SỬ VIỆT
MỘT CÁCH VIẾT MỚI
Lê Xuân Nhuận
Về
việc viết sử, xưa nay có nhiều phương-pháp. Bài này chỉ nói về việc viết
sử Việt Nam hiện-đại, đặc-biệt là việc phân-chia thời-gian cho
mỗi thời-đại, thời-kì, giai-đoạn liên-quan.
Trước
nhất là nói về thời-đại Việt-Nam Cộng-Hòa.
I. “NHỮNG TIẾNG NÓI TỪ NỀN ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA”
Mở
đầu vấn-đề là tác-phẩm tiếng Anh “VOICES
from the SECOND REPUBLIC of SOUTH VIETNAM”, do Cornell Southeast
Asia xuất-bản, mà chủ-biên (Tổng Biên Tập) là Keith. W. Taylor,
tham-luận là một số nhân-sĩ Việt-Nam Cộng-Hòa.
Đây
là một biến-cố quan-trọng, vì nó đánh dấu cụ-thể, công-khai sự xoay
chiều của công-luận Hoa-Kì(trong chính-quyền và trên truyền-thông)
từ phản-chiến(chống Chiến-Tranh Việt-Nam và Việt-Nam
Cộng-Hòa) qua phục-chính (phục-hồi Chính-Nghĩa), mà người mở
đường là Giáo-Sư Keith W. Taylor, Giám-Đốc Chương-Trình Đông-Nam
Á-Châu của Viện Đại-Học Cornell, vốn là căn-cứ-địa của
một số trí-thức thiên-tả, kể cả bản-thân Ông Taylor.
Theo
cố Giáo-Sư Nguyễn Ngọc Bích (trên tờ “Việt Báo” của Trần Dạ
Từ & Nhã Ca) thì quá-trình hình-thành tác-phẩm này có thể được
tóm-tắt như sau:
Ông Keith
W. Taylor nguyên là một chiến-binh Hoa-Kì tham-chiến
tại Việt-Nam. Sau khi hồi-hương, ông đã đặc-biệt tìm hiểu thêm về
nước ta. Kết-quả, ông đã viết nhiều sách và bài về lịch-sử và văn-học Việt-Nam,
trong đó có các tác-phẩm giá-trị như The Birth of Vietnam (Việt
Nam Khai Quốc), A History of the Vietnamese (Một Cuốn
Sử về Người Việt).
Trong
nhiều năm giảng-dạy tại Viện Đại-Học Cornellở Bang New
York (Hoa-Kì), Ông Keith W. Taylor đã bị ảnh-hưởng bởi lối
trình-bày lịch-sử truyền-thống (rằngViệt-Nam là một dân-tộc thống-nhất với
một lịch-sử xuôi dòng từ xưa cho đến ngày “thống-nhất đất
nước” 30-4-1975).
Nhưng
rồi ông tỉnh ra, rằng lịch-sử Việt-Nam đã có nhiều
giai-đoạn phân-chia: có thời-kì có 3 chính-quyền (Nhà Mạc;
Nhà Lê với Chúa Trịnh; Chúa Nguyễn ở MiềnNam); có
giai-đoạn Trịnh–Nguyễn phân-tranh; rồi thời-kì tranh-hùng giữa 2 Nhà
Nguyễn (Nguyễn Tây-Sơn với Nguyễn Gia-Miêu); chưa kể
anh+em Tây-Sơn cũng chia nước ra làm 3; và nhất
là Việt-Nam sau Geneva 1954.
Vì
thế, Ông Keith W. Taylor đã công-nhận rằng lối trình-bày
cũ không sát thực-tế, quá một-chiều. Nên ông nhìn lại lịch-sử Việt-Nam cận-hiện-đại
và thấy Miền Nam trong ngót 21 năm (1954-1975) đã thực-sự là
một quốc-gia được quốc-tế công-nhận rộng-rãi
(hơn Miền Bắc cộng-sản rất xa trong nhiều lãnh-vực và trong nhiều
nghĩa.) Từ đó, ông có í-tưởng phải nghiên-cứu một cách đứng-đắn
về Miền Nam, về 2 nền Việt-Nam Cộng-Hòa.
Đó
là lí-do tại sao Giáo-Sư Keith W. Taylor (tức Viện
Đại-Học Cornell), là một trong các Viện Đại-Học lớn củaHoa-Kì, đã
tiên-phong mời một số nhân-vật đã có vai trò đáng kể trong những lãnh-vực
chính-trị, ngoại-giao, an-ninh, quốc-phòng, kinh-tế, tài-chánh, thông-tin
tuyên-truyền... của thời Đệ-Nhị Cộng-Hòa họp lại để trình-bày
cho khoảng 100 học-giả đến từ khắp nước Mĩ và cả một số nước khác
(Pháp, Anh, Canada...) về những kinh-nghiệm xây-dựng dân-chủ qua Hiến-Pháp
1967, tôn-trọng Tam-Quyền Phân-Lập và những quyền căn-bản của
người dân, qua một nền kinh-tế tự-do nhưng có điều-tiết, khuyến-khích
phát-triển nông-nghiệp và công-nghiệp, xuất-khẩu, và đang trên đà cất cánh
(takeoff).
Các
diễn-giả do Giáo-Sư Keith W. Taylor nhân-danh Chương-Trình Đông-Nam
Á-Châu của Viện Đại-HọcCornell đứng ra tổ-chức và mời tham-dự
cuộc Hội-ThảoNhững Tiếng Nói từ Miền Nam (“Voices from the South”) vào
tháng 6 năm 2012 (và có bài in trong sách này) gồm có:
-
Bùi Diễm, cựu Đại-Sứ
tại Hoa-Kỳ, Đặc-Sứ tại Hòa-Hội Paris, Đại-Sứ Lưu-Động của VNCH.
- Phan Công Tâm, cựu Giám-Đốc Kế-Hoạch
và Phụ-Tá Công-Tác Đặc-Biệt cho Đặc-Ủy-Trưởng tại Phủ Đặc-Ùy Trung-Ương
Tình-Báo VNCH.
-
Nguyễn Ngọc Bích, cụu Tổng-Giám-Đốc
Thông-Tấn-Xã VNCH.
-
Trần Quang Minh, cựu Thứ-Trưởng Bộ
Nông-Nghiệp & Tổng-Giám-Đốc chương-trình Lương-Thực Quốc-Gia VNCH.
-
Nguyễn Đức Cường, cựu Bộ-Trưởng Bộ
Thương-Nghiệp & Công-Nghiệp VNCH.
-
Phan Quang Tuệ, cựu Phó Đổng-Lý
Văn-Phòng của Chánh-Thẩm Tối-Cao Pháp-Viện VNCH.
-
Trần Văn Sơn, cựu
Dân-Biểu VNCH.
-
Mã Xái, cựu Dân-Biểu VNCH.
-
Hồ Văn Kỳ Thoại, cựu Phó Đề-Đốc
Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải VNCH.
-
Lữ Lan, cựu Trung-Tướng
Tổng-Thanh-Tra, Bộ Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực VNCH.
(Chưa
kể phần dẫn-nhập của Chủ-Biên Keith W. Taylor, và phần tham-luận của
Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng-Trưởng Dân-Vận & Chiêu-Hồi VNCH.)
II. MỘT CÁCH
VIẾT MỚI VỀ SỬ VIỆT
HIỆN-DẠI
Tôi
đặc-biệt chú í đến cách viết (phân-chia thời-kì lịch-sử) trong sách này
(có người gọi tắt là “Những Tiếng Nói từ Miền Nam” – Voices from the
South.)
Cứ
theo tinh-thần cuộc hội-thảo này, qua bài luận-thuyết của người chủ-xướng,
Ô. Taylor, thì:
“Việt-Nam
Cộng-Hòa (Nam Việt-Nam) thông-thường được xem là một thực-thể thống-nhất
xuyên suốt qua hai thập-niên (từ 1955 đến 1975) trong đó Hoa-Kỳ là
đồng-minh chính-yếu của mình. Tuy nhiên, chính-trị quốc-nộitrong
thời-kỳ ấy đã diễn-biến theo một quỹ-đạo động, từ một giai-đoạn
độc-đoán đến một giai-đoạn hỗn-loạn, rồi đến một giai-đoạn
thử-nghiệm dân-chủ đại-nghị tương-đối ổn-định. Ấn-tượng sâu-sắc
về Nam Việt-Nam biểu-lộ trong đa-số các tác-phẩm, cả kinh-viện lẫn
đại-chúng, tập-trung vào hai giai-đoạn đầu tiên [độc-đoán, hỗn-loạn]
để miêu-tả một bức tranh biếm-họa về tệ-nạn độc-tài tham-nhũng bất-ổn, mà ít
nói đến những gì đã đạt được trong giai-đoạn tám năm sau cùng [thử-nghiệm
dân-chủ...]”
Tám
năm sau cùng, là [1975-8=1967] từ 1967 đến 1975. Đó là
giai-đoạn Việt-Nam Cộng-Hòa có Hiến-Phápdo Quốc-Hội Lập-Hiến với
Chủ-Tịch Phan Khắc Sửuchung-quyết (18-3-1967), có bầu-cử Tổng-Thống &
Phó Tổng-Thống (3-9-1967), kết-quả của đòi-hỏi chính-đáng của
dân-chúng qua Biến Động Miền Trung năm 1966.
Trước
đó [và cả hiện nay], thông-thường người ta chia Việt-Nam Cộng-Hòa ra
làm 2 thời-kì (nền Cộng-Hòa):
1. Đệ-Nhất Cộng-Hòa: từ 1954 đến 1963
2. Đệ-Nhị Cộng-Hòa: từ 1963 đến 1975
Như
thế tức là người ta lấy ngày Cách-Mạng 1-11-1963 làm mốc thời-gian
(chấm dứt Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa), để kể từ đó trở đi (1963-1975)
là Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa.
Nhưng
nay, theo cách (phương-pháp) mới trong việc viết sử hiện-đại
của [Miền Nam] Việt-Nam nói trên, ta có:
1/ Giai-đoạn độc-đoán: từ 1955 đến 1963
2/ Giai-đoạn hỗn-loạn: từ 1963 đến 1966
3/ Giai-đoạn dân-chủ: từ 1967 đến 1975
Vậy
là thời-kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa (1963-1975) được chia ra làm 2
giai-đoạn: giai-đoạn hỗn-loạnvà giai-đoạn dân-chủ, mà
giai-đoạn sau cùng này [tám năm cuối-cùng) mới là giai-đoạn
thử-nghiệm dân-chủ đại-nghị tương-đối ổn-định, trong đó các nhân-vật kể
trên [và nhiều người khác nữa chứ] “đã ra sức xây-dựng mộtcơ-cấu
hiến-định cho chính-thể đại-nghị trong một cuộc chiến để sống-còn chống
lại một nhà-nước chuyên-chế. Những người đã cam-kết thực-hiện một
tương-lai choViệt-Nam không-cộng-sản đã đặt tất cả hy-vọng của họ
vào nền Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa, đấu-tranh cho nó, và hành-động
cho sự thành-công của nó...”
III. BA GIAI-ĐOẠN CỦA THỜI-KÌ ĐỆ-NHẤT CỘNG-HÒA
Tôi
thấy phân-chia thời-kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa ra
2 giai-đoạn như thế, nhìn chung, cũng rất hợp-lí, mặc dù
kết-quả tình-hình (do các iếu-tố nội-tại cũng như ngoại-lai)
đã vượt ra ngoài ước-mong và nỗ-lực của những người có viễn-kiến
và tâm-huyết liên-quan (Xem thêm).
Cũng
nhân vấn-đề phân-chia giai-đoạn lịch-sử trong thời-kì Đệ-Nhị Việt-Nam
Cộng-Hòa này, tôi thấy cũng nên (và cần) làm việc tương-tự đối với
thời-kì Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa.
