Trong tháng qua (11/2015), cả thế giới
dõi theo diễn biến của cuộc tổng tuyển cử ở Myanmar, với gương
mặt không còn xa lạ - bà Aung San Suu Kyi, khôi nguyên giải Nobel
Hòa bình (1991), một nữ Phật tử gương mẫu trong nhận thức và hành
động, thể hiện qua phong trào đấu tranh bất bạo động bền bỉ và
trung thực nhiều năm qua.
“Trong đạo
Phật, có bốn yếu tố để thành công, để chiến thắng. Ý muốn tốt,
hành động đúng, dõng mãnh tinh tấn, trí tuệ bát nhã. Các nguyên
tắc đạo đức đó là căn bản, tránh cho ta khỏi lạc đường. Với những
nguyên tắc đó, ta sẽ đi đến được bất cứ nơi nào ta muốn. Chúng
tôi không cần gì thêm - Aung San Suu Kyi
Aung
San Suu Kyi - một nữ Phật tử gương mẫu.
Đức Dalai
Lama và bà Aung San Suu Kyi –
những biểu tượng của tinh thần
"Phật giáo dấn thân"
Dù đêm tăm tối bao nhiêu, mặt trời vẫn lại mọc.
Sự thực đó, thế giới đang thấy ở Myanmar. Nhưng có một sự thực
khác nữa thế giới cũng vừa thấy qua con người của bà Aung San Suu
Kyi: cường bạo đàn áp bao nhiêu, sức mạnh tinh thần vẫn thắng. Bà
nói như thế từ lâu, nghe khó tin. Nhưng sự thực đã là sự thực. Ai
cho bà sức mạnh đó? Cái hồn của nước bà. Cái hồn ấy, ai cũng
biết: đạo Phật của bà.
Tất
nhiên, bà còn có niềm tin mãnh liệt về dân chủ. Nhưng đó không
phải là điều tôi muốn nói ở đây. Tôi chỉ muốn tìm hiểu tại sao
một nước theo Phật giáo Nguyên thủy như Myanmar, trong đó các sư
sãi thường ít lo lắng đến chuyện xã hội bằng chuyện tu hành bản
thân, lại diễn ra những quang cảnh tấn công chùa chiền, bắt bớ
Tăng Ni, làm như thử Phật giáo ở Miến Điện đã “dấn thân” tự bao
giờ trong chính trị.
Có
thật thế chăng? Và nếu có liên hệ thì tôn giáo và chính trị đã
liên hệ với nhau như thế nào trong lịch sử? Tôi không có tham vọng
trả lời câu hỏi có tính nghiên cứu đó trong một bài báo ngắn
ngủi. Tôi chỉ xin kể, và kể rất giản lược, vài chuyện có liên
quan đến câu hỏi đó để điểm lại quá khứ và suy đoán tương lai.
Chuyện
đầu tiên mà tôi muốn kể là từ bao giờ dân tộc Miến Điện mang cái
hồn ấy. Từ xa xưa. Và bởi vì quá xa xưa nên sự thực lịch sử nhiều
khi trộn lẫn với truyền thuyết. Người dân Miến Điện kể rằng Đức
Phật đã đến đất của họ lần đầu bằng tóc của Ngài. Chuyện này có
thật trong kinh. Sau khi Đức Phật thành đạo và đang tĩnh tọa dưới
cây bồ-đề thì có hai thương nhân từ phương xa đi qua đó. Họ cung
kính dâng thức ăn cho Ngài và xin quy y. Đó là hai đệ tử đầu tiên
của Phật. Khi về lại xứ, họ xin Ngài vài sợi tóc để thờ. Nhà vua
xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng
danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
Lần
thứ hai, Đức Phật đến bằng chân. Một thương nhân khác, tên là
Punna, đã đến tận Savatthi, nơi Đức Phật đang thuyết giảng, và
được Ngài thâu nhận vào Tăng chúng. Sau một thời gian tu học, ông
xin Phật cho đi giáo hóa. Phật nói: dân xứ ấy dữ lắm, ông giáo
hóa bằng cách nào? Ông thưa: con sẽ không bao giờ giận dù cho họ
giết con. Chuyện này cũng có thật trong kinh. Nhưng chi tiết tiếp
theo thì tôi chưa thấy ở đâu.
Punna
giáo hóa thành công, xây được một tu viện, và mời Phật đến thăm.
Ngài đến với 500 vị Tăng. Khi trở về, Đức Phật dừng chân bên sông
Nammada, gần dãy núi Saccabandha. Một vết chân của Ngài in dấu
không phai gần bờ sông, một vết chân khác in dấu trên núi.
Hai
vết chân bây giờ là hai thánh tích, ngày xưa được vua thờ, ngày
nay là đất hành hương của dân chúng.
Đức
Phật còn để lại cả hình ảnh của Ngài. Truyền thuyết ghi rằng bức
tượng thờ ở chùa Mahamuni cho đến năm 1784 là do vua và dân tạc
sau khi được đón rước Phật tại vương quốc Dhannavati. Tượng ấy
sau đó được thỉnh về chùa Arakan ở Mandalay.
Tất
cả những sự kiện, vừa lịch sử vừa truyền thuyết đó, nói lên một
điều: người dân Miến Điện hãnh diện về nước của mình như là đất
của Phật, Phật đã đến đó và đã để lại xá-lợi cho dân.
Hơn
ở đâu hết, đất đó còn là đất Phật vì gần 90% dân số cùng thờ một
đạo. Hơn ở đâu hết, người dân dù nghèo đến bao nhiêu cũng thực
hành công đức như một nếp sống bình thường, cúng dường chư Tăng,
tô điểm chùa chiền.
Người
bên ngoài, Tây phương và cả không Tây phương, đều không hiểu tại
sao dân chúng nghèo như thế mà vẫn chắt chiu dành dụm để kiếm
chút vàng làm rực rỡ thêm tượng Phật. Họ không hiểu, nhưng chính
điều không hiểu đó đã làm người Miến Điện thành người Miến Điện.
Hành
trì công đức là lẽ sống của người dân Miến. Tạo công đức ở kiếp
này làm họ vui. Càng nhiều công đức càng vui. Kiếp này họ vui,
kiếp sau họ hưởng. Sống là như vậy. Không phải ăn, mặc, nhà cao
cửa rộng là căn bản. Tu ấy là tu phước, nhưng cũng là tu hạnh,
hạnh ấy là bố thí, là biết cho, không phải dễ đâu.
Thú
thực, bản thân tôi cũng không hiểu nổi người Miến cho đến khi tôi
đọc bà Aung San Suu Kyi. Bà nói: “Quan tâm đầu tiên của
tôi là theo sát những nguyên tắc của Đức Phật trong mọi hành động
của tôi trên đời. Như vậy là bởi vì tôi tin rằng tất cả chúng ta,
như là người, đều có một bề sâu tâm linh không thể lơ đãng được”.
Phong
trào dân chủ của bà, bà xem đó như là một “cách mạng tâm linh”
mọc rễ từ trong những nguyên tắc Phật giáo. Và khi người ta hỏi
bà “đức tính gì nằm tận trong thâm sâu của phong trào ấy”, bà nói
không ngần ngại: “Sức mạnh bên trong. Chính là sự vững
chãi tâm linh đến từ tin tưởng rằng cái gì ta làm là đúng, dù cho
điều đó không mang đến lợi lộc cụ thể tức thì. Chính là sự kiện
này: điều ta đang làm giúp ta củng cố sức mạnh tâm linh của ta.
Sức mạnh này ghê gớm lắm”.
Bởi
vậy, trong khi ở nơi khác, phát triển kinh tế là kinh nhật tụng,
ở Miến Điện, phát triển kinh tế chỉ là phương tiện, mục đích là
đời sống tâm linh của người dân. Tranh đấu cho độc lập trước đây
cũng vậy. Tại sao phải độc lập? Tại vì, như một câu hát của các
người làm cách mạng thời 1930, độc lập là để phục hồi lại phồn
vinh của ngày xưa, “để người nghèo cũng có thể xây dựng
chùa chiền”.Đó là mục đích của đời sống, đó là hạnh phúc của
người dân.
Tôi
nói thêm một điều nữa về đặc tính của Phật giáo Miến Điện trước
khi bắt qua chuyện thứ hai: trên đất Phật ấy cũng có một tín
ngưỡng lâu đời của dân gian, gọi là Nat, thờ thần, tin bùa chú,
phù phép, ưa nhảy múa. Tín ngưỡng ấy hồn nhiên chung sống hòa
bình với Phật giáo, nhưng Phật là Phật, thần là thần, đâu có hồn
nhiên lẫn lộn được, lát nữa tôi sẽ nhắc lại vấn đề này. Bây giờ,
xin bắt qua chuyện thứ hai.
Chuyện
thứ hai là chuyện liên hệ giữa quyền lực và giáo hội Tăng-già.
Một tác giả có uy tín đã viết thế này: “Miến Điện có lẽ
là nước hạnh phúc nhất thế giới trước khi người Anh đến… không có
quý tộc, không có Tăng lữ, không có Nhà Thờ, không có quân đội,
không có nghèo khổ, đẳng cấp, địa chủ, ngân hàng”.Một xã hội
bình đẳng, từ thiện.
Đúng
hay không, tôi không dám nói, nhưng không có Nhà Thờ thì quá
đúng. Không có Nhà Thờ trong cái nghĩa của Tây phương, nghĩa là
một uy quyền tôn giáo duy nhất, tập trung, tập quyền, đối chọi
với nhà nước, có khi ngang ngửa, có khi trội hơn.
Tôi
tạm dùng chữ “Giáo hội Tăng-già” để dịch chữ Sangha, nhưng Sangha
không phải là một tổ chức tập trung, tập quyền, tôn ty trật tự,
đẳng cấp phân minh, dưới phục tùng trên, trên chỉ huy dưới.
“Giáo
hội” ở nước ấy chưa bao giờ ra khỏi mẫu mực tương quan nguyên
thủy trong lịch sử, nghĩa là tương quan giữa tín đồ và chư Tăng,
trong đó tín đồ là người cúng dường và chư Tăng là người thọ
lãnh. Người cúng dường cung cấp phẩm vật, người thọ lãnh cung cấp
phước đức. Trong ý nghĩa đó, ông vua chỉ là người đứng đầu của
một tập thể cúng dường, có trách nhiệm duy trì hòa bình, phồn
vinh, để ai ai cũng có thể thực hiện công đức. Trách nhiệm đó
trao cho ông một quyền: gìn giữ cho đạo Phật được “tinh khiết”.
Với quyền đó, ông là trọng tài khi cần thiết để xử những tranh
chấp xảy ra liên quan đến giáo lý. Với quyền đó, ông là người bảo
vệ đạo Phật.
Nhưng
như vậy là ông có quyền can thiệp vào nội bộ của giáo hội. Ông
can thiệp thông qua một “tăng thống” mà ông bổ nhiệm. Thế nhưng
giáo hội đã không phải là một khối đồng nhất thì tăng thống có
thực quyền gì trên các chi, các nhánh, sinh hoạt tự trị trong các
làng xã, có trường riêng, tự viện riêng, do làng xã địa phương
lập nên? Rốt cuộc, dù ông vua có nắm được “giáo hội” ấy, tập thể
chư Tăng vẫn sinh hoạt độc lập với đời sống riêng, và tăng thống
chỉ là chiếc cầu lỏng lẻo giữa vua với một giáo hội chủ yếu là tự
trị.
Để
cụ thể hóa hình ảnh chiếc cầu lỏng lẻo ấy, ví dụ sau đây rất lý
thú. Suốt cả thế kỷ XVIII, ông vua và tăng thống không giải quyết
nổi một tranh chấp để “tinh khiết” giới luật. Đầu thế kỷ, vài vị
Tăng đi khất thực, khoác y như khi đi trong chùa, nghĩa là một
vai để trần. Đừng tưởng đây là chuyện chơi trong một nước Phật
giáo Nguyên thủy, giữ giới luật như giữ con ngươi. Để trần một
vai như vậy có đúng luật không? Hết vua này đến vua khác, vua này
nói được vua kia nói không. Cả trăm năm không xử nổi một chiếc
vai!
Tình
trạng tự trị trong giáo hội lại càng phát triển vào những giai
đoạn loạn lạc, ngay cả trước khi người Anh xâm chiếm. Phe phái
xuất hiện, thiết lập kỷ luật riêng, tòa án riêng, thậm chí “tăng
thống” riêng.
Vua
Mindon (1853 -1878) cố tăng cường can thiệp trực tiếp vào nội
tình giáo hội, nhưng người Anh đã đến, Miến Điện bị chia hai, hạ
Miến Điện lọt ra khỏi chủ quyền của vua. Chính sách tôn giáo của
người Anh, áp dụng trên cả nước, khi cai trị toàn thể Miến Điện,
là không cần biết đến giáo hội nữa, tôn giáo với chính quyền là
hai, giống như luật lệ ở mẫu quốc.
Các
tôn giáo ở phương Tây tràn đến, Phật giáo không còn có ông vua
nào nữa để đóng vai bảo vệ. Nhưng như thế mà hay, vì các ông sư bây
giờ, sống ngoài vòng cương tỏa, đóng vai bảo vệ độc lập của nước.
Họ
là những người đầu tiên thắp lên ngọn đuốc tranh đấu, những người
đầu tiên liên kết với cư sĩ, với trí thức, để tạo thành mạng lưới
chính trị chống đế quốc đầu tiên trong những năm 1920, 1930. Và
như vậy tôi bước qua chuyện thứ ba.
Aung
San Suu Kyi - biểu tượng sống của tinh thần vô úy và từ bi
trong đấu tranh bất bạo động
Chuyện
thứ ba là chuyện ông U Nu, thủ tướng đầu tiên của nước Miến Điện
độc lập. Một nhân vật xuất chúng. Một lãnh tụ lỗi lạc. Một nhà
chính trị được thế giới kính nể. Một con người dân chủ. Một Phật
tử sùng đạo.
Tham
gia tranh đấu trong mạng lưới đầu tiên của trí thức trẻ Phật giáo
(YMBA), ông là lãnh tụ của đảng chính trị đầu tiên tranh đấu
chống phát-xít (AFPFL) sau khi Aung San bị ám sát. Độc lập vãn
hồi, ông chủ tâm phục hưng lại Phật giáo.
Một
mặt, ông lồng Phật giáo vào hệ ý thức mới mang màu sắc xã hội của
thời đại và gọi đó là “xã hội chủ nghĩa Phật giáo”. Trung thành
với văn hóa truyền thống, chủ nghĩa xã hội của U Nu nhằm thực
hiện lý tưởng cổ truyền: hạn chế tham lam của người giàu, tạo thì
giờ rảnh rỗi cho người nghèo, để ai cũng có thể tích cực thực
hành công đức.
Mặt
khác, ông không ngại can thiệp vào nội bộ Phật giáo, thành lập
các tòa án của giáo hội để chấn chỉnh kỷ luật, tổ chức lại hệ
thống giáo dục mà chùa chiền đảm nhận từ xưa, thành lập viện hóa
đạo, chỉnh đốn đại học Phật giáo, kiết tập đại hội Phật giáo thế
giới để nâng cao vai trò của Phật giáo Miến Điện trên thế giới
Phật giáo, xây dựng chùa chiền…
Ý
thức rằng Phật giáo là yếu tố tinh thần duy nhất để kết hợp và
hòa nhập các chủng tộc ít người trong một nước đa chủng bấp bênh
hiểm họa ly khai, ông cố thiết lập một giáo hội lan tỏa ra tận
các chủng tộc sát biên giới.
Tóm
lại, U Nu hành động như một vị quân vương ngày xưa trong mối liên
hệ giữa Phật giáo và lãnh đạo chính trị: người lãnh đạo bảo vệ
Phật giáo, giáo hội ban cấp tính chính đáng cho chính quyền.
Nhưng
giáo hội bây giờ đã quen chia thành khuynh hướng, phe nhóm rồi,
ai cũng trọng ông U Nu như một thánh vương, nhưng người này trách
ông bảo vệ Phật giáo như vậy là chưa đủ, người kia lại cho rằng
ông đi như vậy là quá xa. Tình trạng trở nên trầm trọng khi ông
đặt vấn đề Phật giáo là quốc giáo vào trung tâm của tranh cử năm
1960. Đảng của ông đã tách ra làm hai trên những tranh chấp khác
lại càng chia rẽ hơn trên vấn đề quốc giáo này.
Kết
quả là đảng của phe U Nu đại thắng trong tuyển cử vì dân chúng
ủng hộ chủ trương của ông. Nhưng đại thắng này không đủ giúp ông
ở lại chính quyền lâu dài. Cùng với những khó khăn về kinh tế,
chống đối của các chủng tộc, hiểm họa ly khai, bất an ninh ở biên
giới, những biện pháp ủng hộ Phật giáo của ông như cấm giết bò,
áp dụng lịch Phật giáo, chuyển đổi án tử hình, hòa giải với phe
cộng sản... tạo cơ hội cho quân đội làm đảo chánh, dựng lên một
chế độ độc tài tàn bạo dài đằng đẵng từ 1962 cho đến gần đây.
Tôi
bắt đầu bài viết này với tóc của Phật. Là bởi vì chế độ độc tài
ấy không có cách nào để lấy lòng quần chúng hiệu nghiệm hơn là
khai thác lòng sùng kính của dân đối với xá-lợi Phật. Do đó,
chính sách rước răng Phật từ Trung Quốc đưa về được tổ chức cực
kỳ hoành tráng trong cả nước suốt 45 ngày.
Cũng
vậy, tín ngưỡng Nat với bùa chú phù phép được khích lệ tối đa,
đẩy lùi Phật giáo vào thời tiền hiện đại.
Rồi
cũng vậy, tướng tá xây chùa tráng lệ không thua gì những ngôi
chùa tráng lệ nhất, ông này xây một chùa thì ông kia xây hai. Ta
đây sùng đạo có thua ai! Chắc chắn là không thua ai về khoản tiếp
thị: hình ảnh các ông tướng mộ đạo xuất hiện bên cạnh các sư sãi,
chùa chiền, rước Phật, hành hương tràn đầy trên màn ảnh, báo chí.
Riêng
cái khoản giáo hội Tăng-già, các ông tưởng nắm chắc trong tay,
hóa ra chỉ nắm cái bóng, cái hình đã phân tán thành nhánh, thành
cành, âm thầm tỏa bóng xuống khắp xã hội, vừa an ủi vừa duy trì
sức mạnh.
Tương
lai là chuyện thứ tư xin kể. Chắc chắn Phật giáo Myanmar sẽ không
có một ông U Nu thứ hai. Nhưng Phật giáo ấy cần gì quốc vương khi
đã là cái hồn của dân tộc? Vấn đề là: hình hài của dân tộc Miến
đã lớn mạnh rồi, đã hấp thụ những món ăn tư tưởng mới, thở không
khí của thời đại mới, tắm trong dòng sông có nhiều con nước mới
đổ vào, vậy thì cái hồn ấy có hằng thường được chăng?
Tôi
đang thấy hồn ấy nhập vào hình hài dân chủ nơi một người phụ nữ
mảnh khảnh mà sáng ngời trí tuệ và lòng tin Phật. Tôi muốn được
cùng với bạn bè Myanmar đọc vài câu đã thốt ra từ miệng người phụ
nữ tự nhận mình là một Phật tử bình thường ấy.
Lạ
thật, từ một người tranh đấu chống bạo lực, tôi nghe nhấn mạnh
bao nhiêu lần lòng từ bi: “Phật giáo Đại thừa đặt nặng từ
bi hơn Phật giáo Nguyên thủy. Tôi cảm nhận sâu xa điều đó, bởi vì
chúng ta cần rất nhiều từ bi trên thế giới này. Tất nhiên, từ bi
cũng là một phần của Phật giáo Nguyên thủy. Nhưng tôi muốn nhiều
người hơn nữa trong dân tộc chúng tôi mang từ bi vào hành động”.
Từ
bi trong chính trị? Chính vậy! “Khi Đức Phật muốn ngăn
cản hai phe sắp chiến tranh, Ngài đến và đứng giữa hai bên. Hai
bên có thể làm hại Ngài trước khi giết nhau. Nhưng như thế, Ngài
bảo vệ cả hai. Ngài bảo vệ người khác bằng cách hy sinh thân mạng
của Ngài”.
Nhưng
sợ đã thành thói quen rồi trong xã hội. Làm sao bảo người ta từ
bi? “Mọi chuyện đã xảy ra chỉ vì không đủ tích cực từ bi.
Có một liên hệ trực tiếp giữa tình thương và sợ hãi. Kinh Từ
bi dạy: “Như mẹ hiền yêu thương con một”. Đó là từ bi
đích thực. Bà mẹ có thể hy sinh thân mạng vì thương con mình. Tôi
nghĩ chúng ta cần thứ tình thương đó nhiều hơn nữa chung quanh
chúng ta”.
Nếu
những lời trên đây xuất phát từ một ông thầy tu, tôi không ngạc
nhiên. Xuất phát từ một người đã từng đứng trước mũi gươm làn
đạn, đó là bài học cho cả thế giới về sức mạnh của tâm linh.
Bài
học mà Đức Phật đã dạy: từ bi đi đôi với vô úy. Đừng sợ! Và bởi
vì không sợ cho nên không giận. Đức Phật dạy bà đừng giận. Bà
không hề giận trong khi chống lại đối thủ của bà.
Mới
đây thôi, trong cuộc viếng thăm của Ngoại trưởng Hillary Clinton,
bà nhắc nhở lần nữa: “Khi tôi bắt đầu đi vào chính trị,
tranh đấu cho dân chủ, tôi luôn luôn khởi đi với ý nghĩ rằng dân
chủ là một quá trình sẽ mang lại hạnh phúc lớn hơn, hòa hợp lớn
hơn, và hòa bình lớn hơn cho dân tộc tôi. Và điều đó không thể
thực hiện được nếu chúng tôi bị trói chặt trong giận dữ và ý muốn
trả thù. Bởi vậy tôi chưa hề bao giờ nghĩ rằng con đường phía
trước là phải đi qua giận dữ và cay đắng, mà phải đi qua hiểu
biết lẫn nhau, cố gắng hiểu phía kia, và đi qua khả năng thương
thuyết với những người suy nghĩ hoàn toàn khác với ta, đi qua khả
năng đồng ý trên bất đồng ý nếu cần thiết, để làm thế nào rút ra
hòa hợp từ những cách suy nghĩ khác nhau”.
Một
bài học dân chủ và một bài học Phật giáo.
Cuối
cùng bà đã chiến thắng. Nhưng ngay cả trong đêm tối mịt mù của
đàn áp, bà vẫn quả quyết: “Trong đạo Phật, có bốn yếu tố
để thành công, để chiến thắng. Ý muốn tốt, hành động đúng, dõng
mãnh tinh tấn, trí tuệ bát-nhã. Các nguyên tắc đạo đức đó là căn
bản, tránh cho ta khỏi lạc đường. Với những nguyên tắc đó, ta sẽ
đi đến được bất cứ nơi nào ta muốn. Chúng tôi không cần gì thêm”.
Trong
đau khổ chung của dân tộc Myanmar, Phật giáo Miến Điện ngàn xưa
đã hiện đại hóa với người phụ nữ ấy. Đạo Phật đó, ngôn ngữ hiện
đại ngày nay gọi là “đạo Phật dấn thân”.
Cao
Huy Thuần
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét