CỤ TRẦN VĂN HƯƠNG
XEM “CHÍ SĨ” NGÔ ĐÌNH DIỆM
NHƯ MỘT “THẰNG NGU NGỐC VÔ LIÊM SỈ”
Bữu Châu
Sau 1975 và tại hải ngoại, lợi dụng tình trạng khó kiểm chứng độ khả tín
của tài liệu và tình hình càng ngày càng vắng dần nhân chứng, đồng thời, nhằm
thực hiện lời nguyền đầy hận thù “… tôi
chết trả thù cho tôi” của con chiên cuồng tín Ngô Đình Diệm, nhóm tàn dư Cần
lao-Công giáo của gia đình nhà Ngô (“the
House of Ngo”, như người Mỹ cũng thích dùng từ nầy) đã tung ra trên các diễn
đàn Internet và một số báo giấy những tài liệu ngụy tạo trắng trợn, nhằm hai mục đích đan kết phối hợp với nhau:
HAI MỤC ĐÍCH, MỘT CÔNG MỘT THỦ
● Một mặt, họ xuyên tạc và bôi
nhọ tính chính đáng của Phật tử và trí thức Việt Nam trong cuộc vận động đòi bình
đẵng tôn giáo dài 6 tháng trong năm 1963, bằng cách chụp mũ cho phong trào Phật
giáo là khi thì do CIA Mỹ điều động, khi thì … ngược lại, do Cọng sản Bắc Việt
lãnh đạo. Tiêu biểu như bốn bài sau đây:
- Ngụy tạo ra một
Đại úy CIA bí mật tên là James Scott như là hung thủ duy nhất, đặt chất nổ trong
vụ thảm sát 8 Phật tử tại khuôn viên Đài Phát thanh Huế ngày 8-5-1963 (http://www.talawas.org/?p=5924).
- Vu khống cuộc tự
thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày 11-6-1963 tại Sài Gòn là do một “cán
bộ Cọng sản nằm vùng” tên Nguyễn Công Hoan lên kế hoạch và đã tự tay tiêm thuốc
mê rồi tưới xăng đốt Ngài (http://thuvienhoasen.org/a16529/27-xuyen-tac-ve-cuoc-tu-thieu-cua-ht-thich-quang-duc-phap-lac-va-nguyen-kha).
- Bôi nhọ cuộc “tự
hủy mình” của nhà văn Nhất Linh ngày 7-7-1963, cho đó chỉ là hành động quẫn trí
vì Nhất Linh vốn bị bệnh tâm thần từ năm 1939, lúc viết truyện Bướm Trắng. (http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/default.aspx?a=143907&z=271).
- Dựng ra một kết luận không hề có cho Bản
Phúc trình A/5630 của “Phái đoàn điều tra
Liên Hiệp Quốc tại Nam Việt Nam” (http://hoangnamgiao.blogspot.com/2013/07/blog-post.html ).
● Mặt khác, họ tìm cách “đánh
bóng” cho hai lãnh tụ Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu một lớp sơn để che dấu những
sai lầm và tội ác mà hai ông nầy đã gây hại cho đồng bào miền Nam.
Vì đồng bào xứ Huế (nơi biết rõ gốc gác và tư cách của dòng họ Ngô Đình
nhất) đã từng lên án rằng: Họ Ngô có bốn
gian hùng / Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn
khùng, Thục điên (trích từ đồng dao xứ Huế trong những năm đầu thập niên
1960’) nên bây giờ, nhóm tàn dư của nhà Ngô phải gian trá gán bừa cho lãnh tụ của
mình những giải thưởng có kích thước quốc tế, những tác phẩm nghiên cứu lý luận
có giá trị cao … hầu “dựng tượng” văn hóa cho lãnh tụ!!! Tiêu biểu như hai bài
sau đây:
- Phong bừa cho ông
Diệm làm khôi nguyên giải thưởng “Leadership
Magsaysay Award” mà họ bịa ra là vào năm 1962 (hay 1959?) với trị giá 10,000
(hay 15,000?) đô la Mỹ để ông Diệm mau mắn tặng số tiền nầy cho vị lãnh tụ Phật
giáo thế giới là ngài Đạt Lai Lạt Ma. (http://giaodiemonline.com/2013/03/suthat.htm).
- Bịa đặt ra những
tình tiết không có thật để mạo nhận ông Nhu trở thành tác giả của cuốn khảo luận
chính trị “Chính đề Việt Nam” hầu chứng
tỏ rằng lý thuyết gia “uyên bác” của chế độ cũng có tác phẩm lập thuyết như ai!
Tuy nhiên, công trình nghiên cứu giá trị nầy thật ra là của ông Tùng Phong Lê Văn
Đồng, một người từ Pháp về, từng tham gia chính quyền ông Diệm (Bộ Canh Nông) nhưng
đã bỏ đi không hợp tác nữa vì bất đồng quan điểm. (http://hoangnamgiao.blogspot.com/2013/02/chinh-e-viet-nam-c-ua-ngo-inh-nhu-ong.html)
Tại sao những xuyên tạc, gian trá và ngụy tạo nầy không được phổ biến rộng
rãi khi hai ông Diệm Nhu còn nắm quyền sanh sát trong tay với bộ máy mật vụ ác ôn
và hệ thống tuyên truyền muốn nói gì thì nói? Thậm chí trong những năm đầu thập
niên 1970’, khi nhóm Cần lao-Công giáo trở lại khống chế chính trường miền Nam với
sự thỏa hiệp của con chiên Nguyễn Văn Thiệu để thiết lập một chế độ “Diệm không
Diệm” (nhóm từ của Robert Shaplen trong The
Cult of Diem), những vu khống, bôi nhọ, mạo nhận hoặc “bốc thơm” như thế nầy
hầu như không xuất hiện mà đến nay, ra hải ngoại và sau 1975, mới được ngụy tạo
hoặc kích hoạt lại để tung ra một cách quy mô có hệ thống như thế? Câu trả lời
gồm 3 vế.
*
* *
CÂU TRẢ LỜI BA VẾ
(i) Vế thứ nhất là sau biến cố
long trời lỡ đất vào mùa Xuân năm 1975, về phương diện lịch sử và trong lãnh vực
tài liệu, khi đề cập đến Miền Nam, hầu như cà hai “bên thắng cuộc” và “bên thua
cuộc” đều muốn viết gì thì viết tùy ý đồ chính trị, chẳng còn tiêu chuẫn chuyên
môn nào hay tư cách đạo đức gì được tôn trọng hay làm chuẩn mực nữa. Hiện tượng
nầy lan tràn một phần vì trong cơn vật đỗi sao dời đó, luôn luôn có một đám đông
bị hội-chứng-bầy-đàn,
có đầu mà không có óc, sẳn sàng đưa “sọ” cho những phù thủy “nhồi” gì cũng tin.
Một ví dụ nhồi sọ điển hình là trường hợp nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên. Em sinh năm 1992 trong một gia đình
theo đạo gia tiên thờ ông bà, vì chống chế độ nên bị tòa kết án tù treo 3 năm. Phương
Uyên ra khỏi tòa sau phiên xữ đó vào tháng 8/2013. Nhưng dù chỉ mới hơn hai tháng
sau, và dù không đủ điều kiện để tiếp cận thông tin đa chiều, do đó không biết
gì (và biết đúng) về chế độ Ngô Đình Diệm 50 năm trước đây, thế mà vẫn được mấy
“cha” Dòng Chúa Cứu Thế trao bằng khen gì đó, rồi “nhồi sọ” đưa lên mộ ông Diệm
khóc thương vào dịp mồng 1 tháng 11 cùng năm 2013 để mấy “cha” chụp hình phát tán
khoe trên Internet.
Hiện tượng nhồi sọ nầy không những thành công dể dàng với một em nữ sinh
viên trẻ tuổi, mà còn “lừa” được một đám trí thức Hà Nội nông nỗi và vọng động,
vì quá bất mản với đảng Cọng sản nên tung hô bất kỳ cái gì họ “vớ” được (và xem
đó như mẫu mực của “dân chủ tự do”), kể cả hai nền Cọng hòa cũ ở miền Nam mà họ
hầu như không có những kiến thức đầy đủ và sâu sắc về quá trình hình thành và bản
chất thực sự của hai nền Cọng hòa nầy!
Sinh viên Phương
Uyên cầu kinh cùng các cha dòng Chuá Cứu Thế và chụp hình cạnh ngôi mộ của ông “Huynh”
(Ngô Đình Diệm) trong ngày 1-11-2013
(Hình: Dân Chúa Đồng Hành
– dcdh.bplaced.net)
(ii) Vế thứ nhì là kỷ năng lan
tỏa thông tin tức thời và khắp nơi của Internet. Mạng lưới Internet được khai sinh
(packet networking) từ thập niên 1950’, triển khai trong thập niên 1960’
(ARPANET), rồi đi vào ứng dụng phổ quát và khai dụng đại trà trong những năm cuối
thập niên 1980’ (ISPs). Internet với những ứng dụng trong lãnh vực truyền thông xã hội (social media), một phần, đã
trở thành công cụ tuyên truyền hữu hiệu cho
những kẻ giấu mặt bất lương hay minh danh nhưng không biết ngượng. Cứ nói
láo mãi và nói láo nhiều, thế nào cũng có ngưới tin. Không tin bây giờ thì để lại
tài liệu cho thế hệ sau … “tham chiếu”! (Kỹ thuật nhồi sọ nầy đã được bộ máy
tuyên truyền của Đức Quốc xã và Đệ Tam Quốc tế học thuộc từ một bậc thầy sành sõi
là Giáo hội Công giáo, vốn đã xử dụng để truyền đạo kinh qua cả nghìn năm trước).
Một ví dụ điển hình của hiện tượng lan tỏa rộng rãi lời nói láo trong
cyberspace là sự kiện một cựu quan chức cao cấp của Việt Nam Cọng Hòa đã dùng
Internet để liên tục gian trá khẳng định rằng lãnh tụ của mình là tác giả của một
cuốn sách chính luận có giá trị trí thức cao. Thật vậy, nguyên tác phẩm “Chính Đề Việt Nam” đã được ông Tùng
Phong Lê Văn Đồng chấp bút và xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1965. Thế mà ông Tôn
Thất Thiện, một “nhà nghiên cứu” hoài-Ngô (đã từng làm Giám đốc Báo chí kiêm Thông
dịch viên riêng của ông Diệm, và sau 1963, làm đến Bộ trưởng Bộ Thông Tin của Đệ
Nhị Cọng Hòa), mãi đến năm 2009 vẫn cứ tiếp tục khẳng định một cách bất lương và
không biết ngượng trong một bài viết được phát tán rộng rãi trên Internet, rằng
tác phẩm nầy là “viên ngọc quý trong kho
tàng tư tưởng của nhân loại” vốn “kết tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của
cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá thân cận”. Ông Thiện nầy,
có bằng tiến sĩ ở Anh, vừa làm báo chí vừa làm thông tin trong cả hai nền Cọng
hòa, người tự nhận là “tôi đã được học hỏi ở những Đại học có tiếng là
đứng hàng đầu thế giới về
các môn Chính trị, Kinh tế, Xã hội học, tôi đã đọc rất nhiều sách,
báo, về vấn đề phát triển”, thế mà trong 44 năm (1965-2009) lại không
biết đến (?) nên không nhắc đến tác giả thật, và duy nhất, là ông Tùng Phong Lê
Văn Đồng, nguyên Đổng lý Văn phòng Bộ Canh Nông thời ông Diệm, ở ngay tại Sài Gòn.
Ông tưởng sau 1975 ra đến hải ngoại rồi muốn nói gì thì nói sao? Thật là bất lương
hết thuốc chữa!
●Bìa “Chính Đề
Việt Nam” của Tùng Phong, Nxb Đồng Nai, Sài Gòn 1965.
●Ông Tiến sĩ Bộ
trưởng Tôn Thất Thiện, người đánh tráo tác giả để đề cao lãnh tụ Ngô Đình Nhu.
●Google ngày 14-1-2016
với keyword là tựa đề bài viết của ông Thiện (“CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM MỘT VIÊN NGỌC
QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG NHÂN LOẠI”), Internet cho 199,000 kết quả (đường
link URL) dẫn về những trang web/blog hoài-Ngô như “Hồn Việt”, “Chúa Cứu Thế”, “Bảo
Cệ Cờ Vàng 2012” … Và sự dối trá nầy sẽ cứ, theo thời gian, tiếp tục lan tràn trong
không gian Internet như ý đồ bất lương của đám hoài-Ngô.
(iii) Nhưng “hội-chứng-bầy-đàn”
và mạng lưới Internet mà thôi cũng chỉ mới là những điều kiện “đủ”, nên vẫn chưa
kết hợp được để có cả một chiến dịch rộng lớn, phối hợp nhịp nhàng trong và ngoài
nước, nhằm xuyên tạc lịch sử và bôi nhọ các tôn giáo khác với một ý đồ chính trị
rất rõ ràng. Chiến dịch nầy, để thực hiện nó ở tầm cao của chiến tranh tuyên
truyền trong thời hiện đại, phải được một thế lực cực mạnh lãnh đạo và cung cấp
phương tiện mới làm được. Thế lực đó, như lịch sử đã chứng nghiệm (từ thời cố đạo
Alexandre de Rhodes “gọi Thích Ca bằng
thằng”) và thực tế đang chứng minh (như Giáo hoàng Benedict 16 gọi Phật giáo
là một loại tâm linh tự dâm – “autoerotic
spirituality”) chỉ có thể là Vatican. Và Vatican chính là vế thứ ba trong
chiến dịch tuyên truyền xám đó!
Thật vậy, trong “mùa gặt lớn” mà Vatican gọi là “chương trình cứu độ của Giêsu” tại lục địa Á châu, theo đúng chiến
lược xâm lăng văn hóa để “cải đạo, cướp linh hồn” được Giáo hoàng Gioan Phaolồ
2 đề xuất trong “Tông huấn Giáo hội tại châu Á” (Ecclesia In Asia) vào năm 1999 tại Ấn Độ (http://giaodiemonline.com/2009/07/tonghuan.htm),
Vatican đã cởi lên để khuynh loát làn sóng bất mãn với chính quyền Việt Nam bằng
một chiến dịch “thánh hóa” trường hợp Ngô Đình Diệm như một viên đá nhắm hai
con chim:
Vừa bóp méo quá khứ để vinh danh dòng
họ con chiên Ngô Đình và Đệ Nhất Cọng hòa hầu mong “giải tội” cho Giáo hội Công
giáo Việt Nam về quá trình 100 năm (1858-1954) làm tay sai đắc lực cho thực dân
Pháp xâm lăng và đô hộ Việt Nam; lại vừa hướng về tương lai, dùng Giáo hội Công
giáo để tiêu diệt chế độ Xã hội Chủ nghĩa tại Việt Nam hầu thành lập một
“Philippines toàn tòng thứ nhì”, gợi hứng từ chế độ giáo trị Đệ nhất Cọng hòa của
Ngô Đình Diệm, trên bán đảo Hoa-Ấn. Ý đồ chiến lược nầy của Vatican, từ góc độ
chính trị, là lập lại trường hợp Ba Lan vào mùa Hè năm 1989, chỉ khác là lần nầy
“giòng nước lũ” chỉ đại diện không đến 10% dân số Việt Nam nhưng được Internet
và hội-chứng-bầy-đàn khuyếch đại lên nhiều hơn …
Từ đó, ta không lấy làm lạ khi thấy những động thái tưởng là rời rạc nhưng
thật ra kết hợp nhất quán và đều khắp để phục vụ cho những mục tiêu chiến lược đó
của Vatican:
Từ Giáo hoàng Gioan Phaolồ II viết “Crossing
the Threshold of Hope” (Bước qua Ngưỡng cửa Hy vọng) để phỉ báng Phật giáo,
đến rửa tội cho nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngay trước giờ lâm chung để tạo uy tín
truyền đạo dù ông nầy trước đó chỉ muốn quy y Tam bảo – Từ ồ ạt và gấp rút phong
một con số kỷ lục 117 người cả Tây lẫn Ta làm “thánh tử đạo” tại Việt Nam chỉ
trong vòng một năm (1988), đến một tên nhà văn Công giáo là Chu Tất Tiến ở tại
Little Saigon (Mỹ) to mồm vu khống rằng “Phật giáo Việt Nam giết hại hơn 100 nghìn
người cùng máu đỏ da vàng chỉ vì họ theo đạo Ca Tô”. – Từ vận động nhà nước Việt Nam đặt lại tên đường tên trường cho
những thành phần Công giáo hợp tác với chính quyền thuộc địa Pháp như Nguyễn
Trường Tộ, Petrus Ký, Nguyễn Bá Tòng, cho đến ra sách vinh danh ông Linh mục Trần
Lục, người đã từng mộ quân và dẫn đường cho quân Pháp đánh chiếm chiến lũy Ba Đình
của anh hùng Đinh Công Tráng. – Từ Giám
mục Ngô Quang Kiệt xách động giáo dân xuống đường bạo động đòi lại một mãnh đất
vốn của chùa Báo Thiên, đến vận động nhà nước cho xuất bản sách (Việt dịch) của một nữ tác giả Mỹ viết về bà Nhu. Đó là chưa kể hàng trăm video được phát tán trên YouTube để đề
cao Ngô Đình Diệm và phỉ báng Phật giáo và Tướng Dương Văn Minh …
*
* *
CỤ TRẦN VĂN HƯƠNG VÀ BÀI THƠ “CẢM HOÀI”
Trong chiến dịch thiên la địa võng, huy động sức mạnh tổng hợp vừa thần
quyền vừa thế quyền đó của Vatican, sự kiện cụ Trần Văn Hương làm thơ “mắng” ông
Ngô Đình Diệm là “thằng ngu ngốc vô liêm sĩ” (vì bài thơ Cảm Hoài) là một trường hợp tuyên truyền xám điển hình khác về thủ đoạn
“thấy sang bắt quàng làm họ” để tô son trét phấn cho lãnh tụ, do “bầy tôi” của ông
Diệm thực hiện. Bài thơ Cảm Hoài nầy, một dạo, đã được tàn dư của
ông Diệm phổ biến giới hạn trong nước mà họ chú thích rằng tác giả là ông Diệm.
Bài thơ được tán dương là một tuyệt tác với “khẩu khí của nhà ái quốc” đang
trong thời kỳ làm ẫn sĩ phải “bao năm lê
gót nơi quê người” Mỹ. Đến lúc ra đến hải ngoại sau 1975, bài thơ lại được
phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn và bổng trở thành “viên ngọc quý của thi ca
Việt Nam” mà chỉ có người có tấm lòng yêu nước thương nòi như “chí sĩ” Ngô Đình
Diệm mới sáng tác nỗi.
Ai cũng bị “đầu độc” tin như thế cho đến khoảng năm 1995, sau khi Mỹ-Việt
bang giao, chuyện về Việt Nam để tìm mua sách cũ hoặc gặp lại bạn bè đồng nghiệp
xưa trở nên dễ dàng hơn, nhiều người mới phát giác ra rằng tác giả bài thơ Cảm Hoài là một vị khác. Và chuyện gán
cho ông Diệm là tác giả bài thơ nầy chỉ là trò gian trá, mạo nhận của nhóm Cần
lao-Công giáo để bốc thơm ông Diệm mà thôi!
Ngoài ra, cũng nhờ vậy mà thế hệ sau mới biết được rằng trể nhất là từ năm
1974, một số ít người sinh hoạt thi ca trong nước đã biết vụ lừa dối nầy rồi. Đặc biệt, một trong những người đó là cụ Trần
Văn Hương, đã biết từ năm … 1961!
Cụ
Trần Văn Hương là một nhà giáo, một nhân sĩ nỗi tiếng tại miền Nam. Cụ từng
tham gia chính quyền Việt Minh, nhưng rồi vì bị quy chụp là Việt gian nên cụ bỏ
kháng chiến về quê Vĩnh Long sống ẫn dật. Sau khi đất nước qua phân, cụ hoạt động
trở lại và đã từng
là Đô trưởng Thành phố Sài Gòn dưới thời ông Diệm. Nhưng chỉ được vài năm
rồi cũng bất
mãn vì bản chất độc tài của chế độ nầy nên cụ và một số đồng chí thành lập nhóm
Tự Do Tiến Bộ, ra Tuyên Ngôn (năm
1960 tại khách sạn Caravelle) để lên án chế độ Diệm. Cũng trong năm 1960 đó, cụ
ủng hộ cuộc binh biến của binh chũng Nhãy Dù để lật đổ ông Diệm nên bị Nha Tổng
Giám đốc Cảnh Sát và Công An Quốc Gia bắt cầm tù vào ngày 12-11-1960. Cụ được
phóng thích khoảng 5 tháng sau đó (7-4-1961).
Năm
1964, cụ trở lại tham chính và đã từng giữ những chức vụ Thủ Tướng, Phó Tổng thống
và Tổng thống Việt Nam Cọng Hòa. Sau 1975, cụ chọn ở lại quê hương, tiếp tục sống ở căn nhà cũ ở Sài
Gòn. Cụ mất
năm 1982. Ngày nay, nhắc đến cụ, người ta vẫn gọi cụ là một mẫu mực tiêu biểu và
đúng đắn của một “Sĩ phu Nam kỳ”. (Xem toàn bộ
tiểu sử và hoạt động của cụ tại https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_V%C4%83n_H%C6%B0%C6%A1ng )
Trong
thời gian bị tù dưới chế độ Diệm, cụ và một số bạn tù chính trị khác (như các vị
Tạ Chương Phùng, Phan Bá Cầm, Trần Văn Tuyên, Phan Khắc Sữu, Nguyễn Trung Hậu, Phan
Quang Đán, Phan Huy Quát, …) thỉnh thoảng có làm thơ để ký thác tâm sự. Sau nầy,
cụ tập trung một số thơ của mình và của các bạn đồng chí cùng cảnh ngộ in thành
một tuyển tập lấy tên là “Lao Trung Lãnh
vận” (Những vần thơ lạnh trong tù).
Cụ
Trần Văn Hương (1902-1982) và Hình bìa trước của tập thơ Lao Trung Lãnh Vận, Sài Gòn, in lần thứ ba, 1974.
Trong
tuyển tập thơ nầy, cụ có cho đăng bài thơ Cảm
Hoài vốn thực sự của cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác mà một người bạn thơ từng bị “tuyên
truyền”, nói là của “chí sĩ Ng. Đ.D.”. Sự thực là trong giai
đoạn đó, vì bộ máy tuyên truyền của chế độ ông Diệm đã đánh tráo tác giả nên có
rất nhiều người bị lầm, tưởng đó là thơ của ông Diệm thật. Cụ Trần Văn Hương và
một số bạn thơ cũng đã bị lừa như thế nên sau nầy, khi phát hiện ra bị lừa, đã
làm thơ “đã kích ông ta” (ông Diệm). Vì
vậy mà trong bài thơ “Chuyện Trớ Trêu” làm cuối năm 1961 để hoạ
lại bài thơ “Phúng Thế” của người bạn
“đả kích” ông Diệm từ năm trước, cụ Trần Văn Hương đã kết bài bằng hai chữ mà “muôn đời” sau sẽ dành cho nhà “chí sĩ” Ngô Đình Diệm:
Tấp tểnh đua đàn tranh “chí sĩ”
Muôn đời để mãi tiếng thằng công
“Thằng
công” là thằng gì? Cuối bài thơ, cụ Trần Văn Hương đã giải thích rằng chữ “thằng
công” vốn là diễn âm tiếng Việt của một chữ Pháp là “Un con (tiếng thô tục để mắng mấy thằng ngu-ngốc vô liêm sỉ)”
Dưới
đây là phần trích dẫn và phóng ảnh ba bài thơ “Cảm Hoài”, “Phúng Thế” và “Chuyện
Trớ Trêu” trong tác phẩm Lao Trung Lãnh Vận
của cụ Trần Văn Hương:
Bắt
đầu trích, với 3 chú thích của NK trong [ ]
●
[Trang 128]
“Một bữa kia, ông bạn Long Giang ĐỖ PHONG THUẦN
có đưa cho xem một bài thơ “Cảm Hoài”, nói là của “chí sĩ NG. Đ.D.”. Sau mới
biết đó là bài thơ của ông NGUYỄN SĨ GIÁC cũng gọi là NGUYỄN SĨ XÁC, hiện còn mạnh
giỏi. Hình như ông cũng đã chịu nhiều gian khổ vì chuyện nước nhà, nhơn lúc buồn
sanh cảm làm ra bài nầy:
CẢM HOÀI
Gươm đàn nửa gánh muốn sang sông
Hỏi bán: Thuyền không lái cũng không!
Xe muối nặng-nề thương vó ký,
Đường mây rộng-rãi tiếc chim hồng.
Vá trời lấp bể, người đâu vắng?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đồng!
Lần-lữa nắng mưa trong cuộc thế,
Cắm sào đợi nước thưở nào trong!
(Theo trong quyển “Chơi Chữ” của LÃNG NHÂN)
●
[Trang 130]
Một
số thi-hữu tưởng bài thơ nầy thật của “chí
sĩ” nọ, nên họa vận đả kích ông ta [ông Diệm]; tôi cũng thế…
Cũng
nhơn bài thơ trên, ông bạn LONG GIANG có gởi cho xem bài thơ “Phúng Thế” như
sau đây:
PHÚNG THẾ
Đường đời chen lấn, chợ đời đông.
Chác lợi mua danh mới phập phồng
Trách kẻ ham giàu bôi sử sách
Phụ người công khó giúp non song
Con buôn gặp mối đeo như đỉa,
Thằng mổng no cơm hót tợ nhồng
Ái quốc ưu dân, là quảng cáo
Ngân-hàng ngoại quốc dẫy đầy công (1)
LONG GIANG (Tháng chạp, 1961)
(1)
Công:
Un compte de dépôt, un compte en banque (số tiền gởi ở ngân
hàng). [Hàm ý rằng gia
đình nhà Ngô mở miệng thì nói thương nước thương dân, nhưng thực ra đó chỉ là
miệng lưởi “quảng cáo” vì chính nhà Ngô đã chuyển tiền ra nhiều trương mục của ngân
hàng nước ngoài rồi - NK]
●
[Trang 131]
Tôi
họa lại như thế nầy:
CHUYỆN TRỚ-TRÊU
Trớ-trêu mật ít lại ruồi đông!
Thầm nghĩ cười ai mũi sớm phồng!
Môi mỏng khoe lo dân với nước,
Mặt dày quên thẹn núi cùng song.
Thấy lâu xốn mắt, lòng lang sói
Nghe lắm rườm tai, giọng cưởng nhồng (1)
Tấp
tểnh đua đàn tranh “chí sĩ”
Muôn
đời để mãi tiếng thằng công (2)
(26-12-1961)
(1)
Trong
Nam dùng 2 tiếng: a) nhàm: nghĩa là nghe chán lắm, - b) nhờm: nghĩa là nghe thấy gớm ghê lắm. - Chử
“rườm”, ngoài Bắc, gồm hết hai ý ấy.
(2)
Un con
(tiếng thô tục để mắng mấy thằng ngu-ngốc vô liêm sỉ) – Ông bạn giả-ngộ
dùng một tiếng Pháp làm vần thơ, nên tôi cũng dùng một tiếng Pháp trùng-âm để
làm vần họa lại. [Nhấn mạnh của NK]
[Hết trích]
Hình: Ba trang trong tác phẩm Lao
Trung Lãnh Vận - Trang 128, bài “Cảm Hoài” của cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác;
trang 130, bài “Phúng Thế” của cụ Long Giang Đỗ Phong Thuần; và trang 131, bài họa “Chuyện Trớ Trêu” của cụ Trần Văn Hương, có cước chú số (2) để giải
thích hai chữ “Un con (tiếng thô tục để mắng mấy thằng ngu ngốc vô
liêm sĩ)”
Vậy thì cụ Nguyễn Sĩ Giác là ai
mà đám tàn dư Ngô Đình Diệm phải hèn hạ dùng thủ đoạn mạo nhận, “thấy người
sang bắt quàng làm họ” để đánh bóng cho lãnh tụ không thực tài, không thực danh
và không thực lực nên phải dựa hơi người khác!!!
Trích đoạn dưới đây của một người
học trò của cụ Nguyễn Sĩ Giác cho ta biết vài nét chấm phá về thân thế và sự
nghiệp của Cụ. Tư cách và hành hoạt của Cụ Nghè Giác như vậy nên đám tàn
dư nhà Ngô gian trá muốn cho lãnh tụ của mình “bắt quàng làm họ” thật phải!:
[Bắt đầu trích - nguyên văn, trừ
tấm hình ông Diệm được NK thêm vào để minh họa bài viết]
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác (1888-
197?) là giáo sư Hán Văn tại trường đại học Văn Khoa và Sư Phạm Sài gòn trong
thập niên 60.Tiên sinh cũng như giáo sư Nguyễn Huy Nhu ,Viện Đại Học Huế là
những vị tiến sĩ cuối cùng của nhà Nguyễn.
Nguyễn Sĩ Giác tiên sinh sinh
năm mậu tí (1888) quán xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông , là con trai
của cử nhân Nguyễn Duy Nhiếp, cháu nội của tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp, đỗ tiến sĩ
khoa canh tuất, niên hiệu Duy Tân thứ tư (1910) vào lúc 23 tuổi, đồng khoa với các phó bảng Hoàng Tăng Bí, Bùi Kỷ , trước Đinh Văn
Chấp một khoa (1913), trước Nguyễn Huy Nhu, Nguyễn Can Mộng hai khoa (1916).
Nguyễn Trọng Hợp là cháu bốn
đời của Nguyễn Công Thái (1684-1758), đỗ tiến sĩ khoa Ất Vị (1715), làm quan
đến chức Tể tướng. Như vậy, tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác cùng thi sĩ Tản Đà chung một
tổ tiên.
[Hết trích]
(Trích
từ “Nguyễn Sỹ Giác Thi Văn Tập”, Lời
Nói Đầu, của Nguyễn Thiên Thụ
Trái: Tác giả thật của bài thơ “Hoài Cảm”,
Cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác
(Hình: sontrung.blogspot.com) – Phải: “Tác giả” dỏm Ngô Đình Diệm
do nhóm tàn dư nhà Ngô gán ghép phịa ra. (Hình: LIFE)
*
* *
KẾT LUẬN
Để kết luận, xin chỉ nhấn mạnh một điều: Trong suốt 9 năm chấp chánh của ông
Ngô Đình Diệm và gia đình của ông, xã hội miền Nam gồm nhiều thành phần đã lấy
những chọn lựa khác nhau trước chế độ mới. Lẽ xuất xữ thì tùy từng người trước tình thế mới, nhưng
đặc biệt có một thành phần trí thức, dù trong hoàn cảnh nào cũng “gìn vàng giữ
ngọc” để bảo tồn nguyên khí quốc gia.
Đó là những vị như Tăng Xuân An, Hoàng văn Chí, Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Hoàng
Chương, Phùng Tất Đắc, Trần Văn Đỗ, Hồ Sỹ Khuê, Tạ Chương Phùng, Phan Huy Quát,
Doãn Quốc Sĩ, Phan Khắc Sữu, Nguyễn Tường Tam, Quách Tấn, Đoàn Thêm, Hoàng Trọng
Thược, Nguyễn Thế Truyền, Dương Tấn Tươi, Lương Trọng Tường, Trần Văn Văn, Đào Đăng
Vỹ, Nguyễn Vỹ, … mà nhân cách và khí tiết của họ thì dân chúng miền Nam lúc bấy
giờ, cũng như sau nầy, đều ngưỡng mộ.
Trong số họ, có người an phận trùm chăn nhìn cuộc hí trường lên voi xuống
chó, có người khinh bỉ bất hợp tác với gia đình kẻ cầm quyền. Nhưng cũng có người
lấy thái độ quyết liệt hơn, thẳng thắn lên án chế độ, thậm chí còn công khai chống
lại anh em nhà Ngô bằng võ lực bất chấp tù đày.
Cụ Trần văn Hương là một người trong số thành phần ưu tú nầy.
Nếu một người khí phách và cương trực như Cụ mà, từ năm 1961, đã xem ông
Ngô Đình Diệm là một “thằng ngu ngốc vô
liêm sĩ” thì còn gì đề nói về ông ta, và về chế độ “nhân vị” của gia đình
nhóm chóp bu quyền lực Ngô Đình nữa!!!
Bữu Châu
Đầu
năm 2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét