NHẬN ĐỊNH VỀ VĂN KIỆN
“TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á”
(Ecclesia In Asia)
Ngô
Triệu Lịch
LỜI NGỎ
PHẦN I - KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ
CON NGƯỜI DO THÁI
1. NỖI
NIỀM CỦA MỘT DÂN TỘC BỊ TRỊ
2. VỊ
CỨU TINH VÀ SỰ KHÁT KHAO TỰ DO ĐỘC LẬP CỦA NGƯỜI DO THÁI
3. GIÊSU
CÓ PHẢI LÀ MỘT MÊSIA KHÔNG?
4. KITÔ
GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ SỰ THÙ ĐỊCH CỦA ĐẾ QUỐC LA MÃ
5. CONSTANTINE
VÀ CÔNG GIÁO LA MÃ
PHẦN II - NHẬN ĐỊNH VỀ TÔNG HUẤN
GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á
1. CHÂU
Á: “KẾ HOẠCH” CỦA MỘT ẢO TƯỞNG
- Về một thực tại địa lý với
tên gọi “Châu Á”
- Giêsu là người Châu Á hay
người Tây Phương
* Giêsu lịch sử
* Giêsu thần học
2. CÔNG
GIÁO LA MÃ VÀ SỰ HY-LA HÓA KITÔ GIÁO NGUYÊN THỦY
- Từ Kitô giáo nguyên thủy đến
Công giáo La Mã
- Tôn giáo mới – Ý hệ mới
- Sự vận hành các phạm trù Hy
Lạp vào thần học Kitô giáo
3. VATICAN
VỚI KẾ HOẠCH CÔNG GIÁO HÓA CHÂU Á
- Châu Á – Lộ trình khó đến!
- Lý do thành công của Kitô
giáo tại Châu Au và Châu Mỹ
- Các thực tại văn hóa, tôn
giáo Châu Á đủ mạnh đánh bại tham vọng của Vatican
4.
VỀ MỘT MÓN QUÀ VATICAN MUỐN GỞI TẶNG CÁC DÂN TỘC CHÂU Á
5.
VẤN ĐỀ “HIỆP THÔNG” VÀ TÌNH HÌNH GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TẠI TRUNG HOA
- Con đường chính thức
- Con đường không chính thức hay con
đường chui!
- Con đường của súng đạn và
thuốc phiện
- “Tông tòa Phêrô” và vấn nạn “Giáo
hội tông truyền”
6.
QUỐC GIA VATICAN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ TẠI CHÂU Á
- Giáo hoàng: Nguyên thủ quốc
gia hay chức sắc tôn giáo
- Sự kích động đức tin phục vụ
tham vọng chính trị
7. VỀ MỘT VẤN ĐỀ “GÂY KHÓ CHỊU” CỦA TÍN LÝ KITÔ GIÁO,
NHƯNG KHÔNG PHẢI
CHO NGƯỜI CHÂU Á
- Sự
xung đột thần học giữa những người anh em Hồi giáo, Do Thái giáo với Kitô giáo
- “Sự khó chịu” (nếu có) của người Châu Á phi Kitô giáo
8. CUỘC CHIẾN TRANH “BẢN TÍNH-NGÔI VỊ”
- Arius “đảo chính Ngôi Hai”
- Nestorius “phẩu thuật Ngôi
Hai”
- Thái độ của người Châu Á phi
Kitô giáo trước cuộc chiến tranh “Bản Tính” – “Ngôi Vị”
9. CHÚA THÁNH THẦN, THÁNH LINH, THẦN KHÍ LÀ MỘT HAY
KHÁC?
- Dấu ấn của Tôtem giáo
- Chúa Thánh Thần – Sản phẩm
của Công đồng Nikêa
- Chúa Thánh Thần của Vatican
ngày nay
PHẦN III - HỘI NHẬP VĂN HÓA HAY “ĐỨC
TIN” THÁCH THỨC “VĂN HÓA”
1. HIỂU THẾ NÀO VỀ “VĂN HÓA ĐỨC TIN”
2. ĐỨC TIN THÁCH THỨC VĂN HÓA
3. NGUY CƠ LÀM “BỐC HƠI” ĐỨC TIN CÔNG GIÁO VÀ TUYÊN
NGÔN DOMINUS JESUS
THAY LỜI KẾT
LỜI NGỎ
“Ecclesia
in Asia” là một văn kiện được Giáo hoàng Gioan Phaolô II chính thức
ban hành nhân chuyến công du mục vụ tại Ấn Độ tháng 11 năm 1999. Đây là một văn
kiện quan trọng mang tính định hướng cho các hoạt động truyền giáo của Vatican
tại Châu Á trong thiên niên kỷ thứ ba.
Bản
dịch Việt ngữ với tên: “Tông huấn Giáo hội tại Châu Á” của Lm. Ant.
Nguyễn Ngọc Sơn được tải đi trên mạng Internet qua các website Công giáo như
Vietcatholic… Tông huấn được chia thành 7 chương, 51 đoạn có đánh số… Về mặt
tín lý, nội dung văn kiện Tông huấn Giáo hội tại Châu Á không có gì mới. Tông
huấn khẳng định một tín điều được nhắc đi nhắc lại trong hầu hết các văn kiện
đã được Vatican ban hành: “tính phổ quát và duy nhất trong chương trình
cứu độ của Giêsu”.Tuy nhiên độc giả quan tâm đến một góc độ khác. Trong bối
cảnh Châu Á, nơi mà tín đồ Kitô giáo chỉ là thiểu số. 3% là con số ước tính cho
tất cả các hệ phái Kitô giáo, riêng Công giáo La Mã chỉ chiếm khoảng 2% mà nếu
trừ Philippines ra chỉ còn khoảng 1% trên tổng số 3,3 tỷ người thuộc lục địa
này.
Đối
diện trước một thực tại Châu Á đa dạng phong phú về văn hóa, siêu việt về tôn
giáo, Châu Á đã đặt ra cho Vatican một “thách đố” (từ mà họ
thường dùng) cho mục tiêu “phúc âm hóa” trên lục địa này. Thế
nhưng, từ “thách đố”, Vatican đã biến thành “thách
thức” với các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á là điều cần lên án.
Người
đọc có thể thấy rõ ý đồ “Công giáo hóa” Châu Á bằng một công thức tạp nhạp theo
kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, với cách gán ghép tuỳ tiện, gượng ép
như: “Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo,
Bái Hỏa giáo (Zoroastrianism), đạo Giaina (Jainism), đạo Sikh và Thần đạo
(Shintoism). Các giá trị tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạyđang chờ được hoàn
thành trong đức Giêsu Kitô!?”(Số 6). Âm mưu biến giáo chủ các
tôn giáo Châu Á thành “Ngôn sứ” của Thiên Chúa, biến các thực
tại văn hóa, tôn giáo Châu Á thành phương tiện cứu độ trong cái gọi là sự “quan
phòng” của Chúa đã trở thành khôi hài, lố bịch. Sự thô thiển đến mức trân tráo
mà độc giả có thể thấy qua phát biểu: “Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo
đều là sự thật đang khai sáng mọi người… điều ấy không loại bỏ việc họ được kêu
gọi đến nhận lãnh đức tin và phép Rửa như Chúa hằng mong muốn
cho hết mọi người…” (Số 31). Với chiếc bẩy “đối thoại liên
tôn” đã lộ nguyên hình khi lợi dụng chiêu bài “đối thoại” để “phúc âm
hóa” Châu Á: “Đứng trên quan điểm Kitô giáo, đối thoại liên tôn giáo
không phải chỉ là một cách để giúp các bên biết nhau và làm giàu cho nhau.
Nhưng đó còn là một phần trong chính sứ mạng phúc âm hóa của
Giáo hội.” (Số 31). Thế nên, khi Tông huấn viết: “từ việc trao
đổi mang tính hàn lâm giữa các chuyên gia về các truyền thống tôn giáo hay giữa
các đại biểu của các truyền thống ấy, cho đến việc cùng nhau hoạt động cho sự
phát triển con người toàn diện và bảo vệ giá trị nhân bản, tôn giáo.” (Số
31) độc giả có thể nhận ra ngay đây chỉ là lối nói khoa trương bằng những ngôn
từ hoàn toàn sáo rỗng.
Ngoài
ra, công chúng Châu Á còn biết khoa thần học Kitô giáo với các bộ môn như: Kitô
học, Maria học, Giáo hội học v.v… đều dựa trên căn bản của “khoa
thần học về sự đoán mò” như có người châm biếm gọi là: “khoa
đoán mò học!” thuộc hệ thống thần học Kitô giáo… Ví dụ: họ đã đoán
mò “Chúa Thánh Thần biến đổi, tái tạo xã hội và văn hóa loài người…
gieo hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết lý của
họ …(Số 15). “Chúa Thánh Thần thống nhất mọi hạng người với
những phong tục tập quán khác nhau…”(Số 17). “Chúa Thánh Thần từng
hoạt động tại Châu Á!?…” (Số 18) v.v… Tệ hơn nữa, họ còn đoán mò cả
việc các danh nhân Châu Á như Lão Tử, Khổng Tử, Đức Phật… đều là “tay
sai” của Giêsu mà họ gọi bằng một từ rất kêu: “Ngôn sứ”. Giáo
thuyết của các vị này “đang chờ được hoàn thành trong đức Giêsu Kitô!?”(Số
6). Nhưng nếu hỏi vì sao họ biết và dám khẳng định những điều đó thì họ trả lời
rất ởm ờ: “Ý Chúa! … Chúa đã có mặt nơi các dân tộc ấy một cách nào đó
rồi… mà chỉ có Chúa biết!?” (Số 21). Không ai có thể biết được “Ý
Chúa” thế nào, kể cả Giáo hoàng!?. Vì thế người ta chỉ còn cách duy
nhất là “đoán mò ý Chúa”. Đoán mò là quyền của họ, nhưng nếu dùng
sự đoán mò của mình để hạ thấp, chà đạp giá trị các thực tại văn hóa Châu Á là
điều cần lên án.
Như
ta đã biết, Vatican vừa là một tôn giáo vừa là một quốc gia. Vì thế, những văn
bản được nhà nước Vatican chính thức ban hành thường được gọi là huấn dụ, hiến
chế, chỉ thị, tuyên ngôn, tông huấn, tông thư v.v… gọi chung là văn kiện, tất
cả đều mang tính pháp lý cần được thi hành triệt để. Cùng với Tuyên ngôn Dominus
Jesus, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là hai văn kiện mới nhất của Vatican
hiện nay, chúng mang tính định hướng cho một kế hoạch lâu dài của Vatican tại
Châu Á trong thiên niên kỷ thứ ba. Dù đã được ban hành từ cuối năm 1999, nhưng
đến nay Tông huấn Giáo hội tại Châu Á vẫn là một văn kiện mang tính thời sự được
nhiều nơi từ trong đến ngoài Giáo hội quan tâm. Lm.Ant. Nguyễn Ngọc Sơn, dịch
giả bản Tông huấn thú nhận: “Dù đã dịch nhiều văn kiện quan trọng của
Giáo hội… nhưng chưa thấy văn bản nào có tầm mức quan trọng và bao quát như
Tông huấn này. Có thể nói, đây là văn bản định hướng hoạt động cho các Giáo hội
địa phương tại Châu Á trong nhiều năm sắp tới…”
Người
viết tập sách này không lấy tư cách tín đồ của một tôn giáo nào, cũng
không đứng trên quan điểm của một nền văn hóa nào, chỉ với danh nghĩa cá nhân,
với tư cách của một người Châu Á để nói lên tiếng nói của mình với mong muốn
Vatican phải có cái nhìn trân trọng hơn, nghiêm túc hơn đối với các thực tại
văn hóa, tôn giáo Châu Á.
PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI DO THÁI
1. NỖI
NIỀM CỦA MỘT DÂN TỘC BỊ TRỊ
Dân
tộc Do Thái là một dân tộc lâu đời, họ cư ngụ trên miền đất cũng rất cổ xưa.
Nhưng Cộng Hòa Israel lại là một quốc gia non trẻ, chỉ mới được thành lập cách
nay nửa thế kỷ. Đất nước ấy lại nằm trên giao điểm của ba châu lục: Âu, Á, Phi
nên luôn là mục tiêu xâm lược của đế quốc… Quyển Kinh Thánh Do Thái giáo
đồng thời cũng là quyển lịch sử của dân tộc này đã ghi lại diễn biến lịch sử
của dân tộc từ khoảng năm 1800 trước công nguyên. Dưới sự lãnh đạo của Abraham,
một nhóm dân du mục từ Mesopotamia (Lưỡng Hà) đến định cư tại Canaan.
Cháu của Abraham là Jacob có 12 người con trai, bắt đầu từ đây hình thành 12
chi tộc, phát triển đông đúc thành dân Israel ngày nay.
Lịch
sử dân tộc Do Thái là lịch sử của một dân tộc bị lưu đày. Con cháu của Abraham
khi đến định cư tại vùng châu thổ sông Nile đã bị các Pharaông Ai Cập biến
thành nô lệ. Khoảng năm 1300 trước công nguyên, Môsê đã lãnh đạo dân nô lệ Do
Thái trốn khỏi Ai Cập, họ đã gặp phải nhiều bất trắc trên đường chạy trốn...
Chính trong hoàn cảnh này, Môsê đã thuyết phục họ phải tin tưởng vào vị thần
tối cao là Yahweh, chính vị thần này đã dẫn dắt dân Do Thái ra khỏi Ai Cập.
Môsê đại diện dân Do Thái lập một giao ước thỏa hiệp với thần Yahweh là chỉ tôn
thờ một mình Ngài… Khoảng năm 1250 trước công nguyên, sau khi Môsê mất, người
kế nghiệp ông là Joshua dẫn dắt dân Do Thái quay về lại Canaan. Tại đây xung
đột liên miên diễn ra giữa ba nhóm người: Người Canaan bản địa, người
Philistine từ đảo Crete đến và người Do Thái. Trong đó, người Philistine mạnh nhất
và họ làm chủ được Canaan. Mãi đến khi Đavid kế nghiệp Saul lãnh đạo người Do
Thái mới chiếm lại được vùng Canaan. Năm 63 trước công nguyên, đất nước lại bị
La Mã đặt ách đô hộ. Chính lịch sử không may mắn của họ đã biến họ thành một
dân tộc khao khát tự do, độc lập. Những cuộc đấu tranh với các thế lực ngoại
bang diễn ra suốt chiều dài lịch sử của dân tộc này. Người Do Thái lưu lạc khắp
thế giới. Đến năm 1947, họ trở về lập quốc theo nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.
Từ
ngày lập quốc đến nay, xuất phát từ tâm lý “sợ mất nước”, quá khứ lịch sử đen
tối luôn ám ảnh họ, người Do Thái ngày nay đã không hề nương tay với người
Palestine. Đối với người anh em Palestine, họ đã biến cuộc chiến tranh bảo vệ
đất nước thành cuộc chiến xâm lược tàn bạo, áp dụng luật “mắt đổi mắt, răng
đổi răng” của kinh thánh Do Thái giáo, đối đầu với khối Ả Rập, biến Trung
Đông thành lò thuốc súng. Cuộc chiến giữa Israel và người Palestine ngày nay đã
làm cho vùng Trung Đông thành một trong những điểm nóng nhất của thế giới…
2. VỊ CỨU TINH VÀ SỰ KHAO KHÁT
TỰ DO ĐỘC LẬP CỦA DÂN TỘC DO THÁI
Theo
truyền thống văn hóa Do Thái, danh xưng Mashiah, Messiah (phiên âm Việt Nam là
Mêsia) nhằm chỉ giới quý tộc Do Thái. Mashiah, (Messiah) nghĩa là “người
được xức dầu”. Đây là một nghi thức dùng trong việc phong vương cho vua
chúa… Người Do Thái xưa sống dưới ách thống trị của đế quốc La Mã, họ luôn mang
tâm trạng kích động, khao khát trong chờ một “Vị Cứu Tinh” cứu họ ra khỏi
xiềng xích nô lệ. Theo Cựu Ước, vị cứu tinh đó phải là một Mêsia, nghĩa là một
người thuộc dòng dõi qúy tộc đã được “xức dầu”. “Vị Cứu Tinh” hoặc “Cứu Thế” là
vị anh hùng cứu quốc, mang sứ mạng giải phóng dân tôc Do Thái ra khỏi
kiếp nô lệ ngoại bang.
3. GIÊSU CÓ PHẢI LÀ MỘT
MÊSIA KHÔNG?
Giêsu
ra đời trong bối cảnh dân Do Thái đang ngưỡng vọng về một anh hùng dân tộc, vị
cứu tinh có khả năng giải phóng đất nước ra khỏi cảnh lầm than, cơ cực dưới sự
thống trị của đế quốc La Mã. Kinh Thánh của Do Thái giáo mô tả sự xuất hiện của
một Đấng Cứu Thế mang màu sắc huyền bí, đầy quyền lực, được Thượng Đế sai
xuống nhằm thỏa mãn não trạng vốn rất khát khao mãnh liệt về nền độc lập, tự do
dân Do Thái….
Giới
qúy tộc Do thái bấy giờ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhưng đáng kể hơn
cả là hai nhóm Phariseô và Sađukê. Nhóm Phariseô bảo thủ, trung thành với luật
Môsê, đặt quyền lợi của giới quý tộc lên trên quyền lợi nhân dân, tách biệt
quần chúng nên gọi là “biệt phái”. Nhóm Sađukê thuộc dòng dõi “Thầy Cả” Sadoc
thời Đavid và Salomon.
Năm
30 tuổi, Giêsu bắt đầu sự nghiệp của mình bằng việc thuyết giảng về “Tình
Yêu” và “Nước Trời”. Cả hai đề tài này rất hấp dẫn,
tính thuyết phục cao, được quần chúng mà đại đa số là nhân dân lao động nghèo
bị áp bức hưởng ứng nồng nhiệt.“Tình yêu và sự công chính”, “Nước Trời và sự
sống đời đời” đã là một món ăn tinh thần hợp khẩu vị, Giêsu đưa ra
đúng lúc quần chúng đang “đói” sự no ấm, tự do bình đẳng so với giới quý tộc Do
Thái và bọn xâm lược La Mã… Đây là lý do vì sao dân chúng theo Giêsu ngày một
đông. Chính sự kiện này đã đẩy Giêsu vào thế đối đầu với Phariseô và Sađukê. Họ
đã thực sự lo ngại về ảnh hưởng của Giêsu đối với quần chúng. Hoạt động thuyết
giảng của Giêsu đã tạo nên tác động kép, hình thành phong trào cách mạng chống
đế quốc La Mã đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi kinh tế, chính trị mà giới quý
tộc Do Thái đang nắm giữ. Vì vậy, các nhóm Phariseô, Sađukê quyết tâm trừ khử
Giêsu và đó cũng chính là ý muốn của đế quốc La Mã…
Giữa
lúc Giêsu đang được lòng quần chúng, họ tôn vinh Giêsu là “Mêsia, Vua
dân Do Thái” cũng là lúc các nhóm đối lập Pharisesô, Sađukê lên kế
hoạch diệt trừ Giêsu. Dân chúng vì tin tưởng khả năng lãnh đạo của Giêsu, nên
đã tôn vinh ông là “Mêsia”, kỳ thực ông không phải là Mêsia vì ông chưa hề được
tấn phong qua nghi thức “xức dầu”, vả lại, các nhóm đối lập đang nghi ngờ về lý
lịch qúy tộc của ông (dòng dõi vua Đavít). Cuối cùng họ cũng đã đạt được mục
đích, bắt Giêsu nộp cho toàn quyền Philatô. Philatô đã hỏi ông : “Ông
có phải là Mêsia, vua dân Do Thái không?” Vì Giêsu chưa hề được “xức
dầu”,ông không thể nhận là Mêsia theo luật Do Thái, nên thay vì ông trả lời
thẳng câu hỏi của Philatô là: “phải” hoặc “không”, ông
lại trả lời chệch đi: “Thì cũng như ông nói đó thôi!” (Mc
15:2) Và để khỏi bị kết án phản loạn chống đế quốc La Mã, ông đã nói: “Nước
tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ
của tôi sẽ chiến đấu… nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga
18:36). Philatô nhận thấy với một người tự nhận mình là “vua” của
một “nước trời” nào đó, mà có lẽ chẳng ai như ông ta
ví “nước trời” của ông như “cây cải” lại to lớn như
cây cổ thụ, cành lá sum suê, chim trời có thể đến làm tổ trên cành to!? (Lc
13:18,19). Một con người như vậy chắc không ảnh hưởng gì đến an ninh của đế
quốc La Mã, có thể ông ta là người “đầu óc có vấn đề!…” như lời đồn đại: “Giêsu
bị mất trí vì bị quỷ vương Bêendêbun ám…” (Mc 3:21,22). Vì thế,
Philatô đã trả Giêsu về lại cho dân Do Thái để họ xử ông theo luật Do Thái. Ông
đã bị xử treo trên thập giá với một chiếc biển nhỏ ghi dòng chữ: “Giêsu
Nazaret vua dân Do Thái” hàm ý chế giễu về cái mác “Mêsia” tự
phong của ông.
Dựa
vào thánh kinh Do Thái giáo, tức sách mà Kitô giáo gọi là Cựu Ước.
Các tác giả đã “tiên tri” về “đấng cứu thế” xuất hiện giải phóng dân Do Thái.
Sau sự kiện Giêsu bị kết án tử hình trước Công nghị Do Thái bởi toàn quyền
Philatô, án lệnh đã được thực hiện tại núi Calvariô. Giêsu mất đi nhưng đất
nước Do Thái vẫn không có gì thay đổi về mặt chính trị, dân chúng vẫn bị áp
bức, bốc lột, Đế quốc Rôma và bọn quý tộc Do Thái thẳng tay đàn áp các phong
trào đấu tranh của quần chúng.
Dưới
sự cai trị hà khắc, độc đoán của toàn quyền Gesse Flori, năm 66, quần chúng tập
hợp lực lượng nổi lên đấu tranh, cuộc chiến khốc liệt bình địa Jêrusalem. Năm
70, Jêrusalem lại bị bao vây cô lập, hàng triệu người dân vô tội phải chết vì
nạn đói và dịch bệnh. Lại một lần nữa, dân Do Thái tập hợp lực lượng giao
chiến. Năm 112, hoàng đế Trajan mang quân sang dẹp. Thế là tia sáng hy vọng độc
lập vừa loé lên đã bị dập tắt bởi bàn tay thô bạo của đế quốc La Mã. Nhưng niềm
khát khao về “đấng cứu thế” của dân tộc Do Thái vẫn còn nguyên vẹn.
Năm
132, một người tự xưng là “đấng cứu thế” tên Bar Kabeba dấy binh đánh chiếm
Jêrusalem, tuyên bố nền độc lập cho đất nước Do Thái. Hoàng đế Hadrian
(117-138) cử đại binh đến chiếm lại thành, cuộc chiến kéo dài suốt ba năm làm
hàng triệu người phải bỏ mạng, Jêrusalem lại rơi vào tay đến quốc La Mã.
Ngay
từ thời Giêsu cũng không thiếu kẻ tự nhận mình là “đấng cứu thế”. Thời đó, để
chứng tỏ mình là “vị cứu tinh”, người này thường dùng thủ đoạn ma thuật phù
phép như chữa bịnh, trừ quỷ, làm phép lạ v.v… nhằm lôi kéo, thuyết phục quần
chúng. Hiện tượng nhiều người tự nhận mình là “đấng cứu thế” làm pháp thuật đã
đã được Maccô nhắc đến trong Mc 9:39.
Par Fabran Lagerkvist là nhà
văn lớn của Thụy Điển ở thế kỷ 20, với tác phẩm “Barabba” (1950) nổi
tiếng, đã mang về cho tác giả giải thưởng cao quý: Giải Nobel văn học. Với tác
phẩm này, Lagerkvist đã đặt Barabba làm “phản đề” của Giêsu. Theo truyền
thuyết, Giêsu bị bắt và bị kết án tử hình nhằm vào dịp lễ Vượt Qua của
người Do Thái. Vượt Qua là một lễ hội lớn theo truyền thống văn hóa Do Thái.
Vào dịp này, theo thông lệ, sẽ có một tử tù được tha. Philatô muốn nhân dịp này
để tha cho Giêsu, nhưng lại gặp sự phản đối của đám đông. Họ đòi giết Giêsu và
tha cho tên tử tù Barabba. Barabba là một con người nguy hiểm, tàn bạo, tính
hoài hoài nhưng lại là người trung thực. Khi hắn ta được Giêsu “thế mạng”, hắn
ung dung ra khỏi tù nhưng cũng đắn đo suy tư về con người vừa thế mạng cho hắn.
Vì vậy hắn bắt đầu tìm hiểu về con người đó. Lời đồn đại về Giêsu lúc chưa bị
bắt và nhất là sau khi bị chết treo trên thập giá. Nào là trời đất tối tăm, rồi
Giêsu biến mất khỏi huyệt mộ, thiên sứ đến giải cứu Giêsu từ sự chết sống lại
v.v… khiến Barabba bán tín bán nghi, hắn quyết định đi tìm hiểu sự thật về con
người này. Hắn đã tiếp cận với đám môn đồ của Giêsu, quan sát và thu thập chứng
cứ. Cuối cùng, cái gọi là “mầu nhiệm phục sinh” đã không đánh lừa được Barabba,
và hắn có thể chứng minh đó chỉ là một trò lừa bịp. Mặc dù tác phẩm “Barabba”
của Lagerkvist chỉ là một tác phẩm văn học, các nhân vật và sự kiện đều là hư
cấu, nhưng nó chuyển tải một nội dung lấy nhân bản làm chủ đạo. Trên đường
hướng tới chân thiện mỹ, gạn lọc cái thiện, thủ tiêu cái ác, chỉ có con người
với con người, không có một thế lực siêu nhiên nào can thiệp vào. Lagerkvist
phủ nhận chủ nghĩa giáo điều, kiên quyết gạt bỏ sự sùng bái đau khổ để tìm sự
cứu rỗi trong ảo tưởng. Tác phẩm “Barabba” đã mang về cho Lagerkvist giải
thưởng văn học Nobel là hoàn toàn xứng đáng.
Ngày
nay, dù Israel đã được độc lập, vững về chính trị, đặc biệt mạnh về quân sự.
Nhưng quá khứ lịch sử đen tối luôn ám ảnh họ, biến họ thành kẻ bạo ngược với
người Palestine. Đặc biệt họ vẫn đang trong đợi một “đấng cứu thế” giữa thời
đại nguyên tử, khả dĩ biến đất nước và con người Do Thái thành một đế quốc mới
của vùng Trung Đông ngày nay.
Tóm
lại, quyển kinh thánh của Do Thái giáo đồng thời cũng là quyển lịch sử của dân
tộc này, ghi lại tất cả các sự kiện mà phần lịch sử về các sự kiện “người
thật, việc thật” chỉ chiếm khoảng 10%, 90% còn lại là huyền sử với
những sự kiện hư hư ảo ảo…, đôi khi thậm phi lý… Vì thế, không lạ gì với những
anh hùng dân tộc (Mêsia, Vị Cứu Tinh, Đấng Cứu Thế) xuất hiện trong lịch sử Do
Thái thường có một lý lịch rất huyền bí, họ được sai đến để cứu dân Do Thái bởi
một vị Thượng Đế mà tính tình “mưa nắng thất thường”, lúc nhân
từ, lúc hung bạo, lúc phạt, lúc thưởng. Giêsu là một con người như vậy trong số
những người được “sai xuống”…
4.
KITÔ GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ SỰ THÙ ĐỊCH CỦA ĐẾ QUỐC LA MÃ.
Sau
khi Giêsu lịch sử qua đời, Kitô giáo nguyên thủy được hình thành ở Jêrusalem.
Khởi đầu cộng đồng này vẫn thuộc về Do Thái giáo, không tách biệt khỏi
Hội đường Do Thái vẫn tổ chức hội họp ở Hội đường và sinh hoạt lễ bái ở Đền thờ
Do Thái giáo. Nhà cầm quyền Rôma lúc đó xem những nhóm Kitô nguyên thuỷ thuộc
về Do Thái giáo, nhưng càng về sau, các nhóm này càng lớn mạnh, họ âm thầm tập
hợp lực lượng hoạt động, tính cộng đồng cao. Họ bắt đầu tách ra khỏi Do Thái
giáo. Chính lúc đó, La Mã mới để mắt đến họ. Khi thấy nguy cơ các nhóm Kitô
nguyên thủy có thể kết hợp với nhau thành một lực lượng cách mạng. Đế quốc La
Mã quyết định ra tay trừ khử, đó là vào thời Nêron (54-68).
Năm
64, Nhân một vụ hỏa hoạn thiêu rụi cả một khu phố, ngọn lửa cháy dữ dội suốt 6
ngày đêm. Nêron cho rằng các nhóm Kitô nguyên thủy là tác giả của thảm kịch và
quy trách nhiệm cho họ. Thế là một cuộc thảm sát đẫm máu mở đầu cho một giai
đoạn khủng bố các phần tử Kitô nguyên thủy rộng khắp trên toàn lãnh thổ đế quốc
La Mã. Nêron ra chiếu chỉ cấm mọi hoạt động của các nhóm Kitô nguyên thủy,
chiếu chỉ có hiệu lực mãi đến 250 năm sau.
Những
người kế nghiệp của Nêrôn tiếp tục thi hành lệnh cấm, nổi bật trong số này phải
kể đến Đômitian (81-96). Ông cho truy lùng tất cả những người tự xưng là “vị
cứu tinh”, “đấng cứu thế” hoặc “vua dân Do Thái”… Chính
những người này có thể trở thành ngòi nổ của cuộc đấu tranh giải phóng dân Do
Thái. Gioan, đệ tử thân tín của Giêsu cũng đã bị xử bỏ vào vạc dầu sôi vào thời
Đômitian.
Đến
thời Trajan (98-117), lệnh cấm vẫn hiệu lực, Trajan ban hành một chiếu chỉ mới
về việc cấm hoạt động của các nhóm Kitô nguyên thủy dựa trên luật pháp hiện
hành, chính sách của Trajan đối với đạo Kitô nguyên thủy mang tính pháp lý cao.
Những triều đại kế tiếp vẫn duy trì lệnh cấm hoạt động cho đến thời Constantine
(306-337) Kitô giáo mới được chính thức công nhận bằng chiếu chỉ Milan.
5.
CONSTANTINE VÀ CÔNG GIÁO LA MÃ
Trước
một thực tế các lực lượng Kitô nguyên thủy ngày càng lớn mạnh về số lượng, tính
đoàn kết, óc tổ chức trong các cộng đoàn, tinh thần kỷ luật biến họ thành một
lực lượng đáng kể. Constantine khôn khéo thừa nhận sự hợp pháp của họ, biến họ
thành một lực lượng hùng hậu thống nhất chung quanh ông, nhờ vậy ông chiến
thắng tất cả các thế lực đối nghịch…
Hội
nghị Nikêa được Constantine triệu tập đã mở ra cho Kitô giáo một chương mới,
thống nhất tất cả các nhóm Kitô nguyên thủy thành một tổ chức duy nhất là Kitô
giáo, hội nghị đưa ra một văn bản gọi là “Niềm tin tông đồ” tiền thân của “Kinh
Tin Kính” nội dung gồm một số tín điều như: Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Đồng
Trinh v.v… buộc tất cả các nhóm Kitô nguyên thủy phải chấp nhận, một số giáo
phái phản đối các tín điều trên như giáo phái Arius bị tiêu diệt… Năm 340, Kitô
giáo đổi tên thành Công giáo. Kể từ đấy, đạo mới Công giáo ngày
càng bành trướng, thống lĩnh khắp Âu Châu….
* * *
PHẦN II
NHẬN ĐỊNH VỀ TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á
1. CHÂU Á: “KẾ HOẠCH” CỦA MỘT ẢO TƯỞNG
Ngay trong phần nhập đề văn kiện “Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á” (Ecclesia in
Asia), Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Thật vậy, chính tại
Châu Á, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã mặc khải và thực hiện ý định cứu độ của
Ngài… Ngài sai con duy nhất của mình xuống, là Đức Giêsu Cứu Thế mang hình hài
người Châu Á!” (S1). Cái gọi là: kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa khi
chọn Châu Á để “khởi sự kế hoạch” cứu độ của mình, là một luận
cứ rất vụng về của những nhà hộ giáo ở Vatican. Cụm từ “ngay từ đầu” xác
định thời điểm Giêsu sinh ra đã có một thực tại địa lý với tên gọi “Châu
Á”.
Về
một thực tại địa lý với tên gọi “Châu Á”
Vào
đầu thiên niên kỷ thứ nhất, đế quốc Rôma đã đặt ách thống trị lên toàn bộ khu
vực bao quanh Địa Trung Hải, trong đó khoảng 2/3 thuộc Âu Châu ngày nay. Phạm
vi thống trị của Rôma rộng lớn như thế nên hoạt động của các nhóm Kitô nguyên
thủy dù ở đâu, Jêrusalem hay Rôma, cũng đều nằm trong bờ cõi đế quốc La Mã. Các
khái niệm địa lý mà ngày nay người ta gọi là “Châu Á, Châu Âu, Châu Phi…”
hoàn toàn không tồn tại vào thời La Mã thống trị vùng đất này. Vào thời đó, ý
niệm về thế giới rất hạn hẹp, vùng Địa Trung Hải được xem là trung tâm thế
giới, địa cầu là một mặt phẳng mà bầu trời là chiếc lồng bàn úp lên! Với
vũ trụ quan thô thiển của người La Mã thời đó không thể có hiểu biết về một
thực tại địa lý mà ngày nay người ta gọi là “Châu Á”. Địa
danh “Tiểu Á” cũng chỉ là một địa phận nhỏ nằm bên bờ Địa
Trung Hải, thuộc lãnh thổ đế quốc La Mã, không thể lầm lẫn với Châu Á ngày nay.
Do đó, khi nói: “Giêsu sinh ra tại Châu Á, là người Châu Á”, là
một kiểu gắn kết “xưa và nay” nhằm muốn chứng minh một điều không quan trọng và
không cần thiết về sự có mặt của một đạo “cứu rỗi” tại Châu Á. “Giêsu
là người Châu Á và vì vậy Công Giáo La Mã cũng là đạo của người Châu Á?…” Cái
logíc này mới nghe có vẻ hợp lý, nhưng có nhiều điều không ổn. Nó ngây ngô như
khi có người muốn cố gắng chứng minh tổ tiên của người da đỏ ở Bắc Mỹ là người
Mỹ. Họ lập luận rằng: Tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ ngày nay, nơi mà ngày xưa tổ
tiên của những người da đỏ đã sinh ra, do đó tổ tiên của dân da đỏ là người
Mỹ!?… Đành rằng có một lục địa cổ nằm giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, là
quê hương của thổ dân da đỏ. Nhưng lục địa đó chỉ mới được người Âu Châu biết
đến từ năm 1492, do Kha Luân Bố tìm ra. Miền đất này được người Âu Châu gọi là
“tân thế giới” về sau này ta gọi là Mỹ Châu. Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là một quốc
gia sinh sau đẻ muộn, chỉ mới được thành lập cách nay khoảng 300 năm. Quốc gia
non trẻ ấy lại có thể sản sinh ra tổ tiên của người dân da đỏ bản địa cách nay
mấy ngàn năm?… Đúng là chuyện tiếu lâm!
Giả
sử con người Giêsu lịch sử có muốn sử dụng “bản tinh Thiên Chúa” mà
nền thần học Kitô giáo đã gán cho ông, ít nhất, bằng “quyền năng Thiên
Chúa” của mình, ông phải phân định rạch ròi biên giới địa lý một châu
lục với tên gọi “Châu Á”, báo cho các tác giả cựu ước thời đó
biết, để họ có thể “tiên tri” trước về một vùng đất mang
tên “Châu Á”, nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh, trước khi ông được
sinh ra trên mảnh đất đó… Tiếc rằng điều này lại không xảy ra, thế nhưng tác
giả Tông huấn cứ viết: “Chúa Thánh Thần đã từng hoạt động tại Châu Á
vào thời các tổ phụ và ngôn sứ (?), rồi hoạt động mạnh hơn nữa vào
thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai (?), nay vẫn đang hoạt
động giữa các Kitô hữu Châu Á để củng cố việc làm chứng đức tin của họ giữa các
dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo của châu lục…” (S18)
Giêsu
là người Châu Á hay Tây Phương?
Ngày
nay khi ranh giới các châu lục Âu, Á, Phi… được phân định rõ ràng (sự phân định
này không hề có thời Đế quốc Rôma chiếm cứ vùng Địa Trung Hải). Quốc gia Do
Thái thuộc về Châu Á nên Giêsu là người Châu Á (mặc dù cái gọi là“Châu
Á” hoàn toàn không có ở thời điểm Giêsu được sinh ra). Nhưng đó là
Giêsu Nazaret, “vua dân Do Thái” bị kết án tử hình tại quê
hương của ông, chứ không phải Giêsu của Constantine được “khai sinh” trong lãnh
địa đế quốc Rôma. Do vậy, khi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á viết: “Thật
nghịch lý khi đại đa số người Châu Á có khuynh hướng coi Đức Giêsu, một người
sinh ra trên chính mảnh đất Châu Á, là một người Tây Phương hơn là Á
Châu” (S20) là một cách đánh lừa rất vụng về của tác giả bản tông
huấn. Chúng ta biết rằng, 97% dân chúng Châu Á không phải là người Kitô giáo
nên họ không biết Giêsu là ai, họ cũng chẳng quan tâm đến giáo chủ của đạo này
là người Tây Phương hay Châu Á. Nên nói: “đại đa số người Châu
Á…” chỉ là cách đánh động, gây sự chú ý của quần chúng Châu Á nhằm mục
đích muốn giới thiệu “Giêsu cũng là người Châu Á…” Đằng khác,
người ta đã cố tình nhầm lẫn “Giêsu lịch sử” và “Giêsu
thần học”.
-
Giêsu lịch sử
Đối
với Giêsu lịch sử, lý lịch trích ngang của ông thật đơn giản: Người Do Thái,
nguyên quán Nazaret, tín đồ Do Thái giáo (đã chịu phép cắt bì và phép rửa với
Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan theo giáo điều Do Thái giáo), sinh thời tuyên
truyền một giáo thuyết về “tình yêu” được nhiều người ngưỡng mộ. Theo truyền
thuyết, ông đã thực hiện nhiều “phép lạ” trong lúc thuyết giảng. Chuyện “làm
phép lạ” vào lúc những “đấng cứu thế” (Mêsia) nhiều như “sao trên trời” cũng là
chuyện bình thường trong bối cảnh xã hội Do Thái đang trông đợi “Vị Cứu Tinh”
đến giải phóng dân tộc ra khỏi xiềng xích nô lệ của đế quốc La Mã. Ngay khi
Giêsu đang hoạt động rao giảng, cũng không thiếu kẻ tự nhận mình là “đấng cứu
thế”. Thời đó, để chứng tỏ mình là “vị cứu tinh”, người này thường dùng thủ
đoạn ma thuật phù phép như chữa bịnh, trừ qủy, làm phép lạ v.v nhằm lôi kéo,
thuyết phục người khác. Hiện tượng nhiều người tự nhận mình là “đấng cứu thế”
làm pháp thuật đã được Maccô nhắc đến trong Mc 9:39. Vào những thế kỷ đầu công
nguyên đã có những tư tưởng chống lại truyền thuyết về Giêsu. Trong cuốn “Nói
sự thật” Celsô cho rằng Giêsu là con người bịp bợm, phép lạ của ông ta chỉ là
sự bịa đặt, người ta theo đạo chỉ vì sợ hỏa ngục… Linh mục Origen (158-225)
điều hành học viện Alexanđria đã phải làm công việc “hộ giáo” bằng cách viết
cuốn “chống lại Celsô”(178) phi bác các luận điểm của Celsô…
Giêsu
bị kết án tử hình năm 33 tuổi. Cho dù sau chết, Giêsu đã “hồi dương”, về trời
ngự bên hữu “Đức Chúa Cha”, thì cũng chẳng phải là chuyện lạ đối với nhiều dân
tộc Châu Á, như truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương “cởi ngựa sắt bay về
trời…” trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam.
-
Giêsu thần học
Ngược
lại, “Giêsu thần học” được thai nghén từ Phaolô, 300 năm sau, được Constantine
“cho phép sinh ra” và được St. Augustine “nuôi dưỡng khôn lớn”…
Phaolô
(còn gọi là Saolô) gốc Do Thái, quốc tịch La Mã, thuộc phái Pharaseô. Ông là
người hoạt động tích cực ngăn chặn các phong trào quần chúng chịu ảnh hưởng
Giêsu. Chính ông là người “giữ áo” cho đội thi hành án ném đá đối với Stephan,
người đệ tử đầu tiên của Giêsu bị kết án tử hình. Sau đó ông nhận thấy phong
trào quần chúng chống qúy tộc Do Thái và đế quốc Rôma ngày càng mạnh, tác động
sâu rộng trong toàn xã hội. Ông đã quyết định bỏ phái qúy tôc Pharisêo đứng về
phía quần chúng bị áp bức. Đó là bước ngoặc lớn nhất của chính đời ông. Truyền
thuyết kể rằng: Trên đường đi Đamas, cùng với một đội quân võ trang của Công
nghị Do Thái do Phaolô chỉ huy đi tiêu diệt các nhóm “phiến loạn”. Trên đường
đi, ông đã bị sét đánh té ngựa. Trong lúc mê man, ông đã nghe có tiếng: “Saolô,
sao ông bắt tôi?” – “ông là ai?” – “Tôi là Giêsu, người ông đang tìm bắt…” Khi
Phaolô tỉnh dậy, mở mắt ra không thấy gì cả. Từ đó ông từ bỏ giai cấp qúy tộc
của mình, trở thành “môn đồ gián tiếp” của Giêsu. Nhờ vỏ bọc “quốc tịch La Mã”
bên ngoài nên đã giúp Phaolô hoạt động khá thành công trong phạm vi đế quốc
Rôma… Khi Constantine thành lập Công giáo La Mã, tôn giáo này nghiễm nhiên trở
thành quốc giáo, Augustine là người làm hoàn thiện các học thuyết như: Chúa Ba
Ngôi, thuyết Tội Nguyên Tổ, thuyết Đức Mẹ Đồng Trinh, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội v.v… Những học thuyết này vốn là sản phẩm của công đồng Nikêa. Ngày nay,
thần học Kitô giáo nói chung, Công giáo La Mã nói riêng, đều lấy thần học của
Augustine là nền tảng căn bản. Tóm lại: Phaolô chỉ là đệ tử gián tiếp, chưa bao
giờ gặp mặt Giêsu, ông chỉ thấy Giêsu bằng ảo giác trong một tai nạn.
Constantine vốn là một “kẻ ngoại giáo” lại là cha đẻ của công đồng Nikêa, còn
Augustine, người được thừa nhận là một Giáo phụ nổi tiếng nhất của Giáo hội
Latinh cũng là người “vô đạo”, có một quá khứ ăn chơi trụy lạc, đến năm 387 ông
mới chịu phép Rửa để gia nhập giáo hội Rôma. Cả ba nhân vật này, từ Phaolô chỉ
thấy Giêsu bằng ảo giác mà chưa từng gặp mặt, đến kẻ “ngoại giáo” Constantine,
sau đó là người “tân tòng” Augustine đã xây dựng nên một “giáo hội”, biến Giêsu
lịch sử thành Giêsu thần học như ta biết ngày nay.
Cứ cho rằng:
“Giêsu lịch sử” là người Châu Á, vì Do Thái là một quốc gia Châu Á. Nhưng
“Giêsu thần học” lại đích thị là “người Tây Phương”, điều này hiển nhiên vì nó
được nhào nặn từ nền thần học Phương Tây bằng chính chất liệu triết học Phương
Tây. Có thể thấy được điều đó qua các dữ liệu lịch sử.
2. CÔNG GIÁO LA MÃ VÀ SỰ HY-LA HÓA KITÔ GIÁO NGUYÊN THỦY
Từ
Kitô giáo nguyên thủy đến Công giáo La Mã
Ngay từ buổi đầu
sơ khai, khi Công giáo La Mã chưa hình thành, Kitô giáo nguyên thủy bao gồm
nhiều nhóm nhỏ hoạt động độc lập, Kitô giáo nguyên thủy còn là di sản Do Thái
giáo, còn mang sắc thái văn hóa Do Thái. Đạo Kitô nguyên thủy hoạt động trong
lãnh thổ đế quốc Rô Ma, dù phải đối mặt với với văn hóa Hy Lạp cũng vẫn giữ
được sắc thái văn hóa Do Thái. Mãi 300 năm sau, hoàng đế La Mã lúc đó là
Constantine muốn tập hợp tất cả các giáo phái Kitô nguyên thủy thành một giáo
phái thống nhất. Mục đích của việc thống nhất các giáo phái Kitô nguyên thủy là
nhằm tạo sức mạnh về quân sự và chính trị của Constantine để bảo vệ đế quốc La
Mã dưới chiêu bài một tôn giáo. Vì thế, Constantine ra lệnh tiêu diệt tất cả
những giáo phái Kitô nguyên thủy nào muốn chống lại việc thống nhất này. Kể từ
đây, Kitô giáo nguyên thủy đã biến dạng thành Kitô giáo La Mã. Năm 340, một lần
nữa, Kitô giáo của Constantine lột xác để biến thành Công giáo La Mã, tôn giáo
mới này đã được công nhận là quốc giáo kể từ đó.
Tôn
giáo mới - Ý hệ mới
Việc xây dựng một ý hệ tôn
giáo mới được bắt đầu bằng việc sử dụng các ý niệm triết học Hy Lạp sẳn có để
giải thích các tín điều của tôn giáo mới, tức Công giáo, trên cái nền của đạo
Kitô nguyên thuỷ.
Buổi
đầu sơ khai chưa có thần học, nhưng đã bắt đầu xuất hiện những lý thuyết mới.
Một trong những lý thuyết mới đó là lý thuyết “Ba ngôi”. Lý thuyết này đã được
giải thích bằng các ý niệm Hy Lạp. Quan hệ biện chứng Ba Ngôi dựa trên ý niệm
“ngôi vị” của triết học Hy lạp là cái mà trong truyền thống văn hóa Do Thái
không hề có. Lớp trí thức (giáo phụ, tiến sĩ…) của giáo hội thời đó tận dụng
triệt để các ý niệm trong văn hóa Hy-La, biến các tín điều Kitô giáo thành một
hệ thống lý luận mang sắc thái Hy-La, dần loại trừ văn hóa Do Thái.
Sự
vận hành các phạm trù Hy Lạp vào Thần học Kitô giáo
Triết
học Hy Lạp vốn là nền tảng của triết học Tây phương. Triết học Tây phương lại
là một công cụ được giới trí thức giáo hội như các giáo phụ, tiến sĩ tận
dụng làm chất liệu để xây dựng ngôi nhà Thần học của họ. Vì vậy không thể tách
được thần học Kitô giáo ra khỏi các phạm trù Hy Lạp. Một số danh từ chỉ về
Thượng đế trong truyền thống văn hóa Do Thái như: El Shaddai, El’Elyôn, Yahvéh,
Elohim v.v… cũng đã được Hy Lạp hóa bằng các từ Theos, Deus, Dieu vốn là những
từ dùng để chỉ các vị thần trong thần thoại Hy Lạp như Zeus, Jupiter, Hercule …
Theos vốn là một danh hiệu chỉ vị thần tối cao trong văn hóa Hy Lạp thuộc hệ
thống tín ngưỡng đa thần. Aristote, Plato dùng khái niệm Theos để chỉ một
nguyên lý trừu tượng, siêu hình có tính chất phiếm thần tức “nguyên lý tối
thượng của vũ trụ”. Các nhà thần học lại vận dụng ý niệm Theos của Aristole để
lồng ghép một nội dung mới nhằm chỉ một Thiên Chúa có Ngôi Vị hình thành một hệ
thống mới mang tính độc thần…
Truyền
thống văn hóa Do Thái nói đến một Messiah (Mêsia) có nghĩa là “kẻ được
xức dầu”. Một nghi thức chỉ áp dụng cho giới quý tộc, nghi thức “xức
dầu” được thực hiện trong việc phong vương cho vua chúa Do Thái. Messiah còn có
nghĩa là “vị cứu tinh”, người anh hùng dân tộc có thể lãnh đạo nhân dân Do Thái
chống lại kẻ thù của họ. Quần chúng bị áp bức Do Thái tôn vinh Giêsu là Mêsia
chính là vì họ tin tưởng ông có thể lãnh đạo nhân dân đứng lên dành lại
độc lập từ tay đế quốc La Mã. Về sau, Mêsia đã biến tướng thành một vị “Chúa
Cứu Thế” để gán cho Giêsu. Khi Công giáo được hình thành tại Rôma, Mêsia vốn là
di sản văn hóa Do Thái cũng đã bị đồng hòa bởi văn hóa Hy-La. Từ “Messiah” biến
thành “Christus” (Latinh), “Christos” (Hy Lạp), phiên âm là “Kitô”. Kitô khi
được La-Hy hóa đã mang một ý nghĩa hoàn toàn khác với nghĩa gốc của từ Mêsia.
Ngày nay người ta gọi Giêsu là “Chúa Giêsu Kitô” chứ chẳng ai gọi “Chúa Giêsu
Mêsia”. Điều đó chứng tỏ rằng: Giêsu Nazaret, tức “Giêsu lịch sử”, chỉ là một
con người bình thường muốn làm “anh hùng dân tộc” tự nhận là Mêsia dù ông chưa
một lần được “xức dầu”. Hoàn toàn khác với “Chúa Giêsu Kitô”, sản phẩm của khoa
thần học của giáo hội Rôma, ngay cả việc chọn ngày 25/12 là ngày sinh của Giêsu
cũng đã không đúng, không ai có thể biết chính xác ngày sanh của Giêsu là ngày
nào, người ta chỉ biết rằng ngày 25/12 là ngày mà nhiều dân tộc ở Phương Tây
chọn làm ngày thờ thần Mặt trời theo truyền thống văn hóa, tín ngưỡng của người
Phương Tây.
Chính
vì vậy, khi tác giả tông huấn viết “Thật nghịch lý khi đại đa số người
Châu Á có khuynh hướng coi đức Giêsu, một người sinh ra trên chính mảnh đất
Châu Á, là một người Tây Phương hơn là Á Châu” (S20) là chẳng nghịch
lý chút nào…. Khuôn mặt của “Giêsu thần học” cũng được biến đổi dần theo
năm tháng… Nền thần học Kitô giáo ngày nay đã “cho phép” Giêsu biến thành “món
quà” mà giáo hội Công giáo La Mã là người độc quyền “ban tặng” cho mọi dân tộc,
đặc biệt là các dân tộc Châu Á!?… (xem chương bốn, Tông huấn Giáo Hội tại
Châu Á)
* * *
3.
VATICAN VỚI KẾ HOẠCH “CÔNG GIÁO HÓA” CHÂU Á
Châu Á - Lộ trình khó đến!
Trong
Phần nhập đề, đoạn số 1, với tiêu đề: “Kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa
tại Châu Á”, Tông huấn viết: “Nếu trong thiên niên kỷ thứ nhất
Kitô giáo, thánh giá đã được trồng trên đất Châu Âu, trong thiên niên kỷ
Kitô giáo thứ hai, thánh giá được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu, thì chúng
ta có thể cầu xin trong thiên niên kỷ Kitô giáo thứ ba, giáo hội sẽ gặt được một
mùa gặt lớn trên lục địa vừa rộng lớn vừa tràn trề sức sống này”.(S1). Độc
giả Châu Á cảm thấy khó hiểu tự hỏi: Sự thành công của Kitô giáo trên các lục
địa Châu Au, Châu Phi, Châu Mỹ trong hai thiên niên kỷ đầu thì đã rõ rồi! Nhưng
đối với Châu Á, cho đến tận hôm nay Kitô giáo vẫn chưa có một ảnh hưởng nào
đáng kể. “Mùa gặt bội thu” của Vatican trên lục địa này trong
thiên niên kỷ thứ ba cũng chỉ là mang tính “dự báo”. Nói một cách nôm na dễ
hiểu là Vatican đã hoàn toàn thất bại trong việc truyền giáo tại Châu Á trong
suốt hai thiên niên kỷ qua. Thế nhưng sự thất bại trên lại nằm trong “Kế
hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa” tại châu lục này! Hiểu thế nào đây? Độc
giả có thể kiên nhẫn đọc tiếp bản tông huấn để có thể thấy được “Kế
hoạch kỳ diệu” này ra sao.
Kitô
giáo đã có măt rất sớm ở Châu Á. Ngay từ năm 52 sau tây lịch, Kitô giáo nguyên
thủy đã có mặt tại miền nam Ấn Độ. Truyền thuyết cho rằng chính Tôma, môn đồ
của Giêsu đã mang đạo Kitô nguyên thuỷ vào Nam Ấn. Ở Trung Hoa, Kitô giáo được
biết đến từ thế kỷ thứ năm. Đến thế kỷ thứ bảy, đời nhà Đường (618-907) đã có
sự hoạt động của các thừa sai Kitô giáo. Năm 1532, Phanxicô Xavie cũng đã đến
truyền đạo ở Nhật Bản. Tại Việt Nam, theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương
Mục, năm 1553 đã có giáo sĩ Giatô tên I-Ne-Khu đến truyền đạo tại làng Ninh
Cường, Quần Anh, quận Nam Chân, làng Trà Lũ quận Giao Thủy, tỉnh Sơn Nam. Năm
1624 Linh mục Đắc Lộ cùng 6 thừa sai dòng Tên đến Cửa Hàn, Đà Nẵng truyền đạo.
Nếu
lấy năm 52 của thế kỷ thứ nhất làm mốc thời gian đầu tiên cho việc truyền đạo
của các môn đồ của Giêsu, thì Kitô giáo nguyên thủy có mặt tại Châu Á cùng lúc
với Châu Âu nếu không muốn nói là sớm hơn, vì khi Tôma mang tín ngưỡng này vào
Nam Ấn thì Phaolô còn là “kẻ ngoại giáo” đang bận “bách hại” đồng bào mình. Đến
khi Phaolô “trở lại làm kẻ tân tòng” và bắt đầu mang đạo Kitô nguyên thủy
truyền vào Rôma-HyLạp thì Tôma đã đến Ấn Độ từ lâu…. Tại Rôma, trong suốt 3 thế
kỷ đầu, Kitô giáo nguyên thủy bị các hoàng đế La Mã ngăn cấm. Chính các hoàng
đế La Mã đã ban hành lệnh cấm truyền đạo gắt gao trong thời kỳ này. Mãi đến
thời Constantine, Kitô giáo nguyên thủy được cải biên thành Công giáo La Mã.
Tóm
lại, từ cái nôi Do Thái, Kitô giáo nguyên thủy đã vượt ngàn dặm đến miền nam Ấn
Độ, vượt Địa Trung Hải thâm nhập vào thế giới Hi-La. Vậy vì sao Kitô giáo chỉ
có thể tồn tại ở Châu Âu mà không thể “bén rễ” được ở Châu Á để rồi hôm
nay, chính người cầm đầu của giáo hội Công Giáo La Mã đã phải nuối tiếc, hy
vọng: “Nếu trong thiên niên kỷ thứ nhất Kitô giáo, thánh giá đã được
trồng trên đất Châu Âu, trong thiên niên kỷ Kitô giáo thứ hai, thánh giá
được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu, thì chúng ta có thể cầu xin trong
thiên niên kỷ Kitô giáo thứ ba, giáo hội sẽ gặt được một mùa gặt lớn trên lục
địa vừa rộng lớn vừa tràn trề sức sống này”. (S1).
Lý
do thành công của Kitô giáo ở Châu Âu và Châu Mỹ
Có
hai lý do để Kitô giáo có thể cắm rễ tại Châu Âu.
Một
là: Tại Châu Âu, dù ban đầu Kitô gặp đôi chút khó khăn do sự ngăn cấm của đế
quốc La Mã, nhưng chẳng bao lâu sau, Kitô giáo chiếm giữ ngôi vị độc tôn trong
thế giới Hy-La vì một lẽ đơn giản: thế giới Hy-La thời đó chưa có một tôn giáo
nào ngoại trừ tín ngưỡng đa thần vốn rất tự do và lỏng lẻo, nên Kitô giáo không
có “đối thủ cạnh tranh”.
Hai
là: Khi đã vững vàng trên lãnh thổ đế quốc La Mã, Kitô giáo nguyên thủy đã biến
thể thành Công giáo La Mã, chính tôn giáo này đã thỏa hiệp với thế lực đế quốc
La Mã hình thành thế lực chính trị, quân sự hùng mạnh sẵn sàng thủ tiêu tất cả
mọi thế lực đối lập. Dần dần đế quốc La Mã suy yếu nhưng Công Giáo La Mã chẳng
những không suy yếu theo mà còn mà còn hùng mạnh hơn, Ưu thế sức mạnh về chính
trị và quân sự của giáo hội đã biến Châu Âu thành lục địa Kitô giáo. Đó là lý
do giải thích vì sao “…trong thiên niên kỷ thứ nhất của Kitô giáo, thánh
giá đã được trồng trên đất Âu Châu…”
Tại
Châu Mỹ, lịch sử còn ghi nhận các nhà truyền giáo luôn đồng hành với những thế
lực thực dân Phương Tây để “mở mang nước chúa”… “Sứ Điệp
Tin Mừng” theo chân thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đến Mỹ Châu trong
cuộc chinh phục những vùng đất mới. Họ đến Mỹ Châu với những thuận lợi khách
quan. Tại tân thế giới, đời sống của thổ dân da đỏ rất lạc hậu, không có tôn
giáo bản địa, chỉ có những tín ngưỡng bình dân thô sơ theo khuynh hướng đa
thần, Tôtem, bái vật… Thêm vào đó, ở Nam Mỹ, người ta cho xây nhiều nhà thờ có
đường hầm ăn thông với các trại nuôi thú dữ như cọp, beo, sư tử. Thổ dân Nam Mỹ
khi bị bắt vào nhà thờ chỉ có hai con đường chọn lựa: một là “chịu phép Rửa” để
làm con chiên ngoan, hai là đi xuống đường hầm đến các trại nuôi thú làm mồi
cho beo cọp… Với cách truyền đạo như thế, nếu trong thiên niên kỷ thứ hai,
thánh giá không được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu mới là điều lạ!
Các
thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á đủ mạnh đánh bại tham vọng của Vatican
Riêng
tại Châu Á, khi đặt chân đến lục địa này, những nhà truyền giáo, các thừa sai
Kitô giáo đã phải kinh ngạc trước một châu lục rộng lớn mênh mông với diện tích
rộng nhất địa cầu, quê hương của gần hai phần ba dân số trên toàn thế giới… là
cái nôi của nhiều nền văn minh, đời sống văn hóa dồi dào phong phú, tôn giáo
siêu việt. Đời sống tâm linh của các tín đồ trong các tôn giáo Châu Á làm các
thừa sai Kitô giáo phải ngạc nhiên. Phật giáo, Ấn giáo, Lão giáo trong nhiều
trường hợp đã trở thành sự “đam mê tò mò” của nhiều thừa sai… thêm vào
đó, tinh thần yêu nước của các dân tộc Châu Á nồng nàn, trước các
thế lực thực dân xâm lược, các dân tộc Châu Á luôn tỏ ra kiên cường, bất
khuất…… Lịch sử cho thấy Kitô giáo đã có mặt tại châu lục này rất sớm. Thế
nhưng mãi tận đến hôm nay, khi nhân loại bắt đầu bước vào những năm đầu của
thiên niên kỷ thứ ba, số tín đồ Kitô giáo (bao gồm nhiều hệ phái như Tin Lành,
Công Giáo v.v…) chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, khoảng 3,2%, riêng Công Giáo La Mã
chiếm 2,4% tập trung đông nhất tại Philippines. Khác với Châu Âu, Châu Phi và
Châu Mỹ, ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc Châu Á rất cao. Đúng
như nhận định của đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tác giả tông
huấn: “…Người Châu Á có một cảm thức bẩm sinh về tâm linh và có một nền
minh triết luân lý …” (S6). Tuy nhiên, tác giả tông huấn chỉ nhìn nhận
nó như một “điều kiện thuận lợi” để từ chính là cái “cốt
lõi” này, Vatican có thể “xây dựng một ý thức bản sắc Châu
Á…” đồng thời “tìm cách giới thiệu Tin Mừng sao cho vừa trung
thành với truyền thống của mình vừa không phải bội cái hồn Châu Á”. (S6).
Đứng
ở góc độ “nhân quyền”. Tự do tư tưởng, tự do tôn giáo là một trong những quyền
tự do căn bản mà bất kỳ một xã hội tiến bộ nào cũng phải thừa nhận. Việc Công
giáo La Mã muốn giới thiệu Kitô giáo cho công chúng Châu Á cũng là một sinh
hoạt tôn giáo bình thường. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Công
Giáo La Mã đã bộc lộ rõ ý đồ “Phúc Âm hóa”Châu Á bằng chính sách “thực
dân văn hóa”, cố tình hạ thấp các truyền thống văn hóa, xuyên tạc học thuyết
các tôn giáo của Châu Á là một hành động khiêu khích, khó chấp nhận, đáng lên
án. Vì vậy. Khi người cầm đầu giáo hội viết : “Giáo hội sẽ tìm cách
giới thiệu tin mừng sao cho vừa trung thành với truyền thống của mình vừa
không phản bội cái hồn Châu Á” buộc người Châu Á phải cảnh giác xem có
thực sự là Vatican “không phản bội cái hồn Châu Á” trong
việc “mở mang nước Chúa” của mình hay không? Đây là một vấn đề
đang được nhiều người quan tâm mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau.
Trở
lại vấn đề Vatican thất bại trước việc đưa Kitô giáo vào Châu Á. Con số 3,2%
tín đồ Kitô giáo vào những năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba đã không nói lên
điều gì ngoại trừ lời than thở của Giáo hoàng: “Chúng ta chẳng thể làm
gì hơn, mà chỉ biết sững sờ trước con số khổng lồ của dân cư Châu Á và trước
bức tranh ghép vô cùng phức tạp của biết bao nền văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng
và truyền thống làm nên phần cơ bản của lịch sử và di sản của gia đình nhân
loại” (S6). Và lời nuối tiếc, hy vọng: “chúng ta có thể cầu
xin trong thiên niên kỷ Kitô giáo thứ ba, giáo hội sẽ gặt được một mùa gặt lớn
trên lục địa vừa rộng lớn vừa tràn trề sức sống này”. (S1). Thánh giá
chưa thể cắm và không thể cắm trên mảnh đất Châu Á bao lâu là tuỳ vào thái độ
của Vatican đối với các dân tôc Châu Á. Lẽ ra điều này Vatican là người phải
hiểu rõ hơn ai hết.
4.
THÁI ĐỘ TRỊCH THƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THẤT BẠI CỦA VATICAN TẠI CHÂU Á
“Phúc âm hóa” Châu Á hay sự xuyên tạc, hạ thấp các thực tại tôn giáo, văn hóa
Châu Á
“Tông
huấn”, nghĩa là những văn bản mang tính chất “giáo huấn” đối với hàng
giáo phẩm và tín đồ thuộc giáo hội Công giáo La Mã, giáo huấn là trách nhiệm
của Giáo Hoàng trên cương vị “chăn dắt”, và bổn phận của “đàn chiên” là phải
nghe theo vô điều kiện. Giáo Hoàng muốn “chăn dắt” kiểu gì là quyền của ông,
người ngoài giáo hội không quan tâm vì đó là chuyện nội bộ của giáo hội Công
giáo La Mã… Nhưng nếu Giáo Hoàng lợi dụng sự giáo huấn tín đồ của mình để bôi
nhọ, xuyên tạc, nhằm hạ thấp các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á, đương nhiên
không thể tránh được những phản ứng. Rất tiếc điều này lại được tác giả bản
tông huấn Giáo hội tại Châu Á bộc lộ ngay trong phần nhập đề: “Vấn đề
cho Kitô giáo gặp gở các văn hóa và tôn giáo lâu đời của địa phương đã
trở nên cấp thiết. Đây là một thách đố lớn đặt ra cho việc phúc âm hóa, vì các
hệ thống tôn giáo ở đây như Phật giáo, Ấn Độ giáo đã mang tính chất cứu độ rõ
rệt. Thật vậy, quả là mầu nhiệm khi đấng cứu thế sinh ra tại Châu Á lại vẫn cứ
vô danh đối với các dân tộc trên lục địa này cho tới ngày hôm nay” (S2)
Ý
muốn “Công giáo hóa Châu Á” trong thiên niên kỷ thứ ba được người đứng đầu giáo
hội công khai thừa nhận: “giáo hội sẽ gặt được một mùa gặt lớn trên lục
địa vừa rộng lớn vừa tràn trề sức sống này” (S1).
Trong
tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba” (Tertio Millennio Adveniente), Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã vạch ra một lộ trình cho công cuộc “Tân phúc
âm hóa” trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, các Thượng Hội Đồng Giám Mục
mỗi châu lục được hình thành. Các Thượng Hội Đồng này, dưới sự lãnh đạo của
Vatican, có nhiệm vụ nghiên cứu các thực tại văn hóa, tôn giáo của từng châu
lục từ đó vạch ra kế hoạch thực hiện “Phúc âm hóa” cho phù
hợp. Trong Tông huấn giáo hội tại Châu Á, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
cũng đã nhắc lại một ý của Tông thư Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba: “vấn
đề cho Kitô giáo gặp gở các văn hóa và tôn giáo lâu đời của địa phương đã
trở nên cấp thiết. Đây là một thách đố lớn đặt ra cho việc phúc âm hóa, vì các
hệ thống tôn giáo ở đây như Phật giáo, Ấn Độ giáo đã mang tính chất cứu độ rõ
rệt”. Từ nhận định trên, Tông huấn đưa ra một luận cứ mang tính khẳng
định rất khôn khéo nhưng ẩn chứa bên trong một nội dung nhằm hạ thấp giá trị
của các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á: “Thật vậy, quả là mầu nhiệm
khi Đấng Cứu Thế sinh ra tại Châu Á lại vẫn cứ vô danh đối với các dân tộc trên
lục địa này cho tới ngày hôm nay”.
Người
đọc có cảm giác vấn đề Kitô giáo muốn gặp gỡ các thực tại văn hóa, tôn giáo
Châu Á không phải chỉ là một“thách đố” mà là “thách
thức” của Vaticăn trong ý đồ truyền giáo ở Châu Á. Để thấy rõ vấn đề
này, ta cần phân tích một số điểm thuộc nội dung trích dẫn trên.
* Hiểu
thế nào về “tính chất cứu độ” trong các tôn giáo Châu Á
Tông
huấn viết : “… hệ thống tôn giáo ở đây như Phật giáo, Ấn Độ giáo đã
mang tính chất cứu độ rõ rệt…”(S2). Hiểu thế nào về “tính
chất cứu độ rõ rệt” trong Ấn giáo, Phật giáo? Đứng ở góc độ độc giả,
có hai ý để người đọc có thể hiểu. Một là “cứu độ” được hiểu theo truyền thống
Phật giáo hoặc các tôn giáo Châu Á khác, hai là hiểu theo tín điều Kitô giáo.
Dù sao mặc lòng, không thể đánh đồng các khái niệm cứu độ của các tôn giáo để
quy kết vào sự cứu độ của Kitô giáo bằng phép quy nạp máy móc. bất chấp hệ quy
chiếu, mâu thuẩn giữa các hệ thống. Ví dụ quan niệm cứu độ của Kitô giáo và
Phật giáo là hoàn toàn trái ngược, không có điểm chung.
“Cứu
độ” trong truyền thống Phật giáo là “Tự độ”. Tự độ là tự mình cứu mình mà không
cần đến một thế lực siêu nhiên nào. Tự độ còn có nghĩa là Tự giác, Giác là
“Biết” (Prajna). Biết như thế nào? “Biết như là biết” hay nói theo thuật ngữ
Phật giáo là “Như Thực Tri Kiến” nghĩa là thấy rõ tường tận thực tướng
của vạn pháp.
“Cứu
độ” được hiểu theo tín điều Kitô giáo hoàn toàn khác. Như ta đã biết, các
truyền thống tín ngưỡng Á Châu đa phần là những hệ thống không có giáo điều,
khác với Kitô giáo, một tôn giáo hoàn toàn dựa vào giáo điều. Vì vậy, cứu độ
của Kitô giáo cũng không thể nào tách khỏi giáo điều. Giáo điều thường là những
giả định mang dấu ấn của tất định luận. Khởi nguyên học thuyết cứu độ của Kitô
giáo là “tội nguyên tổ”. Ađam và Eva, hai nhân vật mà giáo điều Kitô giáo buộc
tín đồ phải tin là tổ tiên của họ đã phạm một lỗi hết sức “vớ vẩn” là ăn
trái táo Chúa đã cấm. Hậu quả con cháu phải gách chịu “tội nguyên tổ”. Giêsu
xuống thế để cứu chuộc lại lỗi lầm do Ađam-Eva gây ra. Tín đồ Kitô giáo muốn
được xóa tội nguyên tổ phải chịu “phép rửa tội”. Mặc dù khoa thần học ngày nay
đã thần học hóa một cách có hệ thống các giả định huyền thoại thuộc di
sản văn hóa Do Thái, các truyền thuyết trong Cựu ước thời tiền Kitô giáo. Các ý
niệm thuộc phạm trù Do Thái được sắp xếp có hệ thống và được giải thích bằng
những ý niệm thần học thông qua công cụ triết học Hi Lạp. Các truyền thuyết,
huyền thoại của Sáng Thế Ký như Ađam, Eva, Eđen, con rắn, trái cấm v.v… thuộc
thời kỳ tiền Kitô giáo được khoác lên một bộ mặt mới mang tính kinh viện, bác
học hàn lâm… đại loại như: “Đức Giêsu đã thi hành ý muốn của Cha Ngài,
là hòa giải toàn thể nhân loại với Cha sau khi quan hệ giữa Đấng Tạo Hóa và thụ
tạo bị tội nguyên tổ cắt đứt” (S11) v.v…
Tất
nhiên với những tín điều như vậy ai muốn tin thì tin, muốn theo cứ theo, vì đó
là tự do tư tưởng, tự do tôn giáo. Riêng đối với người viết tập sách này nhận
thấy, là một người Việt Nam dù có tôn giáo hay không có tôn giáo, nếu muốn nhận
“tội tổ tông” thì “tội tổ tông” đó phải do chính ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ
“vấp phạm” chứ không phải sự vấp phạm của một cặp vợ chồng Do Thái Ađam-Eva vốn
rất xa lạ với truyền thống văn hóa dân tộc Việt. Linh mục Cao Phương Kỷ trong
cuốn “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo” viết: “Gọi là tội nguyên tổ cũng gọi
là tội tông truyền, vì mọi người đều thuộc dòng dõi của Ông Bà Nguyên
Tổ…” (tr119). nhận vơ như thế là thể hiện tinh thần vong bản, xem
thường tổ tiên dân tộc Việt. Không biết ông Cao Phương Kỷ là người Việt hay
người Do Thái?… Ngoài ra, cái gọi là “Ông Bà Nguyên Tổ…” của
Lm Cao Phương Kỷ thực sự chỉ mới được biết đến khoảng 6 ngàn năm trước, thời mà
cựu ước gọi là “tạo dựng”. Nếu so với “nguyên tổ Java”hoặc “nguyên
tổ Bắc Kinh” thì “Ông Bà Nguyên Tổ Do Thái” trẻ hơn
rất nhiều, vì người cổ Bắc Kinh và người cổ Java thuộc thời đồ đá cũ đã có
khoảng từ 500 ngàn năm trước. Đó là chưa nói đến phát hiện mới nhất về người cổ
Phi Châu mà số tuổi phải tính bằng “số triệu”!
* Quy nạp máy móc về cái gọi là “Ngôn Sứ” và “Đấng Cứu Độ duy nhất”
Vậy,
cứu độ trong Kitô giáo và Phật giáo là hoàn toàn khác nhau. Do đó, khi Tông
huấn đưa ra nhận xét : “… hệ thống tôn giáo ở đây như Phật giáo hay An Độ
giáo đã mang tính chất cứu độ rõ rệt…” thì “rõ rệt” theo
kiểu nào? Chắc chắn là theo kiểu Kitô giáo. Sở dĩ có sự khẳng định này là do hệ
luận được tác giả bản tông huấn đúc kết từ tiền đề trên: “Thật vậy, quả
là mầu nhiệm khi Đấng Cứu Thế sinh ra tại Châu Á lại vẫn cứ vô danh đối với các
dân tộc trên lục địa này cho tới ngày hôm nay”(S2).
Như
tôi đã trình bày ở phần trên. Tông huấn đưa ra một luận cứ khẳng định rất khôn
khéo nhằm đánh lừa độc giả: “Phật giáo, Ấn Độ giáo đã mang tính chất
cứu độ rõ rệt” để độc giả lầm tưởng Tông huấn ca ngợi “tính
cứu độ” của các tôn giáo ấy, kỳ thực nó ẩn chứa bên trong một nội dung
xuyên tạc học thuyết các tôn giáo, nhằm hạ thấp giá trị của các thực tại văn
hóa, tôn giáo Châu Á. Điều này thật rõ ràng qua câu: “…quả là mầu nhiệm
khi đấng cứu thế sinh ra tại Châu Á lại vẫn cứ vô danh đối với các dân tộc trên
lục địa này cho tới ngày hôm nay”. Vì có đọc tiếp bản tông huấn ta mới
thấy sự khẳng định “Đức Giêsu là đấng cứu độ duy nhất”, giáo
chủ của các tôn giáo khác tại Châu Á chỉ là “Ngôn sứ” của
Thiên Chúa. Ngay cả Linh mục Ant. Nguyễn Ngọc Sơn, người được Ban Thường Huấn
Giáo Phận phân công trình bày nội dung của văn bản “Tông Huấn giáo hội tại Châu
Á” đồng thời cũng là dịch giả Tông huấn cũng phải thừa nhận: “Đức Thánh
Cha đã tổng hợp tất cả các thực tại phong phú ấy cách kỳ diệu và đầy khôn
ngoan, rồi quy về Đức Giêsu Kitô như là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn thể loài
người và vũ trụ”. Thật vậy, ngay từ chương nhập đề của bản Tông huấn,
người ta đã gặp ngay sự khẳng định của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Đức
Kitô là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, ngài là Đấng Cứu
Chuộc duy nhất của thế giới, khác hẳn với các vị sáng lập các tôn giáo lớn
khác”. (S2).
Cái
gọi là “tính chất cứu độ” ở đây cũng chỉ là sự lập lại của
nhiều văn bản trước đó. Trong tập sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng viết: “Phật giáo là một tôn giáo cứu
độ…”. Các giá trị cứu độ của các tôn giáo Châu Á đã được Thiên Chúa
của Kitô giáo “lập trình” sẵn để các giáo chủ các tôn
giáo “sử dụng”. Các tôn giáo Châu Á dù có sự dị biệt đến đâu
đối với Kitô giáo cũng đều nằm trong “chiếc lưới quan phòng” của
Thiên Chúa trong chương trình cứu độ của Ngài. Chính vì thế mà “…Đấng
Cứu Thế sinh ra tại Châu Á lại vẫn cứ vô danh đối với các dân tộc trên lục địa
này…” (S2) mà không cần phải “hữu danh” như
các giáo chủ của các tôn giáo Châu Á khác, vì dù “hữu danh” nhưng
các giáo chủ khác chỉ là “ngôn sứ”, nói theo ngôn ngữ thời nay
là “phát ngôn viên” của Thiên Chúa Kitô giáo mà thôi! Còn nếu
nói theo ngôn ngữ của dân giang hồ, các tay anh chị là: “tay sai” hoặc “đàn
em”!… “Quả là mầu nhiệm” ngoài sức tưởng tượng khiến những người còn
chút lương tri phải thở dài ngao ngán!
Đến
đây, chúng ta đã hiểu vì sao Kitô giáo đã thất bại hoàn toàn trong hai thiên
niên kỷ đầu truyền giáo tại Châu Á. Nhưng sự thất bại đó lại được tác giả bản
tông huấn xem như một “kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa tại Châu Á”. Lương
tri người Châu Á có thể tra vấn: đó là “kế hoạch kỳ diệu của
Thiên Chúa” hay “kế hoạch kỳ cục của Vatican?” Câu
trả lời sẽ thuộc về vế sau. Thực vậy, cái gọi là “kế hoạch” của
Vatican đã thực sự trở thành một “kế hoạch âm mưu thủ tiêu” tất
cả mọi giá trị tôn giáo, văn hóa Châu Á vốn là một di sản qúy báu mà cả nhân
loại đang thừa hưởng.
Người Châu Á phi Kitô giáo
hiểu thế nào về cái gọi là “Đấng cứu độ duy nhất”
Đoạn số 10,
Tông huấn viết: “Đức Giêsu Kitô là Chúa thật và là người thật, là vị cứu
tinh duy nhất của mọi dân tộc. Điểm khác biệt giữa giáo hội với các cộng đồng
tôn giáo khác là niềm tin giáo hội đặt vào Đức Giêsu Kitô…”(S10). Ở
đây có ba vấn đề cần làm rõ.
Thứ
nhất: Nếu có ai đó tin rằng ông A, bà B… là “Thiên Chúa thật” thì
đó là quyền của họ, không ai cấm cản họ, họ có quyền đặt niềm tin vào người mà
họ cho là vị cứu tinh của chính mình. Nhưng nếu họ khẳng định ông A hoặc bà B
nào đó cũng chính là vị cứu tinh của tất cả mọi người và cố gắng thuyết phục để
mọi người phải tin theo, thì dù chúng ta không phải là bác sĩ chuyên khoa phân
tâm, nhưng chúng ta cũng có thể nghi ngờ người đó “đầu óc có vấn đế…”
Thứ
hai: Nếu người đó nói họ khác biệt với chúng ta bởi họ tin và chúng ta thì
không. Sự khác biệt này hiển nhiên không bàn cải, vì ảnh hưởng của vị cứu tinh
mà họ hy vọng trông cậy, nương nhờ vào, hoàn toàn không ảnh hưởng đến người
không tin, do vậy, nếu đầu óc họ bình thường, họ phải nghĩ: “Ngài chỉ
là vị cứu tinh duy nhất của những ai tin Ngài thôi!” chứ không phải là
vị cứu tinh của tất cả mọi người.
Thứ
ba: Nếu khẳng định đó là “điểm khác biệt” giữa giáo hội và các
cộng đồng tôn giáo khác thì luận điểm “Đức Giêsu Kitô là vị cứu tinh
duy nhất của mọi dân tộc” bị phá sản. Chính “điểm khác
biệt” này đã phủ định “tính phổ quát của chương trình
cứu độ” dẫn đến sự phá sản của luận điểm “vị cứu tinh duy
nhất”.
Không
phải Vatican không thấy được điều đó, ngược lại họ đã thấy và thấy rất rõ. Do
đó, Tông huấn viết: “Công bố Đức Giêsu là vị cứu tinh duy nhất có thể
sẽ tạo ra những khó khăn đặc biệt cho các nền văn hóa tại đây vì nhiều tôn giáo
Châu Á dạy rằng có những thần minh tự bộc lộ mình như đứng cứu độ trung
gian…” những “khó khăn đặc biệt” này đã được Lm.Ant
Nguyễn Ngọc Sơn, người được Ban Thường Huấn Giáo Phận phân công trình bày nội
dung văn kiện Tông huấn giáo hội tại Châu Á, đồng thời cũng là người dịch văn
kiện này, lưu ý nhấn mạnh về các phản ứng của cả hai phía: Kitô hữu và những
người theo những tôn giáo khác… “… vì đã nghe biết được những phản ứng
e ngại của nhiều tín hữu, trong đó có cả Giám mục qua hội nghị lần VII của Liên
Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Thái Lan vào tháng 1-2000 vừa qua. Họ e ngại
rằng, tại sao Đức Thánh Cha lại cứ nhấn mạnh: Đức Giêsu là đấng cứu độ duy
nhất, trong khi Châu Á có nhiều tôn giáo lâu đời và các tín đồ thuộc các tôn
giáo ấy không thể chấp nhận khẳng định này…”.
Đôc
giả có thể đọc với một thái độ vô tư, khách quan, không thiên vị, có thể “cảm
thông” và “chia sẻ” những “khó khăn đặc biệt” nêu trên. Các
nền văn hóa Châu Á nói chung, cũng không hẹp hòi gì để không tiếp nhận văn hóa
Kitô giáo. Trong khuynh hướng chung, hội nhập, giao lưu văn hóa mang tính toàn
cầu. Các nền văn hóa tự làm giàu cho nhau, chứ không riêng gì văn hóa Kitô
giáo. Trong quá trình hội nhập, bản sắc văn hóa của mỗi nền văn hóa phải tự tỏa
sáng, để các nền văn hóa khác chiêm ngưỡng, tiếp thu. Đến lượt mình, văn hóa đó
lại chiêm ngưỡng, tiếp thu các nền văn hóa khác…
Kitô
giáo có thể phô diễn văn hóa của mình để các nền văn hóa khác chiêm ngưỡng mà
không cần phải e ngại. Tuy nhiên, nếu biến hội nhập văn hóa thành xâm
lăng văn hóa, thực hiện ý đồ hạ thấp, chà đạp, đồng hóa, thậm chí thủ tiêu
các nền văn hóa khác là điều không thể chấp nhận được và chắc chắn phải nhận sự
phản kháng mạnh mẽ từ các nền văn hóa khác. Vatican muốn giới thiệu một nét văn
hóa mà họ cho là “nét độc đáo nhất” trong toàn bộ nền văn hóa
của mình là: “Đức Giêsu là đấng cứu độ duy nhất” chúng ta có
thể tiếp nhận, tìm hiểu, nghiên cứu và chắt lọc tính tuý (nếu có) của nét văn
hóa đó. Tuy nhiên, người ta cũng phải đề phòng, bảo vệ văn hóa của mình nếu
phát hiện được ý đồ xâm lăng văn hóa Kitô giáo do Vatican chủ trương và thực
hiện. Điều này đã quá rõ ràng, lộ liễu đến người vô tâm nhất khi đọc Tông huấn
cũng dễ dàng phát hiện. Đoạn số 2, Tông huấn viết: “Đức Kitô là trung
gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người Ngài là đấng cứu chuộc duy nhất của
thế giới, khác hẳn với các vị sáng lập các tôn giáo lớn khác… (S2).
Độc giả có thể hỏi: Đức Kitô khác với các vị sáng lập các tôn giáo Châu Á ở chỗ
nào?” Câu trả lời sặc mùi “đạo phiệt”: “…Các giá trị tôn giáo mà các
đạo ấy giảng dạy đang chờ được hoàn thành trong Đức Giêsu Kitô” (S6). Và
lối nói khoa trương: “Nơi Ngài, các giá trị chính hiệu của mọi truyền thống
tôn giáo và văn hóa… được hoàn thành và đạt đến mức sung mãn” (S14). “Không
cá nhân nào, không dân tộc nào, không văn hóa nào có thể dửng dưng trước tiếng
gọi của Đức Giêsu”, “Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong bản tính nhân loại của
ngài, các dân tộc Châu Á sẽ tìm đuợc câu trả lời cho những vấn nạn sâu xa nhất
của mình” (S14)
Sự
“tôn trọng” đồng nghĩa với việc “lãnh nhận phép Rửa” trong hành trình văn hóa
của Vatican tại Châu Á
Có
lẽ không cần thiết để định nghĩa: “tôn trọng là gì?” mà chỉ cần để ý xem
Vatican đã “tôn trọng như thế nào” đối với các tôn giáo Châu Á như Phật giáo,
Ấn giáo… Mặc dù giáo hội “tôn trọng” các truyền thống của họ, nhưng “…tôn
trọng không có nghĩa là không được phép công khai loan báo tin mừng một cách
nguyên vẹn. Nhất là trong bối cảnh có quá nhiền nền văn hóa và tôn giáo tại
Châu Á, cần phải nói rõ rằng: Không bao giờ vì tôn trọng và yêu qúy các
tôn giáo ấy, cũng chẳng bao giờ vì tính phức tạp của các vấn đề được đặt ra mà
yêu cầu giáo hội rút lui không công bố đức Giêsu kitô cho những người không
phải là Kitô hữu” (S20).
Sự
tôn trọng “quá quắt” của Vatican khiến nhiều người phải e dè, kinh sợ. Việc
loan báo Tin Mừng là quyền của họ, họ muốn loan báo kiểu gì tuỳ thích, công
chúng Châu Á ngày nay có đủ trình độ và sự khôn ngoan của mình để quyết định
lựa chọn việc có nghe hay không! Khi Giáo Hoàng nói, đối với các tôn giáo Châu
Á: Không bao giờ vì tôn trọng và yêu qúy các tôn giáo ấy, cũng
chẳng bao giờ vì tính phức tạp của các vấn đề được đặt ra mà yêu cầu giáo hội
rút lui không công bố Đức Giêsu Kitô cho những người không phải là Kitô hữu” buộc
chúng ta phải nghĩ rằng sự “tôn trọng và yêu quý” các tôn giáo
Châu Á chỉ là câu nói đầu môi chót lưỡi, lừa bịp trắng trợn, vì các thực tai
văn hóa, tôn giáo Á Châu dưới mắt của Vatican có giá trị gì đâu mà “tôn
trọng và yêu quý”? Nếu tôn trọng và yêu quý thật sự, không bao giờ câu
sau đây được viết ra: “Thật ra tín đồ trong các tôn giáo ấy vẫn có thể nhận
được ơn Chúa và được Đức Kitô cứu độ ngoài phương thế thông thường mà Ngài đã
lập ra, điều ấy không loại bỏ việc họ được kêu gọi đến nhận lãnh đức tin và
phép Rửa như chúa hằng muốn cho hết mọi người” (S31)
Ta
hãy đọc tiếp bản tông huấn để thấy Vatican kính trọng các tôn giáo khác ở Châu
Á ra sao: “Con đường giáo hội đến với các tôn giáo khác là con đường
kính trọng thực sự… Một sự kính trọng mang hai mặt: một đằng tôn trọng con
người trong hành trình tim kiếm những giải đáp cho các vấn nạn sâu xa nhất của
cuộc sống, đằng khác tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con người.
Thật vậy, các nghị phụ Thượng Hội Đồng sẵn sàng nhìn nhận hoạt động của Chúa
Thánh Thần nơi các xã hội, văn hóa và tôn giáo Á Châu, qua đó Chúa Cha chuẩn bị
tâm hồn của các dân tộc Châu Á đón nhận sự sống sung mãn nơi Đức Kitô (S20).
Đấy!
Tôn trọng và yêu qúy của Vatican đối với tín đồ trong các tôn giáo Châu Á là
kêu gọi họ “đến để lãnh nhận đức tin và chịu phép Rửa!”. Kính
trọng bằng cách cố “nhét” Chúa Thánh Thần vào đời sống văn hóa
và tôn giáo của các dân tộc Châu Á một cách thô thiển, kém tế nhị…
Người
Châu Á khó chấp nhận kiểu “Kính trọng” của Vatican.
Trong
chương đầu tiên của Tông huấn, Giáo Hoàng nêu bối cảnh đặc thù Châu Á với
các thực tế tôn giáo, văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và những vấn đề thời
sự khác như: toàn cầu hóa, đô thị hóa, du lịch, bùng nổ dân số, chủ nghĩa khủng
bố, dịch vu, mại dâm, truyền thông đại chúng v.v… từ đó hướng người đọc đến một
vấn đề mấu chốt: Giới thiệu “Đấng Cứu Thế là người Châu Á, là Đấng cứu
độ duy nhất cho toàn thể nhân loại…” và không dấu tham vọng: “sẽ
gặt được một mùa gặt lớn trên lục địa vừa bao la vừa tràn trề sức sống này”.
Châu
Á đúng là một châu lục rộng lớn nhất thế giới với dân số khoảng hai phần
ba dân số toàn cầu … Châu Á lại là chiếc nôi của nhiều tôn giáo lớn, xứ
sở của những nền văn minh rực rỡ, văn hóa phong phú. Đúng như nhận định của
Giáo hoàng “Nét đánh động nhất của lục địa này là sự đa dạng của các
dân tộc, những người thừa hưởng những nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống xa
xưa. Chúng ta chẳng thể làm gì hơn, mà chỉ biết sững sờ trước con số khổng lồ
của dân cư Châu Á và bức tranh ghép vô cùng phức tạp của biết bao nền văn hóa,
ngôn ngữ, tín ngưỡng và truyền thống, làm nên phần cơ bản của lịch sử và di sản
của gia đình nhân loại.” (S6).
Đúng
vậy, không còn gì phải nghi ngờ về cái di sản đồ sộ của các dân tộc Châu Á mà
nhân loại toàn thế giới đang thừa hưởng. Và cũng rất đúng với nhận định: “Người
dân Châu Á rất tự hào về các giá trị tôn giáo và văn hóa của mình, quý trọng sự
thinh lặng và chiêm niệm, sống giản dị, hòa hợp, từ bỏ, bất bạo động, làm việc
chăm chỉ, có kỷ luật, sống thanh đạm, ham học hỏi và truy tầm triết lý. Người
Châu Á rất qúy trọng các giá trị như tôn trọng sự sống, từ bi với mọi loài, gần
gũi thiên nhiên, hiếu thảo với cha mẹ, người lớn và tổ tiên, ý thức rất mạnh về
cộng đoàn.” (S6). Trước một thực tế về các nền văn hóa đa dạng, phong
phú như thế của các dân tộc Châu Á. Người đứng đầu giáo hội công giáo ở Vatican
cũng đành phải “…chẳng thể làm gì hơn, mà chỉ biết sững sờ trước con số
khổng lồ của dân cư Châu Á và bức tranh ghép vô cùng phức tạp của biết bao nền
văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng và truyền thống, làm nên phần cơ bản của lịch sử
và di sản của gia đình nhân loại.”(S6).
Thế
nhưng, đối với Vatican, dù “chẳng thể làm gì hơn!”, nhưng
quyết không bó tay. Âu đó cũng là bản chất cố hữu mà lịch sử đã phải chứng kiến
trong suốt hai thiên niên kỷ tồn tại và phát triển của Vatican. Có đọc tiếp bản
tông huấn, chúng ta mới thấy được sự quyết tâm không bó tay của Vatican: “Á
Châu cũng là chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới, như Do Thái giáo,
Kitô giáo, Hồi giáo, An giáo, đó là nơi khai sinh của nhiều truyền thống tâm
linh khác như Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Bái Hỏa giáo (Zoroastrianism),
đạo Giaina (Jainism), đạo Sikh và Thần đạo (Shintoism). Chưa kể hàng triệu
người theo các tôn giáo truyền thống hay bộ tộc, có nghi thức quy củ và giáo lý
chính thức ở những mức độ khác nhau. Giáo hội hết sức kính trọng các truyền
thống này và luôn tìm cách đối thoại chân thành với các tín đồ ấy. Các giá trị
tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ được hoàn thành trong đức Giêsu
Kitô” (S6)
Có
thực sự là “Giáo hội hết sức kính trọng các truyền thống này và luôn
tìm cách đối thoại chân thành với các tín đồ ấy”không? Câu trả lời là
“không”. Vì nếu thực sự có kính trọng và muốn đối thoại chân thành, không bao
giờ lại đưa ra một xác quyết hàm hồ, chủ quan, cố tình hạ thấp giá trị của các
tôn giáo khác để đề cao Kitô giáo bằng câu: “Các giá trị tôn giáo mà các đạo
ấy giảng dạy đang chờ được hoàn thành trong đức Giêsu Kitô”.
Từ
thực tế trên, người Châu Á có quyền nghi ngờ về những lời tâng bốc dối trá đại
loại như: “các tôn giáo Châu Á đã chứng tỏ mình có nhiều sinh lực, khả
năng canh tân…” (S6). “Người Châu Á có một cảm thức bẩm sinh
về tâm linh, có một nền minh triết luân lý”(S6) và càng nghi ngờ hơn
về “thiện chí” muốn “Xây dựng một ý thức ngày càng đậm
đà bản sắc Châu Á… khám phá và khẳng định bản sắc Châu Á không phải bằng cách
đối chất và đối chọi nhau…”(S6). Sự nghi ngờ trên là hoàn toàn có cơ sở và
dần bộc lộ rõ trong suốt bản tông huấn…
Tóm
lại: Phương pháp luận của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là nêu lên các thực tại
văn hóa, tôn giáo của các dân tộc Châu Á một cách chung chung mà không giải
thích, rồi đặt các phạm trù nêu trên vào một giả định “quan phòng của
Chúa Thánh Thần”, từ đó thực hiện quy nạp vào “Đức Giêsu, Đấng
Cứu Độ duy nhất” cho toàn thể nhân loại. Với phương pháp luận như vậy,
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cố tình hạ thấp, chà đạp giá trị của các nền văn
hóa, các tôn giáo lớn Châu Á, đồng thời đề cao học thuyết Kitô giáo, khôn khéo
ngụy biện, đánh lừa để độc giả lầm tưởng Giáo Hoàng tôn trọng, ca ngợi các sắc
thái văn hóa Châu Á như: “Thượng Hội Đồng cũng là một dịp cho người ta
nhận ra các truyền thống văn minh xa xưa, các triết lý và sự minh triết đã uốn
đúc Á Châu nên như ngày hôm nay…”(S4) “Người Châu Á có một cảm thức
bẩm sinh về tâm linh và có một nền minh triết về luân lý…” (S6) v.v…
Hoạt
động xã hội có điều kiện của Vatican tại Châu Á
Vatican
với sự giàu có của mình, đôi khi tỏ ra hào phóng trong các chương trình từ
thiện ở các lĩnh vực hoạt động xã hội, y tế, giáo dục… đối tượng phục vụ
đương nhiên là những quốc gia nghèo, lạc hậu, kém phát triển ở Phi Châu, Á
Châu. “Hầu hết ở nước nào của Châu Á cũng có đông đảo người bản xứ, mà
một số trong họ đang sống trong điều kiện kinh tế thấp nhất. Thượng Hội Đồng
một lần nữa ghi nhận rằng các dân bản xứ hay bộ tộc ấy lại thường cảm thấy bị
cuốn hút bởi con người Giêsu Kitô và giáo hội Ngài. Đây chính là cánh đồng bao
la cho giáo hội tham gia hoạt động giáo dục và y tế…”(S34) Đọc
đoạn trên, ta thấy Vatican không hề cho ai điều gì nếu không có lợi cho “nước
Chúa” (hay nước Vatican?) về vấn đề này, không cần phải tìm tư liệu chứng minh,
mà chỉ cần đọc tiếp tông huấn, ta thấy, vẫn những giọng điệu cũ: “Muốn
thế, phải tỏ lòng kính trọng sâu xa đối với tôn giáo truyền thống của họ và các
giá trị của các tôn giáo ấy” (S34) từ đó người nhận ân huệ
và những lời tâng bốc của Vatican cũng phải trả giá tương xứng. “cũng
cần phải giúp họ biết tự giúp lấy mình, để họ có thể làm việc mà cải thiện tình
cảnh của họ, trở thành các người phúc âm hóa chính nền văn hóa và xã hội của
mình” (S34). Ngay đến trẻ em Châu Á, nạn nhân của sự bóc lột, bạo
hành, lạm dụng sức lao động, lạm dụng tình dục, hoặc rơi vào tình trạng nghèo
đói mà Tông huấn gọi là “do những chương trình phát triển quốc gia quy
hoạch sai…” Nếu có sự giúp đỡ nào đó cho các đối tượng này từ phía
Vatican cũng là điều tốt, cần khuyến khích. Nhưng Vatican đã không làm điều đó
một cách vô vụ lợi, mà làm có điều kiện: “Giáo hội phải làm hết sức
mình để khắc phục những tệ đoan ấy, để hành động thay mặt những người bị bóc
lột nhiều nhất và để tìm cách hướng dẫn những con người nhỏ bé ấy đến với tình
yêu của Đức Giêsu, vì nước trời là của họ (S34). Lợi dụng sự khó khăn
của các dân tộc Châu Á, giúp đỡ họ để lôi kéo họ về với Vatican, bất chấp tôn
giáo truyền thống của họ. Vậy mà gọi là “tỏ lòng kính trọng sâu xa đối
với tôn giáo truyền thống của họ và các giá trị của các tôn giáo của họ” được
sao?
5. VỀ MỘT MÓN QÙA VATICAN MUỐN GỞI TẶNG CÁC DÂN TỘC CHÂU Á
“Đức
Giêsu cứu tinh: Một món qùa gởi tặng Châu Á”. Đó là tiêu đề của chương hai, Tông huấn giáo hội tại Châu Á.
Đoạn số 10, Tông huấn viết : “Niềm tin của Giáo hội vào Đức Giêsu là
một quà tặng vừa nhận được vừa để chia sẻ, đó chính là món quà lớn nhất mà Giáo
hội có thể tặng cho Châu Á… Giáo hội không thể cất giữ hay độc quyền chiếm giữ
sự mới mẻ và phong phú ấy mà họ đã nhận được từ tay Chúa nhân lành để thông
chia cho toàn thể nhân loại…” (S10).
Đa
số người Châu Á ngày nay không hiểu về giáo lý cao siêu của Vatican ra sao?
Cũng không biết món quà quý báu nhất mà Vatican đã hào phóng sẵn sàng tặng hết
cho người Châu Á giá trị thực sự như thế nào? Nhưng người Châu Á có thể dõi
theo lịch sử, ngược về quá khứ để tìm hiểu đôi điều về “món quà” mà Vatican
định tặng cho quần chúng Châu Á.
“Giêsu
cứu tinh” chính là “món quà” mà
Vatican gởi tặng Châu Á! Điều ngạc nhiên là “món quà” này lại
bị người Do Thái quyết liệt từ chối. Chúng ta biết rằng Giêsu đúng là vị cứu
tinh (Mêsia) mà người Do Thái đã kỳ vọng nhiều nơi ông với hy vọng ông có thể
lãnh đạo nhân dân Do Thái dành lại độc lập từ tay đế quốc La Mã. Ông đúng
là “món quà” mà Thượng Đế gởi tặng nhân dân Do Thái. Thế nhưng
Đế quốc La Mã đã cướp đi “món quà” ấy bằng bản án tử
hình “đóng đinh thập giá”dành cho Giêsu. Nhiều nhà sử học cho
rằng, chính đế quốc La Mã đã chủ trương giết Giêsu vì ảnh hưởng của Giêsu đối
với quần chúng Do Thái bị áp bức là rất lớn. Hình thức xử án treo trên thập giá
đối với tử tù là của luật pháp đế quốc La Mã. Theo luật Do Thái, người bị kết
án tử hình phải chịu ném đá cho đến chết, chỉ có luật pháp La Mã mới xử đóng
đinh tội nhân trên thập giá…
Theo
Kinh Thánh, Giêsu bị dân Do Thái bắt nộp cho Philatô, họ yêu cầu phải xử tử
Giêsu. Philatô muốn tha cho Giêsu nhưng bị dân chúng phản đối. Vì thế ông đã
quyết định “rửa tay”, trả Giêsu về cho dân Do Thái để họ xử Giêsu theo luật Do
Thái. Nếu sự thật là vậy thì Giêsu phải bị ném đá chứ không phải bị xử đóng
đinh thập giá. Nhiều nhà sử học cho rằng: Đã có một cuộc “chỉnh lý” Kinh Thánh
sau khi Constantine thành lập giáo hội Công giáo nhằm đáp ứng mục tiêu chính
trị của Đế quốc La Mã.
Giêsu
mất đi nhưng ảnh hưởng của ông vẫn còn đối với nhân dân Do Thái. Các nhóm Kitô
nguyên thủy vẫn còn và họ hoạt động bí mật tại Jêrusalem. Ba thế kỷ sau, “món
quà Giêsu cứu tinh” một lần nữa lại bị hoàng đế La Mã Constantine cướp
đi từ tay các nhóm Kitô nguyên thủy. Constantine thành lập Giáo hội Công giáo
La Mã và muốn thống nhất tất cả các hệ phái Kitô nguyên thủy thành một lực
lượng tập hợp dưới ngọn cờ “Giêsu”. Để phục vụ tham vọng đế quốc của mình
dưới chiêu bài tôn giáo, Giáo hội Rôma đã cho “chỉnh lý” lại toàn bộ Kinh
Thánh. Đế quốc La Mã đã khôn ngoan lèo lái vụ án Giêsu sang hướng kết án dân Do
Thái tội “Giết Chúa”. Hành động “rửa tay” của Philatô cho thấy đế quốc La Mã vô
can… La Mã thời đó đã quá thành công trong việc cùng lúc đạt được hai mục tiêu:
Một là thống nhất tất cả các nhóm Kitô nguyên thủy thành Công giáo La Mã, một
công cụ vô cùng đắc lực hoạt động trong guồng máy cai trị của đế quốc La Mã.
Hai là khống chế hiệu qủa các lực lượng cách mạng Do Thái. “Giết
Chúa” là một cái cớ để La Mã có thể thẳng tay đàn áp các phong trào
đấu tranh dành độc lập của nhân dân Do Thái…
Jêrusalem
là đất thánh, nhưng lại nằm trong tay bọn “giết Chúa”. Vì thế,
những cuộc hành hương về đất thánh của Giáo hội Rôma luôn là những cuộc hành
quân của những binh đoàn võ trang hùng mạnh. “Binh thánh giá”, hay “thập tự
quân” chính là tên gọi của lực lượng quân sự này. Ngày 27/11/1095, Giáo hoàng
Urban II triệu tập công đồng Clermont kêu gọi “tái chiếm Jêrusalem, cứu
đất thánh…”. Giáo hoàng Urban II hứa “ban ơn toàn xá” cho
tất cả những ai tình nguyện gia nhập đoàn quân viễn chinh của Giáo hội. Những
tín đồ cuồng tín gia nhập rất đông vì họ cho rằng, lỡ có chết trận thì cũng bảo
đảm được“phần rỗi linh hồn” do đã được Giáo hoàng ban ơn toàn xá!?…
Điều trớ trêu là những người tham gia thánh chiến vì ham mê“ơn toàn
xá” của Giáo hoàng mà gia nhập chứ họ chưa hề qua một lớp huấn luyện
quân sự nào. Đây rõ ràng là một đoàn quân ô hợp, vô kỷ luật và cuồng tín… Kết
quả là nhiều người “lên thiên đàng thẳng cẳng” nhờ ơn toàn xá
của Giáo hoàng! Một năm sau (1096), khi đoàn quân ô hợp đã hoàn toàn tan rã,
Thập tự quân lại tập hợp lực lượng đến 300 ngàn quân dưới sự lãnh đạo của Giám
mục khâm sai Tòa Thánh Ademar tập kết tại Constantinopoli. Cuộc chiến đẫm máu
đã diễn ra tại nhiều nơi, từ cao nguyên Cappađocia đến Đorylêa, nhưng khốc liệt
nhất là mặt trận Antiokia. Tại đây, đoàn thập tự quân của Giáo hội bị quân Thổ
đánh tơi tả không còn manh giáp. Người ta phải dùng đến chiến tranh tâm lý để trấn
an binh sĩ. Họ phao tin đã tìm thấy chiếc mác đồng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu
dưới bàn thờ trong đền thánh Phêrô!?… Sẽ có một đạo quân mặc giáp trắng từ trời
xuống làm viện binh… Đòn tâm lý có tác dụng tức khắc, nó vực dậy tinh thần
chiến đấu của thập tự quân, nhờ thế mà họ làm chủ được mặt trận Antiokia. Từ
đây, đoàn quân thập tự tiến thẳng về đất thánh Jêrusalem. Năm 1146, cuộc viễn
chinh thứ hai của Giáo hội do Benađô thống lĩnh cũng đã thất bại nặng nề tại
Đamas… những cuộc chiến tranh do Giáo hội phát động rất nhiều. Trong đó có 8
cuộc chiến được ghi nhận là quy mô đã cướp đi sinh mạng hàng triệu con người.
Tất cả những cuộc thánh chiến đều lấy danh nghĩa “hành hương đất thánh
Jêsusalem!” mà người Do Thái là nạn nhân số một. Vì thế, không lạ
gì “món quà Giêsu cứu tinh” mà Vatican “ban
tặng” cho Châu Á ngày nay lại bị người Do Thái tẩy chay mà chính ra họ
phải là người đâu tiên dang tay đón nhận.
“…Món
quà lớn nhất mà Giáo hội có thể tặng cho Châu Á… Giáo hội không thể cất giữ hay
độc quyền chiếm giữ sự mới mẻ và phong phú ấy…” (S10). Cái gọi là “mới mẻ và phong phú” khiến
người ta nhớ lại cuộc chiến đẫm máu giữa Giáo hội Rôma với giáo phái
Cathar (Bogomil, Patarin, Albigian). Giáo phái này rất mạnh, họ có tổ chức giáo
hội quy củ, tín đồ có kỷ luật và rất trung thành. Giáo phái Cathar cũng đưa ra
giáo thuyết “mới mẻ và phong phú” là không phục tùng giáo
quyền Rôma. Giáo hội Công giáo LaMã nhận thấy nguy cơ tiềm ẩn nơi giáo phái này
nên đã quyết tâm ra tay trừ khử. Giáo hoàng Innocentê III là người phát động
cuộc thập tự chinh nhằm tiêu diệt giáo phái Cathar. Giáo hoàng đã ban chiếu
chỉ “…Ta thuận ban cho tất cả những ai tham gia cuộc thánh chiến này để
bảo vệ đức tin một ân xá mà ta vốn ban cho những kẻ hành hương viếng đền thờ
thánh Phêrô tại La Mã hoặc thánh Giacôbê thành Compostella…” Thập tự
quân đặt dưới quyền chỉ huy của khâm sai Arnaud Amaury và Simon Montfort. Kết
quả là hàng ngàn tín đồ giáo phái Cathar bị giết trong giao chiến, hàng ngàn tù
binh bị bắt và bị thiêu sống trên giàn hỏa… một số khác được khuyến dụ bỏ giáo
phái Cathar để trở về với Công giáo La Mã, nhưng tất cả bọn họ đều từ chối và
thẳng thừng tuyên bố dù chết cũng không bỏ giáo phái Cathar để theo Công giáo
La Mã, tuyên bố xong họ tự động nhảy lên giàn hỏa…
6. VẤN ĐỀ “HIỆP THÔNG” VÀ TÌNH HÌNH GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TẠI TRUNG HOA
Trong
phần nhập đề của văn kiện “Tông huấn giáo hội tại Châu Á”. Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II có nhắc đến sự kiện Hội nghị đặc biệt cho Châu Á của Thượng hội đồng
Giám mục diễn ra từ ngày 18/4 đến ngày 14/5/1998. Giáo Hoàng “cảm thấy
buồn khi không thấy các Giám mục Trung Hoa lục địa đến dự…” (S3). Sự
kiện này được nhắc lại ở chương một - “Bối cảnh Á Châu” – phần: “Các thực tế
chính trị”. Giáo Hoàng viết : “Tại một số nơi, các Kitô hữu không
được phép thực hành đức tin một cách tự do, và không được phép giới thiệu Đức
Giêsu Kitô cho người khác. Họ bị bách hại và không được dành cho một chỗ
đứng xứng hợp trong xã hội. Các nghị phụ đặc biệt nhớ tới đồng bào Trung Quốc
và tỏ ý hy vọng mãnh liệt rằng một ngày nào đó tất cả các anh chị em Công giáo
tại Trung Quốc sẽ được phép thực hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên
xưng công khai sự hiệp thông trọn vẹn của mình với Tòa Thánh”. (S8)
Để
hiểu rõ vấn đề này, chúng ta cần quay lại một chút về quá khứ lịch sử. Có thể
nói Kitô giáo đến với Trung Hoa bằng hai con đường, con đường chính thức và con
đường không chính thức
Con
đường chính thức
Kitô
giáo có mặt tại Trung Hoa rất sớm , từ năm 578, nhưng không phải thừa sai Công
Giáo La Mã, mà là các giáo sĩ thuộc giáo phái Nestorius. Giáo phái này chủ
trương Giêsu sinh bởi bà Maria chỉ là một con người được tiền định mặc thiên
tính, là “công cụ” của Thiên Chúa, Ngôi Lời hành động qua thiên tính trong con
người của Giêsu. Giáo phái này cho rằng: “Ngôi Lời” và “Giêsu” hoàn toàn
khác biệt. Maria chỉ là mẹ của Giêsu chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Các giáo
sĩ thuộc giáo phái này đã đến Trường An và được vua Đường Thái Tông cho
phép chính thức truyền đạo. Sau đó ít lâu (khoảng TK VI-VII), một giáo phái
khác cũng không thuộc Vatican là giáo phái Manikeus cũng đã đến. Cả hai giáo
phái này được xã hội Trung Hoa thời đó chấp nhận vì họ trình bày một thứ giáo
thuyết mang màu sắc của đạo Kitô nguyên thủy, giáo thuyết này mặc dù còn
xa lạ nhưng cũng không quá mâu thuẫn với với văn hóa bản địa, ví dụ khái niệm
Thiên Chúa cũng gần với khái niệm Thượng Đế hoặc Thiên của Khổng - Lão. Hoàn
toàn không có khái niệm về Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ đồng trinh, thánh giá chỉ
là thập tự trơn, nghĩa là không có hình tội nhân trần truồng bị hành
quyết, một hình ảnh mà đối với một dân tộc xem trọng lễ giáo như dân tộc
Trung Hoa khó chấp nhận…
Công
giáo La Mã, người tự nhận là “giáo hội tông truyền”, chỉ là kẻ đến sau. Khâm sứ
tòa thánh Vatican là Giám mục Montecervino có thể xem là đại diện đầu tiên của
Vatican đến Trung Hoa năm 1294, nhưng họ đến Trung Hoa không phải để truyền đạo
cho người Trung Hoa mà là để khuyên dụ tín đồ của hai giáo phái Nestorius và
Manikeus mà họ gọi là “lạc giáo” trở về với Công giáo La Mã… Nhưng thật không
may cho họ, năm 1380, tất cả đều bị tàn sát sạch bởi bàn tay của Hồi giáo Mông
Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Công
giáo La Mã chỉ thực sự có mặt tại Trung Hoa từ cuối thế kỹ 16. Năm 1583, Linh
mục dòng Tên Matteo Ricci đến Trung Hoa với nhiệm vụ biến Hoàng đế Trung Hoa
thành Constantine. Ý đồ đó được thể hiện rõ nét qua việc chọn lựa đối tượng để
truyền đạo.
Nếu
hai giáo phái “lạc giáo” Nestorius và Manikeus chọn đối tượng truyền giáo là
quần chúng nhân dân mà tuyệt đại đa số là quần chúng vô học, họ thích ứng với
xã hội Trung Hoa bằng cách “nhập gia tùy tục”, nghĩa là cách ăn mặc hành xử
theo đúng phong tục của dân bản địa và đặc biệt là lối truyền đạo của họ với
căn bản giáo lý của đạo Kitô nguyên thuỷ, không có các tín điều áp đặt được
sáng tác từ Rôma như lý thuyết về Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ đồng trinh v.v… biểu
tượng về giáo lý cứu độ được họ giới thiệu cũng chỉ là một thập giá trơn, không
có hình Giêsu trần truồng mình đầy máu me, một hình ảnh không được “bắt mắt”
lắm đối với dân bản địa, một dân tộc vốn coi trọng lễ giáo. Đặc biệt thập giá
được trình bày trên nền một hoa sen, một loài hoa tượng trưng cho sự thanh
khiết trong tâm thức văn hóa phương đông. Điều này đã được nhà thám hiểm người
Ý Marco Polo ghi nhận trong cuộc hành trình đến miền viễn đông của ông thế kỷ
13.
Ngược
lại, dù là kẻ đến sau, nhưng Công giáo La Mã đến Trung Hoa với một thái độ
trịch thượng, kẻ cả. Việc đầu tiên là họ khuyến dụ “hai kẻ lạc giáo” Nestorius
và Manikeus trở lại với Công giáo La Mã. Đối với dân bản địa, đối tượng truyền
giáo của họ không phải là quần chúng vô học mà là giới trí thức, tầng lớp nho
sĩ, quan lại triều đình… ý đồ biến hoàng đế Trung Hoa thành Constantine đã được
khởi động từ giới sĩ phu.
Matteo
Ricci, người Ý, Linh mục dòng Tên, là một trong những nhân vật nổi bật của Rôma
tại Trung Hoa, ông đến Trung Hoa năm 1583, đối tượng mà ông nhắm đến để truyền
đạo không phải là giới nông dân vô học là những người có thế có quyền và có tri
thức, đó chính là tầng lớp sĩ phu, quan lại. Ông viết cuốn “Thiên Chủ thực nghĩa”
để giới thiệu giáo lý Kitô giáo với giới trí thức Trung Hoa, ông đã dùng các
thực tại văn hóa sẵn có của Nho giáo như những ý niệm về Thiên (trời), Thượng
đế… để giải thích về ý niệm Thiên Chúa của Kitô giáo. Matteo Ricci đã sáng tạo
ra một từ mới: “Thiên Chủ” để chỉ Thiên Chúa của Kitô giáo. Nhưng nỗ lực
của Matteo Ricci chỉ mang lại một kết quả quá khiêm tốn. Một chặng đường gần 20
năm (1583-1600) mà số tín đồ theo đạo không quá 1000 người. Vatican không thể
hài lòng với kết quả này. Vì vậy Vatican quyết định tăng cường, thúc đẩy việc
truyền giáo tại Trung Hoa lên một tầm mức cao hơn.
Niccolo
Longobardi là người được phái đến. Ông này mang theo cả cái mà Vatican gọi là
“Công đồng Tridentino” vào Trung Hoa. Với tinh thần Tridentino, ông buộc tất cả
các tin đồ bản địa phải dứt khoát đoạn tuyệt với Tam giáo (Phật, Lão, Khổng),
tín ngưỡng truyền thống của cha ông họ, điều mà người tiền nhiệm Matteo Ricci
chưa thể làm được. Niccolo Longobardi đã ra lịnh buộc tín đồ bản địa triệt phá
bàn thờ, ảnh tượng thuộc tín ngưỡng truyền thống, cấm thờ Khổng Tử, cấm thờ
cúng ông bà tổ tiên. Lệnh cấm này được xem là một điều sỉ nhục, xúc phạm
đối với dân tộc Trung Hoa, một dân tộc mà hai chữ “trung-hiếu” được đặt lên
hàng đầu trong đời sống tinh thần của họ. Sự kiện này buộc triều đình phải can
thiệp. Triều đình đã đặt Kitô giáo nói chung, Công giáo La Mã nói riêng, ngoài
vòng pháp luật. Năm 1617 lệnh trục xuất tất cả các thừa sai Phương Tây ra khỏi
Trung Hoa được ban hành. Công giáo La Mã mất đi cơ hội bành trướng tại Trung
Hoa.
“Ý
Chúa” tỏ ra quá vụng về khi Ngài để cho Vatican “sáng tác” ra cái “Công đồng
Tridentino” lại đem áp dụng vào Trung Hoa, trong đó có điều khoản cấm thờ kính
tổ tiên, một điều khoản mà đối với dân Trung Hoa thời đó là quá ngu muội không
thể tưởng tượng được. Nếu “ý Chúa” đã quyết như thế thì các thừa sai chỉ cắm
đầu mà làm như một cái máy, vì nói theo kiểu Mục sư Choan Seng Song, tác giả
quyển “Thần học Kitô giáo theo cung cách Châu Á”: “…Thượng
trí của Thiên chúa ai mà dò biết được…”. Vatican không thể “dò biết
thượng trí của Thiên Chúa”, nhưng triều đình Trung Hoa thì có thể dò
biết được ý của người dân Trung Hoa muốn gì. Họ muốn bàn thờ tổ tiên của họ
phải được tôn trọng. Vì vậy, triều đình đã đặt “Ý Dân” trên trên “Ý Chúa”. Kết
quả là lệnh trục xuất tất cả các thừa sai Tây Phương được ban hành.
Trở
lại sự thất bại của Vatican tại Trung Hoa. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng nổi bật
phải kể đến hai nguyên nhân sau:
Nguyên
nhân đầu tiên phải kể đến là: Thái độ trịch thượng, kêu căng, tự phụ của
Vatican khi lệnh cho Linh mục Niccolo Longobardi thực hiện các điều khoản của
Công đồng Tridentino mà trong đó có điều khoản không thể nào chấp nhận được đối
với dân tộc Trung Hoa là cấm thờ cúng tổ tiên, tôn kính Khổng Tử. Năm 1692, vua
Khang Hy với chính sách mềm dẻo đã ban chiếu chỉ cho phép các thừa sai Vatican
hoạt động truyền giáo. “Được đằng chân lân đằng đầu”, họ đã cấm các tín đồ bản
địa không được thờ cúng ông bà tổ tiên và đặc biệt là không được tôn kính Khổng
Tử. Trước thực tế trên, vua Khang Hi vẫn tỏ ra ôn hòa, ông đã gởi thư cho
Vatican. Năm 1701, Vatican nhận được thư của Khang Hy. Nội dung thư nhằm giải
thích cho Vatican hiểu Khổng Tử không phải là Thượng Đế, Ngài chỉ là một vị
Thầy (Vạn biểu Thế sư ) được nhân dân Trung Hoa tôn kính mà thôi. Bất chấp sự
nhượng bộ mềm dẻo của hoàng đế Trung Hoa, năm 1704, Giáo Hoàng Clemant XI chính
thức ban hành lệnh cấm tín đồ Công giáo Trung Hoa thờ cúng tổ tiên và Đức
Khổng Tử. Sáu năm sau (1710), lệnh cấm này được Vatican nhắc lại phải thi hành
một cách triệt để, dứt khoát. Năm 1717, triều đình Trung Hoa không thể nhượng
bộ được nữa, nên đã quyết định giáng trả một đòn chi tử: trục xuất tất cả các
thừa sai Vatican, đốt phá nhà thờ, buộc tín đồ Công giáo Trung Hoa bỏ đạo, cấm
đạo. Nhưng với bản chất kiêu căng vốn có của Vatican, năm 1742, Vatican ban
hành văn bản “Ex quy singulari” nhắc lại lệnh cấm tuyệt đối những điều nêu
trên. Thế là Vatican tự đặt dấu chấm hết cho con đường truyền giáo của mình
trên đất nước Trung Hoa.
Nguyên
nhân thứ hai dẫn đến sự thất bại của Vatican tại Trung Hoa là sự tranh dành ảnh
hưởng giữa các thừa sai với nhau. Sự tranh chấp quyết liệt giữa các thừa sai
dòng Phanxicô, Đaminh và các thừa sai dòng Tên mà nguyên nhân tranh chấp là
quyền lợi chính trị, óc kỳ thị chủng tộc giữa các thừa sai gốc Bồ Đào Nha và
thừa sai gốc Tây Ban Nha và vì muốn lập công với Vatican. Các quan điểm về thần
học vốn là sản phẩm của Vatican lại tỏ ra không nhất quán trong chủ trương
truyền giáo của các thừa sai gốc Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha…Các thực tại
thần học nhằm mô tả vị thần tối cao trong Kitô giáo được Matteo Ricci
(thuộc dòng Tên) dịch ra ngôn ngữ Trung Hoa là “Thiên Chủ” lại không được
Longobardi chấp nhận. Longobardi chủ trương không được dùng những ý niệm sẵn có
như Thiên (trời) hoặc Thượng đế vốn là những ý niệm của Khổng-Lão để chỉ Chúa
(Deus) của Công giáo La Mã (chứ không phải của đạo Kitô nguyên thủy, vì Kitô
nguyên thủy dùng các khái niệm của Do Thái giáo như El Shaddai, El Elyon,
Yahveh, Elohim v.v… để chỉ về Chúa, còn Deus, Dieu… là sản phẩm triết học Hy
Lạp được Vatican cải biên…). Longobardi phản đối dùng từ “Thiên Chủ” mà chỉ
muốn phiên âm từ Deus hay Dieu theo kiểu Phanxicô Xavie đã làm ở Nhật Bản hay
Đắc Lộ làm ở Việt Nam. Tại Nhật Bản, Deus được phiên âm ra tiếng Nhật là “Deusu”,
còn tại Việt Nam phiên âm thành “Dêu”. Nhưng đều trớ trêu khôi hài là
trong khi những từ nguyên thuỷ chỉ về vị thần tối cao của Do Thái giáo như El
Shaddai, El Elyon, Yahveh, Elohim v.v… được Vatican biến chế lại theo kiểu
Latin là Deus, Dieu, Theos... thì không có vấn đề gì, nhưng từ những từ đã được
La Tinh hóa này khi dịch ra các ngôn ngữ đông phương như Hán, Việt, Nhật lại sợ
mất đi ý nghĩa ban đầu của nó, mà điều mâu thuẫn khó hiểu ở đây là ý nghĩa ban
đầu chính là tiếng Do Thái: El Shaddai, El Elyon, Yahveh, Elohim v.v… chứ
không phải mấy tiếng Deus, Dieu, Theos… Những bất đồng về quan điểm giữa các
thừa sai với nhau được lịch sử giáo hội gọi là “cuộc tranh chấp lễ
nghi” đã góp phần đưa công cuộc truyền giáo của Vatican đến bờ vực phá
sản.
Chuyện
phiên âm cũng là chuyện cười ra nước mắt. Tại Nhật Bản khi Phanxicô Xavie phiên
âm từ “Deus” thành “Deusu” thì người Nhật lại đọc trại ra thành “Daiusu”
nghĩa là “bịp bợm”. Còn tại Việt Nam, từ “Deus” phiên âm thành “Dêu”, “Đức Chúa
Dêu” nghe rất tếu, ngang phè, mà “dêu” trong tiếng Việt chẳng có nghĩa gì cả…
Do sự đối nghịch của các thừa sai dòng Phanxicô, Đaminh và dòng Tên, sự thiếu
nhất quán về quan điểm thần học, sự tranh dành ảnh hưởng của họ đối với Vatican
cộng thêm thái độ “kẻ cả” của Vatican đã góp phần làm phá sản ý đồ Công giáo
hóa Trung Hoa, vốn muốn biến hoàng đế Trung Hoa thành Constantine.
Con
đường không chính thức hay con đường chui con đường của súng đạn và á phiện!
Lịch
sử truyền giáo của Vatican vào Trung Hoa bằng con đường chính thức đã bị sụp
đổ, Nhưng Vatican là kẻ không chịu khuất phục. Vì vậy khi con đường chính thức
(mà họ tự chặt đứt chứ không phải do triều đình Trung Hoa) không còn sử dụng
được, họ đã mon men theo con đường thứ hai, tức con đường của chủ nghĩa thực
dân đế quốc. Năm 1842, chiến tranh nha phiến bùng nổ giữa Trung Hoa và thực dân
Anh. Thế lực quân sự hùng hậu của đế quốc Anh buộc Trung Hoa phải nhượng bộ
bằng những hiệp ước bất bình đẳng. Hiệp ước Nam Kinh 1842 có điều khoản Trung
Hoa phải nhường Hồng Kông cho Anh và phải mở 5 cảng cho thừa sai Công giáo La
Mã vào truyền đạo.
Lần
này thì Vatican không đơn thương độc mã mà còn có bạn đồng hành bất đắc dĩ là
hai giáo phái Tin Lành: Pietism và Fondamentalism cùng vào Trung Hoa dưới
sự bảo vệ bằng súng đạn và thuốc phiện của thực dân Anh. Tin Lành và Công giáo
vốn là hai anh em không ưa nhau lại cùng cặp kè nhau vào đất nước Trung Hoa
dưới sự bảo vệ của thực dân Anh kể cũng lạ… 150 năm trước với chiếu chỉ “được
tự do truyền đạo” của vua Khang Hy, đường đường chính chính vào đất nước Trung
Hoa không chịu, lại chịu đi bằng con đường thuốc phiện, súng đạn, đi chung với
người anh em không mấy ưa thích Tin Lành ! kể cũng lạ! Âu đó cũng là “ý Chúa”!
“Ý
Chúa” thường rất oái oăm và thường đẩy Vatican vào những tình thế dở khóc dở
cười… Lịch sử đã chứng minh Vatican luôn dùng mọi thủ đoạn để có thể đạt được
mục tiêu “mở mang nước Chúa” của mình. Khi cuộc cách mạng vô sản Trung Hoa do
Mao Trạch Đông lãnh đạo thành công. Vấn nạn Công giáo La Mã được nhà cầm quyền
giải quyết dứt điểm. Năm 1950, toàn bộ thừa sai Vatican bị trục xuất đồng loạt
kể cả Công sứ Tòa Thánh. Tài sản Vatican bị tịch thu. Chính quyền buộc Linh mục
và giáo dân bản xứ không được quan hệ với Vatican. Năm 1957, Ủy Ban Đoàn Kết
Công Giáo Yêu Nuớc được thành lập, tổ chức này hoạt động độc lập không lệ thuộc
vào Vatican, họ tự chọn và thụ phong Giám mục. Sự kiện này khiến Vatican tức
giận “dứt phép thông công” hàng loại các Giám mục mới được thụ phong. “Giáo Hội
Công Giáo Yêu Nước” cùng với nhân dân toàn Trung Hoa bắt tay xây dựng đất nước.
Một bộ phận khác trung thành với Vatican gọi là “Giáo Hội Thầm Lặng” thực hành
các chỉ thị của Vatican: bất hợp tác với chế độ.
Và
giờ đây, lời kêu gọi “thống thiết” của đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
được truyền đi qua Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á (Ecclesia in Asia): “…Họ
bị bách hại và không được dành cho một chỗ đứng xứng hợp trong xã hội. Các nghị
phụ đặc biệt nhớ tới đồng bào Trung Quốc và tỏ ý hy vọng mãnh liệt rằng một
ngày nào đó tất cả các anh chị em Công Giáo tại Trung Quốc sẽ được phép thực
hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên xưng công khai sự hiệp thông
trọn vẹn của mình với toà thánh” (S8).
Thực
sự thì như ta đã biết, Vatican là một quốc gia theo đúng nghĩa trọn vẹn của nó.
Nghĩa là quốc gia này có chủ quyền, lãnh thổ, quốc kỳ, quốc huy và tất nhiên là
có vua (tức Giáo Hoàng). Các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Vatican đều
được Vatican gởi đại sứ (Công sứ Tòa Thánh) đến đại diện. Cùng với Thụy sĩ,
Vatican là một trong số ít quốc gia có đủ điều kiện gia nhập tổ chức Liên Hiệp
Quốc nhưng không gia nhập. Thụy sĩ chưa gia nhập Liên Hiệp Quốc là vì muốn giữ
thế trung lập của mình. Vatican không gia nhập Liên Hiệp Quốc chắc chắn phải có
lý do riêng của nó. Ngoài ra, người ta còn biết đến Vatican dưới một danh nghĩa
khác, danh nghĩa một tôn giáo: Công giáo La Mã. Từ nhận định trên ta có thể
khẳng định việc truyền giáo của Công giáo La Mã và các lợi ích về chính trị,
kinh tế, giáo dục, xã hội … của nhà nước Vatican chỉ là một, chúng vận hành hữu
cơ, quan hệ mật thiết không thể tách rời được…. Sự đồng hành của nhà nước
Vatican với các thế lực thực dân, đế quốc Phương Tây đã được lịch sử chứng minh
trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của chúng. Tuy nhiên, bài viết này
chỉ giới hạn trong một diễn biến nhỏ của lịch sử, đó chính là sự có mặt của của
Kitô giáo nói chung, Công giáo La Mã nói riêng tại Trung Hoa lục địa.
Khi
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi “Công Giáo Trung Quốc được phép
thực hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên xưng công khai sự hiệp
thông trọn vẹn của mình với toà thánh” (S8) là bản thân Giáo Hoàng đã
quên lịch sử. Chính Giáo Hoàng cũng thừa nhận: “… Người Châu Á
ham học hỏi, truy tầm triết lý… quý trọng sự sống, từ bi với mọi loài… Các dân
tộc Châu Á thường được tiếng là có tinh thần bao dung tôn giáo, sống chung hòa
bình…” (S6). Vậy hà cớ gì mà người Châu Á lại đi “bách hại” Kitô giáo?
Tín đồ Kitô giáo nếu thực sự bị “bách hại” thì lỗi thuộc về nhà nước Vatican. Chính
thái độ trịch tượng, kiêu căng, tự phụ của Vatican đã đẩy Kitô hữu Châu Á vào
thế khó xử. Xuất phát từ tâm lý ưu thế của “kẻ cả, người ngồi chiếu trên”,
Vatican luôn đánh giá thấp các tôn giáo và các nền văn hóa khác… Hành xử của
Vatican luôn đẩy đối phương vào thế đối đầu. Thế nhưng khi có phản ứng ngược
lại thì Vatican lại kêu lên “bách hại…!?”. Tình hình thực tế ở
Trung Hoa đã chứng minh điều đó. Tín đồ Công giáo trong tổ chức “Công giáo yêu
nước” vẫn tự do hành đạo, họ vẫn sống Phúc Âm “ra phết”, nhà nước chẳng những
không ngăn cấm mà còn khuyết khích họ… vậy sao có thể gọi là mất tự do, bị bách
hại?… Chính Vatican “dứt phép thông công” của họ thì sao lại
kêu gọi họ “hiệp thông trọn vẹn với tòa thánh” được?… Sự thật
lịch sử đã phơi bày, Kitô hữu Trung Hoa vẫn tự do hành đạo, tự do “tuyên
xưng đức tin”, có điều họ đặt quyền lợi của nhà nước Trung Hoa lên trên
quyền lợi của nhà nước Vatican. Vì vậy họ vẫn “hiêp thông trọn vẹn với
Chúa”. Còn việc họ không được “hiệp thông” với Vatican là
do chính Vatican “dứt phép thông công” của họ chứ không phải
lỗi của nhà nước Trung Hoa. Nhưng nếu cho rằng Vatican là “nhiệm thể
của Chúa Kitô”, nên không thể hiệp thông với Chúa mà không hiệp thông với
Vatican thì chẳng qua đây chỉ là sản phẩm của khoa Thần học được hiệu lực hóa
từ “tín điều Vô Ngộ” vốn là một sáng tạo của Giáo Hoàng Pio IX
từ năm 1870. Tín điều này thừa nhận sự “không thể ngộ nhân, sai lầm” của
Giáo Hoàng trong những tuyên bố của mình, nhằm thần thánh hóa “Đức
Thánh Cha”, tức ông vua của nhà nước Vatican, đồng thời biến tín đồ
Kitô giáo thành những con chiên ngoan ngoãn, dễ dạy để phục vụ “hội
thánh”. Tự thân của “tín điều Vô Ngộ” đã bộc lộ nhiều điều
vô lý và hoàn toàn không có căn bản từ Thánh Kinh. Chính vì vậy, tín điều này
hoàn toàn không có giá trị và bị các hệ phái Kitô giáo khác như Tin Lành, Chính
thống… lên án, phủ nhận. Vậy nên, khi Giáo Hoàng kêu gọi “… hướng lòng
trí về với giáo hội Công giáo Trung Hoa lục địa và cầu xin cho sớm tới ngày anh
chị em Trung Hoa thân yêu của mình được tự do hoàn toàn để thực hành đức tin
trong sự hiệp thông trọn vẹn với Tông Tòa Phêrô…” (S28) khiến nhiều
Kitô hữu chân chính vừa ngậm ngùi chua xót vừa thầm trách Vatican trong động
thái của mình đã đẩy Công giáo La Mã vào thế phải đối đầu với nhiều nền văn hóa
Châu Á. Hành xử của Vatican đôi khi đến “Chúa Thánh Thần” cũng phải lắc đầu
ngao ngán…
“Tông
tòa Phêrô” và vấn nạn “Giáo hội tông truyền”
Nhân
đây cũng xin nói thêm về cái gọi là “Tông tòa Phêrô”. Vấn đề
này cho đến nay vẫn còn là một vấn nạn. Phêrô là một trong những môn đồ đầu
tiên của Giêsu. Phêrô xuất thân là ngư dân. Ông theo Giêsu khi đang đánh cá tại
hồ Galiêa. Sau khi Giêsu chịu án tử hình. Phêrô bị bắt và vượt ngục. Sách Tông
đồ Công vụ viết: “Sau khi thoát khỏi ngục, Phêrô đã đi nơi
khác…”. “Nơi khác” là nơi nào không ai biết. Phêrô đi đâu? và làm gì?
Cũng chỉ là những phỏng đoán. Công giáo La Mã ngày nay khẳng định rằng Phêrô
đến Rôma để thành lập giáo hội đầu tiên và trở thành Giáo hoàng đầu tiên của
giáo hội. Một số học giả phủ nhận việc Phêrô đến Rôma thành lập giáo hội, họ
cho rằng Phêrô chưa từng đến Rôma. Marsilio trong cuốn Defensor Pacis (1324)
đã đưa ra nhiều dẫn chứng cho thấy sự kiện “Phêrô đến Rôma lập giáo hội” là
ngụy tạo. Luther và Cavin cũng phủ nhận sự kiện trên. Riêng Công giáo La Mã
bằng nhiều lý lẽ quyết bảo vệ luận điểm: Phêrô là Giáo Hoàng đầu tiên của giáo
hội đầu tiên tại Rôma, nhằm mục đích khẳng định giáo hội Công Giáo chính là
“giáo hội tông truyền”. “Bảo vệ đức tin” là việc cần thiết bắt buộc
phải thực hiện, vì văn kiện “Niềm Tin Tông Đồ” của công đồng Nikêa khi đúc kết
lại thành kinh Tin Kính, người ta đã thòng thêm một câu: “…Tôi tin Hội
Thánh Công giáo thánh thiện duy nhất, tông truyền…” Do đó, nếu thả nổi
vấn đề, đồng nghĩa với việc chấp nhận phá sản kinh Tin Kính. Những nhà hộ giáo
của giáo hội Rôma sử dụng các văn bản của các giáo phụ đầu công nguyên
như: “Thư Clemantê gởi dân thành Corintô”, “Thư Inhaxiô gởi giáo dân La
Mã” v.v… để chứng minh sự kiện Phêrô đã đến Rôma. Nhưng phe chống đối
trong giáo hội phủ nhận, họ cho rằng có sự ngụy tạo về thời gian và địa điểm
trong các văn bản trên nhằm chứng minh yếu tố “tông truyền” của giáo hội Công
giáo tại La Mã. Đằng khác, muốn che đậy một sự kiện lịch sử: Công giáo La Mã là
sản phẩm của Constantine. Tất nhiên, các nhà hộ giáo phải tìm cách bảo vệ luận
điểm của họ. Họ lập luận: Sự mặc nhiên thừa nhận Phêrô là vị giáo hoàng đầu
tiên của giáo hội trong suốt 13 thế kỷ kể từ ngày giáo hội được thành lập, đã
minh chứng tính xác thực của sự kiện này. Nhưng họ quên rằng: trong 3 thế kỷ
đầu, các nhóm Kitô nguyên thủy hoạt động độc lập, bí mật dưới hình thức “hội
kín”. Trong thời gian này, chỉ có chức danh cao nhất là “Giám mục” điều hành ở
mỗi tổ chức giáo hội sơ khai. Chức danh “Giáo hoàng” chỉ mới có sau khi Constantine
thành lập giáo hội Công giáo. Nói cách khác, có hai vấn đề cần làm rõ. Một là:
Giáo hội Công giáo La Mã là giáo hội của chúa Giêsu, do tông đồ trưởng của
Giêsu là Phêrô sáng lập tại Rôma. Hai là: Đế quốc La Mã đã lợi dụng “chiêu bài
Giêsu” nhằm thực hiện tham vọng đế quốc của mình. Khi La Mã thấy các nhóm Kitô
nguyên thủy “đủ mạnh” để có thể tập hợp thành một lực lượng thống nhất phục vụ
đế quốc Rôma. Hoàng đế La Mã Constantine (306-337) đã bãi bỏ lệnh cấm hoạt động
của các nhóm Kitô nguyên thủy bằng chiếu chỉ Milan (313). Lệnh cấm vốn được
thực hiện gắt gao từ thời hoàng đế Nêron (54-68). Constantine vốn không hiểu
biết nhiều về giáo thuyết của đạo Kitô nguyên thủy. Vì thế, ông sử dụng nhiều
tu sĩ giỏi trong các cộng đoàn Kitô nguyên thủy là cố vấn cho triều đình. Để
thống nhất các nhóm Kitô nguyên thủy, Constantine đã triệu tập công đồng Nikêa
(325). Mục đích công đồng là tổ chức lại giáo quyền, định ra các nguyên tắc căn
bản về hàng giáo phẩm. Công bố những giáo thuyết mới vốn không hề có trong các cộng
đoàn Kitô nguyên thủy như: Giáo thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ đồng trinh
v.v… các giáo thuyết này được tóm gọn trong một văn kiện: “Niềm tin tông đồ”,
tiền thân của kinh Tin Kính sau này. Một sự kiện không thể không nhắc đến trong
thời kỳ này: Sự xuất hiện của Công giáo La Mã. Một tôn giáo hoàn toàn mới với
một giáo thuyết mới, một kết quả tất yếu của công đồng Nikêa. Với quyết tâm
“Công giáo hóa” Rôma, Constantine từng tuyên bố trước các giám mục: “Các
vị là Giám mục bên trong giáo hội, còn tôi là Giám mục bên ngoài giáo
hội”. Sự tích cực “Công giáo hóa” đế quốc Rôma của Constantine được
phản ánh khá đầy đủ trong câu nói bất hủ của Augustin: “Khi Rôma đã
quyết định một vấn đề gì thì vấn đề đó phải được coi là giải quyết
xong!”. Tóm lại: Công giáo La Mã là một sản phẩm của hoàng đế La Mã
Constantine, chỉ mới được thành lập từ công đồng Nikêa, cách thời Giêsu đến 3
thế kỷ rưỡi… Vấn đề “tông truyền” của giáo hội Công Giáo hiện nay vẫn còn là
vấn nạn: “Tông truyền từ Giêsu thông qua Phêrô?” hay “Tông truyền
từ Hoàng đế La Mã Constantine đến giáo hoàng Gioan Phaolô II ?” Đây là đề tài
lý thú cho nhiều người trong thế kỷ 21.
7. QUỐC GIA VATICAN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ TẠI CHÂU Á.
Giáo hoàng: Nguyên thủ quốc gia hay chức sắc tôn giáo?
Nhận
định về tình hình chính trị tại Châu Á, Giáo hoàng viết: “Tại Châu Á
ngày nay tình hình chính trị vô cùng phức tạp, với đủ mọi ý thức hệ từ những
hình thức chính phủ dân chủ đến những hình thức cai trị thần quyền, các chế độ
độc tài quân sự và các ý thức hệ vô thần đang có mặt rất rõ… tại một số nơi
Kitô hữu không được phép thực hành đức tin một cách tự do, và không được phép
giới thiệu đức Giêsu cho người khác…. Tuy nhiên, khắp nơi tại Châu Á, càng ngày
người ta càng ý thức hơn rằng mình có khả năng thay đổi những cơ chế bất công
ấy… ngày càng có nhiều người đòi hỏi tham gia chính phủ… Những tập thể thiểu số
về văn hóa, xã hôị và chủng tộc lâu nay “án binh bất động” nay đang tìm cách
làm chủ lấy sự thăng tiến xã hội của mình. Thánh Thần Thiên Chúa luôn giúp đỡ
và hổ trợ các nỗ lực của dân chúng muốn thay đổi xã hội nhằm thỏa mãn khát vọng
của họ là được sống dồi dào hơn như chúa hằng mong muốn”(S8).
Luận
điệu trên rõ ràng là luận điệu của một nhà chính trị chứ không phải của một
lãnh tụ tôn giáo. Mà cũng đúng thôi khi chúng ta đã từng biết Vatican là một
quốc gia theo đúng nghĩa trọn vẹn của nó. Như tôi đã trình bày ở trên: Vatican
là một quốc gia này có chủ quyền, lãnh thổ, quốc kỳ, quốc huy và tất nhiên là
có vua (tức Giáo Hoàng). Các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Vatican đều
được Vatican gởi đại sứ (Công sứ Tòa Thánh) đến đại diện. Cùng với Thụy sĩ,
Vatican là một trong số ít quốc gia có đủ điều kiện gia nhập tổ chức Liên Hiệp
Quốc nhưng không gia nhập. Thụy sĩ chưa gia nhập Liên Hiệp Quốc là vì muốn giữ
thế trung lập của mình. Vatican không gia nhập Liên Hiệp Quốc chắc chắn phải có
lý do riêng của nó. Chính cái nhà nước Vatican này đã một thời làm mưa làm gió
trên lục địa Châu Âu. Toà án dị giáo và giàn hỏa là biểu tượng của quốc gia
này. Ngày nay, tuy không còn những binh đoàn thập tự quân hùng hậu, nhưng thay
vào đó là các hệ thống ngân hàng, các tập đoàn kinh tế đã mang về cho Vatican
những món lợi nhuận khổng lồ mà đối với nhiều tôn giáo khác là “mơ không thấy
nổi”. Ngoài ra, Vatican còn nắm trong tay các phương tiện truyền thông đại
chúng, hệ thống kênh truyền hình, phát thanh phát đi khắp thế giới. Đây cũng là
một thế mạnh mà đứng ở góc độ tôn giáo, không tôn giáo nào trên thế giới có thể
sánh bằng:“Giáo hội Châu Á cần ý thức về sức mạnh và vai trò của truyền
thông đại chúng và về những phương tiện thông tin xã hội đa dạng, để có thể vận
dụng chúng như những khí cụ loan truyền sứ điệp tin mừng tại lục địa này” (Relatio
Ante Disceptationem).
Sự kích động đức tin phục vụ tham vọng chính trị
Vì
vậy khi Giáo Hoàng kêu gọi: “…khắp nơi tại Châu Á, càng ngày
người ta càng ý thức hơn rằng mình có khả năng thay đổi những cơ chế bất công
ấy… ngày càng có nhiều người đòi hỏi tham gia chính phủ…” thì chúng ta
phải hiểu rằng đó là lời hiệu triệu của một ông vua đứng đầu một nước, chứ
không phải đó là một lời than vãn của chức sắc tôn giáo trước sự bất công xã
hội… Lời hiệu triệu lại càng “dễ sợ” hơn khiến cho những nhà lãnh đạo của các
quốc gia Châu Á không thể không dè chừng: “Những tập thể thiểu số về
văn hóa, xã hôị và chủng tộc lâu nay “án binh bất động” nay đang tìm cách làm
chủ lấy sự thăng tiến xã hội của mình”.
Chúng
ta biết rằng, dân số thế giới hiện nay khoảng 6,3 tỉ người, tại Châu Á, một lục
địa mà dân số chiếm đến gần 2/3 dân số thế giới, Tỷ lệ tín đồ Kitô giáo bao gồm
tất cả các hệ phái: Tin Lành, Chính Thống, Anh giáo, Công giáo v.v… khoảng 3%,
tuy nhiên Anh giáo không có mặt tại Châu Á, Chính Thống giáo lại là thiểu số ở
các ở các quốc gia mới độc lập tách ra từ Liên xô cũ, còn lại là Tin Lành và
Công giáo. Đấy! Cái thiểu số 3% này đang “án binh bất động” để
chờ phát súng lệnh của Vatican. Điều khôi hài là “phát súng” này không phát ra
từ những chiến binh kiêu hùng của đoàn quân thập tự chinh thời trung cổ, mà
phát ra từ “Chúa Thánh Thần”, Ngài phát ra một “viên đạn bọc đường” mà từ đó
Kitô hữu (cả Tin Lành lẫn Công giáo) cùng “xung phong!…, tiến!…”: “Thánh
Thần Thiên Chúa luôn giúp đỡ và hỗ trợ các nỗ lực của dân chúng muốn thay đổi
xã hội nhằm thỏa mãn khát vọng của họ là được sống dồi dào hơn như Chúa
hằng mong muốn” (S8).
Tại
Việt Nam, năm 1954, gần triệu tín đồ Công giáo bỏ miền Bắc di cư vào Nam,
định cư tại các vùng Gia Kiệm, Hố Nai… Họ rời bỏ quê hương tha phương cầu
thực ở vùng đất lạ không phải là một chọn lựa mang tính ý thức hệ mà chỉ vì“Chúa
Kitô đã bỏ Bắc Việt, Đức Mẹ đã di cư vào Nam…”. Chính quyền Thiên
Chúa Giáo Ngô Đình Diệm (1955-1963) đã muốn biến Việt Nam thành một quốc
gia Kitô giáo, lấy Công giáo làm quốc giáo… và gần đây nhất là sự kiện Đạo
“Vàng Chứ” của dân tộc Mông ở biên giới phía Bắc và “Nhà nước Tin Lành ĐêGa”
của các sắc tộc Giarai, Bana, Eđê… ở cao nguyên miền Trung là một bài học mà
bất kỳ nhà cầm quyền nào cũng phải đề phòng….
8. VỀ MỘT VẤN ĐỀ “GÂY KHÓ CHỊU” CỦA
VATICAN NHƯNG KHÔNG PHẢI CHO NGƯỜI CHÂU Á
Sự xung đột thần học giữa những người anh em Hồi giáo, Do Thái giáo với Kitô
giáo.
Đoạn số 12, Tông huấn viết: “Điều gây khó chịu nhất
trong Kitô giáo là người ta tin rằng Thiên chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí
đã mang lấy bản tính con người của chúng ta, đã chịu đau khổ và chịu chết để
đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người” (S12). Thực ra, chẳng ai “khó
chịu” khi Kitô giáo tin rằng Chúa của họ là “Thiên Chúa chí
thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tinh con người…” ngoại trừ
Do Thái giáo và Hồi Giáo. Nhưng cả hai tôn giáo này cùng với Kitô giáo đều cùng
một gốc, cùng tin nhận chúa của Abraham. Chúng ta biết rằng, Giêsu là một con
người bình thường như mọi người, người gốc Nazaret, năm 33 tuổi bị kết án
tử hình treo trên thập giá… chính con người này mà hành trạng của ông đã được
những người theo ông (môn đệ) kể lại, về sau được bốn ông Luca, Matthêu,
Maccô, Gioan ghi chép, tập hợp thành một bộ sách mà ngày nay người ta gọi
là Tân Ước, Phúc Âm hay Tin Mừng… Bản
thân của Giêsu chưa bao giờ tự nhận mình chính là Thiên Chúa, ông chỉ nói ông
là “con Đấng Tối Cao” (Lc 1:32) người mà ông tôn thờ là Thiên Chúa
và gọi Ngài là Cha. Ông nói: “không thể đến với Cha ta mà không qua ta”(Ga14:6), “Cha
ta ở trong ta và Ngài đang làm việc” (Ga14:10)…v.v… ông chỉ tự xưng
mình là Thầy với môn đồ của ông, tuyệt nhiên chưa bao giờ tự nhận mình là Thiên
Chúa trước bất kỳ một môn đệ nào… Ngay cả những giờ phút sau cùng của cuộc đời
mình, ông cũng không hề nhận mình là Thiên Chúa, nhưng chỉ một mực hướng về vị
Chúa của Do Thái giáo mà ông gọi thân mật là Cha. “Lạy Cha, xin tha cho
họ, vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23:34), trong giờ phút sau cùng của
đời ông có lúc ông phải kêu cứu: “Cha ơi! Sao cha bỏ con…” (Mc
15:3). Và trước khi trút hơi thở sau cùng: “Lạy Cha! Con xin phó dâng
linh hồn con trong tay Cha!”(Lc 23:46) v.v… Giáo phái Arius mượn câu Phúc
Âm của Gioan: “Cha ta cao trọng hơn ta” (Ga 14:28) để
chứng minh: Giêsu không phải là Thiên Chúa…
Đối
với Do Thái giáo, dựa vào Cựu ước, kinh thánh của Do Thái giáo, sẽ có một “Đấng
Cứu Thế” (Messia) được Thiên Chúa sai xuống để cứu độ tín đồ Do Thái giáo.
Nhưng vị đó chắc chắn không phải là nhân vật Giêsu ở Nazaret. Đây chính là điểm
mâu thuẫn giữa Kitô giáo và Do Thái giáo.
Đối
với Hồi Giáo, Thiên Chúa của tôn giáo này cũng chính là Thiên Chúa được Abraham
giới thiệu trong Cựu ước, tức kinh thánh của Do Thái Giáo. Chính Mahomet, giáo
chủ Hồi giáo khẳng định Sứ Thần Gabriel đã khải thị cho ông viết kinh Coran.
Điều này thật rõ ràng khi ta lấy vài đoạn nhỏ trong kinh Coran của Hồi Giáo đối
chiếu với Cựu Ước. Kinh Coran kể lại câu chuyện Thiên Chúa quyết tâm trừng trị
dân thành Sôđôma. Abraham đã xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành ấy. Nhưng
Thiên Chúa đã nói với ông việc gì mà Thiên Chúa đã quyết định thì không thể
thay đổi. Kết quả là thành Sôđôma bị Thiên Chúa hủy diệt. Cùng câu chuyện trên,
nhưng tình tiết câu chuyện lại khác trong Cựu ước. Abraham đã xin Thiên Chúa
tha thứ cho dân thành và “Chúa của Cựu ước” đã không quyết đoán như “Chúa của
Coran”. Nếu Chúa trong kinh Coran “đã quyết định thì không thể thay đổi” thì
Chúa của Cựu ước tỏ ra dễ dãi hơn, đã cho phép Abraham “trả giá”: Nếu có năm
mươi người nhơn đức thì Ngài sẽ tha không trừng phạt thành Sôđôma. Rồi bốn mươi
người…?, ba mươi người…?, hai mươi người thôi…? Cuối cùng chỉ cần mười người…?
Chúa đã nói với Abraham: Chỉ cần có mười người nhơn đức trong thành thôi, ta sẽ
không huỷ diệt thành đó…
Nhưng
điểm mâu thuẫn lớn nhất giữa Kitô giáo và Hồi giáo lại không phải là những tiểu
tiết đó mà chính là sự thừa nhận nhân vật Giêsu. Hồi Giáo chỉ công nhận Giêsu
là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác. Chính việc “Thiên Chúa hóa” nhân vật Giêsu
của Kitô giáo đã đẩy Hồi giáo, Do Thái giáo vào thế đối đầu. Hiện nay Do Thái
giáo vẫn đang mong đợi một Messia nào đó chứ không phải Giêsu. Trong khi đó thì
Hồi giáo lại cho rằng khi Kitô giáo “Thiên Chúa hóa” Giêsu, bắt một con người
“làm Chúa” là đã cố tình xúc phạm, nhục mạ Thiên Chúa.
Tóm
lại, khi nói đến thần học, không nên hiểu chỉ có một loại thần học chung nhất,
mà phải phân biệt rạch ròi thần học Kitô giáo, thần học Do Thái giáo, thần học
Hồi giáo. Ngay trong nền thần học Kitô giáo cũng có những thần học mâu thuẫn,
đối lập nhau. Chính các nền thần học này đã nhào nặn ra “các Thiên Chúa” khác
nhau từ một Thiên Chúa của Abraham. Vì thế, khi thần học Kitô giáo khởi xướng
học thuyết “Mầu nhiệm nhập thể” thì bị nền thần học Do Thái giáo và nhất
là thần học Hồi giáo công kích, phủ nhận. Điều này giải thích tại sao có những
cuộc xung đột tôn giáo triền miên xảy ra giữa ba tôn giáo vốn được xem là có
cùng một gốc. Sự xung đột do mâu thuẫn về các quan điểm thần học giữa Kitô giáo
và Hồi giáo dẫn đến sự tiêu diệt lẫn nhau đã được lịch sử ghi nhận và Tông huấn
nhắc lại: “Vào thế kỷ 13, Tin Mừng được loan báo một lần nữa cho những người
Mông Cồ, Thổ và người Trung Quốc. Nhưng Kitô giáo rất mau biến mất tại các vùng
này vì nhiều lý do, trong số đó phải kể tới sự xuất hiện của Hồi Giáo” (S9).
Kitô giáo “rất mau biến mất” tại Châu Á ở thế kỷ 13 chỉ vì
người anh em Hồi giáo của mình. “Chúa Thánh Thần” đôi khi thích làm những việc
trái khoáy đẩy Vatican vào thế bất lợi.
“Sự
khó chịu” (nếu có) của người Châu Á phi Kitô giáo
Đối
với các tôn giáo đông phương như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo v.v…. các quan
điểm thần học dù là của bất ký ai, Do Thái giáo, Kitô giáo hay Hồi giáo, tất cả
đều không ảnh hưởng gì đến các tôn giáo này, nên không có chuyện “khó chịu”
trước các quan điểm thần học Kitô giáo. Các tôn giáo cùng một gốc như Hồi giáo,
Do Thái giáo, Kitô giáo thuộc về một hệ quy chiếu. Các tôn giáo Đông phương lại
thuộc về một hệ quy chiếu khác. Vì thế, sự “khó chịu” (nếu có) ở các tôn giáo
Đông phương đối với Kitô giáo chỉ có thể có trong trường hợp học thuyết của các
tôn giáo bị xuyên tạc, bóp méo với mục đích “đồng hóa”. Nói cách khác, nó chỉ
xảy ra trên bình diện “giao tế”, thái độ ứng xử trong từng trường hợp cụ thể,
chứ không phải do mâu thuẫn trên quan điểm thần học. Điều này dễ hiểu vì các
tôn giáo Đông phương như Phật – Lão - Khổng không có thần học, nên
không có chuyện xung đột về các quan điểm thần học giữa các tôn giáo này với
Kitô giáo. Ví du: Đối với Phật giáo. Thiên Chúa, dù là của Kitô giáo, Do Thái
giáo, Hồi giáo tuyệt nhiên không có chỗ đứng trong tôn giáo này. Tuy nhiên, họ
vẫn tôn trọng các quan điểm thần học như “vị cứu tinh duy nhất” của Kitô giáo.
Cũng có nghĩa là họ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của các tôn giáo. Nhưng
nếu Kitô giáo quy chụp giáo chủ của họ thành “ngôn sứ” của Thiên Chúa Kitô giáo,
tôn giáo của họ là “cơ hội quan phòng” của Thiên Chúa Kitô giáo thì rõ ràng đó
là một sự khiêu khích, thách thức, xúc phạm trắng trợn buộc họ không thể bỏ
qua… và tất nhiên, cái “khó chịu” ở đây chính là cách hành xử thô bạo, kém tế
nhị, thiếu tinh tế chứ không phải vì các quan điểm thần học… Tiếc rằng điều này
đã trở thành chiêu thức mà Vatican vận dụng trong hành trình văn hóa của mình
tại Châu Á.
Những
điều vừa trình bày trên cho thấy: “Điều gây khó chịu…” chỉ
thực sự “khó chịu” đối với những người anh em của Kitô giáo là Hồi giáo và Do
Thái giáo, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến các nền văn hóa và tôn giáo Đông
Phương. Theo thiển ý của tôi, nếu Vatican muốn thuyết phục để người ta tin rằng
“Đức Giêsu Kitô là đấng cứu độ duy nhất” thì nên thuyết phục những người anh em
của mình trước, hãy “Phúc âm hóa” Do Thái giáo và Hồi Giáo. Nếu không làm được
việc này, khoan nói đến chuyện “Phúc âm hóa Châu Á”. Đó chỉ là ảo tưởng, đừng
nói đến thiên niên kỷ thứ ba, sang thiên niên kỷ thứ tư, thậm chí thứ
năm, thứ sáu… Thánh giá cũng chẳng bao giờ trồng được trên mảnh đất Châu Á này
!
Trong
câu: “Điều gây khó chịu nhất trong Kitô giáo là người ta tin rằng Thiên
Chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tính con người của chúng
ta, đã chịu đau khổ và chịu chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi
người” (S12). Cụm từ “Điều gây khó chịu nhất..” ám
chỉ “sự khó chịu” (có thể có mà cũng có thể không) của các dân
tộc Châu Á ngày nay, thực sự chỉ là nỗi lo sợ vu vơ, không có căn cứ… vì các
dân tộc Châu Á chẳng bao giờ quan tâm đến những gì mà tín đồ Kitô giáo gọi là
“đức tin”. Họ chỉ phản ứng trong trường hợp bị xúc phạm, điển hình là vụ Giáo
Hoàng cho xuất bản quyển “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”… Tuy nhiên, cụm
từ “mang lấy bản tính con người của chúng ta..” làm
gợi nhớ đến một quá khứ lịch sử kinh hoàng đã xảy ra ngay trong lòng giáo hội
vào thời mới thành lập. Đó chính là cuộc chiến tranh “bản tính” và “ngôi vị” đã
cướp đi sinh mạng của nhiều người.
9. CUỘC CHIẾN TRANH “BẢN TÍNH” - “NGÔI VỊ”
Arius
“đảo chánh Ngôi Hai”
Năm
321, Linh mục Arius khởi xướng học thuyết mới, đẩy Kitô giáo vào cuộc khủng
hoảng nặng nề. Cuộc tranh biện về “Thiên Tính của Giêsu” giữa Arius và các giáo
phụ Rôma đã khiến nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù đày.
Giáo
thuyết của Arius khởi đi từ việc thừa nhận một Thiên Chúa duy nhất, tự hữu.
Nhưng Thiên Chúa của Arius không thể thông đồng bản tính của mình cho
ai kể cả Giêsu. Arius mượn một câu trong phúc âm của Gioan “Cha ta
cao trọng hơn ta…” (Ga 14:28) để chứng minh rằng: Giêsu không phải là
Thiên Chúa, không cao trọng, ngang bằng Thiên Chúa, không đồng bản tánh với
Thiên Chúa. Giêsu chỉ là người được Thiên Chúa chọn làm con, làm nhiệm vụ trung
gian giữa Thiên Chúa và con người. Học thuyết của Arius được nhiều Giám mục và
tín đồ ở các giáo hội Đông phương hưởng ứng. Để vấn đề được rõ ràng, Công đồng
Alexanđria được triệu tập có khoảng 100 Giám mục tham dự trong đó có cả Arius.
Kết quả Công đồng phi bác học thuyết và kết án Arius phải đi đày. Nhưng Arius
được sự hậu thuẫn của Giám mục Eusebiô, từ đó cuộc “chiến tranh tín lý” ngày
càng dữ dội hơn. Constantine là một kẻ “hộ giáo” đầy quyền lực của giáo
hội Rôma. Ông quyết định triệu tập một đại Công đồng tổ chức tại Nikêa.
Công đồng Nikêa bắt đầu làm việc từ ngày 20/5/325 dưới sự chủ trì của chính
hoàng đế La Mã Constantine. Một văn kiện được đưa ra buộc mọi người phải tin và
ký nhận: Nội dung văn kiện được tóm tắt vài điểm chính như sau :
“Tin
một Thiên Chúa toàn năng là Cha, ngài là Đấng tạo dựng. Tin Giêsu là con một
Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, Giêsu cũng là Thiên Chúa, được sinh ra nhưng
không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, từ trời xuống thế để cứu
rỗi con người… Giáo hội Rôma sẽ tuyên án những ai nói rằng: Giêsu không có từ
trước muôn đời. Trước khi Ngài sinh ra Ngài chưa có. Ngài bởi không hoặc bởi
bản thể khác mà được tạo dựng…”
Với
một văn kiện có tính áp đặt như thế nên nhiều người đã không ký, tất nhiên
Arius cũng không ký, ông bị trục xuất khỏi giáo hội và lãnh án lưu đày đến tận
Ba Tư. Có nhiều người ký vào văn kiện chỉ vì sợ bị tù tội. Một số người đã ký,
sau đó xin rút lại chữ ký như Giám mục Eusebiô, Giám mục Theognis, Giám mục
Maris. Cả ba ông này lập tức bị bắt và bị lưu đày.
Năm
337, hoàng đế Constantine băng hà, quyền lực đế quốc thuộc về hai người con:
Constant và Constanciô. Năm 350, Constant băng hà, Constanciô nắm trọn quyền
điều hành đế quốc. Năm 351 Constanciô triệu tập Công đồng Sirmium đưa ra một
văn kiện mới: “Tin một Thiên Chúa duy nhất là Cha toàn năng và con một
Người, Chúa Giêsu Kitô sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời, Thiên Chúa bởi
Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, bởi người mà mọi vật được tạo thành…” Nhưng
lần này thì chính những người có uy tín nhất của giáo hội Rôma là Giám mục
Athanasiô và Giáo hoàng Liberiô không ký văn kiện. Những người chống lại công
đồng đều phải bị tù đày kể cả Giáo hoàng Liberiô.
Công
đồng Sirmium II (357) lại đưa ra một văn kiện nhằm hạ thấp vai trò của
Giêsu: “… Chúa Cha cao trọng hơn chúa con, người vượt lên trên Chúa con
về danh vọng, quyền bính, vinh quang và cả danh hiệu làm cha của người…” Công
đồng này hoàn toàn phủ nhận sự “đồng bản tính” giữa Chúa Cha
và Chúa Con.
Nhưng
công đồng Sirmium III lại công bố: “Chúa Con đồng bản tính với Chúa
Cha…”
Nestorius “phẩu thuật Ngôi Hai”
Nestorius(380-440),
Giáo chủ Constantinopoli chủ trương Giêsu sinh bởi bà Maria chỉ là một con
người được tiền định mặc thiên tính, là “công cụ” của Thiên Chúa, Ngôi Lời hành
động qua Thiên Tính trong con người của Giêsu. Với chủ trương như vậy,
Nestorius đã đưa lên bàn mổ “phẩu thuật” Ngôi Hai Thiên Chúa của Công giáo
“Ngôi Lời” và “Giêsu” ra làm hai mảnh riêng biệt. Từ đó đi đến một hệ
luận: Maria chỉ là mẹ của Giêsu chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Hoàng
đế La Mã lúc đó là Theođosiô II triệu tập Công đồng Ephesô. Ngày 22/6/431, cách
chức và tuyên án Nestorius đồng thời khẳng định:Maria chính là mẹ Thiên
Chúa (Theotokos). Chính tại công đồng này là nơi khai sinh ra kinh
Kính Mừng: “…Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng tôi là kẻ có
tội khi nay và trong giờ lâm tử…” Công đồng Ephesô kết thúc với sự
nhìn nhận : “Giêsu có hai bản tính. Đồng bản tính với Đức Chúa Cha về
Thiên Tính và với loài người về Nhân Tính…” Điều trớ trêu là sự nhìn
nhận còn nóng hổi chưa kịp nguội thì một giáo thuyết mới xuất hiện: Phủ nhận
Nhân Tính, Giêsu chỉ có một bản tính duy nhất, tức Thiên Tính. Tác giả của giáo
thuyết mới này là Eutikê (378-454). Giáo thuyết này được sự ủng hộ của
Đioscorô, Giáo chủ Alexanđria. Nhưng điều lạ là khi Eutikê bị Giáo Hoàng Leô (440-461)
tuyên án thì chính Hoàng đế Lamã Theođosiô lại bênh vực cho Eutikê. Một công
đồng mới lại được triệu tập. Một đội vệ binh tinh nhuệ được điều đến làm nhiệm
vụ. Giáo chủ Dioscorô chủ trì công đồng. Ông lệnh cho binh sĩ bắt hết tất cả
các Giám mục chống đối và tuyên bố : “Giết chết ngay những kẻ dám tuyên
bố Giêsu có hai bản tính”. Giám mục Flavian là nạn nhân đầu tiên của
bi kịch, ông bị đánh chết tại chỗ, về sau ông được giáo hội “phong thánh”.
Về
Chúa Thánh Thần cũng thế. Năm 360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn,
Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa Thánh
Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Năm 381, Hoàng đế Theođosiô (379-395)
triệu tập Công đồng Constantinopoli để bổ túc những thiếu sót của Công đồng
Nikêa về Chúa Giêsu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể
trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá,
chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô…” đồng thời phi bác
giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… : “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh
Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa
Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa
Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…” Tất nhiên chỉ có những
kẻ “điếc không sợ súng” mới dám chống lại Công đồng!
Thái
độ của người Châu Á phi Kitô giáo trước cuộc chiến tranh “Bản Tính” - “Ngôi Vị”
Người
Châu Á phi Kitô giáo ngày nay không hiểu Thiên Chúa của Công giáo La Mã “quan
phòng” kiểu gì mà nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù tội, tra
tấn, lưu đày chỉ vì họ đã tham gia vào cuộc tranh biện “Đồng Bản Tính”
(homoousios), “Ngôi Vị” (hypostasis) của Thiên Chúa!
Công
giáo La Mã ngày nay đã kết án những người có chủ trương đi ngược lại tinh thần
công đồng Nikêa được đúc kết lại trong kinh Tin Kính là “lạc giáo”. Nhưng đối
với người Châu Á phi Kitô giáo, chuyện “lạc” hay “không lạc” là chuyện nội bộ
của của các hệ phái Kitô giáo. Người Châu Á phi Kitô giáo chỉ nhìn vấn đề với
một thái độ bàng quan để nhận định: “Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, có
tính phổ quát cho toàn nhân loại” là cái lõi của Tông huấn Giáo hội
tại Châu Á mà Vatican muốn tất cả các dân tộc Châu Á phải thừa nhận, lại cũng
chính là cái lõi gây ra cuộc “chiến tranh tín lý” đã cướp đi
bao sinh mạng ngay trong nội bộ giáo hội.
Trước
những sự kiện lịch sử không thể phủ nhận, buộc người Châu Á ngày nay phải nghĩ
rằng: Giêsu là một con người tội nghiệp bị lợi dụng, là nạn nhân của những thế
lực núp bóng tôn giáo. Vì thế, cần phải “Cứu Độ Giêsu”, phải
trả lại cho Giêsu những gì ông có và đừng bắt ông phải nhận lấy những gì mà ông
không có…
10. CHÚA THÁNH THẦN, THÁNH LINH, THẦN KHÍ LÀ MỘT HAY KHÁC?
Nhiều
học giả nghiên cứu Kitô giáo cho rằng “Chúa Thánh Thần” chẳng qua là sản phẩm
của công đồng Nikêa. Theo các nhà nghiên cứu, cái mà ngày nay Kitô giáo gọi là
“Chúa Thánh Thần” không hề có trong thời Giêsu và các tông đồ. Trong Cựu Ước,
sách Sáng Thế Ký mô tả “Thần Khí” bay là là trên mặt nước (St
1,2) … làm ta hình dung đến một hiện tượng vật lý rất tự nhiên mà ngày nay khoa
vât lý học gọi là sự bay hơi (bốc hơi), chúng tạo nên một màn sương mờ mờ ảo
ảo… Sự nhân cách hóa một hiện tượng tự nhiên thành một vị thần như: thần sông,
thần biển, thần gió, thần núi v.v… là sinh hoạt tín ngưỡng thời sơ khai của con
người trong xã hội nguyên thủy. “Thần Khí” của con người thời sơ khai trong Cựu
Ước cũng không ngoại lệ.
Trong
Tân Ước, “Thần Khí” còn được biết đến dưới một tên khác: “Thánh Linh” (Holy
Ghost, Holy Spirit) được biểu thị bằng một con “chim bồ câu” (xuất hiện khi
Giêsu chịu phép rửa với Gioan Tẩy Giả trên sông Giôđan), hoặc biểu tượng “đốm
lửa” (xuất hiện trên đầu các tông đồ khi các ông đang hội họp trong nhà Tiệc
Ly). Có học giả cho rằng: “chim bồ câu” hoặc “đốm lửa” là vết tích của tín ngưỡng
Tôtem, bái vật trong thời kỳ tiền Kitô giáo…
Dấu
ấn của Tôtem giáo
Tôtem
giáo là một hình thức tín ngưỡng quan trọng vào bậc nhất của xã hội nguyên
thủy. Khoa khảo cổ học đã chỉ ra ý nghĩa của những bức tranh khắc trên vách đá
được tìm thấy trong các hang động thời kỳ đồ đá, mô tả lễ hội tín ngưỡng Tôtem.
Nét độc đáo của lễ hội này là ăn thịt Tôtem (vật tổ) sau khi đã thực hiện nghi
thức cúng bái Tôtem. Người nguyên thủy tin rằng: ăn thịt vật tổ là cách để vật
tổ có thể tồn tại mãi trong mỗi con người. “Ăn” không phải để giải quyết “vấn
đề bao tử” mà ăn trong một trạng thái tâm linh hưng phấn, một nghi thức vô cùng
thiêng liêng. Nghi thức ăn thịt Tôtem (vật tổ) mang một ý nghĩa triết lý sâu xa
trong tâm thức người nguyên thủy. Thông qua nghi thức ăn vật tổ mà con người
thực hiện việc chuyển hóa quan hệ huyết thống họ hàng sang quan hệ thiêng liêng
với Tôtem, vật tổ. Niềm tin vào sự hóa thân của vật tổ vào tất cả mọi thành
viên trong cộng đồng đã khiến cho người ta tin rằng: Khi một phụ nữ mang thai
thì chính Tôtem đã tạo ra cái thai đó…
Dấu
ấn của Tôtem giáo còn khá rõ nét trong Kitô giáo nguyên thủy. Chim bồ câu chính
là Tôtem vật tổ, Khi Maria mang thai thì chính Tôtem đã “phủ” lên bà. Maria thụ
thai bởi phép Chúa Thánh Thần, cũng có nghĩa là bởi Tôtem vật tổ, tức chim bồ
câu… Nghi thức “ăn thịt vật tổ” trong tín ngưỡng Tôtem cũng lại được tìm thấy
trong “Bí tích Thánh Thể” của Kitô giáo. Trước ngày “chịu nạn”, Giêsu họp các
môn đồ lại, cầm bánh bẻ ra và chia cho các môn đồ nói: “Đây là thịt ta,
các con hãy ăn…”. Sau đó ông lấy rượu và chia cho môn đồ rồi
nói: “Đây là máu ta các con hãy uống…” Dù đó chỉ là một nghi
thức tượng trưng với bánh và rượu chứ chẳng có “máu thịt” gì cả! Nhưng nó đã
minh chứng ảnh hưởng của tín ngưỡng Tôtem trong giáo thuyết Kitô giáo. Tín điều
“Ba Ngôi” xác định: Chúa Cha, Chúa Con (tức Giêsu) và Thánh Thần (biểu tượng
chim bồ câu) chỉ là một. “Ăn thịt, uống máu” Giêsu cũng có nghĩa là của Chúa
Thánh Thần, mà Thánh Thần lại chính là “con chim bồ câu”, tức Tôtem vật tổ…
“Chúa Thánh Thần” Sản phẩm của công đồng Nikêa
Chương
ba của Tông huấn nói về “Chúa Thánh Thần”. Đoạn số 15,18 trong
chương này viết : “…Chúa Thánh Thần là mặc khải riêng của Tân Ước…”.
“Chúa Thánh Thần đã từng hoạt động tại Châu Á vào thời các tổ phụ và ngôn sứ
(?), rồi hoạt động mạnh hơn nữa vào thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai
(?),…” (S15,18). Đây là lối nói khoa trương, phóng đại, hoàn toàn
không có căn bản từ Thánh Kinh. Thật vậy, nếu trong Cựu ước, “Thần khí” được
nhắc đến hơn 300 lần thì trong Tân ước, “Thánh Linh” được nhắc
đến rất ít, cụ thể là Gioan nhắc đến 5 lần (Ga 1:32,33 , 3:5,6,8,34 , 7:39,
14:26, 20:22). Matthêu 7 lần(Mt:1:18,20, 3:11,16, 4:1, 10:20, 12:18,28,31,32,
22:43, 28:19).Luca 6 lần (1:15,35,41,67, 2:25,26,27, 3:16,22, 4:1,14,18, 10:21,
11:13). Và ít nhất là Máccô, vỏn vẹn có bốn lần trong toàn bộ Phúc Âm của ông.
Lần thứ nhất: lúc Giêsu chịu phép báptêm của Gioan tại sông Giođan (Mc
1:8,10,12). Lần thứ hai: Giêsu trả lời các kinh sư khi họ cho rằng ông bị quỷ
ám (Mc 3:29). Lần thứ ba: Đa-vít cảm nhận Đức Thánh Linh (12:36) Lần thứ tư:
lúc Giêsu giảng dạy môn đồ (Mc 13:11). Còn “Chúa Thánh Thần” thì hoàn toàn
“vắng bóng” cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước. Tất nhiên, người Kitô hữu sẽ nói
rằng: “Thần Khí” hay “Thánh Linh” chính
là “Chúa Thánh Thần” tức “Ngôi Ba Thiên Chúa”.
Nhưng đó chỉ là tín điều của Giáo hội buộc tín đồ phải tin, hoàn toàn không có
căn cứ….
Chúa
Thánh Thần như người ta hiểu ngày nay là: Đấng thông ban sự sống, Đấng
bảo trợ, hướng dẫn, dìu dắt, là ánh sáng, sức mạnh v.v… Vị Chúa này
chỉ được biết đến từ công đồng Nikêa. Mãi 300 năm sau, kể từ ngày Giêsu qua
đời, Chúa Thánh Thần mới được “sinh ra”, mà lại “sinh ra” trên đất Thổ Nhĩ Kỳ.
Người “sinh ra” Chúa Thánh Thần chẳng ai xa lạ, chính là Constantine hoàng đế
của đế quốc La Mã. Lịch sử ghi nhận rằng: năm 325 Hội nghị các Giám mục được
hoàng đế La Mã là Constantine triệu tập tại Nikêa (Thổ Nhĩ Kỳ) gọi là Công đồng
Nikêa-Constantinopoli. Trong công đồng này, người ta đưa ra một số tín điều
buộc mọi người phải tin, trong đó có tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Đồng
Trinh v.v… các tín điều trên được tóm tắt trong một văn bản mà ngày nay ta gọi
là “kinh Tin Kính”. Chúa Thánh Thần được “khai sinh” từ đó.
Năm
360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn
chủ trương giáo thuyết:“Chúa Thánh Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Có
nhiều chứng cứ từ Cựu Ước lẫn Tân Ước để họ tin như thế. Ngay danh xưng “Thần
Khí” cũng đã hàm xúc một cái gì đó được Chúa Cha tạo ra để ban lại cho con
người: “Nhờ bởi Thần Khí mà Ngài đã ban cho ta…” (Rm 5:5) v.v…
Tất nhiên, quan điểm xem Chúa Thánh Thành là tạo vật bị giáo hội bác bỏ.
Năm
381, Công đồng Constantinopoli được triệu tập bởi Hoàng đế Theođosiô (379-395).
Công đồng đã phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… Văn kiện “Niềm
Tin Tông Đồ” một lần nữa lại được bổ sung: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh
Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa
Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa
Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…”
“Chúa Thánh Thần” của Vatican ngày nay
Đặc
điểm của Chúa Thánh Thần thời đó là: ban ơn, che chở, giữ gìn cho các tín đồ.
Ngày nay khoa thần học đã “nâng cấp” Chúa Thánh Thần lên rất nhiều bậc… nào là
sáng tạo lịch sử, hoạt động và hướng dẫn lịch sử v.v… Ngài là biểu tượng của
sức mạnh và là sự khôn ngoan. Trong nhiều trường hợp, Vatican đã “bắt” Chúa
Thánh Thần phải “khôn ngoan” đến mức “tinh quái”. “…Khi ban Thánh Thần
Đức Kitô cho Giáo hội, là Chúa cũng đồng thời ban hoa trái sứ mạng cứu độ của
Ngài cho mọi dân tộc qua mọi thời đại dựa vào việc Giáo hội công bố tin mừng và
yêu thương phục vụ gia đình nhân loại… Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn
để đóng vai trò của mình trong việc hoàn thành chương trình của Chúa”(S17).
Dù “khôn ngoan tinh quái” nhưng Chúa Thánh Thần vẫn bị Vatican đánh lừa, xỏ
mũi… Đọc đoạn trích dẫn trên ta có thể nhận ra ngay dù Chúa có “ban này, ban
nọ…” cho mọi dân tộc qua mọi thời đại, nhưng phải “dựa vào việc giáo
hội công bố…”. Nếu không “dựa vào” nghĩa là không
được giáo hội “cho phép” thì Chúa muốn ban cũng đành “chào thua..” Nhưng “siêu”
nhất là Vatican đã “bắt” Ngài phải “chui tọt” vào trong các tôn giáo như Phật
giáo, Ấn giáo, để làm “gián điệp” cho Vatican… “Giáo hội tin chắc rằng
ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo Á Châu này luôn có
một sự khao khát “nước hằng sống”, một sự khao khát do chính Chúa Thánh Thần
khơi dậy và chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn. Giáo hội trong chờ
Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu này để họ bước vào
cuộc đối thoại với Đấng Cứu Tinh nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần trong khi thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ, Giáo hội có thể tạo điều
kiện cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau, trong khi các dân
tộc ấy tìm kiếm một cuộc sống sung mãn. Chỉ khi nào có cuộc gặp gỡ ấy người ta
mới tìm được nước hằng sống đem lại sự sống đời đời, hay cụ thể hơn, cho họ
hiểu biết Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô do Ngài sai
đến…” (S18).
Người
đọc vô tư, khách quan, không thiên kiến khi đọc đoạn trích dẫn trên cũng phải
tự hỏi: Chúa toàn năng hay Vaticăn toàn năng? Vì 97% dân chúng phi Kitô giáo ở
Châu Á chưa hề biết Giêsu là ai! Chúa Thánh Thần là ai? Chúa không thể tự bộc
lộ mình trước quần chúng Châu Á mà phải thông qua Vatican, phải được Vatican tạo
điều kiện: “Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc
Châu Á gặp gỡ nhau…” Đó là chưa nói đến việc quần chúng Châu Á có “cần
gặp” hay không.
Tuy
nhiên với phong cách vốn có của mình Vatican cứ tiếp tục giọng điệu quen
thuộc: “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn
tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết
lý của họ…”(S15) “…Bất cứ điều gì Thánh Thần làm được trong tâm hồn con
người, trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và trong các tôn giáo,
đều là sự chuẩn bị cho tin mừng và có thể hiểu đó cũng chỉ là quy chiếu về Đức
Kitô…”(S16). Tuy nhiên, để không bị “hố” trước vấn nạn mà người Châu Á phi
Kitô giáo có thể đặt ra là: Giải thích thế nào về con số 3% tín đồ Kitô giáo mà
nếu trừ Philippines ra chỉ còn khoảng 1% trong tổng số 3,3 tỷ người trên lục
địa Châu Á? Chúa Thánh Thần ở đâu? Ngài đang làm gì? Nếu “…hoạt động
vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần” trên lục địa này chỉ mang
lại một kết quả “quá ư khiêm nhường” như thế liệu Ngài còn được Vatican “tín
nhiệm” không? Giáo Hoàng là người khôn ngoan, nên ông có thể đón trước vấn
nạn: “Không được vin cớ Chúa Thánh Thần có mặt khắp nơi để bào chữa cho
việc không thể công bố Đức Giêsu Kitô là vị Cứu Tinh duy nhất và có một không
hai…”(S16). Nếu Chúa Thánh Thần nghe được, có lẽ Ngài cũng phải “phì cười”
và khen ngợi sự thông minh của Giáo Hoàng…
Quyết
tâm của Vatican đã đạt đến cao điểm trong tuyên bố của Giáo Hoàng: “Dù
Giáo Hội sung sướng nhìn nhận bất cứ điều gì chân thật và thánh thiện trong các
truyền thống tôn giáo của Phật giáo, An Độ giáo và Hồi giáo đều là phản ánh sự
thật đang khai sáng mọi người, nhưng như thế không có nghĩa là giáo hội phải
bớt đi nhiệm vụ và quyết tâm của mình, tức tuyên bố một cách dứt khoát Đức
Giêsu Kitô là đường đi, sự thật và sự sống… Thật ra tín đồ trong các tôn giáo
ấy vẫn có thể nhận được ơn Chúa và được Đức Kitô cứu độ ngoài phương thế thông
thường mà ngài đã lập ra, điều ấy không loại bỏ việc họ được kêu gọi đến nhận
lãnh đức tin và phép Rửa như Chúa hằng muốn cho hết mọi người” (S31)
* * *
PHẦN III
HỘI NHẬP VĂN HÓA HAY “ĐỨC TIN” THÁCH THỨC “VĂN HÓA”
Giáo phận tại Á châu (data năm 2015)
Dioceses use a Latin cross; archdioceses have a double-bar
cross;
patriarchates and major archdioceses use a triple-bar cross.
Eastern-rite sees are denoted by brown markers, and Latin-rite purple.
1.HIỂU
THẾ NÀO VỀ “VĂN HÓA ĐỨC TIN”
Tôn
giáo và văn hóa là hai lĩnh vực liên quan mật thiết với nhau, chúng quan hệ
biện chứng sinh thành. Cách nào đó, có thể nói tôn giáo thuộc phạm trù văn hóa.
Văn hóa không chỉ là học thuật, tư tưởng mà còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác như
kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục tập quán v.v… Nói một cách ngắn gọn như
cụ Đào Duy Anh trong Việt Nam Văn Hóa Sử Cương thì: “văn hóa tức là
sinh hoạt”. Do đó, nếu vấn đề được nhìn dưới góc độ tôn giáo, tức nhìn
ở góc độ hẹp so với góc độ rộng hơn là văn hóa. Cứ nhìn vào nội dung văn kiện
Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á sẽ thấy, tác giả đã trình bày khái
quát những vấn đề lớn như kinh tế, chính trị, xã hội, đến những vấn đề nhỏ hơn
như: toàn cầu hòa, nợ nước ngoài, môi trường, du lịch, thông tin đại chúng,
thậm chí cả những vấn đề tiểu tiết hơn như các tệ nạn xã hội ma túy, mại dâm,
siđa v.v… tất cả những vấn đề trên, vấn đề nào không thuộc phạm trù văn hóa?
Ngay cả những thứ mà ngày nay người ta gọi là “phi văn hóa” hay “phản văn hóa”,
cũng là văn hóa, nhưng là văn hóa độc hại, văn hóa đồi bại cần bài trừ…
Bảo
vệ bản sắc và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc là điều phải làm với bất kỳ
nền văn hóa nào. Quan niệm thế nào là văn hóa cũng còn tuỳ thuộc vào các tiêu chí
mà nền văn hóa đó yêu cầu. Tuy nhiên tất các nền văn hóa đều có một điểm chung,
đó là tính thích nghi một cách có chọn lọc trong quá trình giao thoa giữa các
nền văn hóa, là động lực thúc đẩy sự phát triển của một cộng đồng dân cư. Nói
cách khác: Văn hóa là một tiến trình lịch sử phản ánh toàn bộ sinh hoạt tinh
thần lẫn vật chất của một địa phương nhất định, thuộc một cộng đồng nhất định…
Đành rằng văn hóa phản ánh các sinh hoạt về phong tục tập quán, giao tiếp, ứng
xử, văn chương, nghệ thuật… Nhưng đôi khi người ta dung tục lạm bàn văn hóa. Ví
dụ có người nói đến nền “văn hóa xe hơi” của Hoa Kỳ, “văn hóa cà ri cay” của Ấn
Độ và gần đây tại Việt Nam, người ta thường nói đến “văn hóa ẩm thực”, “văn hóa
thời trang” thậm chí còn có cả nền “văn hóa xe gắn máy” ở những đô thị lớn.
Riêng đối với Vatican, hiện nay người ta đang ráo riết phổ biến một thứ văn hóa
tại Châu Á: “văn hóa đức tin”.
Từ
văn hóa dẫn vào tôn giáo để giới thiệu “Tin Mừng” Kitô giáo là
lộ trình mà Tông Huấn Giáo hội tại Châu Á vạch ra nhằm định hướng mục
tiêu “Phúc Âm hóa Châu Á”. Vatican dùng một cụm từ rất thời
thượng để chỉ mục tiêu này: “Hội nhập văn hóa.”
Thế
nhưng, hội nhập văn hóa được Vatican hiểu thế nào? Trước hết, ta hãy nghe Tổng
Giám Mục G.B Phạm Minh Mẫn nhắc lại một định nghĩa của Giáo hội Công giáo La Mã
về “Hội nhập văn hóa” trong một bài viết cùng tên của ông đăng trên
website vietcatholic như sau: “…Giáo Hội định nghĩa về hội nhập văn hoá như là
"Tiến trình qua đó một cộng đoàn Giáo Hội sống kinh nghiệm vào đức tin
Kitô giáo của mình trong một bối cảnh văn hoá cụ thể, làm sao để không những
kinh nghiệm và đức tin đó được diễn tả bằng những yếu tố của văn hoá địa
phương, mà còn trở nên sức mạnh linh hoạt hoá, định hình và canh tân cách sâu
xa nền văn hoá đó, để tạo nên những mẫu mực hiệp thông và giao lưu trong và
vượt trên nền văn hoá đó"(Chúa Kitô và các nền văn hoá, Tài liệu của
Giáo Hoàng Học Viện Gregorio, 1983).
Qua
định nghĩa trên, ta thấy “Hội nhập văn hóa” kiểu Vatican là một tiến trình được
thực hiện nhiều bước. Bước thứ nhất là: Dùng “đức tin Kitô giáo” để
diễn tả các yếu tố văn hóa địa phương mà bất chấp là nó có phù hợp hay không.
Ví dụ quan niệm về “Trời” của các nền văn hóa Á Đông được hiểu
là “Thiên Chúa” của Kitô giáo!? Bước thứ hai là: “định
hình và canh tân” nền văn hóa đó. Không hiểu Vatican “định
hình và canh tân” bằng cách nào? Thắc mắc trên được giải đáp ở bước
thứ ba: Tạo nên mẫu mực “hiệp thông”. Mà “hiệp
thông” theo kiểu của Vatican như thế nào thì mọi người đã rõ, nghĩa là
phải gia nhập đạo Công giáo. Và cuối cùng là “vượt lên trên nền văn hóa
đó!?” hay nói một cách khác là đồng hóa nền văn hóa đó thành văn hóa
Kitô giáo.
Để
cụ thể hóa định nghĩa trên, Giám Mục G.B Phạm Minh Mẫn giải thích: “Trong
tiến trình hội nhập văn hóa, Tin Mừng đảm nhận và thanh tẩy các nền văn hoá,
giúp nền văn hóa tìm lại được nét tinh khôi và những giá trị đích thực”
Không
hiểu dựa vào đâu mà Giám mục Phạm Minh Mẫn dám quả quyết là “Tin
Mừng” có thể đảm nhận và “thanh tẩy”các nền văn hóa, giúp
các nền văn hóa tìm lại được “nét tinh khôi” và những giá trị
đích thực? Người Châu Á xưa nay vẫn tự hào về di sản văn hóa của mình. Nhiều
nền văn hóa của nhiều dân tộc Châu Á được xem là kho tàng qúy báu được cả nhân
loại trân trọng và thừa hưởng. Thế mà Vatican lại cho rằng cần phải “thanh
tẩy” các nền văn hóa đó bằng “Tin Mừng” của Kitô giáo
mới có thể mang lại “nét tinh khôi” cho các nền văn hóa đó.
Phải chăng dưới con mắt của Vatican, tất cả các nền văn hóa Châu Á đều bị “hoen
ố?” nên cần phải “thanh tẩy bằng Tin Mừng?”. Theo họ, giá trị
đích thực của các nền văn hóa Châu Á nằm trong “Tin Mừng”? Có thể coi đây là
một kiểu “thực dân văn hóa”. Dù Giám mục Phạm Minh Mẫn có quả quyết
rằng các nền văn hóa được “thanh tẩy” nhưng “mỗi nền
văn hoá vẫn giữ những sắc thái riêng” tuy nhiên, ông lại thòng thêm
một câu để lòi đuôi: “đồng thời cùng nhau tạo nên catholica unitas,
nghĩa là sự hiệp nhất phổ quát trong Giáo Hội, hiệp nhất trong đa dạng và khác
biệt. Khi đó, Giáo Hội thực sự là khí cụ và dấu chỉ sự hiệp nhất giữa con người
và Thiên Chúa cũng như giữa nhân loại với nhau.”.
Để
hiểu rõ thế nào là “hiệp nhất phổ quát, hiệp nhất trong đa dạng và khác
biệt”, chúng ta hãy đọc chương năm, “Hiệp thông và đối thoại để truyền
giáo” của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á. “…Sự đối thoại mà Giáo hội đề
xuất được xây dựng dựa trên nền tảng là lôgic của sự Nhập Thể…Là bí tích của sự
hiệp nhất toàn nhân loại… Giáo hội sẽ đi gặp gở các dân tộc trên thế giới, và
không quên rằng tuy chỉ là “đàn chiên nhỏ” giữa một tập thể nhân loại rộng lớn,
nhưng mình cũng là men trong khối bột thế giới… Rồi nó đi xa hơn
thế giới Kitô giáo để đến với những tín đồ thuộc các truyền thống tôn giáo
khác…”(S29). Vậy là rõ ràng không thể chối cải. Cái gọi
là “hiệp nhất trong đa dạng và khác biệt” chỉ là cách đánh lừa vụng
về của Vatican. Vì như ta đã biết, một khi chất “men” Kitô
giáo bắt đầu hoạt động trong “khối bột” các tôn giáo
khác thì “hợp nhất” chắc chắn phải xảy ra, còn “trong
đa dạng và khác biệt” chỉ là trò lừa bịp.
Hồng
Y Joseph Ratzinger, Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin. Trong bài nói chuyện của ông
với Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp tại Hongkong từ ngày 03 đến ngày
05-03-1993 (đăng trong báo DC, số ra ngày 16-07-1995). Nội dung bài nói chuyện
được tải đi trên Internet, Website vietcatholic. Ông viết: “Ý đồ của
tôi là cho thấy đức tin Kitô giáo có quyền và có khả năng thông truyền cho các
nền văn hoá khác, tiếp nhận chúng và thể hiện phần của mình cho các nền văn hoá
đó.”
Khi
đã tự cho mình “có quyền và có khả năng”, ông bắt đầu định
nghĩa về văn hóa :“Trước tiên, chúng ta cần phải đặt những câu hỏi sau đây :
văn hoá là gì ? Văn hoá có liên hệ với tôn giáo thế nào, và làm sao văn hoá có
thể tiếp xúc các hình thức tôn giáo vốn xa lạ với văn hoá ? Ta có thể đưa ra
một nhận xét rằng: chính Âu châu thời mới là tác giả đầu tiên khai sinh ra khái
niệm văn hoá, coi văn hoá là một thực tại tách biệt với tôn giáo hay thậm chí
đi ngược lại tôn giáo. Trong tất cả các nền văn hoá mà ta biết được trong lịch
sử, tôn giáo luôn luôn là một yếu tố căn bản của văn hoá, thậm chí là linh hồn
của văn hoá. Chính tôn giáo ấn định cấu trúc của các giá trị và do đó hình
thành nên lý lẽ nội tại của cấu trúc ấy. Từ đây ông quy nạp tất cả các
nền văn hóa trên thế giới vào một phạm trù giả định “thần linh”….: “Thật
vậy, điểm căn bản nhất của các nền văn hoá lớn là cho chúng ta biết các nền văn
hoá ấy đã giải thích thế giới như thế nào để bắt thế giới quy về đấng thần
linh.”
Đọc
đoạn trích dẫn trên, ta thấy vị Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin của Nhà nước
Vatican đã đề xuất một chính sách “bá quyền văn hóa”. Từ chỗ khẳng định một
tiền đề rất mơ hồ: “tất cả các nền văn hóa đều có nguồn gốc từ thần
linh”, Hồng Y Joseph Ratzinger đã tự cho mình “có quyền và có
khả năng” áp đặt “văn hóa đức tin” của Vatican lên
trên các nền văn hóa khác. Ngoài ra, người đọc có thể nhận thấy sự ám ảnh về
một thời kỳ tăm tối mà các phong trào Phục Hưng (thế kỷ 14-17), phong trào Khai
Sáng (Thế kỷ 18) ở Châu Âu đã làm “bốc hơi” đức tin Kitô giáo. Vì thế không lạ
gì trước nhận xét: “chính Âu châu thời mới là tác giả đầu tiên khai
sinh ra khái niệm văn hoá, coi văn hoá là một thực tại tách biệt với tôn giáo
hay thậm chí đi ngược lại tôn giáo”. Sự phát triển của các phong trào trên
vẫn còn phát huy tác dụng đến tận hôm nay và trở thành nỗi ám ảnh đeo bám khiến
những nhà “bảo vệ đức tin Công giáo” ở Vatican không ngừng nỗ lực tìm “thuốc
giải”. (Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong phần nói về Tuyên ngôn Dominus
Jesus). Ở đây, có lẽ chúng ta cũng không cần phải phân tích gì nhiều để có thể
thấy được quan điểm văn hóa của Vatican. Tác giả đã lý luận lòng vòng để cuối
cùng đưa ra một luận điểm rất hàm hồ mà tác giả cho là điểm căn bản nhất : Điểm
quy chiếu duy nhất của tất cả mọi nền văn hóa chính là “thần linh”!?
Đương nhiên “Văn hoá luôn gắn
liền với một chủ thể xã hội là chủ thể một đàng vừa thu thập các kinh nghiệm
của các cá nhân, đàng khác vừa gọt dũa để hình thành nên các quan niệm ấy.” Thế
nhưng tác giả lại lái sang một hướng khác, hướng của “siêu việt lý trí” tức
Thiên Chúa để biến các chủ thể văn hóa thành bù nhìn: “Chủ thể chung ấy
sẽ bảo quản và phát triển những quan niệm mà cá nhân không thể nào tự mình có
được, những quan niệm có thể được gọi là tiền lý trí hay siêu vượt lý
trí...” Từ đó, tác giả đề xuất một hướng đi cho các nền văn hóa bằng
cách bám vào “sự khôn ngoan của các “niên trưởng” và “mặc khải”: “Muốn vậy,
các nền văn hoá sẽ nại vào sự khôn ngoan của các "niên trưởng" là
những người gần gũi với thần thánh hơn; rồi những người đó lại nại vào những
truyền thống nguyên thuỷ mang tính chất của những mặc khải…” Liệu
người Châu Á có thể nào chấp nhận một nền văn hóa mà mọi tìm tòi, sáng tạo của
con người đều bị bóp nghẹt bởi thần linh: “…Nói khác đi, văn hoá nào cũng
phải dựa vào một sự thông tin nào đó của thần linh?”.
Như
đã nói ở trên, văn hóa là một tiến trình lịch sử phản ánh toàn bộ sinh hoạt
tinh thần lẫn vật chất của một địa phương nhất định, thuộc một cộng đồng nhất
định… Văn hóa phản ánh các sinh hoạt về phong tục tập quán, giáo tiếp, ứng xử,
văn chương, nghệ thuật… Tất nhiên, quan niệm thế nào là văn hóa cũng còn tuỳ
thuộc vào các tiêu chí mà nền văn hóa đó yêu cầu. Do vậy, Khi Vatican nói
đến “văn hóa đức tin”, ta phải hiểu rằng đó là một quan điểm
về văn hóa của riêng Vatican mà thôi, không thể quy chụp “văn hóa đức
tin” cho tất cả các nền văn hóa khác. Các tiêu chí mà Vatican đề nghị
cho nền “văn hóa đức tin” của mình không thể “phổ quát” làm
nền tảng căn bản cho tất cả các nền văn hóa khác. Do đó, khi Hồng Y Joseph Ratzinger
viết: “Trước hết, cần phải xác định rằng đức tin tự nó là văn hoá.
Không có đức tin trần trụi, cũng chẳng có văn hóa thuần túy. Nói cách khác, khi
đức tin cho ta biết con người là ai và phải trở nên người như thế nào là đức
tin đã tạo ra văn hoá…” đó là quan điểm của cá nhân ông, còn nếu ông
lấy tư cách Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin, thì đó là quan điểm của Nhà nước
Vatican, của Giáo hội Công giáo, chứ không thể xem đó là quan điểm chung cho
tất cả mọi nền văn hóa, vì thế chúng ta không thể nào chấp nhận việc dựa trên
sự “phổ quát” ảo tưởng của “văn hóa đức tin” để
o ép, áp đặt một cách kỳ quái: “Con người phải cần mẫn học cách vươn
lên để được sung mãn và đạt đến những điều phổ quát, là những điều không thuộc
về một dân tộc riêng lẻ nào mà chính xác là thuộc về dân Chúa…”
2. ĐỨC TIN THÁCH THỨC VĂN HÓA
Trở
lại với Tông huấn Giáo hội tại Châu Á. Đoạn số 21,22 Tông huấn đề cập đến vấn
đề “Hội nhập văn hóa”. Tông huấn viết : “…Ngày nay vấn
đề trở nên cấp thiết đặc biệt khi so sánh với tình hình đa chủng tộc, đa tôn
giáo và đa văn hóa của Châu Á, một nơi vẫn coi Kitô giáo như một cái gì xa lạ…”.
Khi
Vatican đối mặt với văn hóa, tôn giáo Châu Á, tâm lý xem thường, đánh giá thấp
các nền văn hóa và tôn giáo ấy đã đẩy Vatican từ thất bại này đến thất bại
khác… “Hội nhập văn hóa” chẳng phải là cái gì quá mới mẻ… Roberto
de Nobili, Matteo Ricci được xem là “người hùng”, kẻ tiên phong trong việc đưa
văn hóa Kitô giáo hội nhập vào nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa từ thế kỷ 16, nhưng
cũng trớ trêu khi chính Vatican công kích, khiển trách họ về tội “dám”
hội nhập văn hóa không theo truyền thống của Giáo hội. Chính Giáo hoàng
Bênêđitô XIV kết án phương pháp truyền đạo của Roberto de Nobili ở Ấn Độ.
Matteo Ricci cùng chung số phận với lời cáo buộc phá hoại việc truyền giáo tại
Trung Hoa. Đến năm 1939, Giáo hoàng Piô XII mới thừa nhận và “tuyên dương công
trạng” cho họ khi xét thấy suốt bốn thế kỷ công cuộc truyền giáo tại Châu Á vẫn
trong tình trạng “dậm chân tại chỗ”. Một trong những nét độc đáo nhất của văn hóa
Phương Đông là truyền thống xem trọng lễ nghĩa, gia đình dòng tộc là nền tảng
của xã hội. Đạo Hiếu được xem là đặc trưng văn hóa của các dân tôc Phương Đông.
Nhưng khi đến truyền đạo, các thừa sai Công giáo theo lệnh của Vatican buộc
Kitô hữu Phương Đông phải triệt phá bàn thờ tổ tiên! Hành động “phi lễ nghĩa”
buộc Vatican phải trả giá, văn hóa Kitô giáo bị tẩy chay. Trước thực tế đó,
buộc Vatican phải áp dụng chính sách “xét lại”. Ngày 8/12/1939, Giáo hoàng Piô
XII ban hành Huấn dụ Plane Compertum thừa nhận việc thờ cúng tổ tiên ở Trung
Hoa. Hai mươi sáu năm sau, ngày 14/6/1965, Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đã
chính thức công bố thừa nhận việc thờ cúng tổ tiên với sự duyệt y của Vatican.
Huấn dụ Plane Compertum của Giáo hoàng Piô XII thực ra chỉ là biện pháp “chữa
cháy”. Nội dung vẫn phản ánh tinh thần “đạo phiệt” với những ngôn từ như: “cho
phép” giáo hội Trung Hoa và các giáo hội lân cận “được
phép” thờ cúng tổ tiên! Người Kitô hữu Phương Đông phải tự hỏi
Vatican lấy quyền gì? và vì sao việc thờ cúng tổ tiên của mình lại phải được
Vatican “cho phép” mới “được phép” thực
hiện? Văn hóa Kitô giáo trở nên xa lạ với các dân tộc Châu Á không phải vì
người Châu Á cố chấp, hẹp hòi, không muốn chấp nhận văn hóa Kitô giáo, nhưng vì
thái độ áp đặt, tự phụ, kiêu căng, trịch thượng của Vatican.
Những
thất bại liên tục buộc Giáo hội phải nhìn lại và thừa nhận “Hội nhập văn hóa”
là con đường tất yếu để có thề tồn tại trước một thế giời đa văn hóa… Từ Công
đồng Vatican II đến nay, “Hội nhập văn hóa” được xem là một trong những tiêu
chí mà Giáo hội phải đạt được nhằm thực hiện tham vọng “Công giáo hóa” Châu Á.
Muốn thế Vatican “…Không thể xây dựng nước Chúa mà không vay mượn
một số yếu tố lấy từ các nền văn hóa nhân loại…” (S21)
Trong
quá trình hội nhập, các nền văn hóa tiếp thu tinh hoa của nhau để làm giàu nền
văn hóa của mình đã trở thành một xu thế tất yếu. Nhưng đối với Vatican, họ “vay
mượn một số yếu tố lấy từ các nền văn hóa nhân loại … thu dụng nhiều yếu tố
tích cực tìm thấy được từ các nền văn hóa khác nhau ấy…” chỉ nhằm mục
đích “xây dựng nước Chúa”. Tất nhiên, Vatican có quyền làm như vậy,
có điều “Trong quá trình gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau của thế giới.
Giáo hội truyền đạt các chân lý của mình, cũng như đổi mới các nền văn hóa ấy từ
bên trong…” là điều các dân tộc Châu Á không bao giờ chấp nhận, nó
phơi bày lộ liểu tham vọng đồng hóa các nền văn hóa Châu Á thành văn hóa Kitô
giáo bằng những ngôn từ hoa mỹ: “đổi mới các nền văn hóa ấy từ bên trong…”
Lợi
dụng hội nhập văn hóa để Công giáo hóa Châu Á càng lộ liễu hơn khi Tông huấn
viết tiếp: “các nền văn hóa khác nhau ấy một khi đã được tinh lọc và
đổi mới lại dựa vào Tin Mừng sẽ trở thành những cách biểu đạt rất chính đáng
đức tin duy nhất của Kitô giáo…”. Người Châu Á có thể khẳng định:
Vatican chưa đủ tư cách để “đổi mới và tinh lọc các nền văn hóa” Châu
Á, bất chấp Vatican sử dụng lá bùa hộ mệnh “Chúa Thánh
Thần” vừa cũ kỹ, vừa lạc hậu của mình để “hù dọa” các dân tộc Châu Á: “Chúa
Thánh Thần là tác nhân chính của việc đưa đức tin Kitô giáo hội nhập văn hóa
vào Châu Á…Thánh Thần tạo điều kiện cho cuộc đối thoại với các giá trị văn hóa
và tôn giáo của các dân tộc ấy một cách nào đó rồi, ban cho những ai thiện chí
nghị lực cần thiết để thắng vượt sự dữ và mưu mô của Thần Dữ, đồng thời tạo
điều kiện cho mọi người được tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua một cách nào đó chỉ
có Chúa biết?…” Tôi có cảm tưởng tác giả bản Tông huấn đang “mộng du”
trên con đường “hội nhập văn hóa” của mình. “Chúa Thánh Thần” đã “tạo điều
kiện” cho cuộc đối thoại của Vatican với các nền văn hóa Châu Á bằng “một
cách nào đó rồi… chỉ có Chúa biết?” mà chính tác giả dù được “thông
ban sự sáng” cũng mù mờ không thể biết!? Đã thế, từ chỗ “mù mờ
không biết…” đi đến chỗ miệt thị các nền văn hóa đủ mạnh để kháng lại sự áp đặt“văn
hóa đức tin” của Vatican bằng những ngôn từ nghe rất buồn cười: “sự
dữ…, mưu mô thần dữ…”. Tóm lại hành trình văn hóa của Vatican ở Châu Á
chỉ là dự phóng không tưởng.
Từ
dự phóng không tưởng, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Tông Huấn
mang “văn hóa đức tin Kitô giáo” ra để “…thách thức
mọi nền văn hóa dám vươn tới những đỉnh cao mới của sự hiểu biết và diễn đạt…”(S20).
Quyết tâm của Vatican đã quá rõ ràng và trở nên quyết liệt hơn khi muốn tầt cả
các nền văn hóa Châu Á phải được định vị từ “Đức tin Kitô giáo”. Và
vì thế, “trái tim giáo hội sẽ không bao giờ nghỉ ngơi bao lâu toàn bộ
Châu Á chưa tìm được sự nghỉ ngơi trong Đức Kitô, Đức Chúa Phục Sinh”
(S10). Nói cách khác, bằng mọi cách, Vatican không bao giờ tự cho phép
mình “nghỉ ngơi” chừng nào toàn bộ nền văn hóa của các dân tộc
Châu Á chưa được định vị từ văn hóa Kitô giáo.
Văn
hóa, như có người ví là “món ăn tinh thần”, món ăn rất đa dạng, phong phú, có
thể hợp với khẩu vị người này, nhưng không hợp khẩu vị với người khác. Có món
giàu chất này lại cũng có món giàu chất khác. Hương vị của chúng lại cũng rất
khác nhau, nhưng tất cả chúng đều có một đặc tính chung là “bổ dưỡng”. Nếu tất
cả những “món ăn tinh thần” đó được bày trên “bàn tiệc văn hóa” để mọi người
cùng lựa chọn thưởng thức, “thực khách” có cơ hội tự do chọn lựa món ăn hợp
khẩu vị với mình. Điều quan trọng là chúng ta phải ăn chứ không phải chỉ nhìn
để bình phẩm về món ăn, Tuy nhiên, không loại trừ khả năng vì một lý do nào đó
(có thể là vô tình hoặc cố ý) mà những món ăn bổ dưỡng kia lại bị lẫn lộn sạn,
cát… làm cho món ăn mất ngon, thậm chí không thể dùng được. Trong lĩnh vực văn
hóa cũng thường thấy có những yếu tố phản văn hóa mà những nhà bảo vệ văn hóa
cần phải loại bỏ. Người viết tập sách này tự xác định mình không làm công việc
của một nhà phê bình văn hóa, nhưng cảm thấy có trách nhiệm phải “nhặt sạn”
(nếu có) trong những “món ăn tinh thần” hầu trả lại giá trị vốn có của
chúng.
Hội
nhập văn hóa là một vấn đề không phải mới, nhưng chúng trở nên ngày càng quan
trọng trong xã hội loài người. Khi đời sống vật chất được nâng cao thì nhu cầu
hưởng thụ tinh thần cũng được nâng cao theo tỷ lệ thuận với đời sống vật chất…
Trong một thế giới đa chủng tộc, đa văn hóa, xu thế giao lưu, hội nhập văn hóa
đang ngày càng phát triển, các thực thể văn hóa không thể tự đóng khung, tự cô
lập mình để chấp nhận quy luật tự đào thải. Khẩu hiệu “hòa nhập mà
không hòa tan” giữa các nền văn hóa đã và đang được cổ vũ mạnh mẽ,
khuynh hướng giao lưu, giới thiệu bản sắc văn hóa giữa các nền văn hóa của các
quốc gia trên thế giới ngày càng được các nhà làm văn hóa quan tâm ủng hộ tích
cực. Hội nhập văn hóa là cách tự giới thiệu tinh hoa văn hóa mình với thế giới
đồng thời tiếp thu văn hóa thế giới làm cho nền văn hóa mình phong phú hơn.
Ngày
nay, khi trình độ con người đã phát triển cao về mọi mặt, giao thông thuận
tiện, công nghệ thông tin đã chứng tỏ ưu thế của minh trong lĩnh vực thông tin
liên lạc với thế giới bên ngoài, “Toàn cầu hóa” không chỉ có ý
nghĩa trong lãnh vực kinh tế mà còn ảnh hưởng rất lớn đến các vấn đề giáo dục,
văn hóa, xã hội, thậm chí cả lĩnh vực được xem là tế nhị, nhạy cảm như lĩnh vực
tôn giáo. Trong viễn cảnh ấy vấn đề “hòa nhập” được xem như là
một xu thế tất yếu. Hòa nhập mà không hòa tan là một khẳng định của nhiều nền
văn hóa, nhờ không hòa tan mà văn hóa ngày càng phát triển, nhưng vẫn giữ được
bản chất, sắc thái đặc thù của mỗi nền văn hóa.
Nếu
hội nhập văn hóa đã là khuynh hướng chung của mọi quốc gia trên hành tinh này,
thì “quốc gia Vatican” cũng không thể ngoaị lệ nếu không
muốn tự cô lập, tự đào thải. Vì vậy, hội nhập văn hóa là một trong những nội
dung quan trọng được Vatican vạch ra từ Công đồng Vatican II. Nhưng Vatican đã
“hội nhập” với thái độ nào? Đó là điều mà hiện nay nhiều người đang quan tâm.
3. NGUY CƠ LÀM “BỐC HƠI” ĐỨC TIN CÔNG GIÁO VÀ TUYÊN NGÔN
DOMINUS JESUS
Hồng
Y Ratzinger, Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin của Vatican, trong bài viết “Niềm
tin vào Đức Kitô trước sự thách đố của các nền văn hoá” được tải đi
trên mạng Internet, Website vietcatholic, có một đoạn như sau: “Chính
Âu châu mới là tác giả đầu tiên khai sinh ra khái niệm văn hoá, coi văn hoá là
một thực tại tách biệt với tôn giáo hay thậm chí đi ngược lại tôn giáo”. Ở
đây, tôi không có ý phê bình, phân tích các giá trị “đúng-sai” về quan niệm
“văn hóa” của tác giả. Tôi chỉ muốn tìm hiểu về hoàn cảnh, động lực nào để tác
giả có nhận định như trên.
Tại
Âu Châu, lục địa được mệnh danh là “lục địa Kitô giáo” với sự tồn tại của các
hệ phái Kitô giáo mà nổi bật nhất phải kể đến Công giáo La Mã. Tôn giáo này đã
có một thời làm bá chủ Châu Âu, vua chúa các nước Châu Âu đều phải thần phục!
Đương nhiên văn hóa Châu Âu nói chung là văn hóa Kitô giáo. Đến thế kỷ
14-17, nổi lên một trào lưu văn hóa mới: Phong trào Phục Hưng. Đại diện
cho phong trào này là Petrarch (1304-1374). Phong trào Phục Hưng đã thẩm định
lại toàn bộ giá trị văn hóa Kitô giáo. Đến thế kỷ 18, với phong trào Khai Sáng.
Một trong những con chim đầu đàn của phong trào này là Voltaire, với câu nói nổi
tiếng: “Nói thật rồi chạy!” (Tell the truth and run!). Chính họ đã làm đức tin
Kitô giáo lung lay đến tận gốc rễ. Các phong trào Phục Hưng và Khai Sáng thực
sự đã trở thành nỗi ám ảnh của những nhà “bảo vệ đức tin” ở Vatican. Ảnh hưởng
của chúng vẫn còn phát huy tác dụng đến tận hôm nay, chúng không những chỉ ảnh
hưởng trong lĩnh vực xã hội mà còn tác động đến cả những nhà thần học có khuynh
hướng cấp tiến, khiến nguy cơ làm “bốc hơi” đức tin Kitô giáo ngày càng trở nên
hiện thực hơn. Đặc biệt, khi văn hóa Phương Tây giao lưu với văn hóa Châu Á,
nguy cơ phá vỡ các cơ cấu “văn hóa đức tin” của Vatican tăng lên bội phần. Đây
là lý do khiến những nhà “bảo vệ đức tin Công giáo” ở Vatican không ngừng nỗ
lực tìm “thuốc giải”. Tuyên ngôn Dominus Jesus được ban hành không ngoài mục
đích đó.
Tuyên
ngôn Dominus Jesus được Hồng Y Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của
Vatican ký ban hành ngày 6/8/2000 với sự phê duyệt của Giáo hoàng Gioan Phaolô
II đã là một đề tài mang tính thời sự trong thời gian gần đây.
Nội
dung Tuyên ngôn Dominus Jesus nhằm khẳng định lại vấn đề “Giêsu là đấng
cứu độ phổ quát duy nhất và Giáo hội Công giáo La Mã cũng là Giáo hội cứu
độ phổ quát duy nhất!”. Chính từ căn bản này, Tuyên ngôn Dominus Jesus nêu
lên một số vấn đề cơ bản như: Xác tín Thiên Chúa là điều không thể lãnh hội và
diễn tả bằng trí năng con người. Cảnh cáo các khuynh hướng tương đối hóa “Ngôi
Lời Nhập thể”, qua việc chọn lựa các phạm trù Đông phương trong suy tư thần học
nhằm biện minh cho thuyết đa nguyên tôn giáo. Theo đó, các thần học gia phóng
khoáng đã trình bày lý thuyết cứu độ của các tôn giáo khác như là hệ thống song
song hoặc tương đương với lý thuyết cứu độ của Công giáo La Mã. Điều này dẫn
đến nguy cơ làm phá sản tính “cứu độ phổ quát và tuyệt đối duy nhất”
của Giêsu và của Giáo hội Rôma…
Tuyên
ngôn Dominus Jesus mang tính chất “hộ giáo” vì nó không đưa ra một tín lý giáo
điều nào mới mà chỉ khẳng định lại một điều đã được nói nhiều từ công đồng
Vatican II và mới đây nhất là Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, đó là “tính
phổ quát và duy nhất của Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và giáo
hội Công giáo La Mã là phương tiện duy nhất để đạt được sự cứu độ”.
Mặc
dù đối tượng mà Tuyên ngôn Dominus Jesus nhắm đến là các Giám mục, các nhà Thần
học và tín đồ Kitô giáo và mục đích Tuyên ngôn chỉ là sự khẳng định lại giáo lý
đức tin Công giáo dựa trên những văn kiện đã được Vatican ban hành trước đây
như Thông điệp Redemptoris Missio, Sắc lệnh Ad Gentes, Tuyên ngôn Nostra Aetate
v.v… nên có thể xem Tuyên ngôn Dominus Jesus là một hoạt động nội bộ của
Vatican. Nhưng với thời đại “bùng nổ thông tin” hiện nay, với phương tiện
truyền thông Vatican hiện nắm trong tay, những điều gọi là “nội bộ” của Vatican
đã trở thành “thông tin đại chúng”. Đó là chưa nói đến Internet. Con người dù ở
bất cứ nơi nào trên hành tinh này, thông qua mạng thông tin toàn cầu Internet,
chỉ cần một cú “click chuột”, người ta có thể biết được tất cả… Do đó, “chuyện
nội bộ” mà Vatican cố tình “bỏ ngỏ” trên các phương tiện truyền thông đại chúng
khiến người ta không thể ngó lơ. Hơn nữa, Tuyên ngôn lại là một văn kiện mang
tính pháp lý của Vatican do Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican đã ký ban
hành với sự duyệt y của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Nội dung chuyển tải những
điều hạ thấp học thuyết, xúc phạm những vị sáng lập các tôn giáo khác nhằm đề
cao Giáo hội Công Giáo La Mã như: không thể chấp nhận quan điểm cho
rằng Giáo hội Công giáo La Mã chỉ là một phương thế trong nhiều phương thế “cứu
độ” như các tôn giáo khác. Không thể có sự tương đương giữa các con đường cứu
độ của các tôn giáo khác với Giáo hội. Vì thế không thể có sự bình đẳng trên
bình diện giáo lý và nhất là không thể xem Chúa Giêsu ngang bằng với các giáo
chủ của các tôn giáo khác.
Chẳng
những đối với các tôn giáo phi Kitô giáo, các hệ phái Kitô giáo khác như Anh
giáo, Chính Thống, Tin Lành v.v… đều lên tiếng phản đối, phẩn nộ trước một tam
đoạn luận mà tuyên ngôn đã vận dụng: Tất cả những ai chịu phép Rửa đều được sát
nhập vào Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Giáo hội Công giáo La Mã là Nhiệm thể
Chúa Kitô. Vậy tín đồ trong các hệ phái Anh giáo, Chính Thống, Tin Lành v.v…
không thuộc Giáo hội Công giáo La Mã, tất nhiên không thể sát nhập vào Thân Thể
mầu nhiệm Chúa Kitô một cách trọn vẹn được. Nghĩa là không thể hiệp thông một
cách hoàn hảo như Giáo hội Công giáo La Mã, vì Vatican là “Hội thánh duy nhất
thánh thiện, Công giáo và tông truyền!?”
Trong
lúc Vatican đang ra sức kêu gọi “hiệp thông, đại kết” với các “giáo hội anh
em”, thì Hồng Y Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin lại ban hành Tuyên ngôn
Dominus Jesus làm sống lại châm ngôn đã lạc hậu của Cypriano “ngoài
Giáo hội không có ơn cứu độ” (Extra Ecclesiam nulla salus). Giám mục
George Carey, Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo. Mục sư Peter Sulston thuộc Giáo hội
Methodist cho rằng Vatican đã mưu toan “xoá sổ” các hệ phái Kitô giáo ngoài
Giáo hội Công giáo La Mã…
*
* *
THAY LỜI KẾT
Châu
Âu từng được mệnh danh là lục địa Kitô giáo trong suốt hai thiên niên kỷ qua.
Công giáo La Mã là một thực thể tôn giáo quan trọng nhất trên lục địa này. Cũng
tại Châu Âu, mảnh đất của sự tiến bộ, chính tại nơi đây các phong trào Phục
Hưng (thế kỷ 14-17), phong trào Khai Sáng (Thế kỷ 18) đã làm lung lay đức tin
Kitô giáo đến tận gốc rễ. Châu Âu cũng là nơi khai sinh ra các ngành khoa học,
các học thuyết Tiến hóa, big bang v.v… đã đẩy tín lý Kitô giáo đến bờ vực phá
sản. Trên lĩnh vực xã hội, tín đồ Kitô giáo Châu Âu nói chung ngày càng ít đi.
Lớp trẻ ngày nay gần như không biết nhà thờ là gì! Nhiều người tự thú trong
suốt cuộc đời, họ đến nhà thờ ba lần, chỉ có một lần khi lập gia đình, họ tự
đến để nhận “phép bí tích hôn phối”. Hai lần kia hoàn toàn không biết gì, đó là
lúc mới sinh người ta mang họ đến nhà thờ “rửa tội”, và khi chết người ta lại
đưa họ vào nhà thờ trước khi đưa ra nghĩa trang!… Ngày nay, Vatican luôn phải
đương đầu với các vấn đề xã hội mà thường là những vấn đề chống lại tín lý Kitô
giáo như: ngừa thai, ly dị, tình dục ngoài hôn nhân và mới đây nhất, một vấn đề
được xem là thời sự nóng hổi: nhân bản vô tính. Con người bắt đầu cướp quyền
sáng tạo của Thiên Chúa... Trong nội bộ giáo hội cũng không lấy gì làm sáng
sủa, nhiều linh mục bỏ nghề, nhiều linh mục khác đòi quyền … lấy vợ. Chính tại
nơi được mệnh danh là lục địa Kitô giáo này đã dần lấy lại thế chủ động khiến
quyền uy của Vatican ngày càng thu hẹp, tất nhiên không loại trừ nguy cơ mất
hẳn ảnh hưởng của mình tại Châu Âu. Đó là lý do giải thích vì sao thời gian gần
đây Vatican muốn chuyển hướng sang Châu Á.
Văn
kiện Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là sự khởi đầu cho một kế hoạch dài hơi của
Vatican tại Châu Á trong thiên niên kỷ thứ ba. Mặc dù Vatican đã thấy trước
được những khó khăn mà họ gọi là “thách đố” khi phải đối mặt với các thực tại
văn hóa, tôn giáo Châu Á. nhưng họ vẫn không tránh được vết xe đã đổ trong quá
khứ, vẫn cứ tiếp tục phong cách vốn có của mình, vẫn khoa trương ngạo mạn, đánh
giá thấp các nền văn hóa Châu Á. Dự đoán về những thất bại của Vatican tại Châu
Á trong thiên niên kỷ thứ ba là hoàn toàn có cơ sở.
Người
Châu Á với truyền thống bao dung, rộng lượng sẵn sàng góp tiếng nói của mình
với mong muốn Vatican phải có một thái độ nghiêm túc hơn nếu muốn đối thoại
chân thành với các thực tại văn hóa Châu Á.
Ngô
Triệu Lịch