Lí-do
là vì hầu như mỗi lần nói đến Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa (gọi tắt
là chế-độ Diệm), hai phía hoài-Ngô và bài-Ngô đều vơ
đũa cả nắm, cực-đoan đến độ thiếu phần khách-quan.
Phía hoài-Ngô thì
cứ cho rằng, vì giới Phật-Tử Tranh-Đấu, tức Phật-Giáo
Ấn-Quang, tức Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất, cụ-thể là
Thượng-Tọa Thích Trí Quang, đã lật đổ “chế-độ Diệm”, nên Đệ-Nhị Việt-Nam
Cộng-Hòa chỉ là một quá-trình dẫn đến mất nước vào
Ngày 30-4-1975. (Điều này đã được chứng-nhân lịch-sử Lê Xuân Nhuận, ít nhất là trong cuốn sách hồi-kí “Biến-Loạn Miền Trung” do Nhà Xây-Dựng xuất-bản vào đầu năm 2012, nêu thêm một số
iếu-tố Sự Thật, rằng ai mới là chính-phạm bức-tử Việt-Nam Cộng-Hòa.
Ngoài ra, “Chớ đem thành/bại luận anh-hùng”, trong số những nhân-vật
ít/nhiều liên-quan đến vận nước suy-vong, vẫn có nhiều người nổi bật với
các đóng-góp tích-cực của họ, ít nhất là các diễn-giả trong
cuộc Hội-Luận “Những Tiếng Nói từ Miền Nam” ở Viện
Đại-Học Cornell vào tháng 6 năm 2012 nói trên, với
các thành-tựu nhất-định của họ, đều đã chính-thức nói lên tiếng nói
của mình.)
Còn
phía bài-Ngô thì cũng vì thấy Đệ-Nhất Việt-Nam
Cộng-Hòa có quá nhiều khuyết-điểm, nhất là đều nằm dưới quyền [toàn-quyền
chính-trị và quân-sự] củamột lãnh-tụ, Ông Ngô Đình Diệm [và gia-đình], nên đã quy chung giai-đoạn cầm quyền
của ông từ 7-7-1954 đến26-10-1955 vào với thời-kỳ Đệ-Nhất
Việt-Nam Cộng-Hòacủa Nhà Ngô 1955-1963 mà Giáo-Sư Keith W.
Taylor gọi là chung là giai-đoạn độc-đoán.
* * *
Theo
tôi, thời-kì “chế-độ Diệm” nên/cần được chia ra làm 3 giai-đoạn:
1) Giai-đoạn Chuyển-Tiếp: từ 7-1954 đến
10-1955
2) Giai-đoạn Độc-Đoán Nhẹ: từ 1955 đến 1960
3) Giai-đoạn Độc-Đoán Nặng: từ 1960 đến 11-1-1963
1) Giai-Đoạn Chuyển-Tiếp (1954-1955)
Ở
giai-đoạn bản-lề này, Ông Ngô Đình Diệm còn làThủ-Tướng của Quốc-Gia
Việt-Nam dưới quyền Quốc-Trưởng Bảo-Đại.
-
Tiếp+Trợ gần 800,000
đồng-bào Bắc-Việt di-cư vào Nam (với phương-tiện
của Mĩ và Pháp do Mĩ iểm-trợ);
-
Chấm dứt sự chống-đối của
Trung-Tướng Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Nguyễn Văn Hinh (nhờ Quốc-TrưởngBảo
Đại cất chức);
-
Được các tướng+tá chỉ-huy các
giáo-phái vũ-trang Cao-Đài và Hòa-Hảo lần-lượt đem quân về
hợp-tác; đặc-biệt Tướng Trình Minh Thế (Cao-Đài) tận-tình cho đến
chết;
-
Bình-định chiến-khu Ba
Lòng của Đại-Việt ở Quảng-Trị;
-
Dẹp yên
lực-lượng Bình-Xuyên từ thủ-đô Sài-Gòn xuống tận Rừng
Sát (chỉ-huy chiến-dịch “Hoàng Diệu” này là Đại-Tá Dương Văn Minh);
-
Bãi bỏ “Hoàng-Triều
Cương-Thổ”;
-
Được
Hội-Đồng Tôn-Nhơn-Phủ (của hoàng-giaNguyễn-Phước Tộc)
từ Huế gửi điện vào ủng-hộ;
-
Được nhận trực-tiếp viện-trợ
của Mĩ, không còn qua trung-gian của Pháp;
-
Được Pháp giao
trả Dinh Độc-Lập; chuyển quyền chỉ-huy/quản-trị Quân-Đội, Cảnh-Sát &
Công-An, Tư-Pháp, Ngân-Khố, Tiền-Tệ, Hối-Đoái, Thương-Mại, Quan-Thuế,
Công-Chánh, v.v...
(Nguồn:
“Hai Mươi Năm Qua – Việc Từng Ngày – 1945-1964” của Đoàn
Thêm)
Tổng-Ủy-Trưởng Tị-Nạn Ngô Ngọc Đối, Bộ-Trưởng tại Phủ
Thủ-Tướng Bùi Kiện Tín,
Tổng-Trưởng Phụ-Tá Quốc-Phòng Hồ
Thông Minh, Quốc-Vụ-Khanh Ủy-Viên Quốc-Phòng Trung-Tướng Trần Văn Soái, Quốc-Vụ-Khanh
Ủy-Viên Quốc-Phòng Thiếu-Tướng Nguyễn Thành Phương, Tổng-Trưởng Xã-Hội Nguyễn Mạnh Bảo,
Tổng-Trưởng Thông-Tin & Chiến-Tranh Tâm-Lý Phạm Xuân Thái, Tổng-Trưởng Kinh-Tế Lương Trọng Tường, Tổng-Trưởng Canh-Nông Nguyễn Công Hầu, Bộ-TrưởngNội-Vụ Huỳnh Văn Nhiệm,
Thứ-Trưởng Nội-Vụ Nguyễn Văn
Cát, Đô-Trưởng Sài-Gòn Trần
Văn Hương, v.v... tất cả đều do Thủ-Tướng Ngô Đình
Diệm bổ-nhiệm, mà đều theo nhau từ-chức để phản-đối; Đức
Hộ-Pháp Phạm Công Tắc thành-lập
“Mặt Trận Thống-Nhất” gồm nhiều đoàn-thể, cùng các giáo-phái, các giới-chức
khác, cả trong lẫn ngoài nước, đều đòi-hỏi Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm mở
rộng chính-phủ, thực-thi dân-chủ, v.v...
Cho
nên, mới một năm đầu mà Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm đã phải cải-tổ
nội-các, nhiều lần.
Đó
là về chính-sách, thuật trị-quốc, thuật dụng-nhân, và nhân-sự nội-bộ; vả lại
vẫn còn Quốc-Gia Việt-Nam dưới thời Quốc-Trưởng Bảo-Đại,
nên thời-gian này có thể được liệt vào trong Giai-Đoạn 1, là “Giai-Đoạn
Chuyển-Tiếp”.
2) Giai-Đoạn Độc-Đoán Nhẹ (1955-1960)
Giai-Đoạn
2 được nhen-nhúm từ Giai-Đoạn
1, cụ-thể là việc hợp-pháp-hóa “Hội Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng”, thành-lập đoàn-thể chính-trị “Tập-Đoàn
Công-Dân”; triển-khai các Đoàn Cán-Bộ “Công-Dân-Vụ” lưu-động, “Phong
Trào Cách Mạng Quốc Gia”; tổ-chức “Tham-Chính-Viện”
(thay-thế Tối-Cao Pháp-Viện cũ); v.v... từ
ngày 7-7-1954 đến ngày “Trưng Cầu Dân Ý” 23-10-1955.
Tháng
7-1954, Ông Ngô Đình Diệm nhậm-chức Thủ-Tướng ở Sài-Gòn. Ở Miền
Trung, ảnh-hưởng của Pháp và Quốc-Trưởng Bảo-Đại còn mạnh.
Tại Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu, đóng trong Đại-Nội (tả-ngạn Sông
Hương), Huế, Đại-Tá Trương Văn Xương làm Tư-Lệnh; các
Đại-Úy/Thiếu-Tá Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm thay
nhau làm Trưởng Phòng 3 và Tham-Mưu-Trưởng; Đại-Úy Đặng Văn An làm
Trưởng Phòng 5. Tham-Mưu-Trưởng Trần Thiện Khiêm kí sự-vụ-lệnh
(bằng chữ Pháp) cử Lê Xuân Nhuận làm Trưởng Ban Phát-Thanh [mà
Phòng 5 gọi là Giám-Đốc Đài] “Tiếng Nói Quân Đội” tại Đệ-Nhị Quân-Khu.
Khi
Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh , Tổng-Tham-Trưởng Quân-Đội
Quốc-Gia (và Đại-Tá Trương Văn Xương Tư-Lệnh Đệ-Nhị
Quân-Khu) chống lại Thủ-TướngNgô Đình Diệm, Lê Xuân Nhuận li-khai
nhóm Trương Văn Xương, dùng “Đài Tiếng Nói Quân-Đội tại Đệ-Nhị
Quân-Khu”, mà trụ-sở đặt tại Đài Phát-Thanh Huế (hữu-ngạn Sông
Hương), để đơn-phương ủng-hộ Ngô Tổng-Thống. Đài Huế hồi
đó rất mạnh, phủ sóng khắp cả Miền Bắc lẫn Miền Nam; nhờ đó, các
phần-tử đầu-tiên ủng-hộ họ Ngô ở Huế và Miền
Trung mới mạnh-dạn bước ra, và ở Miền Nam càng vững chân hơn (xem thêm)...
Trong
cuộc trưng cầu dân ý truất-phế Bảo Đại ngày 23-10-1955, Lê Xuân
Nhuận được chỉ-định làm “Trưởng Phòng Phiếu” tại khu-vực Dòng Chúa
Cứu-Thế, hữu-ngạn Sông Hương. Đại-Úy (về sau là
Trung-Tá) Đặng Văn An, trong Bộ Tham-Mưu cũ của Đại-Tá Trương Văn
Xương, cấp chỉ-huy cũ của tôi, thì dè-dặt nhìn tôi mà bỏ phiếu; còn mấy
nhân-viên kiểm-soát việc cử-tri bỏ phiếu, tôi chưa hề quen, thì luôn lén liếc
về tôi; khiến tôi cảm thấy mất tự-nhiên. Kết-quả là
ở Sài-Gòn Chợ-Lớn có450,000 cử-tri ghi tên đi
bầu, mà số phiếu bầu cho Cụ Ngô đếm được
là 605,025 (130%).
Nguồn: Bernard
Fall, “The Two Viet-Nams: A Political and Military Analysis” (New York:
Frederick A. Praeger, 1962, trang 257.
Lấy
các ngày tháng lịch-sử mà tính cho dễ, thì ngày 26-10-1955, ngày
tuyên-bố Hiến-Ước tạm-thời, thành-lập nước Việt-Nam
Cộng-Hòa [của Ngô Đình Diệm] thay cho Quốc-Gia
Việt-Nam [của Bảo-Đại],
cải-danh Quốc-Trưởng là Tổng-Thống, là ngày khởi-đầu của
giai-đoạn 2 (Độc-Đoán Nhẹ).
Tôi
gọi là “Giai-Đoạn Độc-Đoán Nhẹ” vì, ít ra, trongGiai-Đoạn 2 này:
1/
Phần thì Hoa-Kì ủng-hộ tích-cực và viện-trợ dồi-dào, phần
thì Cộng-Sản Việt-Nam bận lo tái-thiết Miền Bắc nhiều năm
sau ngày ngưng bắn 20-7-1954 nên chưa quấy-rối Miền Nam, Miền
Nam Việt-Nam quả đã hưởng được một giai-đoạn thanh-bình, người dân no
cơm ấm áo, có phần dư-dả, và đất nước vươn lên, hy-vọng phú-cường...
2/
Phần thì các tệ-nạn do chế-độ gây nên tuy đã đầy nhưng chưa tràn;
cho đến khi bùng nổ, đẩy Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa vào Giai-Đoạn
3, là “Giai-Đoạn Độc-Đoán Nặng”, bắt đầu từ 1960 (xem thêm).
3) Giai-Đoạn Độc-Đoán Nặng (1960-1963)
Bắt
đầu từ đầu năm 1960, âm-lịch là năm Canh-Tí, mà
năm Canh-Tí là “năm tuổi” của Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm (64 tuổi), cái nồi súp-de xì ra: nhật-báo Tự
Do, mặc dù ấn-hành nhờ tiền Mật-Vụ của Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, đăng lên bìa trước số Xuân Canh Tý 1960, một bức họa
của Phạm Tăng, vẽ 6 con chuột đang gặm nhấm một trái dưa hấu.
Vì mới xì thôi, nên ai tinh mắt mới thấy, 6 con chuột
ấy là Diệm, Thục, Nhu, bà Nhu, Cẩn, Luyện, và
quả dưa hấu ấy (đặc sản nam nộ) là nước Việt-Nam Cộng-Hòa dưới
triều Ngô.
Đến
khi nổ bùng, mọi người đều nghe/thấy/biết, thì biến-cố đầu tiên là Lê Xuân Nhuận ở Huế đã công-khai lên tiếng, trong
buổi “học-tập chính-trị và công-dân giáo-dục” (do Cố-Vấn Ngô Đình Nhu chỉ-đạo cho toàn-quốc) vào dịp Lễ Hai Bà Trưng,
3-3-1960, tại cơ-quan Cảnh-Sát Huế (lại Huế), tố-cáo các
tội ác dưới thời Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa, hiển-nhiên do Đảng Cần-Lao Nhân-Vị gây nên.
Biến-cố
này xảy ra (3-3-1960) trước cả chuỗi những biến-cố khác (vụ 18
nhân-sĩ Caravelle 26-4-1960, vụ đảo-chánh hụt 11-11-1960, “Mặt
Trận Giải-Phóng Dân-Tộc Miền Nam Việt-Nam” ra đời 20-12-1960, v.v...)
(Xem thêm)
Hiển-nhiên
thời-gian 1960-1963 là Giai-Đoạn Độc-Đoán Nặng, từ lời
phản-kháng công-khai của Lê Xuân Nhuận đến cái chết của anh+em Ngô Đình Diệm & Ngô Đình Nhu.
IV. HAI GIAI-ĐOẠN CỦA THỜI-KÌ ĐỆ-NHỊ CỘNG-HÒA
Trở
lại với chủ-đề của bài-viết này.
Nhóm tỉnh
ra của Giáo-Sư Keith. W. Taylor ít nhất qua cuốn NHỮNG TIẾNG NÓI TỪ NỀN ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM
CỘNG-HÒA (1967-1975) này,
đã chia thời-kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa ra làm 2 giai-đoạn:
1) 1963-1966 là Giai-Đoạn
Hỗn-Loạn
2) 1967-1975 là
Giai-Đoạn Thử-Nghiệm Dân-Chủ Đại-Nghị, gọi tắt là Giai-Đoạn Dân-Chủ.
So
với tình-hình thấy trên thực-tế, có thể có người không hẳn đồng-í gọi
thời-gian 1967-1975 là Giai-Đoạn Dân-Chủ.
Tuy
nhiên, lắng nghe “TIẾNG NÓI CỦA NỀN
ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA”, tôi thử đọc qua, thí-dụ bài tham-luận của
Thẩm-Phán Hoa-Kì Phan Quang Tuệ, “From
the First to the Second Republic: From Csylla to Charybdis”:
Scylla và Charybdis là
hai con hải-quái trong thần-thoại Hy-Lạp, hùng-cứ 2 bên đối-nghịch nhau ở
eo biển Messina, giữa Italy và Sicily. Hai con quái biển
phù-phép chống nhau, bên thì biến thành con quỷ 6-đầu với
mỗi-đầu-3-hàng-nanh-nhọn, bên thì tạo thành một dòng nước xoáy; kết-quả là,
trên đường băng qua eo biển này, thủy-thủ mà gặp thủy-quái thì đa-phần
mạng-vong, còn hải-thuyền mà gặp hải-hiểm nước xoáy thì toàn-phần tiêu-vong.
Để
ví-von vì sao Giai-Đoạn Dân-Chủ (1-4-1967– 30-4-1975)
của Thời-Kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa không đơm hoa, dù đã có nhiều
hạt giống tinh-anh (nếp sống văn-minh và dân-chủ cao-độ so với Miền
Bắc u-tối cùng thời), Ông Phan Quang Tuệ, trưởng-nam của Bác-Sĩ
Chính-Trị-Gia Phan Quang Đán tên-tuổi một thời, đã nhắc
đến Scylla và Charybdis, là tượng-trưng cho Hoa-Kì, qua Nixon và Kissinger một
bên, cùng Việt-Cộng qua Hoa-Cộng với Mao Trạch
Đông và Chu Ân Lai một bên, khiến cho con
thuyền Việt-Nam ngày nay phải đứng trước cơ nguy nước xoáy của
kẻ thù Bắc-phương.
KẾT-LUẬN
Nay
phân-chia lại thời-đoạn cho Việt-Nam Cộng-Hòa, ta có:
Thời-Kì Đệ-Nhất
Cộng-Hòa=
1)
Giai-đoạn Chuyển-Tiếp: từ
7-1954 đến 10-1955
2)
Giai-đoạn Độc-Đoán Nhẹ: từ 1955 đến 1960
3)
Giai-đoạn Độc-Đoán Nặng: từ 1960 đến 1-11-1963
Thời-Kì Đệ-Nhị
Cộng-Hòa=
1)
Giai-Đoạn Hỗn-Loạn:
từ 2-11-1963 đến 1966
2)
Giai-Đoạn Dân-Chủ:
từ 1-4-1967 đến 30-4-75
Vấn-đề
ở đây không phải là cách-thức phân-chia thời-đoạn như
trên, mà là dựa vào thời-đoạn như trên để làm căn-cứ cho
việc KHEN/CHÊ TỐT/XẤU mỗi khi
phê-bình Đệ-Nhất và Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa.
Xin
nói nôm-na và ngắn-gọn là phía hoài-Ngô chỉ nên đề-cao và
tự-hào về thời-kì tương-đối “vàng son” (có vàng nhưng cũng có thau)
của Đệ-Nhất Cộng-Hòa là Giai-Đoạn Độc-Đoán Nhẹ; đừng vơ luôn
cả Giai-Đoạn Độc-Đoán Nặng vào, vì không thuyết-phục được
những người khách-quan. Đồng-thời, khi chỉ-trích tình-trạng bất-ổn
của Đệ-Nhị Cộng-Hòa thì cũng nên thu gọn trong Giai-Đoạn Hỗn-Loạn,
không nên quy-trách chung cho cả những thành-tựu trong Giai-Đoạn
Dân-Chủ (phần nào đã được nêu ra trong sách “VOICES from the SECOND
REPUBLIC of SOUTH
VIETNAM” – Những Tiếng Nói từ Nền Đệ-Nhị Việt-Nam
Cộng-Hòa.)
Bản-thân
tôi đã từng là Ki-Tô-Hữu, rồi Cơ-Đốc-Nhân [qua nhiều hệ-phái];
nhưng tôi không chỉ nghe theo các sách và lời “nhiệm
ý” của các linh-mục và mục-sư, mà tôi đã tự mình tìm đọc toàn-văn cuốn
sách Kinh Thánh, nên tôi có đủ can-đảm nhận-chân Lẽ
Thật mỗi khi có người đề-cập/trích-dẫn chính những Lời
Chúa được in rành-rành trong Thánh-Kinh.
Nguồn:
Internet