VIỆT NAM : MẮC KẸT
TRONG TƯ DUY XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
"Vietnam
locked in a socialist mindset"
Lý Quang Diệu
Nhiều
người giành nhiều hy vọng cho Việt Nam khi họ quyết định áp dụng cải cách thị
trường tự do trong những năm 1980, vài năm sau khi Trung Quốc có động thái
tương tự. Đổi Mới, hay “thay đổi sang điều mới” như cách gọi cải cách trong tiếng
Việt, đã bắt đầu đầy hứng khởi. Trong số những bước đi đầu tiên đất nước này thực
hiện tách biệt khỏi chủ nghĩa xã hội là trả lại quyền kiểm soát những mảnh ruộng
mênh mông đã bị tập thể hóa cho các nông dân. Điều này dẫn tới sự gia tăng mạnh
sản lượng nông nghiệp trong vòng vài năm. Nhiều người cả trong và ngoài nước đã
nghĩ rằng Việt Nam đang đi đúng hướng. Quả thực khi cả thế giới thấy rõ sự mở cửa
của Trung Quôc là một thành công kinh tế không thể tin được thì những ai không
quan sát kỹ Việt Nam cũng bắt đầu cho rằng chương trình cải cách của họ cũng sẽ
đi theo quỹ đạo tương tự.
Hiện
đang có một cách nhìn thận trọng hơn. Quan điểm của riêng tôi về cải cách của
Việt Nam đã thay đổi đáng kể từ chỗ khá lạc quan khi tôi có các chuyến thăm đầu
tiên vào những năm 1990. Giờ tôi tin rằng thế hệ các nhà lãnh đạo cộng sản lớn
tuổi của Việt Nam không có khả năng phá vỡ tư duy xã hội chủ nghĩa một cách cơ
bản. Lúc đầu họ đồng ý bắt tay vào chặng đường cải cách bởi vì họ thấy rằng đất
nước đang chẳng đi đến đâu. Nhưng từ đó đến giờ họ vẫn chưa thể hiện được quyết
tâm thật sự trong việc đại tu hệ thống, điều mà người ta đã chứng kiến ở Trung
Quốc. Các nhà lãnh đạo lão thành cách mạng này [Old Guard leaders] đang khiến
Việt Nam trì trệ. Chỉ khi họ qua đời thì đất nước này mới có thể tạo ra đột phá
trong các nỗ lực hiện đại hóa của mình.
Kinh
nghiệm trực tiếp mà tôi có được trong một chuyến thăm gần đây minh họa cho kiểu
trở ngại mà Việt Nam đang đối mặt. Tôi đang dự một cuộc họp với nhiều lãnh đạo
dân sự và quân sự cấp cao và tôi kể lại với họ những vấn đề mà một công ty
Singapore gặp phải khi đang triển khai một dự án khách sạn ở Hồ Tây ở Hà Nội.
Khi công ty này bắt đầu việc đóng cọc móng, hàng ngàn người dân đổ đến đòi bồi
thường cho ô nhiễm tiếng ồn. Để tránh phát sinh thêm chi phí, công ty quyết định
thay đổi phương pháp đổ móng sang biện pháp vít bu-lông neo, cách này đỡ ồn ào
hơn nhiều so với ép cọc. Lần này, chính quan chức đã phê duyệt dự án đến gặp
công ty. Ông ta nói : “Tôi chưa bao giờ cho phép các anh làm như vậy.” Rõ ràng
là vị quan chức này thông đồng với những người dân bực bội kia. Tôi giải thích
với các lãnh đạo Việt Nam có trong buổi gặp với tôi rằng điều này là phản năng
suất. Tôi thúc giục họ rằng, nếu các anh muốn mở cửa, hãy nghiêm túc về điều
đó. Họ trả lời ậm ừ và điều đó cho thấy rõ ràng họ chỉ nửa vời với cải cách. Họ
không hiểu rằng một nhà đầu tư hài lòng sẽ kéo theo nhiều nhà đầu tư khác. Ý tưởng
của họ là khi đã phục kích được một nhà đầu tư vào một góc phòng rồi thì đó là
cơ hội để vắt của anh ta càng nhiều càng tốt.
Các
bậc lão thành cách mạng này đã được lên sọc (tức chức vị và quân hàm – ND)
trong hệ thống thứ bậc của đảng trong suốt chiến tranh và bây giờ nắm giữ nhiều
vị trí quyền lực. Rủi thay, họ tiến lên các chức vụ đó không phải bởi vì đã quản
lý tốt nền kinh tế hay đã thể hiện được tài năng quản trị. Họ làm được như vậy
bởi vì đã đào hầm từ miền bắc cho tới miền nam trong hơn 30 năm. Điểm chung của
họ với kinh nghiệm mở cửa của Trung Quốc chính là các quan chức trở nên tham
nhũng. Những cán bộ tin rằng họ sẽ được chế độ chăm sóc bỗng nhiên thấy người
ngoài đảng trở nên giàu có nhanh chóng. Họ bị vỡ mộng và trở nên tham lam, ví dụ
như với các quan chức hải quan cấp cao nhập khẩu xe hơi trái phép, để có thể
giành phần trong sự giàu có ấy. Điều mà họ không có điểm chung với Trung Quốc
là một nhân vật kiểu Đặng Tiểu Bình vừa có vị trí không thể tranh cãi trong các
cán bộ, vừa có niềm tin không lung lay rằng cải cách toàn diện là lối thoát duy
nhất. Lý do họ thiếu vắng một nhân vật như vậy là do Chiến tranh Việt Nam. Khi
các nhà cộng sản Trung Quốc đang tích tụ hàng thập niên kinh nghiệm quản trị ở
thời bình, thu lượm những gợi ý thực tiễn xem điều gì hiệu quả và điều gì
không, và cập nhật niềm tin và ý thức hệ trong quá trình đó, thì các nhà cộng sản
Việt Nam bị kẹt trong một cuộc chiến tranh du kích tàn bạo với người Mỹ, chẳng
học được gì về cách điều hành đất nước. Hơn nữa, hầu hết doanh nhân thành công
trong số người Việt ở miền Nam – những người quen thuộc với cách làm của chủ
nghĩa tư bản – đã rời bỏ Việt Nam trong những năm 1970.
Người
Việt Nam là một trong những dân tộc nghị lực và có khả năng nhất Đông Nam Á.
Sinh viên của họ đến Singapore theo diện học bổng ASEAN rất nghiêm túc với việc
học hành và thường có điểm số cao nhất. Với những người dân thông minh như vậy,
thật tiếc là họ không phát huy được tiềm năng của mình. Hy vọng rằng khi thế hệ
chiến tranh nhạt đi và một nhóm trẻ hơn lên thay thế, họ sẽ xem Thái Lan phát
triển tốt như thế nào và trở nên tin tưởng vào tầm quan trọng của thị trường tự
do.
Nguồn:
Lee Kuan Yew (2013). “Southeast Asia”, in L.K Yew, One Man’s View of the World (Singapore: Straits Times Press), pp.
159-203.
Biên
dịch và hiệu đính : Trương Thị Thanh Hiền & Vũ Thị Hương Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét