong hoàn cảnh đặc biệt của họ. Họ không thể
nào “chiến đấu dũng cảm” trong cuộc chiến tranh do người Mỹ áp đặt (Lê
Xuân Khoa gọi là chủ động). Họ không thể bắn vào người anh em ruột thịt đang
chiến đấu vì mục tiêu thống nhất đất nước mà họ khao khát, cho dù họ không đồng
tình hay thậm chí dị ứng ý thức hệ Xã hội chủ nghĩa và chế độ Cộng sản độc tài
miền Bắc. Giữa họ và người anh em bất đồng chính kiến ở bên kia chiến tuyến có
một khát vọng chung là độc lập, hoà bình và thống nhất tổ quốc. Giữa họ và
người Mỹ đế quốc không có điểm chung nào cả.
Trong chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân, vì dị ứng với Cộng
sản các thứ, nên các chiến binh Việt Nam Cộng Hoà bất đắc dĩ này đã không nghe
theo lời khuyến dụ của các cán bộ binh vận làm binh biến. Do vậy nên kế hoạch
TCK – TKN Tết Mậu Thân đã không thành đạt như ý muốn của các nhà lãnh đạo tối
cao của đảng Cộng Sản.
Trong cuộc Tổng tấn công mùa xuân 1975, các chiến binh miền
Bắc đã tiến nhanh, thắng nhanh chủ yếu vì đa số trong quân lực Việt Nam Cộng
Hoà đã không cầm súng đánh trả, đã chuẩn bị các thứ trong điều kiện có thể để
chờ đoàn quân Giải phóng vào tiếp quản. Bởi vì Hoà bình, Thống nhất đất nước,
Hoà giải, Hoà hợp dân tộc cũng là khát vọng sâu thẳm và mạnh mẽ của họ. Đây là
một chọn lựa có ý thức, chứng tỏ lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm của họ
trong một tình thế đặc biệt. Khi một quân đội mà đa số chủ trương không đánh,
hoặc đánh bất đắc dĩ, đánh cầm chừng, lấy lệ…, thì thiểu số còn lại có “yêu
nước” đến đâu, và “chiến đấu dũng cảm” như thế thế nào, cũng không
tránh khỏi thất bại. Đó là chưa nói đến những người Việt Nam Quốc Gia hèn nhát,
tham nhũng. Như thế, việc đánh giá về sự thất bại của quân lực Việt Nam Cộng
Hoà, và sự thắng lợi của quân đội miền Bắc cần phải được các sử gia xem xét
lại. Điều vô cùng đáng tiếc là : Để chứng tỏ mình đang làm nên “chiến
công hiển hách”, đoàn quân Giải phóng với xe pháo rầm rập, súng ống tua tủa
đã bắt buộc những người anh em (chính phủ Dương Văn Minh) đang chờ đón mình với
hai bàn tay không và tấm lòng rộng mở – phải dong tay, tuyên bố đầu hàng như
những kẻ thù đang bắn giết nhau giữa trận mạc.
Trở lại với Lê Xuân Khoa và những dòng tiếc nuối về cuộc
chiến tranh mà theo ông “Hoa Kỳ đã chủ động và sai lầm”, đã “bỏ lỡ
nhiều cơ hội hoà bình”, đã “từ bỏ trách nhiệm”, để rồi cuối cùng “bị mang tiếng bại trận”
(LXK sđd chương 8 – Sai lầm của Hoa
Kỳ). Ở trang 360 Lê Xuân Khoa viết:
“Chỉ vì lòng chán ghét cuộc chiến tranh do chính mình
chủ động, chán ghét những người lãnh đạo Việt Nam thiếu khả năng do chính mình
chọn lựa, và đánh giá sai lầm tinh thần yêu nước của những người Việt Nam Quốc
Gia, Hoa Kỳ đã từ bỏ trách nhiệm cam kết với nhân dân miền Nam Việt Nam cũng
như với nhân dân Cam-bu-chia và Lào. Sau ba mươi năm liên lụy với hai cuộc
chiến tranh ở một vùng đất xa xôi và bỏ lỡ nhiều cơ hội hoà bình, Hoa Kỳ không
những bị mang tiếng bại trận mà còn phải mất hơn hai mươi năm nữa để tìm cách
giải quyết cuộc khủng hoảng quốc tế về vấn đề tị nạn từ ba nước Đông Dương”.
Đây là mấy dòng Lê Xuân Khoa tiếp cận sự thật lịch sử hơn
hết, và đồng thời ông cũng thể hiện tâm cảm của mình (một người Việt Quốc Gia).
Điều đáng buồn là sự thật lịch sử và tâm cảm của ông đã không khế hợp được với
nhau.
Nửa câu đầu trong đoạn trích dẫn trên, xin được chép lại: “Chỉ
vì chán ghét một cuộc chiến tranh do chính mình chủ động, chán ghét những người
lãnh đạo Việt Nam thiếu khả năng do chính mình lựa chọn…,”
Với nửa câu này thôi, Lê Xuân Khoa đã mô tả gần như chính
xác một bên của cuộc chiến tranh mà ông đã áp đặt tên gọi, và đã không chứng
minh được là “Nội chiến và Uỷ nhiệm”.
Khi chủ thể tạo tác mà chán ghét cái công trình “do
chính mình chủ động”, và đồng thời chán ghét cái công cụ (những người lãnh
đạo Việt Nam – nguyên văn của Lê Xuân Khoa) do “chính mình chọn lựa” đến
thế thì xin hỏi tác giả Lê Xuân Khoa : Cái dân tộc phải chịu đựng sự tàn
phá ghê gớm từ cuộc chiến tranh đó sẽ chán ghét đế mức độ nào cho xứng với tội
ác do chúng gây nên ? Và sự việc mà đảng Cộng Sản đã tuyên truyền chống Mỹ
Ngụy, giải phóng miền Nam có gì là sai trái, là bịa đặt?
Với nửa câu này thôi, Lê Xuân Khoa đã mô tả Mỹ như một ông
chủ độc đoán, một đế quốc xâm lược chính danh.
Đến nửa câu sau: “…và đánh giá sai lầm tinh thần yêu
nước của những người Việt Nam Quốc Gia, Hoa Kỳ đã từ bỏ trách nhiệm cam kết với
nhân dân Việt Nam cũng như với nhân dân Cam-bu-chia và Lào…”
Lê Xuân Khoa đã chê trách Hoa Kỳ như một đồng minh sai lầm,
và phản bội. Một đồng minh sai lầm có thể sữa chữa, tha thứ. Nhưng khi một đồng
minh phản bội, thi không còn là đồng minh nữa, mà trở nên kẻ thù.
Người đọc sách và là người Việt Nam bình thường như chúng
tôi hiểu vấn đề không đến nỗi rối rắm, phức tạp như thế:
Khi người Mỹ “chủ động” tiến hành cuộc chiến tranh
của họ trên một đất nước xa xôi lạ lẫm như Việt Nam, và “chính họ chọn lựa”
những người trợ thủ bản xứ (Trợ thủ là lời nói cho dễ nghe. Nói khó nghe là tay sai, là công cụ. Lê Xuân Khoa
gọi là “những người lãnh đạo Việt Nam”) như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn
Thiệu, thì chắc chắn họ (người Mỹ) không thể xem các nhân vật ấy và thuộc cấp
(của hai ông) là người Việt Nam yêu nước được. Bởi người yêu nước (của bất cứ
quốc gia nào) không cộng tác với bất cứ ngoại bang nào để tiến hành cuộc chiến
tranh của chúng trên đất nước mình. Vả lại, khi người Mỹ chọn lựa người bản xứ
làm trợ thủ phục vụ cho lợi ích của họ, thì cái mà Lê Xuân Khoa gọi là trách
nhiệm hay cam kết gì đó “đối với nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân
Cam-bu-chia và Lào” chẳng qua chỉ là lời huyễn dụ vào một thời điểm cần
thiết. Đến khi thấy những trợ thủ ấy “thiếu khả năng”, hoặc vì lý do nào
đó gây khó khăn trở ngại cho công cuộc của họ thì chắc chắn sẽ bị loại trừ. Cứ
xem người Mỹ đối xử với anh em Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu như thế nào
thì đủ rõ.
Câu thứ hai của đoạn trích dẫn trên hàm chứa hai ý
chính : Một là Hoa Kỳ mang tiếng bại trận. Hai là Hoa Kỳ phải mất hai mươi
năm để giải quyết vấn đề tị nạn. Tôi nói qua ý thứ hai trước : Theo tôi
vấn đề người Việt Nam chạy ra nước ngoài trong và sau sự kiện “30-4-1975” gồm
hai thành phần : một là những người di tản trong kế hoạch của Mỹ, hai là
những người trốn chạy ra nước ngoài do các chính sách “cải tạo chế độ cũ”
và các cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa của “chính quyền trong nước”. Về
thành phần di tản theo kế hoạch, nếu có đủ thời gian, Mỹ có thể đưa ra khỏi
Việt Nam đa số những người “Việt Nam Quốc Gia” đã cộng tác với Mỹ trong
“cuộc chiến tranh do chính mình chủ động”. Về thành phần tị nạn bao gồm
các đối tượng cải tạo (cải tạo chế độ cũ, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo
văn hoá văn nghệ, cải tạo nông nghiệp), nói chung là nạn nhân của chế độ Cộng
Sản về cả hai phương diện chính trị và kinh tế. Nếu không bị ngăn trở, có cơ
hội và điều kiện, một nửa dân miền Nam sẽ vượt biên, trốn chạy khỏi đất nước,
làm người tị nạn tại bất cứ quốc gia và vùng lãnh thổ nào, thậm chí phải chết
để thoát khỏi chế độ độc tài đảng trị.
Nhưng cái Lê Xuân Khoa gọi là “vấn đề tị nạn” theo
tôi thực chất phát xuất từ vấn đề di tản những đồng sự và con cháu “những
người lãnh đạo Việt Nam thiếu khả năng” “do chính mình chọn lựa” để
tiến hành “cuộc chiến tranh do chính mình chủ động”. Bởi vì xét cho
cùng, nếu không có cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ chủ động, thì sẽ không có “cuộc
khủng hoảng quốc tế về vấn đề tị nạn từ ba nước Đông Dương”. Phải chăng Lê
Xuân Khoa đã sử dụng khả năng lí luận mèo lại hoàn mèo để diễn đạt tính chất
cuộc “ chiến ba mươi năm ” mà Hoa Kỳ đã “chủ động” và “liên
lụy” ?
Nếu sử học là môn học của sự bất nhất và mập mờ thì Lê Xuân
Khoa đích thực là một bậc thầy của môn học bất nhất và mập mờ ấy.
Lê Xuân Khoa cho rằng Hoa Kỳ “bị mang tiếng bại trận”
chứ thực tế Hoa Kỳ đã không bại trận như nhận định của nhiều người. Trước đoạn
trích dẫn trên đúng 18 dòng, Lê Xuân Khoa viết:
“Điều đáng tiếc là phong trào phản chiến lên cao và vì
những mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và quốc hội về chính sách đối với
Việt Nam, Hoa Kỳ không những đã không khai thác được sự thất bại quân sự và
chính trị của Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng miền Nam sau trận Tết Mậu Thân,
mà còn giúp cho đối phương tạo được ưu thế trên bàn hội nghị” (LXK sđd tr
359).
Về kết quả của chiến dịch TCK – TKN Tết Mậu Thân cho cả hai
phía (Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) tôi đã thảo luận ở trên. Ở đây tôi chỉ
thắc mắc là Lê Xuân Khoa đã không cho độc giả biết mục tiêu của phong trào phản
chiến tại Mỹ là gì, vì sao nó “lên cao” và nội dung cụ thể của “những
mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và quốc hội về chính sách đối với Việt
Nam” là gì ? Không như thế thì làm sao độc giả có thể chia sẻ với Lê
Xuân Khoa điều làm cho ông “đáng tiếc” ? Theo ông : nếu phong
trào phản chiến không lên cao, “những mâu thuẫn giữa chính quyền và quốc hội”
không trầm trọng, thì Hoa Kỳ có thể khai thác được sự thất bại quân sự và chính
trị của đối phương “để giành ưu thế trên bàn hội nghị”. Như thế Hiệp
định Paris 1973 sẽ là một thành tựu có lợi cho Hoa Kỳ, ít ra “phải có điều
khoản duy trì một lực lượng quân Mỹ tối thiểu để bảo đảm việc thi hành thỏa ước”.
Và như thế Việt Nam Cộng Hoà sẽ không bị bỏ rơi, “chương trình Việt Nam hoá”
chiến tranh sẽ “được Hoa Kỳ thực hiện đúng mức”, và “Việt Nam Cộng
Hoà có thể tránh khỏi tình trạng sụp đổ mau chóng và thê thảm”, cho dù “không
bảo đảm cho việc Nguyễn Văn Thiệu chiến thắng được Cộng Sản” (LXK sđd tr
359-360).
Theo tôi, đến thời điểm này (sau chiến dịch TCK – TKN Tết
Mậu Thân) mà đặt vấn đề Nguyễn Văn Thiệu có chiến thắng được Cộng Sản hay không
là điều nhảm nhí. Có lẽ Lê Xuân Khoa cũng không nghĩ khác. Nhưng ông lại tỏ ra
rất nghiêm túc khi nêu ý kiến là: Việt Nam Cộng Hoà không đáng bị bỏ rơi,
chương trình Việt Nam hoá chiến tranh đáng ra nên được Hoa Kỳ thực hiện đúng
mức, để “Việt Nam Cộng Hoà có thể tránh được tình trạng suy sụp mau chóng và
thê thảm”. Lê Xuân Khoa đã tách riêng Nguyễn Văn Thiệu và những người Việt
Nam Quốc Gia làm hai thực thể riêng biệt. Có lẽ, theo ông : Nguyễn Văn
Thiệu là người lãnh đạo thiếu khả năng đã được Hoa Kỳ chọn lựa và đang bị Hoa
Kỳ chán ghét. Còn những người Việt Nam Quốc Gia là những người yêu nước chân
chính, Hoa Kỳ không nên đánh giá sai lầm rồi đánh đồng sự đối xử.
Chắc chắn là phong trào phản chiến, Quốc hội và cả chính
phủ Mỹ đã không nghĩ như thế. Khi một Thống tướng như Westmoreland mà còn bị
cách chức, một Tổng thống như Johnson mà phải từ bỏ sự nghiệp chính trị của
mình (quyết định không ra ứng cử tổng thống), và Hoa Kỳ phải bắt đầu những cuộc
đàm phán với Việt cộng để tìm đường rút ra khỏi bãi lầy, thì sá gì tâm cảm của
những người Việt Nam Quốc Gia mà Lê Xuân Khoa là đại diện. Bởi vì đối với
Mỹ : Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và Việt Nam Quốc Gia chỉ là một. Tất
cả đều là công cụ. Công cụ để chủ động dấn thân vào. Và cũng là công cụ khi bị
ép buộc phải rút ra.
Khi chấp nhận thua Việt Nam qua việc ký kết hiệp định
Paris, phe chủ chiến Mỹ đã chấp nhận thua nhân dân và Quốc hội Hoa Kỳ trước
phong trào phản chiến. Do vậy, vấn đề ai thắng ai trong cuộc chiến tranh Đông
Dương của Mỹ cần xem xét lại. Bởi trong quá trình chủ động xâm phạm quyền tự
quyết của các dân tộc Việt Nam, Lào và Cam Bốt ở những mức độ khác nhau của 6
đời tổng thống từ Roosevelt, qua Truman, qua Eisenhower, qua Kennedy, qua
Johnson, đến Nixon, các chính phủ Mỹ vô hình trung đã đẩy đất nước vào tình
trạng khủng hoảng toàn diện, đã thách thúc Lương tri của dân chúng Hoa Kỳ và
thế giới. Cái lương tri ấy thể hiện một cách đầy đủ qua lời tuyên đọc nổi tiếng
của Tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson năm 1776 nhân lễ độc lập. Cái lương tri
ấy được thể hiện bài bản hơn qua tuyên ngôn nhân – dân quyền của cách mạng Pháp
1789. Cái lương tri ấy đã được chủ tịch Hồ Chí Minh trích đọc trong tuyên ngôn
độc lập 2-9-1945:
“Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng, Tạo hoá đã ban cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, đó là quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Cái Lương tri ấy nằm sâu trong tâm thức của nhân dân Hoa Kỳ
và loài người tiến bộ. Cái Lương tri ấy từng bước thức tỉnh theo các thời
đoạn của cuộc chiến tranh phi nghĩa do chính phủ Mỹ chủ động. Cái Lương
tri ấy đã bàng hoàng xao xuyến và giao động trước những cuộc tự thiêu của ngài
Thích Quảng Đức và các vị Tăng, Ni trong phong trào đấu tranh bất bạo
động của Phật tử kêu đòi tự do và bình đẳng tôn giáo năm 1963. Cái lương trí ấy
được đánh động đến đỉnh điểm qua những trận tấn công liều chết của những chiến
binh tí hon Việt Nam chống trả quyết liệt trước tên xâm lược khổng lồ là đế
quốc Mỹ trong chiến dịch Tết Mậu Thân. Chính cái Lương tri ấy đã kéo các chiến
binh Mỹ thoát khỏi vũng lầy Việt Nam, đưa họ trở về với đất nước và nhân dân
Hoa Kỳ
Điều đáng kinh ngạc là cái Lương tri ấy rất gần gũi với
lương tri Việt Nam được đúc kết bằng máu xương của cả dân tộc qua hàng ngàn năm
chống đuổi xâm lược với tuyên ngôn độc lập đầu tiên được nhân dân tuyên đọc từ
gần ngàn năm trước:
Nam quốc
sơn hà Nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Cho dù chính phủ Mỹ toan tính như thế nào, ngoan cố, hậm
hực, thù oán, lươn lẹo ra sao trước tình thế phải rút lui chẳng mấy danh dự,
xét về ngữ nghĩa và xu thế phát triển các tương quan lực lượng: “Việt Nam hoá chiến tranh” cuối cùng có
nghĩa là trao lại quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam. Mà nhân dân Việt Nam,
chẳng còn con đường nào khác ngoài con đường độc lập, hoà bình, thống nhất đất
nước, hoà giải – hoà hợp và dân chủ.
Ở bên kia bán cầu, cuộc đấu tranh Dân chủ và Hoà bình kết
thúc. Phe chủ chiến Mỹ đã lùi bước. Phe chủ hoà, nhân dân và Lương tri Hoa Kỳ
đã kìm hãm được con ngựa bất kham do chính mình bầu chọn là bộ máy chiến tranh
hung hăng, lạm quyền và dối trá.
Ở bên này bán cầu, cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm
lược lụi tàn. Đế quốc Mỹ đã thua. Nhân dân và đảng Cộng sản Việt Nam đã thắng.
Cuộc vận động Dân chủ và cuộc chiến tranh vệ quốc ở hai bên bán cầu có liên hệ
hữu cơ.
Điều vô cùng đáng tiếc là tiếp liền theo cuộc chiến tranh
Nhân dân để làm nên những chiến thắng ấy, đảng Cộng sản đã đánh mất Lương tri
khi lùa đẩy nhân dân bất kể thành phần chính trị (thứ nhất, thứ hai, thứ ba)
vào cái chuồng Xã Hội Chủ Nghĩa. Hành động như thế, đảng Cộng sản tự biến mình
thành kẻ phản bội tồi tệ nhất trong số những kẻ phản bội suốt chiều dài lịch sử
dân tộc.
Vấn đề vô cùng bức thiết hiện nay là : nhân dân Việt
Nam – người chủ cái Lương tri được un đúc và thử thách qua hàng ngàn năm lịch
sử dựng xây, bảo vệ, và phát triển – phải hành xử như thế nào để đẩy lùi tình
trạng bị cai trị bởi một đảng không còn có lương tri, hầu nhanh chóng đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng suy sụp, tối tăm, lệ thuộc ngoại nhân (chủ yếu là
Trung Quốc) nhục nhã như hiện tại. Nhân dân Việt Nam học được bài học gì từ
cuộc chiến tranh vệ quốc vừa hào hùng – vừa bi đát kéo dài hơn thế kỉ ???
Nhân dân Việt Nam học bài học gì từ cuộc đấu tranh dân chủ, nhân đạo và hoà
bình của nhân dân Hoa Kỳ và thế giới, mà nếu không có nó, Mỹ sẽ khó mà thoát khỏi
bãi lầy Đông Dương, và Việt Nam còn lâu mới thấy được thống nhất và hoà
bình ???
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét