AI GÌN GIỮ TÂM NGUYÊN SƠ…
Nguyên Giác
Đức Đạt Lai Lạt Ma, tuyệt vời. Tôi có nhiều cơ duyên với
ngài... ngay cả từ thời rất là thơ trẻ, khi còn ở trong nước và khi chỉ mới đọc
các bài báo sơ sài về ngài. Đất nước Tây Tạng và vị lãnh đạo này là một thế
giới kỳ bí, không chỉ vì xa xôi cách biệt nhưng cũng vì niềm tin của dân tộc
này rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Tôi dễ dàng tin rằng các sư Tây Tạng có phép thuật
thần thông, rằng pháp ngồi thiền cho tuyết rơi phảỉ tan chảy, hay chạy như bay
trên các rặng núi là chuyện bình thường của các sư Tây Tạng, và do vậy Đức Đạt
Lai Lạt Ma phải là tuyệt vời lắm. Dần dà, ra hải ngoại, đọc nhiều hơn, bản thân
mưu sinh bằng việc dịch thuật tin tức, và rồi một số cơ duyên gặp ngài trực
tiếp (nghề viết báo, vui là thế), lòng tin thơ trẻ năm xưa trở thành lòng yêu
thương và kính trọng nhân vật kỳ bí đời thứ 14 này, kể cả khi ngài nói rằng
ngài chỉ là một vị sư đơn giản, a simple
monk, và mới đây là khi ngàì tuyên bố kết thúc truyền thống Đạt Lai Lạt Ma
của Phật Giáo Tây Tạng.
Cũng như mọi đứa trẻ, tôi vốn ưa thích những
chuyện kỳ bí. Thời mới 4 tuổi, tôi bị bệnh ghẻ nhiều kinh khủng, đưa tới nhiều
bác sĩ chữa hoài không hết, rồi được mẹ dẫn tới một ngôi đền lên đồng ở đường
Nguyễn Thông nối dài, khu này ngày xưa gọi là xóm Chuồng Bò, kế bên mấy ruộng
rau muống. Bây giờ, nghe nói, quận 3 Sài Gòn không còn ao ruộng gì nữa, vì nhà
dựng lên chi chít.
Tôi nhìn thấy lễ lên đồng nơi đây lần đầu tiên
trong đời, và cũng là lần cuối trong đời. Sau khi múa hát, một vị cầm dao,
kiếm, đâm xuyên hai bên má, không thấy máu chảy hay đau đớn gì. Tôi kinh
ngạc nhìn. Rồi vị pháp sư tới thắt dây ngũ sắc cho tên nhóc đầy bệnh ghẻ, nói
với mẹ tôi là lễ chữa bệnh xong rồi. Vậy mà hết ghẻ. Nhưng tôi sau này nghĩ
lại, vì lúc đó dì tôi đã hái lá ổi hàng ngày tắm cho tôi. Mẹ nói, có khi vì lá
ổi mà hết ghẻ.
Chuyện kỳ bí nữa: tôi học môn võ Thần Quyền.
Cũng lạ, vì những cơ duyên này trực tiếp cho tiếp cận với thế giới phi nhân,
qua những câu thần chú được nói là của các ông Lục Khmer. Rồi tôi rời bỏ môn võ
này, vì tự nhiên thấy là không phải, vì thấy hình ảnh Đức Phật ngồi dưới cội Bồ
Đề đẹp quá, không dính gì tới cõi quơ tay múa chân này.
Tôi lại mua cuốn sách, tập Hatha Yoga, và tập
pháp thiền Raja Yoga theo sách này. Rồi trì chú Đại Bi theo hướng dẫn của
một số thầy. Rồi sách Thiền in nhiều hơn, với các sách Thiền dich ra Việt ngữ
bởi Trúc Thiên, Tuệ Sỹ, và nhiều vị khác. Rồi tập Thiền Chỉ Quán theo một cuốn sách nhỏ, bây giờ quên tên rồi, nhưng
kinh nghiệm nàỳ thật tuyệt vời khi tự nhiên nhớ chữ Thể Chơn Chỉ trong sách
này, tâm bất ngờ như bật sáng.
Để rồi tuyệt vời là khi gặp Thầy Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng Bình
Dương. Chỉ nói rằng, phải
Thấy Tánh trước, rồi mới tu sau.Thầy nói ít, kể cả khi nói rằng pháp Tổ Sư Thiền này thực ra là
không tu gì hết, hay chỉ là tu cái không tu, trong khi vị sư đệ của Thầy là HT
Thường Chiếu ở Đồng Ông Cộ (Gia Định) lại nói nhiều hơn. Trong đó, có hai
vị sư huynh cùng thầy của tôi nơi đây, bây giờ cũng là người viết nhiều về Phật
Pháp, là anh Nguyễn Thế Đăng (nhà sư, trụ trì một cái am nhỏ ở ngoại ô Sài Gòn,
nhưng bút hiệu chỉ dùng tên đời) và Cư sĩ Thanh Liên, cũng là một người tích
cực trong nhóm Viet Nalanda.
*
Bây giờ, đọc nhiều hơn, và đọc các nguyên bản tiếng Anh những
lời dạy từ Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, thấy rằng cốt tủy Phật Giáo Tây Tạng
đúng là dạy như thế, theo lời ngài: Đạo Phật giảỉ thích rằng, tất cả các thức hay
tất cả các tâm sở đều ở trong bản tánh trong suốt và chói sáng (According to Buddhism, all
consciousness or all cognitive mental events are said to be in the nature of
clarity and luminosity) -- Buổi thuyết pháp các ngày 11-14 tháng 10-1991 tại
New York City.
Thực ra, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong những buổi
thuyết pháp, và trong nhiều sách khác nhau, cũng dạy rất nhiều phương diện khác
nhau của Phật Giáo. Kể cả các phương diện kỳ bí, tôi biết như thế, sau khi quen
với nhà sư Geshe Tsultim Gyeltsen ở Long Beach, người từng được xem như Bộ
Trưởng Ngoại Giao của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi tiếp cận với phương Tây, và rồi
trở thành bạn thân với Giáo Sư Tenzin Dorjee ở CSU Fullerton, một vị sư trở về
đời thường và là người thông dịch cho nhiều buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai
Lạt Ma ở Hoa Kỳ.
Bởi vậy, cho xóa sổ truyền thống Đạt Lai Lạt Ma là một sự kiện
lớn. Nhưng tôi không bất ngờ, vì hoàn cảnh chính trị là thế, và vẫn nhìn thấy
rằng ngài sống y hệt như các vị sư thời Đức Phật, cũng khuyến tấn y hệt thời
xưa như thế: sống
xa lìa tham sân si.Nghĩa là, sống với Niết
Bàn tự tâm.
Tôi sống bằng nghề làm báo, nên sóng gió đời
thường nhiều lắm, chỉ lấy Phật Pháp làm niềm vui tối thượng. Nhiều khi, chỉ vì
vài lỗi in ấn, như bản tin bị mất phần sau hay cách viết khó hiểu, hay các lỗi
tương tự... là bị độc giả điện thoại vào, rầy mắng liên tục. Họ bỏ ra 25 cents
mua báo, và có quyền như thế; đây cũng là đất nước của tự do. Thêm nữa, mỗi lần
thấy một Linh mục hay Mục sư bước vào tòa soạn, nhờ phỏng vấn cho một sự kiện,
tôi rất mực trân trọng vì không muốn độc giả nào nghĩ rằng có sự kỳ thị nào nơi
đây.
Việc hằng ngày, dĩ nhiên, mang tính trần gian.
Làm việc mệt nhọc, có khi 12 hay 14 giờ/ngày, niềm vui thường là khi gặp bạn
trong giới văn học, khi thấy những bài thơ hay, khi đọc được truyện ngắn xuất
sắc. Tất nhiên là cũng tự biết đang gây nghiệp thường xuyên; cho dù đã tránh né
rất cẩn thận, nhưng khi viết về đời thường chính trị, xã hội... tôi vẫn dùng
lối văn giễu cợt, chọc quê. Thực sự, viết phê bình chuyện đời thường mà
chữ nghĩa trang nghiêm như đang dịch kinh thì chẳng ai đọc; báo sẽ dẹp tiệm
sớm. Tôi hoàn toàn đồng ý với câu người xưa nói rằng trong sách có thiếu nữ mặt
đẹp như ngọc; đúng ra, văn chương còn đẹp hơn nhan sắc phụ nữ gấp nghìn lần. Do
vậy, niềm vui cũng là những khi tôi dịch sang Anh văn các tác phầm của Inrasara,
của Nguyễn Lương Vỵ, của quý Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, TT Thích Nhật Từ. ..
Riêng về lần dịch một tập thơ của Nguyễn Lương
Vỵ (những dòng thơ tôi tin là hay như, hoặc hay hơn thơ Bùi Giáng), tôi tự buộc
mình như nhập thất suốt nhiều tháng, mỗi ngày ăn rất ít, đi làm về là mở máy
tính, vừa ngồi gõ, vừa quán tâm mình liên tục... vì tôi nghĩ, dịch thơ tên này
có thể kéo mình xuống địa ngục. Thí dụ, mấy câu này của Vỵ chẳng đạo học tí
nào, và rất mực là đau đớn trần gian:
Rồi thôi, đôi mắt ướt ngàn thâu
(Chẳng cần lãng mạn quái gì đâu!)
Phố chợ, tiếng rao khuya xót ruột
Âm rách vai, gió thốc trong đầu…
Và tôi (khổ quá, phải làm sao cho nó có tính
xuất thế gian, dù là bất toàn) dịch là:
oh gone, the misty eyes of a thousand years
(needless to be romantic at all!)
the town grieves over the yelling of street vendors at night
the voice pierces shoulders, the wind blasts in the heads...
(needless to be romantic at all!)
the town grieves over the yelling of street vendors at night
the voice pierces shoulders, the wind blasts in the heads...
Nhưng chuyện trần gian đầy những đau đớn hàng
ngày như thế, làm sao để có thể dìu nhau tới bờ giải thoát? Những khi suy nghĩ
như thế, tôi lại nhớ tới ngài Đạt Lai Lạt Ma đang bước đi giữa cõi trần gian
rất mực đau đớn.
*
Và hàng ngày, trong đời thường, khi ngồi đọc
hàng trăm bản tin, chọn tin, dịch tin, dò lỗi, suy tính ưu tiên các bản tin –
nghĩa là đủ thứ bản tin về tham sân si đời thường, từ hình sự tới đủ thứ... --
trong cả những lúc gần như kiệt sức mỗi buổi chiều, hay cả những lúc ứa
nước mắt khi đọc tin quê nhà, tôi vẫn nhớ tới bản kinh trong Tương Ưng Bộ nói
về tiêu chuẩn của người tu học: phảỉ xem tâm mình có khởi lên tham sân si hay
không.
Kinh này là SN 35.152, tựa đề “Atthinukhopariyaayo Sutta: Is
There a Criterion?” dịch bởi
Maurice O'Connell Walshe (1),
và Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch là “Có Pháp Môn Nào?” trong đó Phật dạy về
cách nhìn tâm:
“Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm
ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ:
"Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt
thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rõ: "Nội tâm ta có tham, sân,
si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rõ: "Nội tâm ta không
có tham, sân, si"...” (2) – Tương tự với tai, mũi, lưỡi, chạm
xúc, thức...
Như thế, câu hỏi là, có những khoảnh khắc trong ngày, chúng ta
thấy tâm mình không tham, không sân, không si... có phải đó là khoảnh khắc của
Niết Bàn? Có phải giây phút đó là Thấy Tánh hay đốn ngộ (nếu muốn sử dụng
chữ này)? Không dám khẳng định. Tôi luôn luôn cố gắng sống với tâm của
một đứa trẻ sơ sinh, dù là đọc và học rất nhiều, và vẫn tránh chuyện tranh cãi,
vì cần để tâm lực cho quá nhiều chuyện đời thường trong ngày. Tâm trẻ sơ sinh là không trụ
tâm vào đâu cả, là vô sở trụ, tôi
tập như thế từ lâu rồi, dù là vẫn đang làm mọi thứ phải làm trong đời.
Nói đơn giản là không tham sân si, nhưng khó
vô cùng tận. Bởi vì trong cõi Bolsa này, bên cạnh chuyện cạnh tranh thương mại,
đặc biệt là trong giới truyền thông và nghệ sĩ, chỗ nào cũng toàn là tuyệt sắc
giai nhân. Có những khi nhấc điện thoại lên, có những người có giọng nói ru hồn
người. Chiều về, sau khi tơi tả vì những trận mưa chữ Việt, chữ Anh hàng ngày,
tôi lại nằm như chết, để toàn bộ thân và tâm như chết. Đây là cách rất hiệu
quả: Tôi nằm duỗi thẳng người, hình dung rằng mình đã chết từ đầu tới chân, tất
cả các tâm niệm biến mất, bắp thịt toàn thân thư giãn ra, chỉ còn luồng hơi thở
phập phồng, dịu dàng. Thực sự, quen rồi, tâm thức về cái chết toàn thân này
cũng dễ dàng hiện ra khi đi đứng nằm ngồi. Sau này, tôi đọc thấy ngài Milarepa
(1052-1135) cũng từng dạy cách này.
Tôi nghĩ, hầu hết, khi niệm chết như thế, các niệm tham sân si
biến mất. Nhưng nghĩ cho kỹ, cũng là một phần của pháp niệm hơi thở. Đoán như
thế thôi, vì tôi không học Kinh Phật theo lối chính quy. Thường chỉ ưa đọc các
bản tiếng Anh, vì dễ đối chiếu nhiều bản dịch khác nhau, qua công cụ tìm kiếm ở
Internet. Thêm nữa, phải đối chiếu, vì đã thấy rằng dịch là công việc gian nan,
không dễ gì dịch cho tuyệt hảo được, khi tôi dò 24 bản Anh dịch của 4 câu trong
Kinh Pháp Cú. (3)
Tôi cũng từng tập Thiền Tứ Niệm Xứ. Ngài Đạt
Lai Lạt Ma cũng dạy về Tứ Niệm Xứ. Trong đó có bản Anh dịch, tóm lược một khóa
tu năm 2002 lưu ở Văn Khố Berzin, người biên tập là Sư Thubten Chodron.
Như thế, phức tạp quá. Thế nên, tôi thích nhất là cuốn “Mindfulness in Plain
English” (Chánh Niệm Hướng Dẫn Bằng Tiếng Anh Đơn Giản) của nhà sư Tích Lan
Bhante Gunaratana.
Đức Phật đã tách ra làm 4 phần khi tu Chánh
Niệm, Mindfulness: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nghĩa là từ gần nhất là quán sát thân
mình, trong đó rất mực gần và dễ nhận nhất là niệm hơi thở, như thế, tôi đã tập
từ thời tập theo sách Thiền Chỉ Quán. Tới xa hơn là niệm thọ, rồi tới niệm tâm
(chỗ này trừu tượng hơn, vì là dò xem dấu chân trâu), rồi niệm pháp... là xa và
trừu tượng hơn. Nhưng rồi, tôi niệm gì, rồi cũng thấy là mình đang niệm tâm
mình; hễ nhìn thấy bất kỳ những gì hiện ra trước mắt đều thấy tức khắc là hiện
trong tâm mình, hễ nghe thấy bất kỳ tiếng nào bên tai là tức khắc nhận ra tâm
mình đang hiển lộ...
Cuối cùng, tôi thích nhất là đơn giản hóa mọi chuyện, là cách
nhận ra bất kỳ những gì khởi trong tâm mình. Sau này đọc nhiều, cũng thấy nhà
sư Tây Tạng Thrangu Rinpoche nói tương tự: “Thiền định không phải là để thêu dệt hay để
củng cố trạng thái [tâm] đặc biệt nào, nhưng chỉ đơn giản là tập kỹ năng nhận
biết bất cứ những gì khởi lên trong tâm.” (Meditation is not supposed to be the fabrication or the
reinforcement of some particular state, but simply the cultivation of the
awareness of whatever is arising in the mind.) Chỉ nhận biết, và không trụ tâm
vào đâu.
*
Nhưng tuyệt vời là những khi ngồi làm việc tới
mệt nhọc, chân gần như tê liệt (như ngồi trên phi cơ nhiều giờ), rồi đứng dậy
tập thể dục, tay đấm, chân đá và hốt nhiên nhận ra mình đang sống với Tánh
Không, cái Emptiness... bất kể là trọn ngày đã hứng đủ thứ chuyện trần gian, và
vẫn nhận ra có rất nhiều lúc tâm mình không tham sân si, không hề thấy cái tôi
với cái của tôi. Hạnh phúc là như thế.
Đức Phật đã từng giải thích về Không...
Khi ngài Mogharāja hỏi: Con phải quán sát thế giới này thế nào để không
bị Tử Thần nhìn thấy?
Đức
Phật trả lời: “Hãy luôn luôn tỉnh thức nhìn thế giới này như rỗng không, để gỡ
bất kỳ cái nhìn nào về tự ngã. Với cách này, con sẽ đứng trên và vượt qua cái
chết. Đây là cách quán sát về thế giới để không bị Tử Thần ngó thấy.” (4)
Câu hỏi tới đây là, định luật nhân duyên dẫn
tới cái nhìn về Tánh Không trong các pháp. Vậy thì, Tánh Không đó là gì? Có
phải như các Thiền sư nói rằng bản tâm hệt như gương sáng tròn lớn: Hán tới
hiện Hán, Hồ tới hiện Hồ, và do vậy cảnh tới rồi đi như chim bay không lưu vết?
Hay chỉ đơn giản, Tánh Không chỉ có nghĩa là “không có cái tôi, không có cái
của tôi”?
Rồi một lần, Đức Phật dạy: "Các sư, chói sáng là tâm này. Và nó bị
nhiễm trần vì phiền não bám vào. Các sư, chói sáng là tâm này. Và nó được giải
thoát xa khỏi phiền não bám vào..." (5)
Như vậy, Thấy Tánh có phảỉ là khoảnh khắc của
thấy cái chói sáng của tâm nguyên sơ đó? Khoảnh khắc thấy đó, hiển nhiên là xa
lìa tham sân si, có thể gọi là đốn ngộ được không?
Dĩ nhiên, thiền tập là chuyện gian nan. Thêm
nữa, câu trên cũng có thể hiểu nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa: tâm này (the
mind) chói sáng là sau khi tu tập, sau khi xa lìa tham sân si (nói theo tiêu
chuẩn đã nêu đầu bài). Tranh luận, như đã thấy trong lịch sử, có thể sẽ dẫn tới
bất tận.
*
Trong khi đó, qua vài lần, Đức Đạt Lai Lạt Ma
nói rất minh bạch:
"Niết
bàn là gì? Cái căn bản dựa vào đó để có thể thành tựu Niết bàn được gọi là Phật
tánh, tức là cái dòng bất biến an nhiên..."(6)
Hay như khi Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy Tứ Diệu Đế ở chùa Saihoji
Temple tại Nagano, Nhật Bản, ngày 21 tháng 6-2010: "Nhận ra Phật Tánh sẵn có trong
tâm sẽ cho quý vị tự tin và cung cấp một chìa khóa cho đời sống hạnh phúc." (7)
Nhận ra Phật Tánh... dĩ nhiên, từ chỗ hiểu về
khái niệm Phật tánh, tới chỗ kinh nghiệm còn là chuyện gian nan. Do vậy, Đức
Đạt Lai Lạt Ma trong các sách đã kiên nhẫn, trước tiên là sử dụng nhiều phương
pháp lý luận để nói về tâm, và rồi nói về pháp hành. Nghĩa là, củng cố lý luận
trước, rồi mới tu tập sau.
Nhìn chung, Đức Đạt Lai Lạt Ma rất ít khi nói
tới "Phật tánh" cũng vì sợ học nhân nhầm lẫn, và rất thường khi nói
về Tánh Không, về Trung Quán, về Từ Bi... Vì rốt ráo, Phật Tánh (Buddha-nature)
gợi cảm xúc về ngôn ngữ như là có, trong khi Tánh Không là cách nói chỉ ra là
không, dễ tu hơn và dễ tránh ngộ nhận. Chỗ này, thực ra, Phật tánh như Phật
Giáo Tây Tạng và Bắc Tông giải thích, là xa lìa cả có và không, xa lìa cả nhiễm
và tịnh... y hệt như bài Bát Nhã Tâm Kinh.
Một vị sư Nam Tông tới gần với Thiền Tông về điểm này là ngài
Ajahn Chah, khi gọi đó là Bản Tâm (Original
Mind), dịch sát nghĩa như sau:
“Về
tâm này... Trong sự thật, không có gì thực sự sai trái với nó. Nó trong bản
chất là thanh tịnh. Trong nó [tâm này], nó đã sẵn bình an. Khi tâm này không
bình an lúc này, chỉ bởi vì nó chạy theo các cảm xúc. Chân tâm không dính gì
tới nó (The real mind doesn't
have anything to it), nó chỉ đơn giản là (một phương
diện của) Bản Nhiên. Nó bình an hay dao động bởi vì cảm xúc lừa gạt nó. Tâm
không tu tập là si mê. Những trần căn tới và lừa gạt nó rơi vào hạnh phúc, đau
khổ, vui và buồn, nhưng bản tánh thật của tâm không phải là mấy thứ đó. Vui và
buồn không phảỉ là tâm, mà chỉ là cảm xúc tới để lừa gạt chúng ta. Tâm không tu
tập sẽ lạc lối và sẽ chạy theo mấy thứ này; nó tự quên nó đi. Rồi chúng ta nghĩ
rằng nó là chúng ta, những người trở nên loạn tâm hay trở nên thoải mái hay trở
nên bất cứ thứ gì.
Nhưng
thực sự, tâm này của chúng ta vốn sẵn bất động và bình an... thực
sự bình an! Cũng như chiếc lá đứng bất động, khi không có gió thổi. Nếu
gió tới, lá lay động. Sự lay động này là vì gió – “sự “lay động” là vì các trần
căn đó; rồi tâm chạy theo chúng. Nếu nó [tâm] không chạy theo chúng, nó không
“lay động.” Nếu chúng ta biết trọn vẹn bản chất thật của các trần căn, chúng ta
sẽ bất động.
Pháp
thiền tập của chúng tôi đơn giản là thấy Tâm Bản Nhiên (Our practice is simply to see the
Original Mind). Do vậy, chúng ta phảỉ luyện tâm để
biết các trần căn, và không bị chúng lôi kéo đi. Để làm nó [tâm này] bình an.
Chỉ như thế là mục tiêu của tất cả pháp thiền tập gian nan mà chúng ta phải
trải qua.” (8)
Tâm này vốn sẵn bất động và bình an... Phải thấy Tâm Bản Nhiên... Tâm bản nhiên, tâm nguyên sơ... Những câu
này của ngài Ajahn Chah y hệt như ngôn ngữ Pháp Bảo Đàn Kinh. Nghĩa là, cái
khoảnh khắc nhận ra tâm đã vốn sẵn bất động và bình an có phải là đốn ngộ? Có
phải là Thấy Tánh? Có phải khoảnh khắc đó là xa lìa tham sân si? Có phải tâm đó
là tâm vô sanh, là không sanh diệt? Chỗ này Đức Phật có nói.
*
Đức Phật trong một lần dạy về Niết Bàn, đã nói
về vô sanh:
“Các
sư, có một cái không sanh, không trở thành, không được làm nên, không bị thêu
dệt nên. Nếu không có cái không sanh, không trở thành, không được làm nên,
không bị thêu dệt nên, sẽ không thể có sự chứng ngộ giải thoát ra khỏi cái
sanh, cái trở thành, cái được làm nên, cái bị thêu dệt. Nhưng, một cách chính
xác, bởi vì có cái không sanh, không trở thành, không được làm nên, không bị
thêu dệt, nên sự giải thoat ra khỏi cái sanh, cái trở thành, cái được làm nên,
cái bị thêu dệt mới được chứng ngộ.”(9)
Nghĩa là, có một cái bản nhiên đã bất động, đã xa lìa tham sân
si. Đã có bao giờ người đời thường (thí dụ, một kẻ đầy tham sân si như tôi) có
thể nhận ra cái tâm bất động này chưa? Tôi tin rằng tất cả mọi người đều đã
từng có khoảnh khắc nhận ra cái tâm bản nhiên bất động, xa lìa tham sân si này. Tất cả mọi người đều
đã từng Thấy Tánh, nhưng rồi lướt đi.
Dễ nhận ra là khi ngồi trước biển rộng. Sẽ có
những giây phút thấy tâm mình xa lìa tham sân si, thấy không có cái tôi và cái
của tôi, thấy biển và tâm như một. Chính lúc đó, sẽ thấy tâm mình không dính
một pháp nào hết, tuy thấy sóng biển mênh mông gợn lên thật xa nhưng vẫn thấy
tâm mình bất động. Trong khoảnh khắc đó, xa lìa cả động và bất động, xa lìa cả
nhiễm và tịnh, như dường thời gian đứng lại – xa lìa cả quá khứ, vị lai, và cả
hiện tại.
Không cần cảnh trước mặt bình an, ngay cả khi
cảnh hiển lộ dữ dội, chúng ta vẫn có thể thấy tương tự như trên. Thí dụ, bạn
đứng ở một góc rừng, nhằm ngày mưa gió, tiếng lá cây và tiếng mưa ào ạt, bạn
đứng với thân người ướt mem nhìn dòng suối chảy xiết trước mặt... Khoảnh khắc
đó, bạn có thể nhận ra tâm bạn xa lìa tham sân si, và bản hòa tấu mưa rừng
chung quanh là tâm đang hiển lộ -- và tâm này hoàn toàn rỗng không, cho nên tất
cả các âm thanh và hình ảnh hiện ra trong tâm mà vẫn không suy xuyển. Tương tự,
khi ngồi nghe dàn hòa tấu cả trăm nhạc khí...
Hay thí dụ, khoảnh khắc buổi sáng chợt nghe
tiếng gà gáy. Hẳn là nhiều người sẽ thấy rằng giây phút đó tiếng gà là tâm hiển
lộ, tâm này xa lìa tham sân si. Đó là giây phút khi nhà sư Hương Nghiêm quét
sân và nghe tiếng sỏi văng vào gốc cây tre; tiếng sỏi không huyền bí gì, chỉ vì
lúc đó sư nhận ra tiếng sỏi là bản tâm hiển lộ, và tâm này xa lìa tham sân si.
Khoảnh khắc nhận ra tâm xa lìa tham sân si
cũng có thể là khi nhìn thấy màu son trên môi một phụ nữ. Có khi nhìn thấy một
màu son lạ (tôi cũng từng học vẽ, nên có quan tâm về màu sắc), tôi suy nghĩ có
thể màu này là 2 màu đỏ và cam, nên tạo ra sự cố ý không đều, trông như màu son
biến đổi trên môi. Tất nhiên, tôi đang sử dụng tâm phân biệt khi thắc mắc về
màu son, cũng y hệt như khi dùng tâm phân biệt khi làm toán, khi làm thơ, khi
chọn màu cho một bản vẽ, và vân vân.
Tâm phân biệt này không làm suy xuyển gì tới
tâm vô phân biệt bản nhiên và bất động. Cũng y hệt như khi nhà sư Hương Nghiêm
nghe tiếng sỏi văng vào gốc tre, vẫn biết đó không phải là tiếng gà gáy, không
phải tiếng chim kêu... Và tâm phân biệt khi đó vẫn xa lìa tham sân si; giây
phút đó, thời gian như đã biến mất.
*
Câu hỏi tới đây là, làm sao nhận ra tâm này
bất động?
Thử lấy một thí dụ, khi bạn ngồi làm toán, với
bút chì trên giấy hay với bàn gõ trên máy tính. Bạn đang ngậm viên kẹo sôcôla,
tiếng nhạc vọng ra từ máy TV bên ngoài, quạt máy thổi sau lưng... Bạn đang chú
tâm làm toán, những vẫn đang vô tâm nhận ra vị ngọt của kẹo, vô tâm nghe tiếng
nhạc bên ngoaì vọng vào, vô tâm cảm nhận gió mát từ quạt máy. Nếu tâm này không
bất động, không thể có thọ dụng cái toàn thể như thế.
Chính lúc đó, bạn đang sống cái toàn thể.
Không còn cái phần mảnh nào hết. Cái tâm bản nhiên của bạn đang hiển lộ, đang
tắm gội trong cái toàn thể, bất kể rằng bạn đang sử dụng tâm phân biệt vật lộn
với các bài toán đại số hay hình học. Chính khi bạn nhận ra mình đang sống với
cái toàn thể như thế, thời gian biến mất, vì sẽ không còn cái hôm qua và ngày
mai, cũng là bạn đang sống với cái hiện tiền, hay ngắn gọn, đang sống với cái
phi thời gian.
Bất kỳ ai cũng có lúc sống với những khoảnh
khắc như thế, nơi đó bạn thọ dụng thế giới, và tham sân si biến mất. Pháp tu
chỉ đơn giản là sử dụng tất cả các công cụ Đức Phạt đã dạy, là giới định huệ,
là tứ niệm xứ, là chỉ quán, là niệm hơi thở, là ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm,
là sám hối, là từ bi... để xa lìa tham sân si, một cõi tâm bạn đã từng có lúc
nhận ra (mà chúng ta gọi cho gọn là đốn ngộ). Nghiệp lực rồi sẽ lôi kéo chúng
ta trượt đi, nhưng khi đã thấy cõi quốc độ này xong, mọi chuyện đơn giản cực
kỳ, và sẽ hiểu trọn vẹn Thiền Tông do Bồ Đề Đạt Ma truyền dạy.
Đó là khi Đức Phật cầm đóa hoa đưa lên, ngài
Ca Diếp mỉm cười. Đơn giản vì các sư khác thấy là hoa, nhưng Ngài Ca Diếp thấy
là bản tâm hiển lộ và mỉm cười vì khoảnh khắc này xa lìa cõi tham sân si (hy
vọng Đức Phật và Ngaì Ca Diếp sẽ không rầy mắng những dòng chữ giảỉ thích này,
nơi chữ chỉ thuần là chữ, và được viết với không có cái nhìn về “tôi” và “của
tôi”).
*
Tuy nhiên, khi nói rằng "Giữ lấy Tâm Rỗng
Sáng" cũng sai, hay ít nhất, cũng chưa đủ. Chỗ này, chúng ta thử đọc
lại cách nhà sư Lâm Tế truyền pháp, có những cách dạy khác nhau, tùy căn cơ
người hỏi pháp.
Phương pháp là Tứ liệu giản:
- Có khi đoạt nhân không đoạt cảnh
- Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân
- Có khi nhân cảnh đều đoạt
- Có khi nhân cảnh đều không đoạt
Phương pháp của ngài Lâm Tế được giải thích
trong Lăng Nghiêm Tông Thông:
“Trong
thiền môn thuần dùng Trí Huệ, duy chỉ có một tay Lâm Tế thật khó gặp một người
thứ hai. Ngài thường nói : “Sơn tăng chốn này đoán định ba thứ Căn Khí : như
hàng căn khí trung hạ đến, ta bèn đoạt Cảnh nó mà chẳng trừ Pháp nó. Nếu là
hàng căn khí trung thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp đều đoạt. Như có người căn khí
thượng thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp, Người đều đoạt. Như có người kiến giải
xuất cách đến thì sơn tăng chốn đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng cần Căn Khí.
Các Đại Đức, đến trong ấy mà chỗ nỗ lực của học nhơn chẳng thông rõ phong đại,
lửa đá, chớp xẹt tức qua liền vậy. Người học mà con mắt định nếu động, liền mất
giao thiệp.
Tâm
nghĩ tức sai, động niệm tức trái! Có người nào rõ biết, chẳng lìa trước mắt...
Ôm lấy chẳng tụ, vứt đi chẳng tan. Tìm cầu liền mất xa, không cầu là trước
mắt”....” (http://thuvienhoasen.org/a1229/quyen-viii)
Tìm cầu liền mất xa, không cầu là trước mắt?
Nghe y hệt như ngaì Ajahn Chah của Thái Lan.
Nơi đây, xin thử giảỉ thích 4 câu của sư Lâm
Tế (qua hiểu biết rất mực thô sơ của tôi).
Câu đầu, dạy pháp phá Ngã Chấp, tức là
"đoạt nhân, không đoạt cảnh". Giúp học nhân phá hết mọi thứ về “cái
tôi” và “cái của tôi.” Mặt trời ấm hiện... là bắt đầu có trí tuệ.
Câu thứ 2 là, “Có khi đoạt cảnh không đoạt
nhân.” Dạy cho học nhân phá hết mọi thứ chấp về cảnh, về pháp, về đối tượng của
tâm. Nghĩa là, tất cả uẩn xứ giới đều không thực, đều là huyễn; chỗ này Kinh
Viên Giác dạy là tri huyễn tức ly, là khi thấy tất cả các pháp trong hay ngoàì
tâm đều là huyễn, tức khắc xa lìa tham sân si. Chỗ này nói, ngay cả Niết Bàn
cũng là giấc mộng đêm qua. Câu thơ của dòng Lâm Tế chỗ này là: “Lệnh vua đã ban
hành khắp thiên hạ, Tướng quân ngoài ải dứt khói bụi,” trong đó Lệnh vua là Tự
Tánh hiển lộ.
Thí dụ, chuyện hai nhà sư, một nói phướn động,
một nói gió động. Lục Tổ Huệ Năng thấy vậy, mới nói, chỉ có tâm hai sư động
thôi. Nghĩa là, nhìn cảnh thấy tâm, cả tâm và cảnh nhất như, một thể.
Câu thứ 3 là, “Có khi nhân cảnh đều đoạt.” Nơi
đây, giúp học nhân vào Tánh Không, nơi không thấy ta, không thấy người, không
thấy có cái gì phiền não, không thấy có cái gì là giải thoát. Nơi đây, cả Tâm
và cả Cảnh đều là Cái Không Rỗng Rang. Câu thơ giải thích là: Tịnh Phần bặt tin
tức, Một mình ở một nơi. Nghĩa là, mình đi đứng nằm ngồi với Cái Không Rỗng Rang.
Thí dụ, chuyện phướn động vừa nêu. Lục Tổ Huệ
Năng, sau khi nói rằng tâm hai sư động, ngài có thể nói thêm, rằng Tâm Bản
Nhiên của quý vị vẫn bất động và rỗng rang.
Nhưng câu thứ 4, là ngài Lâm Tế chỉ dùng khi
gặp người thượng căn: Có khi nhân cảnh đều không đoạt. Thế nào là nhân cảnh đều
không đoạt? Sư đáp: Vua bước lên ngai, Lão quê ca hát. Nghĩa là không có pháp
nào để tu hết, chỉ cần giữ Tâm Bình Thường thôi, vì Vua (Tự Tánh) đã ngồi vào
ngôi hoàng đế rồi, lão quê muốn làm gì cũng chẳng suy xuyển.
Thí dụ, nêu tiếp chuyện phướn động ở trên. Chỗ
này, Lục Tổ Huệ Năng có thể sẽ nói rằng, tất cả các pháp đều chẳng có động với
tịch gì hết, đây là sống với những khoảnh khắc của cái toàn thể, khoảnh khắc
của không còn gì gọi là thời gian. Còn gọi là Toàn Tướng Tức Tánh. Vì sanh và
vô sanh đều không vướng vào tâm nữa.
*
Tới đây, câu hỏi có thể là, sau khi nhìn thấy
khoảnh khắc của tâm xa lìa tham sân si, làm sao có thể thuận tánh khởi tu? Thực
ra, đây là pháp môn không có cửa vào, chính giây phút nhận ra bản tâm là đã vào
cửa rồi; đây cũng là pháp môn không có lối đi, vì đòi hỏi phải ngồi thiền cho
tới khi thấy Tánh trước, rồi mới tự biết lối đi riêng, vì không mấy ai giống
ai.
Tuy nhiên, tất cả các pháp Đức Phật dạy, dù là
trong kinh Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa (PG Tây Tạng) đều tiện dụng và đều
nên được thực tập để rồi tự mình chọn cách nào tiện lợi. Vì sau khi thấy rồi,
sẽ không linh tinh lang tang nữa.
Tuyệt vời nhất có lẽ là đoạn văn này trong
Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) khi Đức Phật dạy ngài Bahiya:
“Thế này, Bahiya, ông nên tu
tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe
sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng;
trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi,
Bahiya.” (10)
Hay là lời dạy của nhà sư Thái Lan Ajahn Chah
(1918-1992) trong A Taste of Freedom:
“Chúng
ta phải tu tập mà không tìm cầu bất kỳ thứ gì. Nếu chúng ta không tìm cầu bất
kỳ thứ gì, những gì chúng ta sẽ nhận được? Chúng ta không nhận được gì hết! Bất
cứ những gì bạn nhận được sẽ chỉ là cội nguồn cho khổ đau, do vậy
chúng ta tu tập hạnh không tìm cầu bất kỳ thứ gì.
Chỉ
như thế gọi là “làm cho tâm rỗng rang” (making the mind empty -- vô tâm). Nó thì rỗng không, nhưng
vẫn có sự hành hoạt. Cái rỗng không này là cái người ta thường không hiểu,
nhưng những ai đạt tới nói, sẽ thấy giá trị khi nhận ra nó. Nó không phải là
cái rỗng không của không có gì hết, mà nói là cái rỗng không vẫn nằm trong các
thứ hiện hữu nơi đây.” A Taste of
Freedom. (8)
Đọc ngài Ajahn Chah hoàn toàn không thấy khác
gì với Thiền Tông. Dĩ nhiên, tu tập bao giờ cũng rất là gian nan.
Trong cuốn sách dạy về pháp Thấy Tánh, nhan đề “Meditation on
the Nature of Mind” (Thiền Định về Bản Tánh của Tâm) của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời
14, có nói về pháp “nhìn vào niệm trước đã diệt, niệm sau chưa sinh”:
“Ngài
Milarepa cũng nói rằng: giữa hai niệm kế nhau, cái thấy về pháp tánh liên
tục khởi dậy. Hãy nếm lấy nó.”
(Lord Milarepa also states: in between one conceptual thought and the next,
gnosis continuously arises. Go taste it.” (11)
Một cách tuyệt vời nữa, cũng do ngài Milarepa
(khoảng 1052- 1135), nói về 5 pháp an tâm:
Hãy để
tâm tự nhiên như một em bé
Hãy để
tâm như mặt biển không sóng gợn
Hãy để
tâm trong suốt như ngọn lửa nến
Hãy để
tâm không bận gì nữa y hệt một xác chết
Hãy để
tâm bất động như một ngọn núi. (12)
Dĩ nhiên, ngài Milarepa cũng dạy là phải Thấy
Tánh trước, còn gọi là pháp Thiền Đại Thủ Ấn (Mahamudra) của PG Tây Tạng – và
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã viết tác phẩm “The Gelug/Kagyu Tradition of
Mahamudra” về pháp thiền này.
Nơi những sách của ngài Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã
nhận ra Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa không dị biệt gì, trong tận cùng.
Trên các trang giấy của ngài, tôi đã nhận ra hình ảnh của Đức Phật, của Lục Tổ
Huệ Năng, của Ajahn Chah và của rất nhiều nhà sư tôi hàm ơn.
Tháng 7-2010, tôi đã bày tỏ lòng biết ơn Đức Đạt Lai Lạt Ma nhân
dịp sinh nhật thứ 75 của ngài tại Quận Cam, trong cuộc triển lãm, nơi lễ khai
mạc có tham dự của anh bạn thân GS Tenzin Dorjee và một pháí đoàn chư tăng tới
từ Dharamsala– xem:http://tinyurl.com/ovg2jeg --
và bây giờ, bùi ngùi trước tin rằng, truyền thống Dalai Lama sẽ kết thúc sau
ngài. Sang năm 2015, sẽ là sinh nhật thứ 80 của ngài.
Và bây giờ, nếu đột nhiên, bạn thấy Đức Đạt
Lai Lạt Ma hiện ra, và hét vào bên tai bạn... y hệt kiểu các sư Lâm Tế thời xa
xưa, hãy nhận ra tức khắc rằng, chính khoảnh khắc nghe đó là tâm hiển lộ
ra và không dính mảy tham sân si nào. Tôi tin rằng sau tiếng hét đó, ngài sẽ
cười rất mực khoái trá, một tiếng cười của tâm nguyên sơ từ nhà sư đơn giản
này, nhưng rất mực từ bi và thâm sâu.
GHI CHÚ:
1. "In this, monks, a monk seeing an
object with the eye recognizes within himself the presence of lust, hatred or
delusion, knowing 'Lust, hatred or delusion is present in me,' or he recognizes
the absence of these things, knowing 'There is no lust, hatred or delusion
present in me.'
[Similarly for ear, nose, tongue, body
(touch), mind.]
4. Sn 5.16. Link: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.5.16.than.html
5. Pabhassara Sutta:
Luminous. Link: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an01/an01.049.than.html
6.
What is nirvana? The basis due to which it is possible to attain nirvana is called the Buddha-nature, or
the naturally abiding lineage... (The Dalai Lama at Harvard, by Jeffrey Hopkins
- 1988 - trang 104) Link: http://tinyurl.com/dalai-1
7. Nguyên văn:
Awareness of one's innate Buddha nature will give self-confidence and provide a
key to happy life. Link:http://tinyurl.com/lcoge7s
8. A Taste of Freedom
by Ajahn Chah, 1994. Link: http://www.accesstoinsight.org/lib/thai/chah/atasteof.html#mind
9. There is, monks, an unborn — unbecome —
unmade — unfabricated. If there were not that unborn — unbecome — unmade —
unfabricated, there would not be the case that escape from the born — become —
made — fabricated would be discerned. But precisely because there is an unborn
— unbecome — unmade — unfabricated, escape from the born — become — made —
fabricated is discerned.
— Ud 8.3. Link: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.8.03.than.html
11. Meditation on the
Nature of Mind, by Dalai Lama. Link: http://tinyurl.com/kdsh426
12. The Tibetan Buddhism Reader, edited by
Reginald A. Ray, trang 85:
Five Ways of Resting ~ Milarepa:
Rest in a natural way like
a small child.
Rest like an ocean without
waves.
Rest within clarity like a
candle flame.
Rest without self-concerns
like a human corpse.
Rest unmoving like a
mountain.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét