TỘI ÁC CỦA ĐẠO KI TÔ
Tác giả: Toshiaki Suzuki
Lược dịch: TP Thanh Tâm
Toshiaki Suzuki (ảnh: endangi.com)
Lời người
lược dịch: Cho đến nay đã có nhiều sách báo, tài liệu viết về “tội ác của đạo
Ki Tô”. Bài dưới đây của tác giả T.
Suzuki cũng viết về đề tài này, nên không có nhiều điều mới. Tuy nhiên, với nhận
thức về sự cần thiết nhắc đi nhắc lại những giai đoạn lịch sử đen tối để chúng
ta không quên, hầu làm bài học chiêm nghiệm cho hiện tại và tương lai. Đừng để
lịch sử đen tối ấy, dù dưới hình thứ khác, trở lại với nhân loại nói chung, với
đất nước Việt Nam nói riêng.
***
Khác với Nhật
Bản theo tôn giáo đa thần (nd: hai tín ngưỡng chính tại Nhật Bản là Phật Giáo Bắc
Tông gồm nhiều Pháp môn và Thần Đạo. Thần đạo, ngoài việc thờ phụng tôn vinh những
vị anh hùng quá khứ người Nhật, họ còn thờ thần sông, thần núi, thần ruộng…với
quan niệm rằng con người, thần và thiên nhiên là nhất thể, nên còn được gọi là tôn
giáo dân tộc, là tín ngưỡng thiên nhiên với 8 triệu vị thần) thì Âu Mỹ là những
nước theo đạo Ki Tô độc thần (Ca Tô Và Tin Lành) với lịch sử gây ra nhiều tội
ác không thể che dấu được. Trong đó, phải kể đến những tòa án tôn giáo vô cùng tàn
nhẫn. Giáo hội Ca Tô cho rằng họ là tổ
chức có uy quyền tuyệt đối đối với thế gian nên những tội ác của họ cũng được họ biện hộ cho
là hành vi chính đáng.
Với nhận thức của người bình thường ngày nay
thì giáo hội Ki Tô đã phạm tội lỗi nghiêm trọng với những hành vi tàn nhẫn cùng
cực. Trong lịch sử Nhật Bản không hề có một tổ chức mang danh nghĩa tôn giáo nào
làm những điều ác đức như giáo hội Ki Tô. Trong một chuỗi những tội ác họ đã gây
ra, phải kể đến hai tòa án tôn giáo là “tòa án tra khảo người dị giáo” và “tòa
án tra khảo ma nữ (mụ phù thủy)”.
Về tòa án dị giáo, khi bị cáo bị tòa án dị
giáo phán quyết là kẻ “không phải là tín đồ chính thống của Ki Tô” thì kẻ ấy phải
chịu hình phạt tử hình mà phương thức thông thường là thiêu sống trên giàn hỏa.
Vào thời trung cổ, vị Giáo Hoàng nổi tiếng
là Innocent III (1198-1216) tuyên bố rằng: “Hãy
dùng hình phạt thiêu đốt đối với những kẻ giải thích sai lệch về Thiên Chúa hoặc
những kẻ mang tư tưởng mâu thuẫn với lời dạy trong Kinh Thánh”.
Để tận diệt những kẻ “dị giáo”, giáo hội Ca
Tô cũng không từ bỏ việc lợi dụng Thập tự quân - là đội quân được thành lập với
mục đích chính là truy đuổi tín đồ đạo Hồi ra khỏi thánh địa Jerusalem-
tàn sát đẫm máu những tín đồ Hồi giáo tại nhiều nơi.
Giáo
hoàng Innocent III (ảnh: Thinklink.com) và
Giáo hoàng Gregory IX (ảnh: Wikipedia)
Năm 1231, GH Gregory IX đã ban hành thành lập
một cơ quan độc lập “tòa án tra khảo người dị giáo”. Trong ban tra khảo này có sự
tham gia của quan tra khảo đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của GH. Chế độ có những
qui định như: tòa án xử kín không công khai, khích lệ mật báo, có quyền được
tra tấn tàn nhẫn để lấy lời khai. Tòa án dị giáo đã sử dụng những dụng cụ và phương
pháp tra tấn đẫm máu tàn nhẫn để lấy được lời khai.
Một vài thí dụ về phương pháp tra tấn của
tòa án dị giáo như sau: Quan tra
khảo mặc một chiếc áo choàng có phủ đầu màu đen bao trùm toàn thân như một tử
thần. Để lấy lời khai của bị cáo, họ đã
sáng chế ra nhiều dụng cụ tra tấn làm cho kẻ bị
tra tấn đau đớn đến mức độ không thể chịu đựng được, như từ từ cắt cưa chân, tay
hoặc bẻ gãy hoặc kéo rút những khớp xương của những bộ phận trong cơ thể,
v.v...
Những
dụng cụ tra khảo này thường được khắc ghi hàng chữ như “Vinh Quang chỉ dành cho
Thiên Chúa”. Những dụng cụ
được sử dụng thông thường là:
-Bàn tra tấn: bị cáo bị trói đặt nằm lên bàn, sau đó tay chân bị
kéo dài ra cho đến khi các khớp xương bị rớt ra.
-Dụng cụ treo bị cáo lên không: sau khi trói hai tay bị cáo ra
phía sau, buộc
hai cánh tay bằng sợi dây và kéo lên cao cho đến khi cánh tay bị trật rớt ra.
-Tra tấn bằng cách chế
nước: một cái phểu được cắm vào cổ của bị cáo, sau đó đổ nước vào bụng cho đến
khi bụng phình chướng to lên.
-Dùng
mỡ lợn hoặc dầu bôi lên thân thể bị cáo, sau đó châm lửa thiêu đốt từ từ.
-Trong
thời kỳ Đức quốc xã ở thế kỷ 20 đã dùng lò thiêu sống tù nhân một cách tàn nhẫn
mà đã bị cả thế giới nguyền rủa. Nhưng thật ra cách thiêu đốt này đã được sử dụng
đầu tiên vào thế kỷ 12 của “tòa án tôn giáo” tại Đông Âu.
-
Đẩy bị cáo xuống
lỗ có rắn và chôn sống nếu không chịu khai báo.
-Một phương pháp tra
khảo tàn nhẫn khác là cho bị cáo nằm ngửa giơ bụng ra. Úp trên bụng một cái tô chụp
ngược, trong tô có nhiều chuột. Sau đó đốt lửa trên đáy tô để ngược làm tô nóng
lên từ từ. Chuột trong tô hỗn loạn cố gắng cắn bụng bị cáo để tìm cách thoát thân.
Nếu bị cáo vẫn không chịu thú tội thì cũng bị thiêu đốt sống.
- Lại có trường hợp
thiêu sống tập thể (được gọi là auto-da-fe).
Hình vẽ một
phòng tra khảo người dị giáo (ảnh:
SPIEGEL Online)
Trên
đây là một vài thí dụ về hình phạt dị giáo của đạo Ki Tô, diễn tả sự tàn
nhẫn khủng khiếp khiến mọi người đều kinh hãi. Một khi bị nghi là
kẻ dị giáo, thì người đó khó trốn thoát được. Nhiều nhân viên trong ban tra khảo
của tòa án dị giáo cải trang làm người thường dân để bí mật theo dõi những kẻ bị
tình nghi.
Những
hình phạt tra khảo không chỉ áp dụng cho những kẻ bị cho là không theo hoặc phản
đối Thiên Chúa, mà còn được áp dụng cho những tín đồ theo tôn giáo khác hoặc
dân tộc khác. Tòa án tôn giáo của Tây Ban Nha vào thế kỷ 15 được nổi danh với sự
tàn nhẫn đối với người Do Thái. Quốc vương Tây Ban Nha cho rằng người Do Thái là phần
tử làm ô nhiễm xã hội của đạo Ki Tô. Vì vậy, tòa án tôn giáo đã viện mọi lý do
như chính trị hoặc tội phạm cá nhân, để bắt xử nhiều người Do Thái sinh sống tại
Tây Ban Nha thời bấy giờ, mặc dù phần đông họ là những người Do Thái đã cải qua
đạo Ki Tô. Ước tình có khoảng 340 ngàn người là nạn nhân của tòa án dị giáo,
trong đó có khoảng 32 ngàn người bị thiêu sống.
Đối
với người Ca Tô, thì đạo Tin Lành là thế lực phát sinh từ vận động cải cách và
không tuân phục Ca Tô Vatican, khởi đầu từ khoảng đầu thế kỷ 16, cũng bị cho là
dị giáo. Tuy nhiên, vì số tín đồ theo Tin Lành gia tăng nhanh chóng nên tòa án
dị giáo của Ca Tô không còn đủ khả năng để khống chế. Đối lại, Tin Lành cũng
cho rằng chính tín đồ Ca Tô mới là kẻ dị giáo không thể dung nhận. Tuy cùng là dân
tộc da trắng, cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng chỉ vì khác tôn phái nên trở nên
thù địch không khoan nhượng lẫn nhau, dẫn đến cuộc chinh chiến sống còn đẫm
máu. Cuộc chiến giữa đạo Ca Tô và Tin Lành cho chúng ta liên tưởng đến cuộc chiến
tương tàn chưa thấy hồi kết giữa 2 giáo phái Shia và Sunni tại Irak và trung Đông,
tuy cùng chủng tộc, cùng tôn giáo đạo Hồi ngày nay.
Người
Nhật Bản khó có thể lý giải được cấu tạo của tinh thần quá khốc liệt về niềm
tin của những người theo tôn giáo độc thần. Tại Nhật Bản, có nhiều tôn phái
trong Phật giáo. Nhưng không tín đồ của tôn phái nào tự cho mình là chính thống,
còn những tôn phái khác là tà phái. Họ tôn trọng, không coi thường hoặc tàn ác đối
với những tôn phái khác. Trong lịch sử, chưa hề có sự kiện tranh chấp, hoặc những
tố tụng lẫn nhau giữa các giáo phái Phật giáo. Chính Francisco Xavier, nhà truyền đạo Ki Tô phương
Tây đầu tiên đến Nhật cũng tỏ ngạc nhiên về sự hòa hiệp, tương ái giữa những
giáo phái của đạo Phật.
Tiếp theo là câu chuyện về “săn lùng ma nữ
(mụ phù thủy)”. Đạo Ki Tô tin rằng có sự tồn tại của ma nữ giao tiếp với ác
linh. Đối tượng bị cho là ma nữ phần nhiều là những người đàn bà có tuổi với
khuôn mặt nhăn nheo trông dễ sợ.
Theo suy đoán cá nhân (tác giả Suzuki) thì
có lẽ phụ nữ Tây Âu có mắt to và mũi cao, nên khi về già thì da nhăn với khuôn
mặt co cóp dễ nhìn thấy sợ. Trong các tác phẩm vẽ về phù thủy của Nhật, thường
biểu hiện khuôn mặt của người phụ nữ Âu Mỹ da nhăn, má cóp với cặp mắt to và mũi
cao. Hình ảnh phụ nữ già Nhật Bản với mũi tẹt, mắt hí ít khi xuất hiện trong
truyện tranh diễn tả mụ phù thủy.
Ngoài
những đàn bà lớn tuổi, thì những phụ nữ được nhiều người chú ý như phụ nữ đẹp lôi cuốn, hoặc ngược lại những
phụ nữ có khuyết tật về thân thể hoặc tinh thần cũng dễ trở thành đối tượng bị
nghi là “ma nữ”. (Một khi có phụ nữ nào được bà hoặc mẹ của
mình chỉ cho loại thảo mộc có thể chữa bệnh thì phụ nữ đó cũng bị tình nghi là
ma nữ vì nghe theo lời dạy của ma nữ. Vì vậy trong y học Tây Âu, kinh nghiệm sử
dụng dược thảo hầu như bị loại trừ, không thể phát triển được cho đến ngày
nay).
Như trên, đạo Ki Tô chủ trương là có sự tồn
tại của ma nữ. Nếu tín đồ nào không tin vào điều này cũng bị cho là kẻ dị giáo.
Nguyên do của niềm tin về sự hiện hữu của ma
nữ xuất phát từ thái độ khinh miệt phái nữ của tôn giáo này.
-Vào thế kỷ thứ 2, St. Clement thuộc Alexandria tuyên bố
rằng “Tất cả phụ nữ phải biết hổ thẹn vì
mình là người đàn bà”.
-Vào thế kỷ thứ 6, triết gia Ki Tô giáo
Boethius cho rằng “Phụ nữ là nhà thờ được
xây trên ống cống thoát nước bẩn”.
-Vào thế kỷ thứ 10, giáo sĩ Odo thuộc tu viện
Cluny nói rằng “Ôm người phụ nữ không
khác nào ôm túi phân bón”.
-Thế kỷ thứ 13, St. Thomas Aquinas tuyên bố “Phụ nữ là tác phẩm thất bại của Thiên Chúa.
Trong quá trình sáng tạo vạn vật, không cần sáng tạo bất cứ sản phẩm khuyết tật
nào. Vì vậy, phụ nữ cũng là sản phẩm
khuyết tật đáng lẽ không nên sáng tạo”.
Tại
Hoa Kỳ, vào năm 1692, tại thuộc địa Salem của Massachutsetts, tòa án tra khảo ma
nữ đã được thực thi. Kết quả là có trên 150 phụ nữ bị giam tù, và 19 người bị
treo cổ tử hình. Đây là sự kiện tòa án phán xử ma nữ lớn nhất tại Hoa Kỳ. Nhưng
nếu so với châu Âu thì không đáng kể. Tại châu Âu, tòa án tra khảo ma nữ đã có từ
thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, trải qua 300 năm. Trong đó thế kỷ 16 và 17 là thời kỳ
thịnh hành nhất. Hầu hết những nạn nhân trong tòa án tra khảo ma nữ là phụ nữ,
nhưng cũng có trường hợp là đàn ông, tuy rằng rất hiếm.
Treo cổ ma nữ trong vụ án săn
lùng phù thủy tại Salem, bang Massachussett, Mỹ
(Ảnh: Salem
witch trial, pinterest.com)
Tuần
tự việc lùng bắt và tra khảo ma nữ thông thường như
sau: trước hết phụ nữ bị mật báo là
ma nữ sẽ bị bắt bỏ vào ngục. Sau đó đưa ra tòa án tra khảo: bị cáo bị cởi áo quần
và cạo sạch tất cả lông trên thân thể. Đạo Ki Tô tin rằng nếu là ma nữ thì sẽ
có dấu hiệu khác thường nào đó tại vùng xung quanh cơ quan sinh dục của người
phụ nữ. Ngoài ra họ còn tin rằng trong thân thể của ma nữ có bộ phận nào đó
không cảm nhận sự đau đớn. Vì vậy họ dùng kim đâm chích khắp nơi trên cơ thể. Nếu
có bộ phận nào không còn cảm giác đau đớn vì đã chịu nhiều lần đâm chích thì bị
cho đây là chứng cớ của ma nữ. Những
phụ nữ bị cho là ma nữ phải chịu
nhiều hình phạt tàn nhẫn. Họ bị trói chặt vào chiếc bàn dài, bị tra khảo bằng những
cách như kéo dài lưỡi ra, hoặc cột những cục nặng vào hai chân sau đó bắt nằm giữa
trên chiếc ghế có 3 nhánh được gọi là “chiếc ghế của ma nữ” trong nhiều giờ. Tất
cả những phương pháp tra khảo đều rất tàn nhẫn, đặc biệt đối với phụ nữ. Vì vậy
sau khi không chịu nổi hình phạt họ đành phải thú tội mình là “ma nữ”. Kết quả
cuối cùng là bị tử hình, mà hầu hết là hỏa thiêu. Ngoài ra, còn có những loại hình phạt khác như
tách hai chân ra cho đến chết, hoặc bỏ vào bồn nước sôi, v.v…Trên đây là những
phương thức tử hình tàn nhẫn mà ngày nay không thể nào hình dung ra được.
Một
bác sĩ làm việc trong trại ngục nhốt “ma nữ” đương thời đã để lại thổ lộ: Những
phụ nữ bị tình nghi là ma nữ bị nhốt vào phòng tối dơ bẩn và thường xuyên bị
lôi ra tra khảo...Với những hình thức tra tấn vô cùng tàn nhẫn, nhiều phụ nữ tuyệt
vọng muốn chạy trốn bằng cái chết, hoặc nếu không thì phải chấp nhận khai nhận mình là ma nữ, điều mà quan tra khảo mong muốn, mặc dù nó không là sự thật.
Trong cuốn sách có tựa đề “Nghiên Cứu về Ma Nữ (Demonology)” mà
tác giả là quốc vương Anh quốc James I có viết: Nếu không có những hình phạt
tra khảo tàn ác thì họ (bị cáo) không
khi nào chịu thú tội (vì nó không thật).
Trong
thời gian tra khảo, nếu quan tra khảo muốn thỏa mãn thú tính sinh lý, hắn có thể
sờ mó hoặc làm đau đớn bằng cách dùng kìm, kim hoặc thanh sắt nóng, hoặc bất cứ
dụng cụ nào kẹp, kéo, đâm vào nhũ
hoa, vào vùng kín của phụ nữ.
Hành vi tàn nhẫn đối với việc săn
lùng ma nữ không ngừng ở đó. Đối với con cái của nghi phạm “ma nữ” cũng bị giáo
hội đối xử tàn nhẫn. Con gái trên 9 tuổi rưỡi và con trai trên 10
tuổi rưỡi phải chịu hình phạt tra khảo để lấy lời khai tố cáo mẹ mình. Ngay cả lời
khai của trẻ em 2 tuổi cũng được cho là chứng cứ nếu có lời khai có lợi cho họ.
Vì hầu hết
những tài liệu về số “ma nữ” bị hành hình đã bị thất lạc (hoặc tiêu hủy) nên không có con số chính xác về người bị hành
hình. Tuy nhiên, theo ước tính của những nhà nghiên cứu ngày nay thì ít nhất có khoảng 9 triệu phụ nữ đã bị tử hình với tội
danh là “ma nữ” trong 2 thế kỷ 16 và 17.
Dưới
đây là một vài thông tin được
tìm thấy.
-Tại địa phương Würzburg Đức, số phụ nữ bị thiêu sống là khoảng
300 người trong vòng 1 năm kể từ năm 1616 đến 1617.
-Tại Mainz Đức, từ 1611 đến 1629, có trên 1000
phụ nữ bị tử hình.
-Tại
Strasbourg, từ 1615 đến1635, có khoảng 5000 “ma nữ” bị giết.
-Tại
Scotland thuộc Anh, từ 1590 đến1680 có trên 50 ngàn người bị hành hình.
-Ngay
tại thành phố xinh đẹp Como của Ý cũng đã thiêu sống khoảng 1000 người chỉ
trong một năm 1523.
Cả đạo
hai đạo Ki Tô (Ca Tô và Tin Lành) đều có chế độ tòa án tra khảo người di giáo
và tòa án truy lùng ma nữ. Vì vậy, cả hai tôn giáo Ca Tô và Tin Lành đều đã
nhúng vào tội ác ghê gớm.
Tổng
Thống thứ ba của Hoa Kỳ Thomas Jefferson, cũng là vị Tổng
Thống biên soạn Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ, đã viết về đạo Ki Tô vào năm 1785 như
sau:
“Để giáo lý của đạo Ki Tô được lan rộng, biết bao nhiêu triệu nam nữ và trẻ em vô tội đã phải hy sinh như bị thiêu đốt, tra khảo tàn nhẫn, hoặc bị tịch thu tài sản hoặc bị nhốt vào tù ngục. Tuy vậy chúng ta đã không tiến được dù một inch nào trong cố gắng thống nhất ý chí giữa chúng ta. Vậy thì chế độ đàn áp của tôn giáo đã mang lại cho xã hội điều gì?. Kết quả là để lại một thế giới mà một nửa là những kẻ ngu dốt và một nửa còn lại là những kẻ đạo đức giả. Thế rồi nhiều người trong thế giới này lại bày tỏ sự ủng hộ hành vi tàn ác sai lầm và phản đạo đức này”.
“Để giáo lý của đạo Ki Tô được lan rộng, biết bao nhiêu triệu nam nữ và trẻ em vô tội đã phải hy sinh như bị thiêu đốt, tra khảo tàn nhẫn, hoặc bị tịch thu tài sản hoặc bị nhốt vào tù ngục. Tuy vậy chúng ta đã không tiến được dù một inch nào trong cố gắng thống nhất ý chí giữa chúng ta. Vậy thì chế độ đàn áp của tôn giáo đã mang lại cho xã hội điều gì?. Kết quả là để lại một thế giới mà một nửa là những kẻ ngu dốt và một nửa còn lại là những kẻ đạo đức giả. Thế rồi nhiều người trong thế giới này lại bày tỏ sự ủng hộ hành vi tàn ác sai lầm và phản đạo đức này”.
Nhiều
nước Châu Âu đã dùng vũ lực tiến vào các nước Á Châu, Phi Châu và Trung Nam Mỹ.
Trong quá trình áp đặt chế độ thực dân đô hộ tại các nước này, luôn luôn có giáo
hội Ca Tô ẩn nấp phía sau để hỗ trợ chính sách thực dân hóa, và song hành với
sách lược Ca Tô hóa các nước này.
Hành vi ác đức của giáo hội Ca Tô vẫn tiếp tục
cho đến gần đây.Trong đệ nhị thế chiến, thay vì phản đối kế hoạch tàn sát người
Do Thái của Đức Quốc Xã, họ lại bày tỏ sự ủng hộ. Giáo Hoàng đương thời là Pius
XII đã ký một hiệp ước với Hitler, theo đó Vatican không phản đối hành vi tàn
sát người Do Thái của Đức Quốc Xã, thay vào đó, chính quyền Hitler cũng không được
truy hại giáo hội Ca Tô. Thật ra
thì giáo hội Ca Tô chấp nhận hành vi truy hại người Do Thái của Đức Quốc Xã,
cũng vì giáo hội Ca Tô đã từng có chủ trương đánh phá đạo Do Thái kể từ thế kỷ
thứ 4.
Để
làm dịu phần nào sự phẫn nộ và bất tín của thế giới đối với lịch sử tàn ác của
giáo hội Ca Tô, năm 2000 GH John Paul II lẩn đầu tiên nhân danh giáo hội Ca Tô chính
thức nhận và xin “Thiên Chúa” tha lỗi
về những lầm lỗi mà giáo hội đã làm trong quá khứ. Những lầm lỗi mà GH công khai nhận, thứ nhất là giáo
hội đã nhiều lần gởi những đội quân thập tự đến những vùng Hồi giáo dùng vũ lực
bắt họ cải qua đạo Ca Tô, nếu không sẽ bị giết không thương tiếc. Hành vi này được
lập đi lập lại trong suốt thế kỷ 11 và 12. Tiếp theo là tòa án tôn giáo tại Âu Châu, tra khảo
và tử hình vô số những
người bị cho là “kẻ dị
giáo” và “ma nữ”
được lập đi lập lại qua nhiều thế kỷ. Tội ác thứ ba là hành vi bách hại người
Do Thái.
Theo nhận xét của tôi (tác giả Suzuki) thì không ít người Nhật “ngây thơ, ngu ngơ và dễ tin người” tỏ sự đồng tình hoặc chí ít là tin vào sự hối cải của giáo hội Ca Tô khi Gíao Hoàng nhận lỗi lầm trong quá khứ. Nhưng với tôi thì đây là hành vi ngoại giao vi thiện-đạo đức giả. GH chỉ xin “Chúa” tha thứ cho hành vi lầm lỗi của giáo hội trong quá khứ chứ không hề xin lỗi ai hết. Đây là thái độ không thành thật mà giáo hội Ca Tô đã có tính toán chu đáo. Vì nếu họ xin lỗi nêu đích danh người Do Thái hoặc tín đồ Hồi giáo thì có thể sẽ bị những tổ chức liên hệ tố tụng, yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Ngày nay, Hoa kỳ là nước duy nhất được cho
là siêu cường. Chưa có nước nào có đủ sức đối kháng với Mỹ cả về kinh tế lẫn
quân sự. Nhưng để trở thành siêu cường, biết bao nhiều người (trên thế giới) đã
phải hy sinh cho quốc gia này. Không ai có thế đếm biết được. (nd: chủ nghĩa đế
quốc)
Cũng như vậy, để trở thành một tổ chức mang
tên “giáo hội Ca Tô” có qui mô toàn thế giới như ngày nay, thì không biết bao
nhiêu người đã bị tàn sát bởi tôn giáo này. (nd: chủ nghĩa bành trướng độc tôn)
Khi viết bài này, tôi đã tham khảo quyển
sách “Dark Side of Christian History”
của tác giả Helen Ellerbe. Tôi rất cảm phục sự dũng cảm của tác giả khi cho
phát hành quyển sách này tại Âu Châu, nơi mà đạo Ki Tô còn rất mạnh. Không khó tưởng tượng ra rằng nếu không bị giết
(ám sát) chăng nữa thì bà cũng phải chịu rất nhiều áp lực, hăm dọa từ nhiều
phía.
Tương
tự, khoảng 10 năm trước, nhà văn người Anh gốc Ấn Độ Salman Rushdie đã viết quyển tiểu thyết có nội dung trêu chọc
và phê phán đạo Hồi. Liền sau đó giáo hội Hồi giáo đã công khai kêu gọi người Hồi
giáo tìm cách ám sát ông ta. Để tránh nguy hiểm, Salman Rushdie đã phải ẩn trốn trong một thời gian
dài. Sự kiên này cho ta thấy rằng dù
là người không phải là tín đồ đạo Hồi, dù chỉ phê bình tôn giáo họ trong tiểu
thuyết của mình thì cũng bị tuyên cáo hình phạt tử hình.
Tôi
cũng đồng ý với chủ trương của Bà Helen Ellerbe cho rằng nhân tố chính dẫn đến sự phá hoại
môi trường hiện nay là do quá trình phá hoại của các tôn giáo độc thần.
Sau cùng, tôi xin trích một đoạn trong phần
cuối quyển sách của tác giả Helen Ellerbe: “Rõ ràng rằng đạo
Ki Tô đã có một lịch sử đen tối. Nhưng không vì vậy mà phủ nhận toàn bộ Ki Tô
giáo. Từ xa xưa cho mãi đến ngày nay, vẫn luôn có những tín đồ cam đảm chống đối
thái độ độc tài và tội ác của giáo hội Ki Tô chính thống. Họ đã lấy lòng từ và
bác ái làm nền tảng để vượt qua sợ hãi và sự trừng phạt. Thay vì chỉ biết vâng
phục với niềm tin mù quáng (cuồng tín), họ đã đề cao quyền lợi cá nhân và sự
hài hòa”. Số tín đồ này không phải ít”.
Ở đây tôi cũng xin thêm đôi chút như sau: “Nếu đạo Ki Tô chỉ làm những điều ác như kể ở
trên thì có lẽ đã không trở thành tôn giáo lớn như hôm nay.
Nhưng nhìn mặt ngược lại thì nếu
họ không làm cho loài người phải khủng hoảng, khiếp sợ thì đạo Ki Tô chắc chắn không
phát triển như ngày nay”.
Hãy
nhìn vào các nước ở Trung Nam Mỹ. Ngày nay hầu hết họ
theo đạo Ca Tô. Tổ tiên của họ đã bị binh sĩ là tín đồ
hoặc giáo sĩ Ca Tô giết hại rất nhiều không đếm được, và theo đó, văn hóa truyền thống của họ cũng
đã hoàn toàn bị tiêu hủy. Những người còn sống sót là những người phải chấp nhận
cải đạo thành tín đồ Ca Tô do bị cưỡng bách. Kết quả
là người dân các nước Nam Mỹ ngày nay hết lòng tín ngưỡng đạo Ca Tô, tôn giáo
đã tàn sát dã man tổ tiên và hủy diệt văn hóa của dân tộc họ.
Nói tóm lại, trong thế giới ngày nay, nếu
các tôn giáo độc thần (Ca Tô, Tin Lành và Hồi) còn lộng hành thì tuyệt đối nhân
loại không thể có hòa bình thật sự. Dù nếu các tôn giáo độc thần trên thế giới chịu
ngồi lại để bàn thảo về hòa bình chăng nữa thì cũng không thể mang lại hòa
bình. Chỉ khi nào những tôn giáo đa thần như Nhật Bản (nd: bất cứ tôn giáo nào
hoặc không tôn giáo mà không cuồng tín, không giáo điều, không độc thiện, không
phản quốc, đối đãi bình đẳng, bằng tình thương và sự hiểu biết) được phát triển
sâu rộng trên thế giới thì mới mong hòa bình đến với trái đất này.
Nguồn:
Endanji Blog: http://www.endanji.com/?p=177
(Tết nhớ quê-Bính Thân
2016)
Ghi chú: Dịch giả gửi trực tiếp cho HoangNamGiao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét