CÓ CHÚA KHÔNG NHỈ?
(Phản biện bài: Biết Đâu Đó Là Sự Thật)
(Phản biện bài: Biết Đâu Đó Là Sự Thật)
Trần Tiên Long
Bài Biết Đâu Đó Là Sự Thật mà bạn Andrew
Tran (atran04@sbcglobal.net)
đã có nhã ý chuyển vào trong các diễn đàn công cộng là một bài viết rất tiêu biểu
của những nhà chuyên làm công việc biện giải cho Thiên Chúa giáo (TCG). Trong suốt
toàn bài viết, tác giả đã sử dụng những trò ngụy biện ngôn từ mà những người đồng
thanh tương ứng rất khó nhận ra. Đó là cứ việc xây dựng một người rơm dựa trên
những kiến thức nông cạn, sai lầm về đối phương – người không tin – để rồi lại
tự tay mình tấn công, đạp đổ người rơm đó xuống.
Ở bài viết này, người viết chỉ muốn đặt trọng
tâm ở khía cạnh Luận Lý Học, một trong các bộ môn thuộc khoa học thuần túy. Còn
khía cạnh khoa học thực nghiệm, quí độc giả có thể tìm hiểu thêm ở bài Còn Có Một Đời Sau. Nguồn: http://sachhiem.net/TTL/ TTLkh07.php
Bây giờ chúng ta hãy cẩn thận xét kỹ xem những
lý lẽ mà các nhà biện giải cho TCG đã trưng ra để nhận thấy rằng tất cả chỉ là
những thứ trò ngụy biện ngôn từ, chưa thể thuyết phục được người không tin để họ
phải đổi ý. Đó chính là lý do tại sao người ta còn cứ phải viện dẫn đến đức
tin. Nhưng trước khi đi vào chủ đề về những thứ trò ngụy biện này, tưởng cũng
nên bàn sơ qua về hai phạm trù vô thần và hữu thần mà những nhà biện giải thường
hay cố tình diễn dịch sai theo kiểu dèm pha, tấn công một người rơm.
I. Vô thần vs. hữu thần
Người không tin (agnostic) thì cũng giống như
người vô thần (atheist) ở điểm họ nghiên cứu tất cả các vấn đề theo phương pháp
của khoa học trước khi đi đến kết luận rằng những hữu thể thiêng liêng như quỷ,
ma, thần, thánh… đều là những sản phẩm tưởng tượng của con người. Vì đó là những
thứ tưởng tưởng, không có thật, nên các nhà hữu thần (theist) phải có bổn phận
trưng ra các bằng chứng. Đó là một nguyên tắc thông thường trong Luận Lý Học và
Luật Học. Tuy nhiên, trong suốt dòng lịch sử tiến hóa của các tôn giáo, chưa ai
có thể làm được việc này nên Thiên Chúa Giáo mới cần phải phịa ra đức tin để nô
lệ hóa tâm linh con người. [1]
Thí dụ, nếu
bạn bảo rằng đêm qua bạn ra ngoài đường vắng và gặp một con ma. Hôm nay, bạn đem
chuyện gặp ma của bạn ra nói với thiên hạ. Bổn phận của bạn là phải nói sao cho
thuyết phục bằng những lập luận vững chắc, có các bằng chứng hẳn hoi. Nếu bạn
chưa làm được điều này thì thiên hạ sẽ không tin bạn. Bạn không thể đơn giản phịa
ra rằng chỉ có bạn mới thấy và hiểu rõ ràng về con ma, nhưng lại không thể giải
thích con ma như thế nào, đã nói gì với bạn, rằng những người khác không thấy
ma là tại vì họ không tin có ma. Cái kiểu lý luận như vậy là bạn đang đặt cái
cày trước một con trâu. Còn người không tin thì đặt cái cày sau con trâu, nghĩa
là phải sử dụng trí tuệ để tìm hiểu các bằng chứng và lý lẽ kỹ càng trước khi
tin. Tin hay không là kết quả của một nhận thức, không phải là một quyết định
chọn lựa của ý chí tự do. Nhưng nếu bạn có quyền lực, bạn có thể làm người ta
tin theo bạn dễ dàng hơn bằng cách sai khiến thiên hạ đi quảng cáo, tuyên truyền
thay thế cho bạn. Kết quả là sẽ có vô số người tin theo bạn. Đơn giản vậy thôi!
Về chuyện có Chúa hay không cũng vậy. Đã là người
thì ai ai cũng có trí tuệ, trí thông minh, lương tâm, ý thức để phán đoán; chỉ
khác nhau ở mức độ cao thấp. Con vật cũng có đầu óc để suy nghĩ, nhưng chắc chắn
không sâu sắc thâm thúy bằng con người, vì có sự khác biệt về cấu trúc nơi não
bộ vật chất. Bây giờ người ta bảo bạn cứ nhắm mắt tin, dụt bỏ lý trí qua một
bên, để họ dễ dàng tuyên truyền cho điều họ muốn. Ừ, thì bạn cứ vâng lời họ mà
dụt bỏ lý trí để tin theo họ. Nhưng người không tin thì chẳng cần phải làm như
bạn. Họ vẫn sống như một con người có trí tuệ, biết suy nghĩ độc lập và tự do đối
với tất cả mọi vấn đề, kể cả vấn đề tôn giáo; vì trí tuệ chính là phẩm hạnh cao
quý của con người, làm con người cao trọng hơn con vật. Sự nghi ngờ là biểu hiệu
của lý trí, là thái độ cần thiết được đòi hỏi ở trong tất cả các bộ môn khoa học,
đối nghịch với đức tin tôn giáo.
Tất cả những người tin có Chúa, kể cả Mẹ Teresa
of Calcutta và các ông bà thánh, thì vẫn luôn luôn còn có sự nghi ngờ, cho dù
đã nhiều năm nhắm mắt tin có Chúa; bởi vì lúc đó họ chưa chết, cũng vẫn đang
còn là con người. Họ phải tiếp tục vật lộn với sự nghi ngờ bao lâu họ vẫn còn
là con người. Bởi lẽ, họ không dễ dàng từ chối thân phận làm người có trí tuệ để
rồi cứ phải nhắm mắt mãi mãi như một con chiên ngoan. Chỉ có họ mới có cái thứ
gọi là “trạng huống của kẻ tin bỗng rơi vào chơi vơi”. Còn người không tin thì
chẳng cần phải vật lộn gì cả, bởi vì họ luôn luôn mở rộng đôi mắt, suy nghĩ như
con người đang tỉnh thức, có trí tuệ. Sự nghi ngờ là bản chất của con người còn
biết dùng đầu óc để suy nghĩ. Nếu những nhà biện giải cho TCG trình bày được những
lý lẽ thuyết phục với các bằng chứng hẳn hoi về sự hiện hữu của Thiên Chúa thì
người không tin sẽ tự động đổi ý để tin theo họ. Đó là chuyện bình thường, hợp
với bản chất của con người vốn có trí tuệ để suy tư, sẳn sàng thay đổi thái độ
để phù hợp với kiến thức mới theo đà tiến hóa của tư tưởng.
Vậy người tin và người không tin thì đều cùng có
sự nghi ngờ vì cả hai vẫn còn là con người. Nhưng sự khác biệt giữa hai hạng
người này thì ở chỗ người không tin đón nhận sự nghi ngờ một cách tự nhiên, thoải
mái, và còn trân quí xem nó như một yếu tố tối cần thiết cho công việc xét đoán
đúng/sai; trong khi người tin lại cứ phải vật lộn, cố gắng vất bỏ sự nghi ngờ để
tin như đinh đóng cột theo những gì đã được chỉ dạy, cho dù có vô lý tới mức
nào. Đó là việc làm đối nghịch với bản chất đích thực của con người vốn sinh ra
thì đã có lý trí. Chỉ có người tin mới cần phải thăng hoa việc dụt bỏ trí tuệ
như một phẩm hạnh đạo đức: đức tin.
II. Những kiểu cách ngụy biện ngôn từ
a. Vấn đề chứng minh có Chúa
Thông thường, trước khi chúng ta làm công việc
chứng minh có một thứ gì thì phải định nghĩa cái thứ đó trước đã. Những nhà biện
giải cho TCG chưa bao giờ làm công việc định nghĩa này trước khi họ chứng minh
có sự hiện hữu của Thiên Chúa. Những gì người ta đã cố gắng chứng minh thì thực
ra không phải là để chứng minh có một Thiên Chúa mà họ đang tôn thờ. Thiên Chúa
mà họ tôn thờ là một sinh vật có đầy đủ nhân tính của con người như tham, sân,
si, hỉ, nộ, ái, ố… được trình bày đầy dẫy ở trong các cuốn kinh thánh. Và Thiên
Chúa vì yêu thương nhân loại còn xuống thế làm người để chịu chết, chuộc cho
con người cái tội gọi là tội tổ tông.
Lập luận
thiết kế thông minh (intelligent design argument), một phó sản của thuyết sáng
tạo, chỉ là để bàn về sự cần thiết phải có một nguyên nhân đầu tiên để tác tạo
vũ trụ từ hư không. Cứ điều gì mà con người chưa giải thích được thì gán cho thần
thánh làm. Đó là thượng đế của các khoảng trống (God of the gaps), chẳng phải
là Thiên Chúa của Thiên Chúa giáo. Đó là một cách lối ngụy biện phải kêu gọi tới
sự ngu dốt (argument from ignorance). Do đó, những lập luận của họ đều tuyệt đối
có thể áp dụng cho bất cứ một sinh vật tưởng tượng nào, chẳng hạn như ông kẹ,
ông ba mươi, ông bà táo, ông trời, thần hoàng, thần thổ địa, sơn thần, thủy thần,
thiên lôi, con kỳ lân màu tím vô hình...
Từ đó, chúng ta có thể kết luận được rằng Thiên
Chúa chỉ là một sinh vật tưởng tượng như tất cả những sinh vật tưởng tượng khác
mà con người đã từng nghĩ ra. Và những kết quả có được khi chúng ta cầu nguyện
cùng Thiên Chúa bằng một đức tin không lay chuyển thì cũng giống như những kết
quả có được khi chúng ta cầu nguyện nơi bất cứ một sinh vật tưởng tượng nào, dĩ
nhiên cũng phải bằng một đức tin không lay chuyển. Các phép lạ mà TCG rêu rao
do Chúa, Đức Mẹ, hay các ông bà thánh làm thì cũng có thể gán cho bất cứ một
sinh vật tưởng tượng nào. Mặc dù vậy, người TCG không bao giờ nhìn nhận Thiên
Chúa mà họ tôn thờ cũng chỉ đơn giản giống như một ông kẹ. Bởi vậy, cái cảm nhận
mơ hồ gặp Chúa thì cũng hoàn toàn giống như cái cảm nhận mơ hồ gặp quỷ ma ngoài
đường vắng, muốn tán sao cũng được.
b. Thiên cơ bất khả lậu
Nếu các ông bà thày bói thường hay nại cớ thiên
cơ bất khả lậu để khỏi phải trả lời cho những câu hỏi hóc búa của các thân chủ
thì các nhà biện giải cho TCG lại thường hay trưng ra mầu nhiệm không thể lý giải
hoặc Thượng Đế bất khả tư nghì để tránh né, khỏi phải trả lời cho những thắc mắc
của thiên hạ. Họ bảo rằng họ đã tìm và gặp được Chúa, rằng chúng ta cũng tìm nhưng
chưa gặp, rằng Chúa đang thử thách chúng ta nên cần phải cố gắng tìm thêm nữa.
Đó là những kiểu cách ngụy biện ngôn từ của những kẻ chuyên làm nghề buôn thần
bán thánh, chẳng khác gì các ông bà thày bói nói láo ăn tiền. Tại sao hiểu mà
không thể nói, không thể giải thích cho rõ ràng; nếu đó không phải là một cách
tránh né, hoặc thực ra chẳng hiểu biết tí gì?
Rồi họ tự cao tự đại cho mình là các bậc thánh
nhân, tôn sư, những kẻ hiểu biết rất rành rẽ về một ông Chúa tưởng tượng kia;
còn những kẻ không tin như họ là đám dân ngu, chẳng hiểu biết gì, thuộc loại
con cháu chưa đủ trí khôn. Tính ngạo mạn và trịch thượng có thể nhận ra dễ dàng
nơi cách xưng hô và nơi sự bất lực của họ mỗi khi họ không thể giải thích. Cứ
điều gì vô phương giải thích thì họ lại trưng ra sự ngu dốt của bàn dân thiên hạ
như là lý do để bào chữa cho sự bất lực không thể giải thích của họ. Chuyện dưới
đất chúng ta còn chưa biết, chuyện trên trời thì họ cứ tràng giang đại hải như
thật. Loài người chúng ta chỉ là những con ếch ngồi dưới đáy giếng hay những thằng
mù sờ chân voi nhưng lại thích bàn chuyện trên trời. Hội Thông Thiên Học còn tự
khoát cho mình là thông thiên, làm như thực sự thông thái chuyện trên trời vậy.
Ảo thuật
gia nổi tiếng nhất thế giới James Randi thách đố bất cứ ai có thể chứng minh có
những điều dị thường (paranormal), siêu tự nhiên, mà khoa học không thể giải
thích, với giải thưởng một triệu đô. Nhưng tới giờ phút này vẫn chưa ai làm được.
[2] Cứ mỗi khi vấn đề được mang ra nghiên cứu tường tận theo phương pháp của
khoa học thì luôn luôn có kết quả hoặc có sự lầm lẫn lương thiện của những người
tường thuật, hoặc ai đó có âm mưu cố ý dàn dựng để phục vụ cho quyền lợi của
tôn giáo. Các phép lạ trong TCG thường được đem ra tuyên truyền trong đại chúng
là những thí dụ điển hình của cái nghề buôn thần bán thánh.
Ở bài Biết
Đâu Đó Là Sự Thật, vị tôn sư bảo:
“Hỡi con,
các bậc thánh nhân trong sách Thora mà con tranh luận đã phí lời với con, bởi
con đã ra về với nụ cười chế nhạo. Họ đã không thể trình bày cụ thể về Thiên
Chúa và Nước của Người cho con được, và ta cũng không làm được chuyện đó.
Nhưng, này con, hãy suy nghĩ cho kỹ, biết đâu đó là sự thật”. (Hết trích).
Chẳng một ai trong chúng ta lại kỳ vọng vị tôn
sư hay các bậc thánh nhân có khả năng “trình bày cụ thể về Thiên Chúa và Nước của
Người” cho chúng ta nghe được. Ở đây có một sự thực rất đơn giản, dễ nhận ra mà
vị tôn sư hay các bậc thánh nhân cố ý tránh né, không chịu lương thiện đối diện;
đó là không thể có sự trao đổi hay tranh luận giữa hai hạng người: một người
thì tự từ bỏ lý trí để suy luận, và một người thì vẫn dùng lý trí ở trong mọi
trường hợp. Nếu nại cớ đức tin thì đương nhiên là phải dụt bỏ lý trí để chỉ tin
vào điều đã được dạy. Vậy dựa vào tiêu chuẩn nào để xét đoán đúng/sai mà tranh
luận, trao đổi? Làm sao mà bạn có thể chỉ cho người mù nhìn thấy được một bức
tranh đẹp? Kẻ cuồng tín ôm bom nổ cũng dựa vào đức tin. Họ bảo rằng đó là con
đường ngắn nhất dẫn tới thiên đàng, nơi có các cô trinh nữ đang chờ đón họ. Vậy
chúng ta lấy tiêu chuẩn nào để phán xét? Làm sao để biết đức tin của chúng ta
thì xác thực, đáng tin hơn đức tin của họ, nếu không dựa vào trí tuệ để phán
đoán?
Cuối cùng, vì không còn gì để dựa nên vị tôn sư
đó chỉ còn dựa được vào một cái phao tưởng tượng mơ hồ là sự nghi ngờ: “biết
đâu đó là sự thật”.
c. Biết đâu đó là sự thật
Ừ, biết
đâu đó là sự thật! Cái kiểu cách lý luận như vậy thì, thêm một lần nữa, đều có
thể áp dụng cho tất cả những gì người ta muốn. Mọi sự đều có thể, nếu khi chưa
có sự chứng minh không thể có, vô phương. Biết đâu ngày mai là ngày tận thế? Biết
đâu mặt trời sẽ mọc từ hướng Tây? Biết đâu Elvis Presley chưa chết, nhưng vẫn
còn sống và nhảy “twist” ở trên cung trăng? Biết đâu Lý Tiểu Long cũng chưa chết,
nhưng đang tập đấu võ với chị Hằng? Hoặc biết đâu không có Chúa, không có thiên
đàng và địa ngục. Rồi cứ biết đâu, và biết đâu... Chúng ta cứ tiếp tục “biết
đâu” cho bất cứ điều gì cũng được. Bertrand Russell còn bảo rằng biết đâu có một
ấm trà bay quanh hành tinh Mars, nhưng vì quá nhỏ nên viễn vọng kính nhìn không
thấy. Chẳng ai có thể chứng minh cho một điều phủ định để bác bỏ những thứ “biết
đâu” mà chúng ta cứ tự do tha hồ phịa ra. Vậy tại sao chúng ta không tin những
thứ “biết đâu” này mà lại chỉ tin “biết đâu có Chúa”? Thưa, tất cả chỉ là kết
quả của một nền giáo dục nhồi sọ và của môi trường sống.
Nhưng người
không tin thì không lý luận như vậy vì có sự khác biệt căn bản về ý nghĩa trong
ngôn từ giữa những nhà khoa học và đại chúng. Nhà khoa học phán đoán dựa trên
tính xác suất của khoa học. Một sự kiện có thể xảy ra hay không thì được xếp hạng
theo nấc thang của tính xác suất. Và cái nấc thang đó đi từ thấp lên cao mà
trong ngôn ngữ thông thường khi được chuyển sang tiếng VN thì rất mơ hồ, dễ bị
hiểu lầm. Ở đây không có chuyện đúng/sai theo nghĩa tuyệt đối, chắc nịch. Cái nấc
thang giá trị đó là:
1. Thường hay xảy ra (frequent)
2. Có thể xảy ra (probable)
3. Đôi khi xảy ra (occasional)
4. Hiếm khi xảy ra (remote)
5. Không thể xảy ra (improbable)
H. J. Muller trong cuốn One Hundred Years Without Darwin Are Enough đã giải thích:
“Không có một ranh giới rõ rệt giữa sự phỏng
đoán, giả thuyết, lý thuyết, nguyên lý, và sự kiện; nhưng chỉ là sự khác biệt về
mức độ xác suất của ý tưởng. Khi chúng ta gọi cái này là một sự kiện thì chúng
ta chỉ muốn bảo rằng tính xác suất của nó thì vô cùng cao, cao đến nổi chúng ta
chẳng cần phải nghi ngờ gì về nó nữa và sẳn sàng hành động phù hợp theo nó. Bây
giờ trong cách dùng từ ngữ sự kiện này, cách dùng đúng là xem tiến hóa như một
sự kiện.” [3]
Như vậy,
khoa học không khẳng định dứt khoát là có Chúa hay không có Chúa theo nghĩa tuyệt
đối; nhưng chỉ chứng minh cho chúng ta biết là không thể có Chúa (improbable).
[4] [5] Vậy không thể có Chúa thì chính xác là một sự kiện theo kiểu nói trong
văn chương của những nhà khoa học. Nếu bạn nghĩ khoa học là phải tuyệt đối chắc
chắn thì đó là sự sai lầm từ phía bạn (Richard Feynman).
Vậy “biết đâu có Chúa” thì không thể nào xảy ra,
đứng hàng thứ chót theo nấc thang giá trị của tính xác suất. Bởi lẽ, những nhà
biện giải cho TCG đã chẳng đưa ra được một bằng chứng nào để hỗ trợ cho sự nghi
ngờ “biết đâu có Chúa”, ngoài những trò ngụy biện ngôn từ; trong khi bằng chứng
không có Chúa thì lại đầy dẫy ở trong một vũ trụ bất toàn, đầy tràn mọi sự dữ.
Đối với các nhà khoa học, mọi sự xảy ra trong trời đất đều có nguyên nhân tự
nhiên, chẳng có Chúa hay thần thánh ma quỷ nào làm ra cả. [4] [5]
d. Có Chúa thì sao?
Nhưng nếu có Chúa theo kiểu thắc mắc vu vơ “biết
đâu đó là sự thật” của những người tin hay của đại chúng, đối nghịch với khẳng
định của khoa học, thì người không tin cũng chẳng có gì phải lo sợ. Chúa lòng
lành vô cùng thì phải biết thương yêu những kẻ lương thiện, có một cuộc sống tốt
lành. Chẳng cần phải có tôn giáo để đem địa ngục ra hù dọa, người không tin vẫn
có thể sống tốt lành. Trước hay sau khi có Thiên Chúa Giáo, mức độ đạo đức của
con người cũng vẫn vậy.
Một cuộc
nghiên cứu của trường đại học Manchester University bên Anh Quốc được công bố
ngày 13 tháng giêng năm 2016 đã khẳng định rằng, mặc dù tôn giáo đã suy thoái rất
nhanh ở các quốc gia Âu Châu trong 30 năm qua, nhưng thái độ của con người đối
với tội ác chống xã hội và tội ác chống đồng loại thì vẫn vậy, không có gì thay
đổi. [6] Còn có một cuộc nghiên cứu của trường đại học Rochester cũng đã
khẳng định rằng người càng thông minh thì càng ít tin vào tôn giáo. [7]
Ngoài ra, việc ban thưởng hay luận phạt theo
tiêu chuẩn đức tin thì hoàn toàn vô nghĩa lý. Tại sao vất bỏ lý trí để tin điều
vô lý thì lại là một nhân đức lớn trong Thiên Chúa Giáo, cao trọng hơn cả lòng
bác ái và tính ngay thẳng lương thiện trí thức; trong khi lòng hoài nghi, một
phẩm hạnh cần thiết và đứng đầu trong khoa học, thì lại bị dèm pha là kiêu ngạo?
Rất có thể Thiên Chúa chỉ ban phần thưởng thiên đàng cho những kẻ ngay thẳng với
lương tâm, can đảm và hành động theo lý trí, chứ không cho những kẻ mù quáng,
chỉ vì mối lợi mà hèn nhát đến nỗi bất chấp mọi lý lẽ. Hành động tốt hay xấu của
chúng ta quan trọng hơn việc tin hay không tin. Người tốt lành là người ăn ở
ngay thẳng, không màng đến kết quả của phần thưởng hay hình phạt. Nếu chúng ta
làm điều tốt lành để mong được phần thưởng thiên đàng hay để khỏi chịu hình phạt
ở địa ngục thì đó là sự buôn bán đổi chác, đầu tư sòng phẳng, không hơn không
kém. Điều này cho chúng ta thấy đạo đức và luân lý của người không tin có tiêu
chuẩn cao hơn đạo đức và luân lý của người tin. Riêng chuyện bảo rằng, đức tin
là hồng ân, là tặng phẩm của Chúa tùy tiện ban cho mỗi người, thì vấn đề thưởng
phạt cũng đã trở thành vô nghĩa. [1]
Bertrand Russell khi tưởng tượng phải đối diện với
Chúa trong ngày phán xét, Chúa hỏi: Tại sao ngươi đã không tin Ta hiện hữu? Ông
ngay thẳng trả lời: Thưa Ngài, tại vì không có bằng chứng nào để tôi tin Ngài
hiện hữu. Nếu Thiên Chúa có tinh thần khoa học thì Ngài phải biết thưởng thức
tính lương thiện trí thức của những người không tin như Bertrand Russell và
khinh thường sự hèn nhát của những kẻ chỉ vì lợi mà tin vào điều vô lý.
Hơn nữa, không phải muốn tin là có thể tin. Tin
tưởng không phải là một quyết định của ý chí mà là trạng thái của trí tuệ khi
chấp nhận một mệnh đề nào đó. Trạng thái chấp nhận này chỉ đến với chúng ta qua
lý luận hợp lý hay khi có các chứng cớ hỗ trợ. Lý trí nhận thấy điều gì vô lý
thì tự động làm mình không tin. Người ta không thể tin tưởng điều vô lý chỉ vì
lợi. Người tin vào điều vô lý thực ra chỉ hy vọng và ao ước điều hắn tin là
đúng, do động cơ mối lợi, chứ không phải hắn đang tin tưởng thực sự. Niềm hy vọng
và ao ước của hắn không làm điều hắn tin chân thật hơn. Đó cũng là lý do tại
sao TCG hay quanh co bàn về niềm hy vọng thay vì bàn thẳng vào đức tin.
III. Kết luận
TCG đã được xây dựng dựa trên một nền cát hay
trên một tiền đề giả định hoang tưởng, huyễn hoặc. Giả định có một ông Chúa ngự
trên trời cao chăm lo cho phúc lợi của con người thì không có chỗ đứng trong
khoa học. Khoa học càng tiến bộ thì cái nền tảng của TCG càng ngày càng bị soi
mòn, suy xụp dần. Các kiểu cách ngụy biện ngôn từ hòng để cải đạo thiên hạ đang
dần dần bị lật tẩy nhờ ánh sáng của trí tuệ.
Chỉ vì một thắc mắc mơ hồ “biết đâu đó là sự thật”
có một xác suất không thể xảy ra mà con người đã thiết lập vô số các tôn giáo để
làm lý do phân biệt, kỳ thị, chém giết lẫn nhau. [8] Họ ngạo mạn cho mình biết
được cả những ý muốn của ông Chúa tưởng tượng kia, rồi tự khoát cho mình quyền
đại diện để cầm buộc dưới đất cũng như trên trời. Họ còn cổ vũ hô hào thà vâng
lời Chúa hơn là vâng lời người thế gian, hoặc thà mất nước chẳng thà mất Chúa.
Người ta có thể chết chỉ vì tin tưởng vào những điều chắc chắn không thể có. Tất
cả chỉ vì quyền lợi vật chất của phe nhóm núp dưới chiêu bài tôn giáo. Nếu nghề
buôn bán đồ giả có thể phát đạt nhờ những thủ đoạn quảng cáo nói láo ăn tiền
thì cái nghề buôn thần bán thánh cũng không phải là một ngoại lệ.
Từ cái tiền
đề giả định về một điều không thể có, chúng ta có thể nhận ra rất dễ dàng các
thủ đoạn mánh mung khác mà TCG đã sử dụng trong suốt hơn 2,000 năm qua. Những
chuyện bịa đặt dàn dựng như các phép lạ của Chúa Giê-su, của bà Maria, hay của
các ông bà thánh thì đầy dẫy ở trong văn chương TCG. Những sinh vật tưởng tượng
kia không có thân xác vật chất thì không thể làm được điều gì, ngoài việc chỉ đứng
khóc, có khi còn lâm ly chảy cả máu mắt, rồi van xin nhờ vã con người có xác
phàm làm những điều thay thế cho họ. Những gì TCG gán cho Thiên Chúa toàn năng
hay Đức Mẹ quyền phép vô biên dạy bảo thì không có gì là độc đáo mà loài người
không thể nghĩ ra.
Người viết là một người Công Giáo đã được rửa tội
và giáo dục theo truyền thống văn hóa TCG ngay từ khi mới sinh ra đời. Cứ mỗi
khi có vấn đề nan giải, người viết thường hay cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần
soi sáng tâm trí; nhưng Chúa vẫn cứ yên lặng, ngoại trừ những lời dạy bảo của
các ông linh mục thay mặt Chúa. Khi khôn lớn hơn, hiểu biết thêm một chút, người
viết mới ngộ ra rằng đó là lý do tại sao người ta muốn chúng ta phải nhắm mắt
tin, vâng lời trong tuân phục. Khi đọc toàn bộ các cuốn kinh thánh, người viết
mới nhận ra rằng những gì từ xưa nay chúng ta vẫn tin là Lời của Chúa toàn năng
không thể sai lầm thì thực ra chỉ là lời của những con người phàm tục, có thể
đúng và cũng có thể sai.
Có sinh vật tưởng tượng nào, kể cả Thiên Chúa của
TCG, mà chẳng phải tuyệt đối giữ im lặng, chẳng phải là những mầu nhiệm không
thể lý giải, bất khả tư nghì?
Trần Tiên Long
Ghi chú:
[1] Miên Man Chuyện Đức Tin / Trần Tiên Long. Nguồn:http://sachhiem.net/index.php?
[2] Top 10 Psychic Debunkings, http://listverse.com/2008/04/
[3] Muller, H. J. (1959). "One hundred years without Darwin are enough". School Science and Mathematics 59: 304–305.doi:10.1111/j.1949-
[4] The improbability of God by Richard Dawkins / Không Thể Có Thượng Đế. Trần Tiên Long dịch. Nguồn: http://sachhiem.net/index.php?
[5] Hai Lối Chứng Minh Không Có Thượng Đế. Trần Tiên Long dịch. Nguồn:http://sachhiem.net/index.php?
[6] Research suggests morality can survive without religion. Nguồn:http://www.upi.com/Science_
[7] Người càng thông minh thì càng ít tin vào tôn giáo? Nguồn:http://phatgiaovnn.com/
[8] The long history of Muslims and Christians killing people together. Nguồn:https://www.washingtonpost.
Source: "qtran@ec.rr.com [DiendanDanToc]" <DiendanDanToc@yahoogroups.com>
On Saturday, April 23, 2016 5:46 AM, "qtran@ec.rr.com"
<qtran@ec.rr.com>
wrote:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét