NGÔ ĐÌNH DIỆM, NƯỚC BẠI THEO MỘT NGƯỜI
Hồ Sỹ Khuê
LGT- Tác giả Hồ Sỹ Khuê là
một trong những “mưu sĩ” của hai ông Diệm Nhu không nằm trong
Nhóm “Tinh Thần” (Trần Văn Đỗ, Nguyễn Tăng Nguyên, Lê Quang Luật,
…) và đã từng đóng góp một phần vào chánh sách trị nước của ông Diệm trong
giai đoạn thành hình của Đệ Nhất Cọng hòa.
Sau 1954, Ông trình bày với
hai ông Diệm Nhu một quốc sách dựa vào sức mạnh của lòng dân “Nam kỳ” để xây
dựng chiến lược đối phó với phương Bắc. Hai ông Diệm Nhu không nghe, lại dùng
“kiêu dân Công giáo”(từ của Tạ Chí Đại Trường) di cư làm chủ lực, gây phân
hóa cho miền Nam trên cả ba tuyến Địa phương, Tôn
giáo, và Chính trị. Sau đó, khi được mời tham chánh, ông
từ chối và trở về dạy học tại trường Jean Jacques Rousseau (Lê Quý Đôn sau nầy)
và trở thành người “quan sát thời cuộc”.
Năm 1992, tại Pháp, với tư
cách là chứng nhân và tác nhân thời cuộc, ông viết một loạt bài nhan đề “Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh - Lịch trình
Hình thành và Giải thể của Mặt trận Giải phóng Miền Nam” đăng trên báo
chí hải ngoại. Loạt bài nầy, sau đó, được triễn khai và chi tiết hóa với nhiều
tài liệu để được xuất bản thành sách “Hồ
Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng” (Văn Nghệ, Westminster, USA,
1992) để trình bày luận điểm lịch sử của ông và thất bại của chế độ Diệm trong
giai đoạn lịch sử nầy.
Dưới đây là vài trích đoạn
...
Tác phẩm (Văn Nghệ, USA,1992) và Tác giả (1997
– Hình tư liệu của NG)
MỘT
CHẾ ĐỘ TOÀN QUYỀN
Người
viết nắm giữ được một số tài liệu liên hệ đến thời điểm khai sinh chính quyền
Ngô Đình Diệm, rơi rãi sau ngày lễ Các Thánh 1963. Theo các tài liệu này, có
thể nêu lên một số sự kiện ý nghĩa.
Trước
tháng 7 năm 1954, khi Bảo Đại chịu áp lực phải đưa Ngô Đình Diệm ra cầm quyền ở
miền Nam, và theo yêu cầu của ông Diệm, một người miền Trung am hiểu “Nam kỳ”
đã soạn cho ông Diệm một tường trình tình hình chính trị Sài Gòn, thực trạng và
sức nặng chính trị của các giáo phái vùng Đồng Nai, Cửu Long. Kết luận bản
tường trình này là đừng nhận thức các giáo
phái theo quan điểm tôn giáo, mà phải nhìn ảnh hưởng chính trị của họ trong
lòng quần chúng “Nam kỳ”. Phải nương theo ảnh hưởng ấy mà đi vào lòng
quần chúng “Nam kỳ”, nhất thiết không nên để các giáo phái trở thành đối
nghịch. Càng không nên tìm cách chia rẽ giáo phái và quần chúng ấy, để không
gây kẽ hở tạo cơ hội cho Cộng Sản chen vào.
Tháng
12 năm 1954, khi Chính phủ Sài Gòn thu hồi dinh Độc Lập người Pháp vừa giao
lại, Ngô Đình Nhu có mời một số người trước đây có thiện cảm với ông Diệm,
nhưng vì lí do này khác, đứng ngoài vòng không muốn cộng tác với chế độ Diệm.
Có người đã nói đến chuyện “tội tổ tông” của chế độ mới và đặt vấn đề
hóa giải, nếu muốn miền Nam thoát khỏi ách Cộng Sản. Tóm tắt đề nghị ấy
là: khi người “Nam kỳ” không giữ quyền
lãnh đạo chính trị, phải chia quyền lãnh đạo ấy với họ, đưa họ vào các trung
tâm quyết định của nhà nước, của quốc gia, đặt họ trước trách nhiệm cứu nước.
Ông Diệm chỉ nên giữ vai trò đảm bảo cho các chính quyền miền Nam dân chủ và tự
do, không Cộng Sản.
Nhưng
con người khó thoát khỏi bản chất cố hữu của mình. Ngô Đình Diệm không
lột được xác quan lại cũ để vươn lên hàng một chính khách đúng mức đáp ứng các
vấn đề Việt Nam lúc bấy giờ. Lại càng không đóng nổi vai trò lãnh đạo trong
hoàn cảnh phức tạp, tế nhị bên trong cũng như bên ngoài đất nước. Cho nên Ông không xây dựng một chế độ chính trị mà chỉ thiết lập một chế độ cai trị, hành chánh. Một chế độ “toàn quyền” miền
Nam, hệt như chế độ Toàn quyền Đông Dương cũ của người Pháp. Nhà nước Sài Gòn
chỉ là một tổ chức quyền lực ghép lên dân chúng trong cõi, như ván ghép ghép
vào gỗ.
Hành
chánh để cai trị dân thì có. Dùng luật pháp để bảo vệ trật tự trên cơ sở một tổ
chức công an cảnh sát giàu phương tiện và bất chấp nhân tình. Các ông huyện Tây
học cũ của triều đình Huế được tận dụng, người thì đi các tỉnh lo việc củng cố
thế lực còn mong manh của lãnh tụ, người thì ở thủ đô, rập theo khuôn sáo miền
Bắc Cộng Sản, tổ chức liên gia, tố cộng, hòng kiểm soát dân chúng.
Nhưng
chính trị thì không ! Vì coi nhẹ việc dung hợp nhân dân, ngờ vực dân Đồng Nai Bến
Nghé. Cho nên ông Diệm chỉ chọn lọc kỹ lớp khuyển mã người Nam gọi dạ
bảo vâng, rồi tự mãn là dành nhiều địa vị cho người “Nam kỳ” đúng theo sự đòi
hỏi của tình thế.
Quan
trọng hơn cả là việc đối xử với thành phần cựu kháng chiến chống Pháp quay về
thành. Năm 1949, nhóm Tinh Thần gồm một số trí thức Sài Gòn
ủng hộ Ngô Đình Diệm, đã cưỡng ông Diệm chấp nhận một số tuyên cáo cam
kết với anh em kháng chiến sẽ dành cho họ một địa vị, một phần trách
nhiệm đúng mức, khi họ trở về với chính thể quốc gia độc lập về sau. Năm năm
sau, quả ông Diệm lên cầm quyền, và anh
em kháng chiến trở về thành đã chịu nhiều điêu đứng trong cái chế độ cảnh sát
trị của ông. (Đồng bào đang ở Pháp có thể tìm gặp Trần Văn Đỗ, một
thành viên của nhóm Tinh Thần, để xác minh sự kiện).
Những
hy vọng ban đầu của người miền Nam dần dà tan biến. Chính từ đó người trong
nước mới bắt đầu ý thức về cái “tội tổ tông” của chế độ Sài Gòn, một chế
độ “toàn quyền” có tính cách thống trị mà họ không thể nhìn nhận được.
Một
chế độ họ không muốn chấp nhận, sống trong đó họ chịu nhiều tai ương, nên dễ
mang tâm lý ly khai. Đây là thời kỳ đảng Cộng Sản tích cực ly gián nhân dân và
chính quyền. Tuy vậy, người miền Nam cho là mình ở vào cảnh “trên đe dưới búa”,
tới dở lui cũng dở, mà thôi, Cộng Sản chưa lôi cuốn được. Có nhận ra tâm lý ấy
mới hiểu sức mạnh của phong trào Phật giáo vào các năm 60, lật đổ chế độ Ngô
Đình Diệm.Sức mạnh của một quần chúng muốn
thoát khỏi cảnh trên đe dưới búa, cảnh phải chọn lựa giữa Cộng Sản và Ngô Đình
Diệm. Quần chúng ấy đã hội tụ trong phong trào Phật giáo.
Tuy
thế, đã có ly cách giữa chính quyền và quần chúng Nam bộ, là có chỗ cho Cộng
Sản khuấy động, làm ầm ĩ chuyện Phú lợi, chuyện Ấp Bắc, chuyện Đồng Khởi, một
nói thành mười, thành trăm, rồi nhân đó mà cho Mặt Trận xuất hiện công khai năm
1960. Chứ thật tình thời cuộc lúc này chẳng có chi mà sôi động bất thường, và
cũng không hề có một phong trào đi bưng ào ạt để thành hàng ngũ cho Mặt Trận.
Sức mạnh duy nhất lúc bấy giờ là Phật giáo, không phải là Cộng Sản nép sau Mặt
Trận. Bằng cớ là trong tình hình chế độ Sài Gòn sụp đổ đang chông
chênh, đảng Cộng Sản không thừa cơ hội mà thao túng nổi.
* * *
TÌNH
HÌNH MIỀN NAM NĂM 1960
Để
thi hành hiệp định Genève, hai miền Nam Bắc phân định và được các cường quốc
chính thức đảm bảo. Kế đến, việc trưng cầu dân ý để thống nhất năm 1956 bị hủy
bỏ. Chế độ hai miền đối nghịch nhau nhưng đều có căn bản pháp lý vững vàng.
Công cuộc tập kết hai bên đã thực hiện khá tốt, mỗi bên đều bận bịu nhiều,
trước hết, vào việc tổ chức cơ cấu nhà nước, xây dựng chế độ riêng, tuyên
truyền cho đường lối của mình, kết hợp quần chúng hòng thiết lập quốc gia, giải
quyết các nhu cầu cấp thiết của mỗi miền.
Trong
hoàn cảnh ấy, và khi hiệp định đã chấm dứt chiến tranh, súng đạn đã im tiếng,
thì các hậu ý bên này hay bên kia về một cuộc tranh chấp bằng vũ lực
tạm thời phải dẹp sang một bên dành ưu tiên cho việc củng cố nền tảng của chế
độ.
Cho
nên, hòa bình đã tái lập cứ thế mà kéo dài. Và có thể nói là suốt chín năm chế
độ Đệ Nhất Cộng Hòa, miền Nam đã sống thanh bình, quần chúng miền Nam dành công
sức để xây dựng lại đời sống của mình, trong không khí thanh bình ấy, ở các đô
thị cũng như ở thôn quê.
QUẦN
CHÚNG MIỀN NAM
Nói
đến quần chúng miền Nam lúc bấy giờ, là nói đến một hỗn hợp phức tạp.
Thành
phần đông đảo hơn cả là người “Nam kỳ”. Những người đang sống trên chính đất
gốc của mình, đất “Nam kỳ”, từ nay trở
thành nền tảng lãnh thổ quốc gia: 65% dân số.
Tương
lai của quốc gia từ vĩ tuyến 17 đổ xuống tất nhiên tùy thuộc vào đất “Nam kỳ”
và vào người “Nam kỳ”. Đất phì nhiêu đủ nuôi ăn cả nước. Người có mức độ văn
hóa, chuyên nghiệp cao hơn nơi khác. Gồm sẵn một số cơ sở thương nghiệp, kỹ
nghệ có thể làm bước đầu cho việc phát triển kinh tế lúc bấy giờ là một ưu
tiên.
30%
dân số khác của miền Nam gồm người đất “Trung kỳ” bên dưới vĩ tuyến 17. Chật
vật nhiều xưa nay, nhưng vẫn không khỏi phải nhờ đến lúa gạo “Nam kỳ” để có thể
giáp mùa hàng năm. Thành phần còn lại, 5%, là đồng bào Bắc Việt di cư. Và một
số vài ngàn người, từ Bắc từ Trung, theo nhân vật lãnh đạo vào Nam thiết lập
chế độ mới. Gồm quan lại, công chức cũ, cùng tập đoàn tay chân, sớm có muộn có,
đã quây quần dưới trướng ông Ngô Đình Diệm. Lấy thành phần di cư làm
căn bản quần chúng, lấy tay chân làm nòng cốt cho chế độ Cộng Hòa.
TƯƠNG
QUAN GIỮA CHẾ ĐỘ VÀ QUẦN CHÚNG
Ngô
Đình Diệm thiết lập chế độ của mình trên những thành phần nhân dân phức tạp như
vậy mà nhất đán không gặp một khó khăn nào từ quần chúng. Những khó khăn buổi đầu
ông đã vấp phải đều do nguồn gốc tương
tranh quyền lợi giữa ông và các thế lực đối đầu với ông (như Bình Xuyên, như
Nguyễn Văn Hinh), quần chúng miền Nam nói chung không can dự vào.
Điều
đáng nêu lên trước hết, là tinh thần “Nam kỳ quốc”, trước kia thường được nhắc
đến để dè bỉu người Nam, xem như là một trở ngại lớn cho tinh thần thống nhất
dân tộc, nay không thấy phát hiện. Tuy điều kiện để nó phát hiện đã có đủ, nhất
là khi quyền binh nằm trong tay một người không phải gốc “Nam
kỳ”.
Người
“Nam kỳ” không đố kị chút nào với chế độ mới, trong đó họ không được
dành một phân quyền lực xứng đáng với tầm quan trọng của họ. Không đố kỵ chút
nào với nhân vật cầm đầu chế độ, họ chưa hề nghe nói đến tên tuổi, mà nay làm
chủ phần đất gốc gác của họ.
Người
ta có thể thấy rõ thái độ cởi mở ấy trong cách đồng bào miền Nam tiếp đón đồng
bào miền Bắc di cư. Sốt sắng, thân tình. Các khu định cư người Bắc ở Cái Sắn, ở
Biên Hòa, được bà con địa phương nâng đỡ, chẳng bao lâu đã trở thành những vùng
an sinh phồn thịnh.
Thái
độ tích cực ấy bắt nguồn từ bản chất, từ tính tình của người Nam kỳ. Đời sống thường dễ dãi,
không hề phải lo đói, nên họ có một tâm hồn thật cởi mở, thương người. Tính
tình phóng khoáng ấy khiến họ hầu như không có tham vọng quyền bính. Lòng yêu
nước thành truyền thống từ thuở Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa
Huân cần vương, khiến họ giữ được tinh thần dân tộc dù trải 80 năm thuộc địa bị
tách rời khỏi phần kia của đất nước2. Không hề có đầu óc phân ly.
Người
“Nam kỳ” không có đầu óc phân ly như người Trung, người Bắc thường lo sợ.
Nhưng điều oái oăm là, với chế độ Ngô Đình Diệm, tinh thần
phân ly được phát động mạnh mẽ và ngược chiều.
Thay
vì người “Nam kỳ” phân ly với chế độ cưỡng chế họ dưới quyền một người không
cùng gốc, thì chế độ này lại tự phân ly với người “Nam kỳ” bằng chính
sách Bắc trị trên đất Nam kỳ.
Tính phân ly ngược chiều ấy nằm trong bản chất của chế độ và
bản chất của nhân vật cầm quyền, ông Ngô Đình Diệm.
Nằm
trong bản chất của người cầm quyền chính, vì ông Diệm xem mình như đương nhiên
mang mộtthiên mệnh cứu dân, cứu nước. Tính khổ tu và óc tôn giáo
của ông đã khiến ông nhìn đâu cũng chỉ thấy có tội lỗi. Càng thấy
tội lỗi rõ hơn ở những ai không đứng cùng một phía với ông. Người khác đạo,
người khác gốc, người ngoài vòng gia đình, ngoài vòng thân thuộc của ông, người
nghĩ khác, nói khác ông, đều có thể là những người tội lỗi. Quan niệm thiện ác được ông mang áp dụng trọn vẹn và
cứng ngắc ở phạm vi quyền chính ông cầm trong tay. Nhưng thiện hay ác do ông
định nghĩa lấy. Thành ra ngờ vực là căn bản sinh hoạt chính trị của ông. Coi
thường người khác là căn bản trong thái độ đối xử của ông. Cho rằng ai cũng
phải thần phục mình, trung thành với mình, tôn thờ mình là căn bản suy tưởng
của ông.
Từ
bản chất ấy, từ thái độ ngờ vực người khác ấy, từ quan niệm thiên mệnh ông
mang, ông đã tập họp rồi dung túng quanh ông một lớp tay chân và một lớp khuyển
mã, đau đáu giữ gìn thế nào cho khỏi thất sủng, hơn là làm được việc cho ông.
Thành
ra một thứ triều đình, tách rời chế độ và người cầm đầu chế độ xa lìa quần
chúng trong nước. Mà thành phần chủ yếu của quần chúng này, như nói ở trên, là
người “Nam kỳ”.
Phần
khác, ưu tư tôn giáo, nhu cầu củng cố thế lực, khiến ông Diệm xem thành phần
Bắc Việt di cư là căn bản chủ yếu của chế độ. Dùng họ làm lực lượng hậu cần của
chế độ, ông Diệm ly khai hẳn với thành phần đa số là người Nam kỳ. Từ tâm lý ly khai ngược chiều ấy, ông đi đến tâm lý
kỳ thị người Nam, xem họ không xứng đáng trong cái nhìn “yêu nước” của ông.
MỘT
CHẾ ĐỘ BẮC TRỊ, GIA ĐÌNH TRỊ, VÀ CẢNH SÁT TRỊ
Chế
độ được thiết lập cũng mang bản chất phân ly. Nhất thiết không có một người
“Nam kỳ” nào tham dự vào trung tâm quyết định nhà nước, từ trung ương đến địa
phương. ở thượng tầng, của đáng tội, người Nam, người Trung hay người Bắc đều
bị kỳ thị hết. Chẳng có ai chen vào trung tâm quyết định việc nước dành riêng
cho các anh em ông Diệm (người trong nước gọi chung là gia đình trị).
Nhưng ở các địa phương, hàng tỉnh trưởng gồm toàn tay chân, thân tín người Bắc,
người Trung, không có lấy một người Nam nào (người trong nước gọi là Bắc
trị).
Dân chúng thủ đô Sài Gòn biểu tình chống "Gia đình trị Ngô Đình Diệm"
trong chính biến của binh chũng Nhảy Dủ ngày 11-11-1960.
Nhưng
tai hại hơn cả là tính phân ly của một thứ chế độ mà bản chất không phải là
chính trị mà là cai trị. Vấn đề chính của ông Diệm nằm trong quan niệm phải củng cố rồi nắm vững quyền bính cá nhân của mình để chống Cộng. Chứ không phải xây dựng một
miền Nam không Cộng Sản, hưng vượng, phát triển tự do, để làm nổi bật những giá
trị văn hóa, xã hội, nhân sự, khiến ai cũng thấy rõ một miền Nam đáng cho người
chuộng tự do, chuộng nhân phẩm chọn làm đất sống. Thành ra chế độ không đặt
nặng vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, mà đặt nặng vấn đề an ninh.
Vấn đề chính của ông Diệm là cai trị, không phải là chính trị. Từ bản chất ấy,
nền móng của chế độ là tổ chức công an, mật vụ. Chi chít đến nỗi các
anh em của ông mỗi người đều có riêng một tổ chức mật vụ hoạt động cho chủ
mình, bất chấp luật pháp(người trong nước gọi là cảnh sát trị).
Ghép
lên tính phân ly của chế độ, của người lãnh đạo, dần dà thái độ phân ly của các
bộ hạ tay chân. Nhất là ở các địa phương. Từ đó nạn cường hào ác bá trở nên một
tệ nạn cuối cùng tách hẳn quần chúng “Nam kỳ” khỏi chính quyền. Ưu tư của nhân dân và ưu tư của chính quyền từ đó trở
nên trái ngược với nhau, vấn đề của nhân dân không phải là vấn đề của nhà nước,
và ngược lại. Lợi cho chế độ là hại cho dân, hại cho chế độ là lợi
cho dân. Sau cùng, đó là tâm lý thấy được của người “Nam kỳ” trong các biến cố
khuynh đảo chế độ Ngô Đình Diệm các năm 1960 đến 1963. Cảnh hoan lạc của nhân
dân miền Nam ngày lễ Các Thánh năm 1963 biểu hiện rõ rệt sự phân cách hoàn toàn
giữa chế độ ông Diệm và quần chúng “Nam kỳ”. Cái chết của ông Diệm, ông
Nhu là nỗi vui chung của cả nước, vui đúng, vui sai lại là chuyện khác.
Tình
trạng phân ly giữa chính quyền và nhân dân ấy đã tạo thời điểm cho phe Cộng Sản
đưa Mặt trận ra ánh sáng năm 1960.
* * *
NGÔ
ĐÌNH DIỆM ĐÁNH MẤT DÂN MIỀN NAM
PHÂN
CÁCH GIỮA CHẾ ĐỘ VÀ NHÂN DÂN MIỀN NAM (trước 1975)
Hiệp
định Genève, mang chữ ký các cường quốc, đảm bảo cơ sở quốc tế công pháp của
Sài Gòn, đối diện với Hà Nội.
Chính
quyền còn phải được thiết lập, trên căn bản nhân vật lãnh đạo là người mới muốn
dứt khoát với thực trạng cũ mình không dự phần. Nhằm mở một kỷ nguyên khác theo
nguyện vọng chung trong nước. Mọi việc phải bắt đầu lại trong một bầu không
khí vừa phấn khởi, vừa thiếu ổn định, của
một xã hội từ chiến tranh đi vào hòa bình. Tình huống nhân dân còn lẫn lộn,
phức tạp, tâm trạng mọi người chưa lắng đọng kịp.
Mục
tiêu dài hạn: xây dựng miền Nam không Cộng Sản thành một quốc gia phát triển
vững mạnh, tự do, dân chủ, có đủ giá trị hấp dẫn, chờ ngày thống nhất.
Ngô
Đình Diệm, sau gần năm năm sống ở ngoài, về nước cầm quyền tháng 7-1954 trong
hoàn cảnh nói trên. Với nhiều lẽ thuận, nhiều lẽ nghịch, chủ quan có, khách
quan có. Phải nhận ra trước, để hiểu các sự việc về sau làm sụp đổ miền Nam.
Lẽ
thuận :
Hậu thuẫn quốc tế và quần chúng trong nước.
A.
Quốc tế:
-
Sức ủng hộ của Hoa Kỳ, dựa trên thế lực Công giáo ở Mỹ, và của thế
giới tự do. Nhiều hứa hẹn viện trợ kinh tế, để phát triển (chương trình
Colombo, cơ quan USAID), việc trợ kỹ thuật, viện trợ quân sự, để phòng thủ (tổ
chức Liên phòng Đông Nam Á SEATO).
-
Pháp từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam. Quân đội Pháp trú đóng chỉ giữ nhiệm vụ trật
tự thi hành hiệp định, sớm muộn phải rút. Ba Lê mong giải kết duyên nợ thuộc
địa một cách thuận lợi, hòng mưu cầu lợi ích kinh tế lâu dài sau đó.
-
Các nước Đông Nam Á, nhất là Cao Mên và Lào, đang lo ngại đà tiến của Cộng Sản,
xem miền Nam như một tiền đồn, sẵn sàng ủng hộ một cách kín đáo.
-
Chiến tranh nguội chia thế giới thành hai khối: Cộng Sản và dân chủ tự do. Khối
các nước tự do chờ những kết quả sơ khởi của Sài Gòn để ủng hộ và giúp đỡ cụ
thể.
B.
Nội Bộ:
-
Ngô Đình Diệm là người mới, không dính líu trong chế độ Quốc trưởng.
Lại được tiếng là yêu nước, đạo đức, liêm khiết, các đức tính thời thượng lúc
bấy giờ.
-
Trong địa vị Thủ tướng, được toàn quyền hành động, không chịu chỉ thị,
không có kiểm soát của Bảo Đại. Một năm sau làm Tổng thống.
-
Đất nước đi vào Hòa bình, nhân dân náo nức, lạc quan. Ông Diệm không
phải là người có công mang lại hòa bình, nhưng được hưởng cái lợi tâm lý do
hoàn cảnh ấy tạo nên.
-
Cuộc di tản vĩ đại của một triệu đồng bào miền Bắc, bỏ mồ mả quê hương,
vào Nam tránh nạn Cộng Sản, chọn lựa miền Nam quốc gia theo ông.
2.
Lẽ Nghịch:
Một thế giới thiên vị và mù quáng.
A.
Quốc tế:
-
Miền Nam là đối tượng bành trướng của quốc tế Cộng Sản, sau Trung Quốc (1949)
và sau miền Bắc Việt Nam (1954).
Chiến
lược và mưu đồ xích hóa thế giới nhằm việc thôn tính miền Nam đến cùng. Nhiệm
vụ tiền phương thuộc phần Hà Nội. Một nhiệm vụ quốc tế, hoàn toàn không phải là
một nhiệm vụ dân tộc. Song song, Bắc Kinh giữ nhiệm vụ hậu cần. Đầu não là Mạc
Tư Khoa.
Thành
ra, giữa Mỹ và Sài Gòn, quan hệ chỉ có tính cách viện trợ phương tiện, ủng hộ
tinh thần, để bảo vệ tự do cho một quốc gia nhỏ, trong mức độ tán đồng của dư
luận nội bộ Hoa Kỳ. Mà dư luận một nước dân chủ thì lại dễ giao động đến có thể
xoay ngược chiều. Việc ủng hộ và viện trợ không thể vô giới hạn, cũng
không thể kéo dài mãi được, nếu không đạt kết quả sớm. Hiệp định Ba Lê 1973
là một minh chứng. Chính dư luận Mỹ đã buộc Hoa Thịnh Đốn bỏ rơi Sài Gòn.
Trái
ngược hẳn lại, giữa Liên Xô và Hà Nội, quan hệ là chuyện phân chia công
tác và nhiệm vụ nhắm một cứu cánh chung : xích hóa thế giới. Hà Nội
đứng ở tuyến đầu. Bắc Kinh tuyến hậu. Mạc Tư Khoa là trung tâm chỉ đạo và lãnh
đạo. Cho nên không phải là chuyện viện trợ và ủng hộ. Mà là chuyện bành trướng
của khối Cộng Sản thế giới.
Nhiệm
vụ này trường kỳ. Thế giới từng bước một phải rơi vào tay Mạc Tư Khoa, nhân
danh cách mạng vô sản. Không giới hạn phương tiện về công sức, về của cải.
Không giới hạn về nhân mạng, về tai ương của chiến tranh. Cho nên không có
chuyện Mạc Tư Khoa bỏ rơi Hà Nội vì lẽ này hay lẽ khác, như Hoa Thịnh Đốn đã bỏ
rơi Sài Gòn vì quân đội Mỹ thiệt hại nhiều.
Nói
cho cùng : Sài Gòn khác. Hoa Thịnh Đốn khác. Nhất đán vì quyền lợi chung có thể
đi với nhau, nhưng vẫn là hai. Mạc Tư Khoa và Hà Nội lại chỉ là một. Trong vấn
đề Nam Việt Nam.
Như
thế, Sài Gòn không phải chỉ đương đầu với Hà Nội, mà thực sự phải đương đầu với
toàn khối Cộng Sản, không những với Mạc Tư Khoa mà còn cả với Trung Hoa, với
Đông Âu.
-
Trong khối các nước dân chủ Tây phương, khái niệm cách mạng thế giới
chống tư bản chủ nghĩa đang hồi thời thượng. Giới trí thức, nhất là tả
phái, bị mê hoặc theo những giá trị họ ngưỡng mộ là cách mạng, sẽ thay đổi được
thế giới, thay đổi được con người, tranh nhau tán dương Cộng Sản, tâng bốc Liên
Xô là thiên đường hạ giới. Jean Paul Sartre đã không ngần ngại tuyên bố: “Chỉ
có là chó mới chống Cộng”. Vì thế, trong vấn đề Việt Nam, họ luôn luôn về
hùa với Hà Nội. Solzhenitsyne chưa sang Tây Âu, ảnh hưởng của họ có tính cách
thời thượng, làm thiệt hại nhiều cho miền Nam khi muốn vận động dư luận quốc
tế, vận động ngoại giao, để bênh vực cái thế của mình.
Đến
cả tướng De Gaulle, trong tuyên ngôn ở Nam Vang của ông, trên đường công du
thuộc địa Nouvelle Calédonie, lên án Mỹ can thiệp vào Việt Nam, cũng đã có một
ảnh hưởng thật tai hại cho Sài Gòn. Tuyên ngôn của ông đã được xem là một trong
các yếu tố đưa đến thất bại của Hoa Kỳ ở miền Nam.
-
Các nước Đông Nam Á chưa đạt đến mức phát triển khả quan, nên tổ chức ASEAN
chưa hình thành được như hiện nay để có một tiếng nói chung bênh vực Sài Gòn,
mà thế giới không thể không chú ý đến được.
-
Các nước trong thế giới đệ tam, tuy gọi là trung lập nhưng lại thiên Hà Nội vì
muốn gần Liên Xô.
-
Ông Diệm thù người Pháp nên không biết lợi dụng việc họ có mặt và ảnh hưởng ở
miền Nam, như quân đội Nhật đã làm từ 1941 đến 1945, như ông Hồ Chí Minh đã làm
từ 1945 đến 1946.
B.
Nội Bộ:
-
Tội tổ tông của chế độ Ngô Đình Diệm: Miền Nam chỉ là đất Nam kỳ mở rộng, ông
Diệm không phải gốc Nam kỳ và người Nam kỳ không biết ông Diệm mà chỉ nghe
đồn về ông mà thôi.
-
Mặt tiêu cực trong con người ông Diệm.
1.
Thiếu tầm vóc:
Không
có đủ tầm vóc một lãnh tụ quốc gia, một chính khách quốc tế. Vì học thức giới
hạn, kiến thức thiếu sót, nên không am hiểu đến nơi các biến chuyển lớn trong
thế giới, sau thế chiến thứ hai; không nhìn rõ được các vấn đề đất nước, trong
thời điểm thiếu ổn định về mọi mặt sinh hoạt xã hội lúc bấy giờ, khi hòa bình
trở về và đất nước qua phân. Thành ra không
phân biệt được vấn đề chính, vấn đề phụ, và định sai thứ tự ưu tiên các công
việc phải làm.
2.
Nhân sinh quan hẹp hòi:
Ông
Diệm trọng đạo đức, thuần thành về tín ngưỡng. Đau đáu lo giữ mình đến nỗi quên
người, nên sợ kẻ khác làm hỏng việc mình. Thành ra không giám tin ai và thường ngờ vực tất cả, hóa ra người lãnh đạo mà
rất quả giao. Lẫn lộn tốt, xấu, theo đạo đức bình thường, với điều hay,
dở, trong hành động nhà nước. Cuối cùng đi đến độc tôn, độc đoán, mình cho là phải mình cho là trái đều là phải, là
trái, không ai cãi được. Nên không chịu nổi ai nói khác mình, không chấp
nhận đối lập.
3.
Không dám tin người:
Thung
dung được với người thân tín sẵn, mà lúng túng với người chưa quen. Thành
ra chỉ biết có anh em, thân quyến trong
gia đình, chỉ gần tay chân bộ hạ. Khi lên cầm quyền, trong vấn đề dùng
người, chỉ chọn kẻ chịu làm tay sai, không chọn người cộng tác ngang hàng.
4.
Quan liêu gia đình:
Gia
đình và thủ túc nhiều tham vọng quyền lực,
quyền lợi. Từ Trung, từ Bắc vào, làm thêm nặng cái tội tổ tông của chính
quyền Diệm.
5.
Xung khắc về bản chất giữa ông Diệm và dân Nam kỳ:
Nam kỳ
dưới chế độ thuộc địa trực trị có luật pháp rõ ràng, nên được đảm bảo ít nhiều
tự do. Nay kháng chiến thành công, dân tại chỗ đòi dân chủ, không sẵn sàng chấp
nhận một nhà nước câu thúc quá đáng. Ông Diệm, xuất thân là đại thần triều đình
Huế cũ, cá tính con người ông không để cho ông sử dụng quyền bính cách khác hơn
là quan liêu, lệnh từ trên ban xuống,
không có đối thoại, trao đổi với ai.
Người
Nam kỳ tính phóng khoáng, cởi mở, cả tin, không có tham vọng quyền bính, không
bận tâm chính trị mấy. Vì thế, mà sau kinh nghiệm kháng chiến, họ không thích
Cộng Sản, nhưng đã từng tranh đấu với nhau, họ không chống Cộng. Ông Diệm và tả
hữu tay chân lấy việc chống Cộng làm quốc sách, chê người Nam kỳ là ấu trĩ.
6.
Không biết sử dụng thành quả kháng chiến Dân Tộc:
Thành quả kháng chiến là niềm tự hào của dân Nam kỳ. Nhưng
lại là vết hằn trong tâm thức ông Diệm. Quần chúng Nam kỳ kháng chiến theo truyền
thống Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân v.v... để giải phóng
đất nước. Không phải để theo Mác, theo Lênin. Họ xem kẻ thù chính là thực dân
Pháp.
7.
Ông Diệm không tham dự kháng chiến.
Đứng
ngoài vòng một thời, và một thời gian sau đó xuất ngoại sang sống ở Hoa Kỳ. Sự
kiện lịch sử này có thể giải thích. Kháng chiến do người Cộng Sản lãnh đạo.
Quần chúng nhằm mục đích ngắn hạn tranh thủ độc lập, không cần nhìn xa hơn để
ngờ vực, Cộng Sản mưu đồ cách mạng vô sản thế giới, không cần chú ý đến mục
đích dài hạn của đảng Cộng Sản. Ông Diệm chống Cộng, kẻ thù chính của dân tộc,
trong con mắt ông, là Cộng Sản. Ông không thể tham dự kháng chiến, không thể
tranh đấu dành độc lập chung với Cộng Sản. Một phần vì ông không chấp nhận lãnh
đạo Cộng Sản trong kháng chiến. Phần khác, ông muốn tranh đấu giành độc lập
theo một đường lối khác. Thái độ ông khả kính. Đường lối ông có giá trị. Nehru
ở Ấn Độ, Soekarno ở Nam Dương chứng minh nhận xét này. Và có lẽ họ đã mở đường
cho ông Diệm. Cho nên, nhất thời, ông không thể để cho phong trào quần chúng
trong nước lôi cuốn vào cuộc kháng chiến mà ông biết về sau tất nhiên bị Cộng
Sản lợi dụng. Lịch sử sẽ ghi nhận định của ông là đúng.
Kháng
chiến thành công. Pháp phải từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam và ông Diệm được đưa
lên cầm quyền trên nửa phần phía Nam đất nước. Trên đó Nam kỳ là địa cư chính
và trọng yếu nhất. Đây là cớ sự tạo một mặc cảm thật tế nhị, thật phức tạp,
trong tâm thức con người Ngô Đình Diệm.
Nam kỳ kháng chiến đã phần nào ngược với chủ trương
chống Cộng của ông.
Nên ông mặc cảm như phong trào này cũng chống ông. Nay kháng chiến
thành công trên mảnh đất Nam kỳ ông trực tiếp tiếp thu kết quả. Trong tiềm thức
ông, ông thấy có chi đó bất ổn. Tâm lý tự xem mình là người phi thường khiến
ông hóa giải điều bất ổn này một cách sai lạc. Đến chỗ đố kỵ người Nam kỳ.
8.
Mặc cảm đố kỵ người Nam kỳ.
Những
người từ nay bị đặt dưới quyền ông, ông Diệm muốn thoát ngoài tình trạng này
bằng cách đặt mình lên trên lẽ thường của mọi người. Cách xử sự này hợp với bản
tính tự cao tự đại của con người ông. Đưa ông đến việc cho mình là người mang một sứ mệnh thần thánh cứu
dân, cứu nước, không cần phải theo sát tâm lý, nguyện vọng “thiển cận” của nhân
dân. Nhất là nhân dân Nam kỳ, đương nhiên thuộc trách nhiệm lãnh đạo của
ông.
Tâm
lý tự tôn để tự ổn này được gia đình ông, tay chân bộ hạ ông cổ súy, phụ họa
vào. Cớ sự này đã tạo nên cho ông, cho tả hữu quanh ông, một tâm trạng kẻ cả mà
người miền Nam từng biết rõ, và đã tạo ảnh hưởng nặng nề cho tư thế lãnh đạo
của ông.
Tâm
trạng kẻ cả của ông Diệm, của gia đình và tả hữu ông, đối với dân Nam kỳ, có
thể tóm tắt trên vài điểm chính:
- Người
Nam kỳ thiếu ý thức chính trị (hàm nghĩa: ồ ạt chạy theo Cộng Sản để
kháng chiến).
- Người
Nam kỳ ấu trĩ về văn hóa. Vụ tờ báo “Tự Do” của Phạm Việt Tuyền nêu nhận
định là “Nam kỳ không có văn chương” đã một thời khiến dân Nam kỳ phẫn nộ.
- Người
Nam kỳ đạo đức thấp. Ông Diệm và thân quyến đã võ đoán như vậy khi thấy xã
hội Nam kỳ, dù muốn dù không, cũng chịu ảnh hưởng sinh hoạt của người Tây
phương nhiều hơn đồng bào các nơi khác.
- Người
Nam kỳ phản quốc. Hàm ý họ hết theo Pháp thì theo Cộng. Ngô Đình Nhu đã nói lên lời: “les Cochinchinois
sont des traitres” (dân Nam kỳ là phường phản bội) với người
viết, ngay tại sảnh đường dinh Độc Lập. Và cũng chính Nhu đã muốn dựng lên Vụ
án Tôn Thọ Tường, giao cho một Hội Đồng Nhân Sĩ tay chân tổ chức. Một người
hiểu chuyện, đã bảo Nhu: “Người Nam kỳ từng cùng Phan Văn Trị lên án Tôn Thọ
Tường. Tường làm việc cho thực dân 60 năm trước Ngô Đình Diệm là phản quốc,vậy
Diệm làm việc cho thực dân 60 năm sau Tường, lại không phải là phản quốc hay
sao?” Việc làm lố bịch này phải dẹp sớm, nên ít người biết.
NƯỚC
BẠI THEO MỘT NGƯỜI
Chế
độ miền Nam do ông Diệm thiết lập, phải đương đầu với các lẽ thuận, lẽ nghịch,
được nêu ở phần trên. Và tùy thuộc vào các ưu điểm, khuyểt điểm của con người
Ngô Đình Diệm.
Những
công trình nhân sinh cỡ lớn không thể nhất thiết đòi hỏi đủ điều kiện thuận lợi
để tiến hành. Ông Diệm đi vào sự nghiệp ông từng mong mỏi thực hiện, trong
những điều kiện nói chung khá tốt. Tương lai thành hay bại tùy thuộc ông có
biết khai triển đúng mức hay không các lẽ thuận, giải tỏa các lẽ nghịch. Tùy
thuộc ông biết lợi dụng các ưu điểm của mình, biết khắc phục các khuyết điểm
của mình đến một mức hiệu quả.
Ngô Đình Diệm có đủ lẽ để thành công. Tiếc là ông đã thất
bại. Đưa đến thất bại chung của miền Nam. Rồi của cả dân tộc.
Ông
Diệm đứng ra thành lập chế độ miền Nam với các lẽ thuận, nghịch gắn liền vào
đó, như đã phân tích trong bài trước. Việc thành hay bại tùy vào tâm mức lãnh
đạo của ông, biết hay không biết khai thác lẽ thuận, khắc phục lẽ nghịch, tiên
quyết không nhất định là thế nào được.
Thời
thế có thể tạo anh hùng. Nhưng người lãnh đạo giỏi đạp lên thời thế mà tiến
thành anh hùng. Kinh nghiệm đã qua cho thấy ông Diệm không thuộc hạng lãnh đạo
ấy. Không phải là một “homme d’Etat”.
Từ
bài này, người viết sử dụng tài liệu một người bạn thân, vượt biển, gửi lại vì
không mang theo được. Tài liệu ghi nhận những cuộc thảo luận giữa anh ta và anh
em ông Diệm, từ sau 1945 cho đến cuối năm 1954, khi họ bàn về đường lối nên
theo, và chính sách phải có, khi ông Diệm nắm được quyền hành.
Người
viết giữ việc trình bày cho được mạch lạc, không can thiệp vào nội dung tài
liệu. Để bạn đọc có thể thấy có người đã đề nghị với ông Diệm một đường lối
lãnh đạo, một chính sách cầm quyền khác những gì anh em ông đã làm, nhưng lại
đúng theo những gì ông Diệm đã tiên tri và tiên liệu sẽ làm.
* * *
BA
ĐIỀU BẤT HẠNH CHO ĐẠI CUỘC VIỆT NAM
1.
Bất hạnh trong việc giải phóng đất nước khỏi bàn tay ngoại bang.
Ông
Diệm ở hải ngoại năm năm. Kéo dài đến bốn năm trên đất Mỹ, sau đó mới sang Âu
Châu, ở Pháp và ở Bỉ. Ngoài ra, ông không đặt chân lên một nước nào khác. Nhất
là một nước Á Châu.
Ở Hoa Kỳ, ông quanh quẩn trong bóng tối thanh tú của các nhà
dòng Công giáo. Sang Pháp, sang Bỉ cũng thế. Ông không dấn thân hoạt động đánh
vào dư luận các nơi, không liên lạc, giao thiệp với các chính khách quốc tế,
không gần gũi vận động kiều bào. Ông dành công việc chính ông phải làm lấy cho các bào
đệ Nhu, Luyện của ông. Họa hoằn, nhờ có nhà dòng móc nối, ông giao thiệp với
một hai nhân vật Mỹ rất hiếm hoi, cỡ Hồng Y Spellman, cỡ Thượng nghị sĩ
Mansfield.
Tên tuổi ông, báo chí quốc tế không thấy nhắc đến. Tiếng tăm
ông chẳng vang dội một nơi nào. Ông không hề xuất hiện trước dư luận thế giới. Như Gandhi, Nehru,
Sukarno đã từng làm, khi họ còn phải tranh đấu cho độc lập của xứ sở họ.
Thành
ra khi người Mỹ dùng áp lực đưa ông lên cầm quyền, thế giới không biết
ông là ai, không thấy ông có tầm vóc nào đáng kể, nên xem ông chỉ là một lá bài
của Hoa Kỳ. Người trong nước, nhất là dân Nam kỳ, trừ những người hiếm hoi
biết ông trước kia là một vị Thượng thư trẻ tuổi của triều đình Huế, chống Pháp
mà từ chức, đa số không biết ông là ai, chưa hề nghe nói đến ông. Chỉ thấy có người Mỹ đưa ông lên.
Không
trách được người trong nước, người nước ngoài, xem ông là “một con cờ của Mỹ”.
Điều ông không hề muốn, nhưng lại là lỗi của ông. Đúng hơn, điều biểu thị sự bất tài của ông.
Và
nhất là điều bất hạnh cho đại cuộc miền Nam. Đại cuộc lúc này là việc giải
phóng đất nước khỏi tay ngoại bang. Nhất đán xuất hiện là một “lá bài Mỹ”,
đè nặng lên tương lai của chế độ. Tuy vậy, điều bất hạnh này chưa có ảnh hưởng
ngay. Bởi lẽ, khi đã chia cắt, miền Nam thấy cần có một cường quốc giúp đỡ,
nhất là Hoa Kỳ, để quân bình với miền Bắc, có Liên Xô và Trung Quốc đứng sau.
Miền Nam không thể tồn tại được, nếu đứng lẻ. Thành ra, dù sao, ông Diệm cũng
biểu hiện cho một hi vọng. Thêm vào đó, ông không có tai tiếng chi, nhờ đứng
ngoài thời cuộc từ trước. Dư luận miền Nam mặc nhiên chấp nhận ông. Chỉ mong
ông đừng để miền Nam trở thành phụ dung của Mỹ, mà chỉ là thân Mỹ.
2.
Bất hạnh thiếu tài lương đống
Ông
Diệm biết mình có thể lên cầm quyền, ba tháng trước. Ông lên cầm quyền ngày
7-7-54. Ngày 21-7-54 Hội nghị Genève kết thúc, chia hai Việt Nam , và giao cho
ông miền Nam.
Trong
thời gian 4 tháng thật quyết định ấy, ông
vẫn ù lì như suốt 4 năm ở Mỹ trước kia. Ông không đích thân hoạt động. Mọi việc
giao cho hai ông em, Nhu và Luyện, làm thay. Trong tinh thần chung của
gia đình này, họ chỉ liên lạc ngầm, hoạt động trong bóng tối. Nên chỉ tiếp xúc
với một số người thật hạn hẹp.
Không
thấy tấn công vào dư luận thế giới, vào các cơ quan truyền thông quốc tế, buộc
họ phải nói đến ông, đến giải pháp ông đề ra, và sẽ thực hiện. Không thấy công
khai nêu lên một đường lối, một chính sách nào. Để cho thế giới, thông qua báo
chí, biết đến một giải pháp Ngô Đình Diệm. Cũng không thấy vận động kiều bào.
Để làm sáng tỏ tư cách một lãnh tụ quốc gia có hậu thuẫn, có lập trường, có
đường lối, có khả năng, hòng tranh thủ cảm tình kiều bào đang bị Cộng Sản ve
vãn. Hình như Việt kiều phải tự mình nhận ra “sứ mệnh cứu nước của Cụ”. Bằng
không, họ chỉ là những người thân Cộng, không cần mở mắt cho họ làm gì. Cho nên, quanh quẩn chỉ tập họp một số kiều bào Công
giáo, một số ít “học trò cũ của Đức Cha”4 để chọn sẵn một mớ tay chân về sau.
Ngay
chính trong nước cũng thế. Phong trào “Đoàn Kết” Ngô Đình Nhu dựng lên,
quanh quẩn ở Sài Gòn, tập họp tay chân đã có rồi, với một số thân hữu cũ trong
nhóm “Tinh Thần”, hờm sẵn như chờ
chia một món gia tài. Còn quần chúng trong nước, ở Đồng Nai, Bến Nghé,
Cửu Long hay ở Thăng Long, ở Thuận Hóa, phong trào không thấy “đoàn
kết” với ai khác, và cũng không mấy người nghe nói đến.
Hoạt
động của ba anh em ông Diệm, ba tháng trước ngày cầm quyền, là cố gắng
tìm mọi cách gây tín nhiệm với Bảo Đại, để ông này chịu ký Dụ trao quyền chính
cho. Kể cả việc tuyên thệ trung thành này nọ với Bảo Đại. Kể cả sai Ngô
Đình Luyện đi Cannes biếu Bảo Đại một chiếc ô-tô sang trọng. Trong lúc Pháp cầu
Hoa Kỳ, Mỹ muốn là trời muốn. Bảo Đại không muốn cũng không xong.
Khi
lịch sử chận đứng kim đồng hồ
Rồi
ngay cả thời gian lên cầm quyền ngày 7 tháng 7, cho đến lúc Hội nghị Genève kết
thúc ngày 21-7, ông Diệm nhất thiết không
hề đích thân xuất hiện ở hội trường Genève, không muốn tham dự thảo luận, không
thấy phải cầm đầu đoàn Việt Nam quốc gia. Mà gởi đến đó ông Ngoại trưởng
Trần Văn Đỗ về phía Việt Nam.
Ba
mươi ngày cuối cùng của Hội nghị, đủ cho cả thế giới và riêng nước Pháp thấy
thế nào là một “homme d’Etat”5. Trái lại, lịch sử cận đại đã ghi
thật đậm nét cho Mendès France.
Ông
Mendès France đã dọa bỏ cuộc, nếu không kết thúc được hội nghị vào đúng 24 giờ
ngày 21-7-54. Nhưng một giờ trước khi các lãnh tụ thế giới tham dự hội nghị ký
tên vào Hiệp định, cho kịp hạn định ông Mendès France đưa ra. Phái đoàn Cambốt
đã nhân hạn định ấy mà đưa ra một đòi hỏi mới, bênh vực cho quyền lợi nước
mình. Để tránh việc Thủ tướng Pháp bỏ cuộc, Molotov và Eden đồng Chủ tịch Hội
nghị, không những vận động các phái đoàn thỏa mãn yêu sách bắt chẹt của Cambốt,
mà còn phải kéo lui kim đồng hồ cho đừng đổ vội 12 tiếng khuya 21-7, hòng có đủ
thì giờ chữa lại bản thảo hiệp định kẻo Mendès France rút lui.
Từ
ông Diệm lên cầm quyền đến Hội nghị chấm dứt có hơn 3 tuần lễ. Ông không thấy
(hay ông ngại) cơ hội để ông chen vai với các lãnh tụ quốc tế khác. Cơ hội để
ông đích thân tham dự đến ngay hội trường mở một cuộc tấn công ngoại giao, bênh
vực quyền lợi đất nước, trình bày lập trường quốc gia. Cho mọi người thấy được
tầm vóc quốc tế của ông, nếu quả ông có, ngang với Mendès France, một Chu Ân
Lai, một Eden, một Molotov, một Foster Dulles. Như Phạm Văn Đồng. Để các cường
quốc biết đến ông là một sức mạnh khả tín. Mà ủng hộ miền Nam, nếu họ muốn. Nếu
họ thù nghịch, họ biết là sẽ phải đối đầu với một sức mạnh.
Ông không chịu tham dự hội nghị. Đây là bất hạnh thứ hai của
đại cuộc miền Nam. Vì ở hội nghị, người ta nhìn về phía Việt Nam, chỉ thấy có
Phạm Văn Đồng. Chỉ biết có phe Cộng Sản. Chỉ biết có Hà Nội. Sài Gòn là một
bóng mờ, Ngô Đình Diệm là ai, người ta có nghe nói tên, nhưng không ai nhắc
đến, trong đám các lãnh tụ tham dự hội nghị... Vì thế, dư luận các nơi cho rằng miền
Nam chỉ là một bóng malàm cớ để chấm dứt chiến tranh, không thể đứng vững
được. Nhiều lắm là hai năm, thời hạn định sẵn để trưng cầu dân ý mà thống nhất
về tay Hà Nội.
3.
Bất hạnh coi thường dân miền Nam, và thành phần kháng chiến dân tộc.
Ông
Diệm lên cầm quyền trong hoàn cảnh đúng như ông tiên tri từ 1948: Ông lãnh đạo
miền Nam, mà đất Nam kỳ là trọng tâm. Mỹ ủng hộ ông, hứa viện trợ Sài Gòn, tức
phải dính líu với miền Nam.
Nói
cách khác, các điều kiện ông tiên liệu, ông muốn có, để tranh thủ với Cộng Sản,
nay ông hội đủ. Và con đường ông phải theo có thể phác họa như sau:
1.
Lấy đất Nam kỳ làm gốc cho chế độ. Như Nguyễn Ánh đã làm hồi thế kỷ XVIII, để
tranh thủ với Tây Sơn.
2.
Dùng nhân dân Nam kỳ làm nguyên tố củng cố, xây dựng miền Nam. Dựa trên quần
chúng Nam kỳ làm thế ỷ dốc, để bảo vệ miền Nam, giữ cho Cộng Sản miền Bắc không
huy động được dễ dàng các thành phần nằm vùng mà tuyên truyền và quấy phá. Đồng
thời, để phát triển kinh tế, xã hội, với nhân lực, tài lực Nam kỳ.
3.
Vinh danh thành tích kháng chiến yêu nước. Vạch rõ mưu đồ Cộng Sản lợi dụng nhu
cầu giải phóng của đồng bào, để thực hiện cách mạng vô sản.
Đề
cao anh em kháng chiến quốc gia. Xem chủ quyền miền Nam là thành quả kháng
chiến. Đúng theo tinh thần Tuyên ngôn 1951 nói trên.
Kết
hợp các thành phần kháng chiến, phi kháng chiến vì hiểu thấu mưu đồ Cộng Sản,
hoặc vì một lý do khác, để tổ chức quyền chính miền Nam.
Đó
là con đường kết hợp nhân dân, kết hợp kháng chiến vào chính quyền. Để thu hút vào chế độ các
thành phần quần chúng nông thôn, đã từng là cơ sở trung kiên, suốt chín năm
qua, của tổ chức kháng chiến chống Pháp. Sự kết hợp này có thực sự và chặt chẽ,
sẽ đảm bảo cho tương lai miền Nam.
Tất
nhiên phải tùy thuộc vào một chính sách thể hiện trung thành những gì ông Diệm
đã tiên tri từ 1948, thực hiện lời ông đã hứa trong Tuyên ngôn năm 1951:
Dùng
hai “Vú sữa”: quần chúng Nam kỳ và thành phần kháng chiến quốc gia mà nuôi
dưỡng chế độ Sài Gòn.
Chính
sách ấy, ngoài chuyện mình trung thành với chính mình, còn là một chọn lựa sáng
suốt, vì nông dân Nam kỳ không chấp nhận, thì chế độ tồn tại với ai và thế nào
được. Trừ phi bắt chước Cộng Sản, dùng các biện pháp độc tài và đàn áp. Sáng
suốt vì có nhìn nhận chủ quyền thu hồi ở miền Nam là sự nghiệp kháng chiến quốc
gia, mới không để Hà Nội độc chiếm thành quả ấy về phần Cộng Sản trên cả nước.
Can
đảm vì đây là một chọn lựa nguy hiểm. Nguy cơ tiềm tàng trong một chính sách
như vậy thật lớn, đòi hỏi một khả năng lãnh đạo cao, một lòng tự tin lớn. Đòi
hỏi một “homme d’Etat”.
Ông Diệm không có đủ khả
năng chính trị và tự tin, thành ra chọn lựa mà ông đã tiên liệu và
cho là thiết yếu từ 1948, từ 1951, thì nay, lên cầm quyền, ông sợ là không
thiết thực. Nên đứng trên đất Nam kỳ để đối đầu với miền Bắc, ông khoét
mất ngay hai cái “Vú sữa” của miền Nam!
Hồ
Sỹ Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét