CHÂN
KHÔNG DIỆU HỮU
Trích
đoạn từ
“ĐƯỜNG RỘNG THÊNH THANG”
Nguyễn
Tường Bách
Trong
năm 2010 có hai biến cố đặc biệt thu hút sự chú ý của giới khoa học. Tháng 9,
2010, nhà vật lý học lừng danh Stephen Hawking luận giải một cách chung cuộc rằng
vũ trụ xuất phát từ chân không, vũ trụ phát sinh không cần đến một đấng sáng tạo.
Tháng 12, 2010, cơ quan quản trị hàng không và không gian Mỹ NASA thông báo
phát hiện của bà Felisa Wolfe-Simon, trong đó người ta tìm thấy một hình thái mới
của sự sống, không giống vối cấu trúc mà con người từng biết đến.
Hai
biến cố khoa học này làm những ai quan tâm không thể không liên tưởng đến những
luận đề cơ bản của Phật giáo trong vũ trụ và thế giới hiện tượng.
Trong
tác phẩm mới xuất bản “The Grand Design”,
nhà vật lý 68 tuổi Stephen Hawking viết rằng, các lý thuyết vật lý mới nhất cho
thấy vũ trụ của chúng ta đã tự hình thành. Trước khi vũ trụ thành hình thì chỉ
là sự trống rỗng, nhưng tính sáng tạo nội tại trong cái “Không” đó đã hình
thành vũ trụ. Hawking thấy “không cần thiết” phải có một Thượng đế, một đấng
sáng tạo để tạo dựng nên vũ trụ.
Từ
một tình trạng không có gì, phi thời gian phi không gian, không cần một nguyên
nhân ngoại lai, có một sự bùng nổ, phát ra năng lượng và vật chất. Đó là hiệu ứng
được mệnh danh là “hiệu ứng lượng tử”, xuất phát từ sự tăng giảm không đều của
năng lượng. Nói tóm gọn, vũ trụ là kết quả của một sự sáng tạo mà không có người
sáng tạo.
Với
nhận thức này, Hawking đã từ chối có một đấng sáng tạo vũ trụ. Nhận thức này
không dễ được chấp nhận tại phương Tây, kể cả trong giới khoa học vật lý. Lý do
không phải các nhà vật lý kia tin mù quáng nơi một Thượng đế toàn năng mà họ có
những lý lẽ hết sức vững chắc khác. Đó là thế giới chúng ta quá kỳ diệu, rõ rệt
là vũ trụ được cấu tạo dường như có chủ đích là sẽ có ý thức tồn tại trong đó.
Người ta đã xác định một loạt các thông số trong thái dương hệ và thấy rằng chỉ
cần một thông số lệch đi một chút là đã không thể có đời sống loài người trên
trái đất. Mặt trời chỉ cần lớn hơn một chút, thành phần của các hành tinh chỉ cần
khác đi một chút, không có sự hiện diện của mặt trăng, … là không thể có loài
người. Xác suất để ý thức xuất hiện là quá nhỏ, gần như bằng không. Thế mà vẫn
có ý thức cao cấp xuất hiện để chiêm nghiệm ngược lại về vũ trụ.
Một
khi đã có một vũ trụ vận hành toàn hảo như thế, khi có một sự sáng tạo tuyệt diệu
thì hẳn phải có người sáng tạo có ý thức, hay phải có “Thượng đế”. Thế nhưng
cũng chính các nhà khoa học theo quan niệm sáng tạo cũng phân vân, nếu có Thượng
đế toàn năng (và bác ái) thì làm sao lý giải được những cảnh tàn bạo, bất công
trong thế giới của con người. Đó là một nan đề của môn bản thể học trong vật lý
hiện đại.
Nhận
thức của Hawking cho rằng vũ trụ xuất phát từ chân không bằng một sự vận động tự
thể. Có sự sáng tạo nhưng không có người sáng tạo. Nhận thức này phần nào lý giải
tính chất kỳ diệu của vũ trụ nhưng không dễ hiểu. Nó khó hiểu ở chỗ là nhận thức
này từ chối một tự ngã làm chủ cho một hành động. Nhận thức này tuy xa lạ với
phương Tây nhưng nó là một cách phát biểu của thuyết vô ngã trong đạo Phật.
Stephen
Hawking và Felisa Wolfe-Simon
Biến
cố thứ hai trong năm 2010 là bài báo cáo của bà Felisa Wolfe-Simon – http://ww.sciencemag.org/content/early/2010/12/01/science.1197258.abstract
– (NASA Astrobiology Institute, USA) và cộng sự về một cái nhìn khác về hình
thái của sự sống, nhân dịp khám phá một loại vi sinh vật được cấu tạo hoàn toàn
khác với quan niệm hiện nay. Theo các lý thuyết sinh học hiện nay, mọi hình
thái hữu cơ thên trái đất và cả ngoài trái đất chỉ được xây dựng với 6 nguyên tố:
Cảbon, hydro, nitrogen, oxy, sulfur (lưu huỳnh) và phosphorus (phốt pho). Từ những
tế bào giản đơn nhất, đơn bào, sống trong môi trường hiếm khí hay không có ánh
sáng cho đến chủng loại cao cấp là loài người đều chỉ gồm 6 nguyên tố đó mà
thôi. Nay Wolfe-Simon chứng minh rằng đã có vi sinh vật không chứa phosphorus
mà chứa arsenic (thạch tín). Với arsenic, vi sinh vật nầy cũng tăng trưởng
tương tự như các sinh vật khác.
Phát
hiện này xem ra không quan trọng trong đời sống bình thường, nhưng trong ngành
sinh vật học địa cầu và ngoài địa cầu, nó gây “chấn động mãnh liệt”. Người ta bừng
tỉnh thấy rằng lâu nay ngành sinh học quan niệm về sự sống một cách hạn hẹp, tự
đưa ra hạn chế trong định nghĩa về hình thái của sự sống. Người ta thấy rằng phải
từ bỏ hạn chế đó và cần tìm hiểu lại sự sống ngay trên trái đất này. Khi đó, với
sự nghiên cứu về sự sống ngoài hành tinh người ta hy vọng sẽ mở rộng hơn tầm
nhìn và khám phá những hình thái sống không hề ngờ tới. Thực tế là arsenic hiện
hữu nhiều trong những môi trường cực lạnh, “linh động” hơn phosphorus và vì vậy
dễ sinh ra sự sống hơn. Do đó khi xem arsenic là một nguyên tố của sự sống hữu
cơ người ta có nhiều hy vọng hơn sẽ tìm thấy sự sống khác trong vũ trụ.
Bài
báo cáo về vi sinh vật nầy tuy có tính chất rất chuyên môn nhưng thực ra đã tạo
nên một nền triển vọng và phấn khích mới. Đó là con người sẽ thấy rằng mình chỉ
là một hình thái trong vô số hình thái của sự sống. Điều này làm ta nhớ tới
khái niệm “Diệu Hữu” trong đạo Phật. Sự tồn tại (Hữu) là vô tận, số lượng của
thế giới và của các loài sinh vật, từ đơn giản đến cao cấp là vô tận. Có thể
con người một ngày kia sẽ đến chỗ thừa nhận là sự sống có những hình thái hoàn
toàn khác hẳn, không phải chỉ gồm 6 nguyên tố mà nhiều hơn hẳn. Cũng có thể người
ta sẽ đến với nhận thức là tư tưởng và tình cảm cũng là một dạng của sự sống mà
“thân” của chúng không phải là các yếu tố “vật chất” mà là những sóng tương tự
như sóng điện từ. Cuối cùng khi con người nhận thấy đời sống là nhất thể, và mọi
hình thái của nó, từ vật chất đến phi vật chất, đèu là những “pháp” vô ngã, vô
thường, khi đó khoa học tạm gọi là sẽ đồng qui với Phật giáo.
Đồng
chủ biên cuộc khảo cứu, giáo sư Paul Davies thuộc Arizona State University và
Viện Sinh học Không gian của NASA, nói với BBC News (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/201/12/101203_arsenicbacteria.shtml): “Vào lúc này chúng ta không biết sự sống chỉ là một tai nạn
ngẫu nhiên xảy
ra trên trái đất, hay đó là một phần của một tiến trình sinh hoá
tự nhiên qua đó
sự sống xuất hiện ở bất kỳ đâu có điều kiện như trái đất”, Davies ủng hộ quan niệm “sự
sống xuất hiện
ở bất kỳ
đâu có điều
kiện như trái đất”
và điều này rất trùng hợp với quan niệm Duyên khởi của đạo Phật, tức là cho rằng
hễ có điều kiện như nhau thì sự sống phát sinh như nhau, chứ một hiện tượng
không thể xuất hiện “ngẫu nhiên”, một lần rồi thôi.
Hai
biến cố kể trên, một bên thuộc phạm vi vật lý lý thuyết, bên kia của vi sinh vật,
có một ý nghĩa thú vị ở đây. Nhận thức của Hawking trùng hợp với thuyết “Chân
Không” và Vô Ngã, còn phát hiện của Wolfe-Simon làm ta liên tưởng đến tính “Diệu
Hữu” và Duyên Khởi của đạo Phật.
Chân
Không-Diệu Hữu vốn là cơ sở của vũ trụ quan của Phật giáo. Theo đó mọi hiện tượng
đều xuất phát một cách nội tại từ “Không”, không do tác nhân bên ngoài. Chúng
xuất hiện trong thế gian và tuân thủ nguyên lý Duyên khởi, đủ điều kiện thì
sinh, đủ điều kiện thì diệt. Các hiện tượng đó không có ai làm chủ nhân, chúng
làm tiền đề cho nhau để sinh và diệt. Khi sinh thì sinh từ chân không, khi diệt
thì không còn chút bóng hình lưu lại. Các hiện tượng, mà trong đạo Phật gọi là
“pháp”, không chịu sự hạn chế nào cả, không có ai lèo lái chúng cả. Khi đủ điều
kiện thì mọi hình thái của sự sống đều khả dĩ, khả năng xuất hiện của chúng là
vô tận, “bất khả tư nghì”, Diệu Hữu bao trùm mọi hiện tượng, vật lý cũng như
tâm lý, nằm ngoài khả năng suy luận của con người chúng ta. Cụ thể, khi nói về
con người thì đó là một tổng thể gồm hai mặt tâm lý và vật lý với năm yếu tố mà
ta gội là Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Năm yếu tố đó vận hành vô chủ.
Những
phát hiện của khoa học làm chúng ta kinh ngạc về tri kiến của Phật và các vị Tổ.
Các vị đã phát hiện những quy luật của vũ trụ không bằng phép nghiên cứu thực
nghiệm mà bằng trực giác trong một dạng tâm thức phi thường của thiền định. Qua
thời gian thực tế cho thấy các phát hiện của khoa học không hề bác bỏ vũ trụ
quan Phật giáo mà ngược lại chúng trùng hợp một cách kỳ lạ. Tuy nhiên chúng ta
cần tránh một thái độ, đó là xem khoa học như thước đo đúng sai đối với nhận thức
luận Phật giáo. Lý do là Phật giáo chủ yếu nhận thức về hoạt động của tâm,
trong lúc khoa học vật lý hay sinh học thiên về vật chất. Tất nhiên Phật giáo xem tâm-vật nằm chung
trong một thể thống nhất và mặt khác, khoa học vật lý hiện đại cũng phải thừa
nhận vai trò của người quan sát (tức là vai trò của tâm) trong mọi thí nghiệm.
Nhưng phải nói phạm vi nhận thức giữa khoa học và Phật giáo rất khác nhau. Một
điều mà ta không quên nữa là Phật giáo nhận thức thế giới với mục đích thoát khổ,
thoát khỏi sự ràng buộc của nó bằng các phương pháp tu dưỡng tâm. Còn nhà vật
lý hay sinh học chỉ dừng lại ở nhận thức. Vì vậy khi so sánh Phật giáo và khoa
học, tuy có nhiều thú vị và hứng khởi, ta cần biết cái giới hạn của nó.
Chân
Không Diệu Hữu là một chìa khoá để hiểu nhận thức luận về bản thể và hiện tượng
của Phật giáo. Vì mọi hiện tượng xuất phát từ “Không” nên nó không có một bản
chất trường tồn và riêng biệt, đó là thuyết Vô ngã. Chỉ có Ngũ uẩn đang vận
hành, không có người vận hành chúng. Tương tự, Hawking cho rằng có sự sáng tạo
nhưng không có ai sáng tạo cả. Thuyết Vô ngã khó hiểu cho những ai mới làm quen
với đạo Phật. Cũng thế, vũ trụ tự sáng tạo và sáng tạo một cách tuyệt diệu,
nhưng không có đấng sáng tạo. Đó là điều cũng khó hiểu cho nhiều người phương Tây.
Hawking
chứng minh rằng vũ trụ xuất phát từ cái “Không”, ông bác bỏ sự cần thiết của một
vị Thượng đế nhưng có lẽ ông không biết “Không” là gì. Là một nhà vật lý, ông
khó có thể biết hơn. Thế nhưng lại đến phiên ta kinh ngạc về khoa học vật lý.
Dù từ hạn chế mình trong lãnh vực vật chất, vật lý đã đi đến tận cùng biên giới
của vật chất, gõ cửa ngành bản thể học và hầu như chạm đến “chân lý tuyệt đối”
của đạo Phật. Vị trí của Hawking làm ta nghĩ đến luận sư Long Thọ, cả hai vị đều
cho rằng “Không” là nguồn gốc của muôn vật, nhưng cả hai đến từ hai chân trời
khác nhau.
Phật
và các vị Tổ Phật giáo biết “Không” là gì bằng trực quan nhưng không miêu tả nhận
biết của mình. Tính Không thuộc về một lĩnh vực mà ngôn ngữ không diễn bày được.
Cũng như thế trong vật lý lượng tử, người
ta thấy ngôn ngữ và cách suy luận thông thường không còn thích hợp. Giữa Phật
giáo và khoa học, sự trùng hợp rất lớn mà sự khác biệt cũng rất lớn.
Nhà
vật lý tin rằng có một vụ “nổ ban đầu” (Big Bang) cách đây 14 tỉ năm để sinh ra
vũ trụ vật lý. Thiền giả thấy có một sự “bùng nổ” trong tâm xảy ra trong từng
sát-na. Đó là cách nói gọn nhất về sự khác biệt giữa Phật giáo và khoa học.
Đường Rộng Thênh
Thang
(trang 74)
9.2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét