Hiển thị các bài đăng có nhãn nguyên giác. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nguyên giác. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

AI GÌN GIỮ TÂM NGUYÊN SƠ…

Nguyên Giác


 Đức Đạt Lai Lạt Ma, tuyệt vời. Tôi có nhiều cơ duyên với ngài... ngay cả từ thời rất là thơ trẻ, khi còn ở trong nước và khi chỉ mới đọc các bài báo sơ sài về ngài. Đất nước Tây Tạng và vị lãnh đạo này là một thế giới kỳ bí, không chỉ vì xa xôi cách biệt nhưng cũng vì niềm tin của dân tộc này rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Tôi dễ dàng tin rằng các sư Tây Tạng có phép thuật thần thông, rằng pháp ngồi thiền cho tuyết rơi phảỉ tan chảy, hay chạy như bay trên các rặng núi là chuyện bình thường của các sư Tây Tạng, và do vậy Đức Đạt Lai Lạt Ma phải là tuyệt vời lắm. Dần dà, ra hải ngoại, đọc nhiều hơn, bản thân mưu sinh bằng việc dịch thuật tin tức, và rồi một số cơ duyên gặp ngài trực tiếp (nghề viết báo, vui là thế), lòng tin thơ trẻ năm xưa trở thành lòng yêu thương và kính trọng nhân vật kỳ bí đời thứ 14 này, kể cả khi ngài nói rằng ngài chỉ là một vị sư đơn giản, a simple monk, và mới đây là khi ngàì tuyên bố kết thúc truyền thống Đạt Lai Lạt Ma của Phật Giáo Tây Tạng.
Cũng như mọi đứa trẻ, tôi vốn ưa thích những chuyện kỳ bí. Thời mới 4 tuổi, tôi bị bệnh ghẻ nhiều kinh khủng, đưa tới nhiều bác sĩ chữa hoài không hết, rồi được mẹ dẫn tới một ngôi đền lên đồng ở đường Nguyễn Thông nối dài, khu này ngày xưa gọi là xóm Chuồng Bò, kế bên mấy ruộng rau muống. Bây giờ, nghe nói, quận 3 Sài Gòn không còn ao ruộng gì nữa, vì nhà dựng lên chi chít.
Tôi nhìn thấy lễ lên đồng nơi đây lần đầu tiên trong đời, và cũng là lần cuối trong đời. Sau khi múa hát, một vị cầm dao, kiếm, đâm xuyên  hai bên má, không thấy máu chảy hay đau đớn gì. Tôi kinh ngạc nhìn. Rồi vị pháp sư tới thắt dây ngũ sắc cho tên nhóc đầy bệnh ghẻ, nói với mẹ tôi là lễ chữa bệnh xong rồi. Vậy mà hết ghẻ. Nhưng tôi sau này nghĩ lại, vì lúc đó dì tôi đã hái lá ổi hàng ngày tắm cho tôi. Mẹ nói, có khi vì lá ổi mà hết ghẻ.
Chuyện kỳ bí nữa: tôi học môn võ Thần Quyền. Cũng lạ, vì những cơ duyên này trực tiếp cho tiếp cận với thế giới phi nhân, qua những câu thần chú được nói là của các ông Lục Khmer. Rồi tôi rời bỏ môn võ này, vì tự nhiên thấy là không phải, vì thấy hình ảnh Đức Phật ngồi dưới cội Bồ Đề đẹp quá, không dính gì tới cõi quơ tay múa chân này.
Tôi lại mua cuốn sách, tập Hatha Yoga, và tập pháp thiền Raja Yoga theo sách này.  Rồi trì chú Đại Bi theo hướng dẫn của một số thầy. Rồi sách Thiền in nhiều hơn, với các sách Thiền dich ra Việt ngữ bởi Trúc Thiên, Tuệ Sỹ, và nhiều vị khác. Rồi tập Thiền Chỉ Quán theo một cuốn sách nhỏ, bây giờ quên tên rồi, nhưng kinh nghiệm nàỳ thật tuyệt vời khi tự nhiên nhớ chữ Thể Chơn Chỉ trong sách này, tâm bất ngờ như bật sáng.
Để rồi tuyệt vời là khi gặp Thầy Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng Bình Dương. Chỉ nói rằng, phải Thấy Tánh trước, rồi mới tu sau.Thầy nói ít, kể cả khi nói rằng pháp Tổ Sư Thiền này thực ra là không tu gì hết, hay chỉ là tu cái không tu, trong khi vị sư đệ của Thầy là HT Thường Chiếu ở Đồng Ông Cộ (Gia Định) lại nói nhiều hơn.  Trong đó, có hai vị sư huynh cùng thầy của tôi nơi đây, bây giờ cũng là người viết nhiều về Phật Pháp, là anh Nguyễn Thế Đăng (nhà sư, trụ trì một cái am nhỏ ở ngoại ô Sài Gòn, nhưng bút hiệu chỉ dùng tên đời) và Cư sĩ Thanh Liên, cũng là một người tích cực trong nhóm Viet Nalanda.
*
Bây giờ, đọc nhiều hơn, và đọc các nguyên bản tiếng Anh những lời dạy từ Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, thấy rằng cốt tủy Phật Giáo Tây Tạng đúng là dạy như thế, theo lời ngài: Đạo Phật giảỉ thích rằng, tất cả các thức hay tất cả các tâm  sở đều ở trong bản tánh trong suốt và chói sáng (According to Buddhism, all consciousness or all cognitive mental events are said to be in the nature of clarity and luminosity) -- Buổi thuyết pháp các ngày 11-14 tháng 10-1991 tại New York City.
Thực ra, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong những buổi thuyết pháp, và trong nhiều sách khác nhau, cũng dạy rất nhiều phương diện khác nhau của Phật Giáo. Kể cả các phương diện kỳ bí, tôi biết như thế, sau khi quen với nhà sư Geshe Tsultim Gyeltsen ở Long Beach, người từng được xem như Bộ Trưởng Ngoại Giao của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi tiếp cận với phương Tây, và rồi trở thành bạn thân với Giáo Sư Tenzin Dorjee ở CSU Fullerton, một vị sư trở về đời thường và là người thông dịch cho nhiều buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Hoa Kỳ.
Bởi vậy, cho xóa sổ truyền thống Đạt Lai Lạt Ma là một sự kiện lớn. Nhưng tôi không bất ngờ, vì hoàn cảnh chính trị là thế, và vẫn nhìn thấy rằng ngài sống y hệt như các vị sư thời Đức Phật, cũng khuyến tấn y hệt thời xưa như thế: sống xa lìa tham sân si.Nghĩa là, sống với Niết Bàn tự tâm.
Tôi sống bằng nghề làm báo, nên sóng gió đời thường nhiều lắm, chỉ lấy Phật Pháp làm niềm vui tối thượng. Nhiều khi, chỉ vì vài lỗi in ấn, như bản tin bị mất phần sau hay cách viết khó hiểu, hay các lỗi tương tự... là bị độc giả điện thoại vào, rầy mắng liên tục. Họ bỏ ra 25 cents mua báo, và có quyền như thế; đây cũng là đất nước của tự do. Thêm nữa, mỗi lần thấy một Linh mục hay Mục sư bước vào tòa soạn, nhờ phỏng vấn cho một sự kiện, tôi rất mực trân trọng vì không muốn độc giả nào nghĩ rằng có sự kỳ thị nào nơi đây.
Việc hằng ngày, dĩ nhiên, mang tính trần gian. Làm việc mệt nhọc, có khi 12 hay 14 giờ/ngày, niềm vui thường là khi gặp bạn trong giới văn học, khi thấy những bài thơ hay, khi đọc được truyện ngắn xuất sắc. Tất nhiên là cũng tự biết đang gây nghiệp thường xuyên; cho dù đã tránh né rất cẩn thận, nhưng khi viết về đời thường chính trị, xã hội... tôi vẫn dùng lối văn giễu cợt, chọc quê.  Thực sự, viết phê bình chuyện đời thường mà chữ nghĩa trang nghiêm như đang dịch kinh thì chẳng ai đọc; báo sẽ dẹp tiệm sớm. Tôi hoàn toàn đồng ý với câu người xưa nói rằng trong sách có thiếu nữ mặt đẹp như ngọc; đúng ra, văn chương còn đẹp hơn nhan sắc phụ nữ gấp nghìn lần. Do vậy, niềm vui cũng là những khi tôi dịch sang Anh văn các tác phầm của Inrasara, của Nguyễn Lương Vỵ, của quý Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, TT Thích Nhật Từ. ..
Riêng về lần dịch một tập thơ của Nguyễn Lương Vỵ (những dòng thơ tôi tin là hay như, hoặc hay hơn thơ Bùi Giáng), tôi tự buộc mình như nhập thất suốt nhiều tháng, mỗi ngày ăn rất ít, đi làm về là mở máy tính, vừa ngồi gõ, vừa quán tâm mình liên tục... vì tôi nghĩ, dịch thơ tên này có thể kéo mình xuống địa ngục. Thí dụ, mấy câu này của Vỵ chẳng đạo học tí nào, và rất mực là đau đớn trần gian:
Rồi thôi, đôi mắt ướt ngàn thâu
(Chẳng cần lãng mạn quái gì đâu!)
Phố chợ, tiếng rao khuya xót ruột
Âm rách vai, gió thốc trong đầu…
Và tôi (khổ quá, phải làm sao cho nó có tính xuất thế gian, dù là bất toàn) dịch là:
oh gone, the misty eyes of a thousand years
(needless to be romantic at all!)
the town grieves over the yelling of street vendors at night
the voice pierces shoulders, the wind blasts in the heads...
Nhưng chuyện trần gian đầy những đau đớn hàng ngày như thế, làm sao để có thể dìu nhau tới bờ giải thoát? Những khi suy nghĩ như thế, tôi lại nhớ tới ngài Đạt Lai Lạt Ma đang bước đi giữa cõi trần gian rất mực đau đớn.
*
Và hàng ngày, trong đời thường, khi ngồi đọc hàng trăm bản tin, chọn tin, dịch tin, dò lỗi, suy tính ưu tiên các bản tin – nghĩa là đủ thứ bản tin về tham sân si đời thường, từ hình sự tới đủ thứ... --  trong cả những lúc gần như kiệt sức mỗi buổi chiều, hay cả những lúc ứa nước mắt khi đọc tin quê nhà, tôi vẫn nhớ tới bản kinh trong Tương Ưng Bộ nói về tiêu chuẩn của người tu học: phảỉ xem tâm mình có khởi lên tham sân si hay không.
Kinh này là SN 35.152, tựa đề “Atthinukhopariyaayo Sutta: Is There a Criterion?”  dịch bởi
Maurice O'Connell Walshe (1), và Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch là “Có Pháp Môn Nào?” trong đó Phật dạy về cách nhìn tâm:
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rõ: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rõ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si"...” (2) – Tương tự với tai, mũi, lưỡi, chạm xúc, thức...
Như thế, câu hỏi là, có những khoảnh khắc trong ngày, chúng ta thấy tâm mình không tham, không sân, không si... có phải đó là khoảnh khắc của Niết Bàn? Có phải giây phút đó là Thấy Tánh hay đốn ngộ  (nếu muốn sử dụng chữ này)?  Không dám khẳng định. Tôi luôn luôn cố gắng sống với tâm của một đứa trẻ sơ sinh, dù là đọc và học rất nhiều, và vẫn tránh chuyện tranh cãi, vì cần để tâm lực cho quá nhiều chuyện đời thường trong ngày. Tâm trẻ sơ sinh là không trụ tâm vào đâu cả, là vô sở trụ, tôi tập như thế từ lâu rồi, dù là vẫn đang làm mọi thứ phải làm trong đời.
Nói đơn giản là không tham sân si, nhưng khó vô cùng tận. Bởi vì trong cõi Bolsa này, bên cạnh chuyện cạnh tranh thương mại, đặc biệt là trong giới truyền thông và nghệ sĩ, chỗ nào cũng toàn là tuyệt sắc giai nhân. Có những khi nhấc điện thoại lên, có những người có giọng nói ru hồn người. Chiều về, sau khi tơi tả vì những trận mưa chữ Việt, chữ Anh hàng ngày, tôi lại nằm như chết, để toàn bộ thân và tâm như chết. Đây là cách rất hiệu quả: Tôi nằm duỗi thẳng người, hình dung rằng mình đã chết từ đầu tới chân, tất cả các tâm niệm biến mất, bắp thịt toàn thân thư giãn ra, chỉ còn luồng hơi thở phập phồng, dịu dàng. Thực sự, quen rồi, tâm thức về cái chết toàn thân này cũng dễ dàng hiện ra khi đi đứng nằm ngồi. Sau này, tôi đọc thấy ngài Milarepa (1052-1135) cũng từng dạy  cách này. 
Tôi nghĩ, hầu hết, khi niệm chết như thế, các niệm tham sân si biến mất. Nhưng nghĩ cho kỹ, cũng là một phần của pháp niệm hơi thở. Đoán như thế thôi, vì tôi không học Kinh Phật theo lối chính quy. Thường chỉ ưa đọc các bản tiếng Anh, vì dễ đối chiếu nhiều bản dịch khác nhau, qua công cụ tìm kiếm ở Internet. Thêm nữa, phải đối chiếu, vì đã thấy rằng dịch là công việc gian nan, không dễ gì dịch cho tuyệt hảo được, khi tôi dò 24 bản Anh dịch của 4 câu trong Kinh Pháp Cú. (3)
Tôi cũng từng tập Thiền Tứ Niệm Xứ. Ngài Đạt Lai Lạt Ma cũng dạy về Tứ Niệm Xứ. Trong đó có bản Anh dịch, tóm lược một khóa tu năm 2002 lưu ở Văn Khố Berzin, người biên tập là Sư Thubten Chodron.  Như thế, phức tạp quá. Thế nên, tôi thích nhất là cuốn “Mindfulness in Plain English” (Chánh Niệm Hướng Dẫn Bằng Tiếng Anh Đơn Giản) của nhà sư Tích Lan Bhante Gunaratana.
Đức Phật đã tách ra làm 4 phần khi tu Chánh Niệm, Mindfulness: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nghĩa là từ gần nhất là quán sát thân mình, trong đó rất mực gần và dễ nhận nhất là niệm hơi thở, như thế, tôi đã tập từ thời tập theo sách Thiền Chỉ Quán. Tới xa hơn là niệm thọ, rồi tới niệm tâm (chỗ này trừu tượng hơn, vì là dò xem dấu chân trâu), rồi niệm pháp... là xa và trừu tượng hơn. Nhưng rồi, tôi niệm gì, rồi cũng thấy là mình đang niệm tâm mình; hễ nhìn thấy bất kỳ những gì hiện ra trước mắt đều thấy tức khắc là hiện trong tâm mình, hễ nghe thấy bất kỳ tiếng nào bên tai là tức khắc nhận ra tâm mình đang hiển lộ...
Cuối cùng, tôi thích nhất là đơn giản hóa mọi chuyện, là cách nhận ra bất kỳ những gì khởi trong tâm mình. Sau này đọc nhiều, cũng thấy nhà sư Tây Tạng Thrangu Rinpoche nói tương tự: “Thiền định không phải là để thêu dệt hay để củng cố trạng thái [tâm] đặc biệt nào, nhưng chỉ đơn giản là tập kỹ năng nhận biết bất cứ những gì khởi lên trong tâm.” (Meditation is not supposed to be the fabrication or the reinforcement of some particular state, but simply the cultivation of the awareness of whatever is arising in the mind.) Chỉ nhận biết, và không trụ tâm vào đâu.
*
Nhưng tuyệt vời là những khi ngồi làm việc tới mệt nhọc, chân gần như tê liệt (như ngồi trên phi cơ nhiều giờ), rồi đứng dậy tập thể dục, tay đấm, chân đá và hốt nhiên nhận ra mình đang sống với Tánh Không, cái Emptiness... bất kể là trọn ngày đã hứng đủ thứ chuyện trần gian, và vẫn nhận ra có rất nhiều lúc tâm mình không tham sân si, không hề thấy cái tôi với cái của tôi. Hạnh phúc là như thế.
Đức Phật đã từng giải thích về Không...  Khi ngài  Mogharāja hỏi: Con phải quán sát thế giới này thế nào để không bị Tử Thần nhìn thấy?
Đức Phật trả lời: “Hãy luôn luôn tỉnh thức nhìn thế giới này như rỗng không, để gỡ bất kỳ cái nhìn nào về tự ngã. Với cách này, con sẽ đứng trên và vượt qua cái chết. Đây là cách quán sát về thế giới để không bị Tử Thần ngó thấy.” (4)
Câu hỏi tới đây là, định luật nhân duyên dẫn tới cái nhìn về Tánh Không trong các pháp. Vậy thì, Tánh Không đó là gì? Có phải như các Thiền sư nói rằng bản tâm hệt như gương sáng tròn lớn: Hán tới hiện Hán, Hồ tới hiện Hồ, và do vậy cảnh tới rồi đi như chim bay không lưu vết? Hay chỉ đơn giản, Tánh Không chỉ có nghĩa là “không có cái tôi, không có cái của tôi”?
Rồi một lần, Đức Phật dạy: "Các sư, chói sáng là tâm này. Và nó bị nhiễm trần vì phiền não bám vào. Các sư, chói sáng là tâm này. Và nó được giải thoát xa khỏi phiền não bám vào..." (5)
Như vậy, Thấy Tánh có phảỉ là khoảnh khắc của thấy cái chói sáng của tâm nguyên sơ đó? Khoảnh khắc thấy đó, hiển nhiên là xa lìa tham sân si, có thể gọi là đốn ngộ được không?
Dĩ nhiên, thiền tập là chuyện gian nan. Thêm nữa, câu trên cũng có thể hiểu nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa: tâm này (the mind) chói sáng là sau khi tu tập, sau khi xa lìa tham sân si (nói theo tiêu chuẩn đã nêu đầu bài). Tranh luận, như đã thấy trong lịch sử, có thể sẽ dẫn tới bất tận.
*
Trong khi đó, qua vài lần, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rất minh bạch:
"Niết bàn là gì? Cái căn bản dựa vào đó để có thể thành tựu Niết bàn được gọi là Phật tánh, tức là cái dòng bất biến an nhiên..."(6)
Hay như khi Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy Tứ Diệu Đế ở chùa Saihoji Temple tại Nagano, Nhật Bản, ngày 21 tháng 6-2010: "Nhận ra Phật Tánh sẵn có trong tâm sẽ cho quý vị tự tin và cung cấp một chìa khóa cho đời sống hạnh phúc.(7)
Nhận ra Phật Tánh... dĩ nhiên, từ chỗ hiểu về khái niệm Phật tánh, tới chỗ kinh nghiệm còn là chuyện gian nan. Do vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong các sách đã kiên nhẫn, trước tiên là sử dụng nhiều phương pháp lý luận để nói về tâm, và rồi nói về pháp hành. Nghĩa là, củng cố lý luận trước, rồi mới tu tập sau.
Nhìn chung, Đức Đạt Lai Lạt Ma rất ít khi nói tới "Phật tánh" cũng vì sợ học nhân nhầm lẫn, và rất thường khi nói về Tánh Không, về Trung Quán, về Từ Bi... Vì rốt ráo, Phật Tánh (Buddha-nature) gợi cảm xúc về ngôn ngữ như là có, trong khi Tánh Không là cách nói chỉ ra là không, dễ tu hơn và dễ tránh ngộ nhận. Chỗ này, thực ra, Phật tánh như Phật Giáo Tây Tạng và Bắc Tông giải thích, là xa lìa cả có và không, xa lìa cả nhiễm và tịnh... y hệt như bài Bát Nhã Tâm Kinh.
Một vị sư Nam Tông tới gần với Thiền Tông về điểm này là ngài Ajahn Chah, khi gọi đó là Bản Tâm (Original Mind), dịch sát nghĩa như sau:
“Về tâm này... Trong sự thật, không có gì thực sự sai trái với nó. Nó trong bản chất là thanh tịnh. Trong nó [tâm này], nó đã sẵn bình an. Khi tâm này không bình an lúc này, chỉ bởi vì nó chạy theo các cảm xúc. Chân tâm không dính gì tới nó (The real mind doesn't have anything to it), nó chỉ đơn giản là (một phương diện của) Bản Nhiên. Nó bình an hay dao động bởi vì cảm xúc lừa gạt nó. Tâm không tu tập là si mê. Những trần căn tới và lừa gạt nó rơi vào hạnh phúc, đau khổ, vui và buồn, nhưng bản tánh thật của tâm không phải là mấy thứ đó. Vui và buồn không phảỉ là tâm, mà chỉ là cảm xúc tới để lừa gạt chúng ta. Tâm không tu tập sẽ lạc lối và sẽ chạy theo mấy thứ này; nó tự quên nó đi. Rồi chúng ta nghĩ rằng nó là chúng ta, những người trở nên loạn tâm hay trở nên thoải mái hay trở nên bất cứ thứ gì.
Nhưng thực sự, tâm này của chúng ta vốn sẵn bất động và bình an... thực sự bình an! Cũng như chiếc lá đứng bất động, khi không có gió  thổi. Nếu gió tới, lá lay động. Sự lay động này là vì gió – “sự “lay động” là vì các trần căn đó; rồi tâm chạy theo chúng. Nếu nó [tâm] không chạy theo chúng, nó không “lay động.” Nếu chúng ta biết trọn vẹn bản chất thật của các trần căn, chúng ta sẽ bất động.
Pháp thiền tập của chúng tôi đơn giản là thấy Tâm Bản Nhiên (Our practice is simply to see the Original Mind). Do vậy, chúng ta phảỉ luyện tâm để biết các trần căn, và không bị chúng lôi kéo đi. Để làm nó [tâm này] bình an. Chỉ như thế là mục tiêu của tất cả pháp thiền tập gian nan mà chúng ta phải trải qua.” (8)
Tâm này vốn sẵn bất động và bình an... Phải thấy Tâm Bản Nhiên... Tâm bản nhiên, tâm nguyên sơ... Những câu này của ngài Ajahn Chah y hệt như ngôn ngữ Pháp Bảo Đàn Kinh. Nghĩa là, cái khoảnh khắc nhận ra tâm đã vốn sẵn bất động và bình an có phải là đốn ngộ? Có phải là Thấy Tánh? Có phải khoảnh khắc đó là xa lìa tham sân si? Có phải tâm đó là tâm vô sanh, là không sanh diệt? Chỗ này Đức Phật có nói.
*
Đức Phật trong một lần dạy về Niết Bàn, đã nói về vô sanh:
“Các sư, có một cái không sanh, không trở thành, không được làm nên, không bị thêu dệt nên. Nếu không có cái không sanh, không trở thành, không được làm nên, không bị thêu dệt nên, sẽ không thể có sự chứng ngộ giải thoát ra khỏi cái sanh, cái trở thành, cái được làm nên, cái bị thêu dệt. Nhưng, một cách chính xác, bởi vì có cái không sanh, không trở thành, không được làm nên, không bị thêu dệt, nên sự giải thoat ra khỏi cái sanh, cái trở thành, cái được làm nên, cái bị thêu dệt mới được chứng ngộ.”(9)
Nghĩa là, có một cái bản nhiên đã bất động, đã xa lìa tham sân si. Đã có bao giờ người đời thường (thí dụ, một kẻ đầy tham sân si như tôi) có thể nhận ra cái tâm bất động này chưa? Tôi tin rằng tất cả mọi người đều đã từng có khoảnh khắc nhận ra cái tâm bản nhiên bất động, xa lìa tham sân si này. Tất cả mọi người đều đã từng Thấy Tánh, nhưng rồi lướt đi.
Dễ nhận ra là khi ngồi trước biển rộng. Sẽ có những giây phút thấy tâm mình xa lìa tham sân si, thấy không có cái tôi và cái của tôi, thấy biển và tâm như một. Chính lúc đó, sẽ thấy tâm mình không dính một pháp nào hết, tuy thấy sóng biển mênh mông gợn lên thật xa nhưng vẫn thấy tâm mình bất động. Trong khoảnh khắc đó, xa lìa cả động và bất động, xa lìa cả nhiễm và tịnh, như dường thời gian đứng lại – xa lìa cả quá khứ, vị lai, và cả hiện tại.
Không cần cảnh trước mặt bình an, ngay cả khi cảnh hiển lộ dữ dội, chúng ta vẫn có thể thấy tương tự như trên. Thí dụ, bạn đứng ở một góc rừng, nhằm ngày mưa gió, tiếng lá cây và tiếng mưa ào ạt, bạn đứng với thân người ướt mem nhìn dòng suối chảy xiết trước mặt... Khoảnh khắc đó, bạn có thể nhận ra tâm bạn xa lìa tham sân si, và bản hòa tấu mưa rừng chung quanh là tâm đang hiển lộ -- và tâm này hoàn toàn rỗng không, cho nên tất cả các âm thanh và hình ảnh hiện ra trong tâm mà vẫn không suy xuyển. Tương tự, khi ngồi nghe dàn hòa tấu cả trăm nhạc khí...
Hay thí dụ, khoảnh khắc buổi sáng chợt nghe tiếng gà gáy. Hẳn là nhiều người sẽ thấy rằng giây phút đó tiếng gà là tâm hiển lộ, tâm này xa lìa tham sân si. Đó là giây phút khi nhà sư Hương Nghiêm quét sân và nghe tiếng sỏi văng vào gốc cây tre; tiếng sỏi không huyền bí gì, chỉ vì lúc đó sư nhận ra tiếng sỏi là bản tâm hiển lộ, và tâm này xa lìa tham sân si.
Khoảnh khắc nhận ra tâm xa lìa tham sân si cũng có thể là khi nhìn thấy màu son trên môi một phụ nữ. Có khi nhìn thấy một màu son lạ (tôi cũng từng học vẽ, nên có quan tâm về màu sắc), tôi suy nghĩ có thể màu này là 2 màu đỏ và cam, nên tạo ra sự cố ý không đều, trông như màu son biến đổi trên môi. Tất nhiên, tôi đang sử dụng tâm phân biệt khi thắc mắc về màu son, cũng y hệt như khi dùng tâm phân biệt khi làm toán, khi làm thơ, khi chọn màu cho một bản vẽ, và vân vân.
Tâm phân biệt này không làm suy xuyển gì tới tâm vô phân biệt bản nhiên và bất động. Cũng y hệt như khi nhà sư Hương Nghiêm nghe tiếng sỏi văng vào gốc tre, vẫn biết đó không phải là tiếng gà gáy, không phải tiếng chim kêu... Và tâm phân biệt khi đó vẫn xa lìa tham sân si; giây phút đó, thời gian như đã biến mất.
*
Câu hỏi tới đây là, làm sao nhận ra tâm này bất động?
Thử lấy một thí dụ, khi bạn ngồi làm toán, với bút chì trên giấy hay với bàn gõ trên máy tính. Bạn đang ngậm viên kẹo sôcôla, tiếng nhạc vọng ra từ máy TV bên ngoài, quạt máy thổi sau lưng... Bạn đang chú tâm làm toán, những vẫn đang vô tâm nhận ra vị ngọt của kẹo, vô tâm nghe tiếng nhạc bên ngoaì vọng vào, vô tâm cảm nhận gió mát từ quạt máy. Nếu tâm này không bất động, không thể có thọ dụng cái toàn thể như thế.
Chính lúc đó, bạn đang sống cái toàn thể. Không còn cái phần mảnh nào hết. Cái tâm bản nhiên của bạn đang hiển lộ, đang tắm gội trong cái toàn thể, bất kể rằng bạn đang sử dụng tâm phân biệt vật lộn với các bài toán đại số hay hình học. Chính khi bạn nhận ra mình đang sống với cái toàn thể như thế, thời gian biến mất, vì sẽ không còn cái hôm qua và ngày mai, cũng là bạn đang sống với cái hiện tiền, hay ngắn gọn, đang sống với cái phi thời gian.
Bất kỳ ai cũng có lúc sống với những khoảnh khắc như thế, nơi đó bạn thọ dụng thế giới, và tham sân si biến mất. Pháp tu chỉ đơn giản là sử dụng tất cả các công cụ Đức Phạt đã dạy, là giới định huệ, là tứ niệm xứ, là chỉ quán, là niệm hơi thở, là ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, là sám hối, là từ bi... để xa lìa tham sân si, một cõi tâm bạn đã từng có lúc nhận ra (mà chúng ta gọi cho gọn là đốn ngộ). Nghiệp lực rồi sẽ lôi kéo chúng ta trượt đi, nhưng khi đã thấy cõi quốc độ này xong, mọi chuyện đơn giản cực kỳ, và sẽ hiểu trọn vẹn Thiền Tông do Bồ Đề Đạt Ma truyền dạy.
Đó là khi Đức Phật cầm đóa hoa đưa lên, ngài Ca Diếp mỉm cười. Đơn giản vì các sư khác thấy là hoa, nhưng Ngài Ca Diếp thấy là bản tâm hiển lộ và mỉm cười vì khoảnh khắc này xa lìa cõi tham sân si (hy vọng Đức Phật và Ngaì Ca Diếp sẽ không rầy mắng những dòng chữ giảỉ thích này, nơi chữ chỉ thuần là chữ, và được viết với không có cái nhìn về “tôi” và “của tôi”).
*
Tuy nhiên, khi nói rằng "Giữ lấy Tâm Rỗng Sáng" cũng sai, hay ít nhất, cũng chưa đủ.  Chỗ này, chúng ta thử đọc lại cách nhà sư Lâm Tế truyền pháp, có những cách dạy khác nhau, tùy căn cơ người hỏi pháp.
Phương pháp là Tứ liệu giản:
- Có khi đoạt nhân không đoạt cảnh
- Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân
- Có khi nhân cảnh đều đoạt
- Có khi nhân cảnh đều không đoạt
Phương pháp của ngài Lâm Tế được giải thích trong Lăng Nghiêm Tông Thông:
“Trong thiền môn thuần dùng Trí Huệ, duy chỉ có một tay Lâm Tế thật khó gặp một người thứ hai. Ngài thường nói : “Sơn tăng chốn này đoán định ba thứ Căn Khí : như hàng căn khí trung hạ đến, ta bèn đoạt Cảnh nó mà chẳng trừ Pháp nó. Nếu là hàng căn khí trung thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp đều đoạt. Như có người căn khí thượng thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp, Người đều đoạt. Như có người kiến giải xuất cách đến thì sơn tăng chốn đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng cần Căn Khí. Các Đại Đức, đến trong ấy mà chỗ nỗ lực của học nhơn chẳng thông rõ phong đại, lửa đá, chớp xẹt tức qua liền vậy. Người học mà con mắt định nếu động, liền mất giao thiệp.
Tâm nghĩ tức sai, động niệm tức trái! Có người nào rõ biết, chẳng lìa trước mắt... Ôm lấy chẳng tụ, vứt đi chẳng tan. Tìm cầu liền mất xa, không cầu là trước mắt”....” (http://thuvienhoasen.org/a1229/quyen-viii)  
Tìm cầu liền mất xa, không cầu là trước mắt? Nghe y hệt như ngaì Ajahn Chah của Thái Lan.
Nơi đây, xin thử giảỉ thích 4 câu của sư Lâm Tế (qua hiểu biết rất mực thô sơ của tôi).
Câu đầu, dạy pháp phá Ngã Chấp, tức là "đoạt nhân, không đoạt cảnh". Giúp học nhân phá hết mọi thứ về “cái tôi” và “cái của tôi.” Mặt trời ấm hiện... là bắt đầu có trí tuệ.
Câu thứ 2 là, “Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân.” Dạy cho học nhân phá hết mọi thứ chấp về cảnh, về pháp, về đối tượng của tâm. Nghĩa là, tất cả uẩn xứ giới đều không thực, đều là huyễn; chỗ này Kinh Viên Giác dạy là tri huyễn tức ly, là khi thấy tất cả các pháp trong hay ngoàì tâm đều là huyễn, tức khắc xa lìa tham sân si. Chỗ này nói, ngay cả Niết Bàn cũng là giấc mộng đêm qua. Câu thơ của dòng Lâm Tế chỗ này là: “Lệnh vua đã ban hành khắp thiên hạ, Tướng quân ngoài ải dứt khói bụi,” trong đó Lệnh vua là Tự Tánh hiển lộ.
Thí dụ, chuyện hai nhà sư, một nói phướn động, một nói gió động. Lục Tổ Huệ Năng thấy vậy, mới nói, chỉ có tâm hai sư động thôi. Nghĩa là, nhìn cảnh thấy tâm, cả tâm và cảnh nhất như, một thể.
Câu thứ 3 là, “Có khi nhân cảnh đều đoạt.” Nơi đây, giúp học nhân vào Tánh Không, nơi không thấy ta, không thấy người, không thấy có cái gì phiền não, không thấy có cái gì là giải thoát. Nơi đây, cả Tâm và cả Cảnh đều là Cái Không Rỗng Rang. Câu thơ giải thích là: Tịnh Phần bặt tin tức, Một mình ở một nơi. Nghĩa là, mình đi đứng nằm ngồi với Cái Không Rỗng Rang.
Thí dụ, chuyện phướn động vừa nêu. Lục Tổ Huệ Năng, sau khi nói rằng tâm hai sư động, ngài có thể nói thêm, rằng Tâm Bản Nhiên của quý vị vẫn bất động và rỗng rang.
Nhưng câu thứ 4, là ngài Lâm Tế chỉ dùng khi gặp người thượng căn: Có khi nhân cảnh đều không đoạt. Thế nào là nhân cảnh đều không đoạt? Sư đáp: Vua bước lên ngai, Lão quê ca hát. Nghĩa là không có pháp nào để tu hết, chỉ cần giữ Tâm Bình Thường thôi, vì Vua (Tự Tánh) đã ngồi vào ngôi hoàng đế rồi, lão quê muốn làm gì cũng chẳng suy xuyển.
Thí dụ, nêu tiếp chuyện phướn động ở trên. Chỗ này, Lục Tổ Huệ Năng có thể sẽ nói rằng, tất cả các pháp đều chẳng có động với tịch gì hết, đây là sống với những khoảnh khắc của cái toàn thể, khoảnh khắc của không còn gì gọi là thời gian. Còn gọi là Toàn Tướng Tức Tánh. Vì sanh và vô sanh đều không vướng vào tâm nữa.
*
Tới đây, câu hỏi có thể là, sau khi nhìn thấy khoảnh khắc của tâm xa lìa tham sân si, làm sao có thể thuận tánh khởi tu? Thực ra, đây là pháp môn không có cửa vào, chính giây phút nhận ra bản tâm là đã vào cửa rồi; đây cũng là pháp môn không có lối đi, vì đòi hỏi phải ngồi thiền cho tới khi thấy Tánh trước, rồi mới tự biết lối đi riêng, vì không mấy ai giống ai.
Tuy nhiên, tất cả các pháp Đức Phật dạy, dù là trong kinh Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa (PG Tây Tạng) đều tiện dụng và đều nên được thực tập để rồi tự mình chọn cách nào tiện lợi. Vì sau khi thấy rồi, sẽ không linh tinh lang tang nữa.
Tuyệt vời nhất có lẽ là đoạn văn này trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) khi Đức Phật dạy ngài Bahiya:
Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.” (10)
Hay là lời dạy của nhà sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992) trong A Taste of Freedom:
“Chúng ta phải tu tập mà không tìm cầu bất kỳ thứ gì. Nếu chúng ta không tìm cầu bất kỳ thứ gì, những gì chúng ta sẽ nhận được? Chúng ta không nhận được gì hết! Bất cứ những gì bạn nhận được sẽ chỉ là cội nguồn cho   khổ đau, do vậy chúng ta tu tập hạnh không tìm cầu bất kỳ thứ gì.
Chỉ như thế gọi là “làm cho tâm rỗng rang” (making the mind empty -- vô tâm). Nó thì rỗng không, nhưng vẫn có sự hành hoạt. Cái rỗng không này là cái người ta thường không hiểu, nhưng những ai đạt tới nói, sẽ thấy giá trị khi nhận ra nó. Nó không phải là cái rỗng không của không có gì hết, mà nói là cái rỗng không vẫn nằm trong các thứ hiện hữu nơi đây.” A Taste of Freedom. (8)
Đọc ngài Ajahn Chah hoàn toàn không thấy khác gì với Thiền Tông. Dĩ nhiên, tu tập bao giờ cũng rất là gian nan.
Trong cuốn sách dạy về pháp Thấy Tánh, nhan đề “Meditation on the Nature of Mind” (Thiền Định về Bản Tánh của Tâm) của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14, có nói về  pháp “nhìn vào  niệm trước đã diệt, niệm sau chưa sinh”:
Ngài Milarepa cũng nói rằng: giữa hai niệm kế nhau,  cái thấy về pháp tánh liên tục khởi dậy. Hãy nếm lấy nó.” (Lord Milarepa also states: in between one conceptual thought and the next, gnosis continuously arises. Go taste it.” (11)
Một cách tuyệt vời nữa, cũng do ngài Milarepa (khoảng 1052- 1135), nói về 5 pháp an tâm:
Hãy để tâm tự nhiên như một em bé
Hãy để tâm như mặt biển không sóng gợn
Hãy để tâm trong suốt như ngọn lửa nến
Hãy để tâm không bận gì nữa y hệt một xác chết
Hãy để tâm bất động như một ngọn núi(12)
Dĩ nhiên, ngài Milarepa cũng dạy là phải Thấy Tánh trước, còn gọi là pháp Thiền Đại Thủ Ấn (Mahamudra) của PG Tây Tạng – và Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã viết tác phẩm “The Gelug/Kagyu Tradition of Mahamudra” về pháp thiền này.
Nơi những sách của ngài Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã nhận ra Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa không dị biệt gì, trong tận cùng. Trên các trang giấy của ngài, tôi đã nhận ra hình ảnh của Đức Phật, của Lục Tổ Huệ Năng, của Ajahn Chah và của rất nhiều nhà sư tôi hàm ơn.
Tháng 7-2010, tôi đã bày tỏ lòng biết ơn Đức Đạt Lai Lạt Ma nhân dịp sinh nhật thứ 75 của ngài tại Quận Cam, trong cuộc triển lãm, nơi lễ khai mạc có tham dự của anh bạn thân GS Tenzin Dorjee và một pháí đoàn chư tăng tới từ Dharamsala– xem:http://tinyurl.com/ovg2jeg  -- và bây giờ, bùi ngùi trước tin rằng, truyền thống Dalai Lama sẽ kết thúc sau ngài. Sang năm 2015, sẽ là sinh nhật thứ 80 của ngài.
Và bây giờ, nếu đột nhiên, bạn thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện ra, và hét vào bên tai bạn... y hệt kiểu các sư Lâm Tế thời xa xưa, hãy nhận ra tức khắc rằng, chính  khoảnh khắc nghe đó là tâm hiển lộ ra và không dính mảy tham sân si nào. Tôi tin rằng sau tiếng hét đó, ngài sẽ cười rất mực khoái trá, một tiếng cười của tâm nguyên sơ từ nhà sư đơn giản này, nhưng rất mực từ bi và thâm sâu.

GHI CHÚ:
1. "In this, monks, a monk seeing an object with the eye recognizes within himself the presence of lust, hatred or delusion, knowing 'Lust, hatred or delusion is present in me,' or he recognizes the absence of these things, knowing 'There is no lust, hatred or delusion present in me.'
[Similarly for ear, nose, tongue, body (touch), mind.]





6. What is nirvana? The basis due to which it is possible to attain nirvana is called the Buddha-nature, or the naturally abiding lineage... (The Dalai Lama at Harvard, by Jeffrey Hopkins - 1988 - trang 104) Link: http://tinyurl.com/dalai-1

7. Nguyên văn: Awareness of one's innate Buddha nature will give self-confidence and provide a key to happy life. Link:http://tinyurl.com/lcoge7s

8. A Taste of Freedom by Ajahn Chah, 1994. Link: http://www.accesstoinsight.org/lib/thai/chah/atasteof.html#mind
9. There is, monks, an unborn — unbecome — unmade — unfabricated. If there were not that unborn — unbecome — unmade — unfabricated, there would not be the case that escape from the born — become — made — fabricated would be discerned. But precisely because there is an unborn — unbecome — unmade — unfabricated, escape from the born — become — made — fabricated is discerned.


11. Meditation on the Nature of Mind, by Dalai Lama. Link: http://tinyurl.com/kdsh426
12. The Tibetan Buddhism Reader, edited by Reginald A. Ray, trang 85:
Five Ways of Resting ~ Milarepa:
    Rest in a natural way like a small child.
    Rest like an ocean without waves.
    Rest within clarity like a candle flame.
    Rest without self-concerns like a human corpse.
    Rest unmoving like a mountain.


Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2014


PHẬT GIÁO VÀ HÒA BÌNH CHÂN THỰC

Nguyên Giác


Phật Giáo là hòa bình, không chỉ riêng cho người tu học, mà cho cả xã hội. Và độc đáo là, trong một thế giới đầy khắp những cuộc thánh chiến, Phật Giáo vẫn tồn tại cũng là một hy hữu – và do vậy, nhiều nhà hoạt động trên toàn cầu đã tin rằng Phật Giáo có thể đóng một vai quan trọng trong việc gìn giữ hòa bình thế giới.

Tác nhân hòa hài của Phật Giáo là điều ai cũng thấy hiển nhiên, tuy rằng có nơi và có lúc, một vài Phật Tử cực đoan, trong một số hoàn cảnh cá biệt.

Phương pháp thiền chánh niệm của Phật Giáo cũng được nhiều chính phủ đem dạy trong quân đội, trong trạị tù -- những nơi đối diện với chiến tranh hay bạo lực, và nơi lòng người dễ bất an. Giá trị hòa bình của Phật Pháp đang được ca ngợi và tu tập ở nhiều nơi, trong nhiều cộng đồng.
Đó là điểm độc đáo của Phật Giáo. Chúng ta có thể nhớ rằng Tổng Thống George W. Bush đã hàm ý rằng cuộc chiến của ông ở Iraq là thiện chống lại ác, là lành chống lại dữ -- đó là ngôn ngữ Kinh Thánh, không phải ngôn ngữ bang giao quốc tế. Bởi vì, thiện và ác là hai kháí niệm trừu tượng, trong khi chiến tranh và hòa bình là những hoàn cảnh xã hội cụ thể của những dân tộc cụ thể, và của từng cá nhân cụ thể -- không có gì trừu tượng hay mơ hồ, nơi những người  tham dự thánh chiến đều nhân danh Thượng Đế của họ để đi tàn sát người thờ một đấng Thượng Đế khác.

Ngôn ngữ thánh chiến của TT Bush hiển lộ trong bài diễn văn ở Trường Võ Bị West Point năm 2002: “We are in a conflict between good and evil, and America will call evil by its name.” (Chúng ta đang ở trong một cuộc chiến giữa thiện và ác, và Hoa Kỳ sẽ gọi cái ác bằng đúng tên của nói.)
TT Bush đã chỉ diễn lại từ Kinh Thánh Cơ Đốc, sách Romans 12:21:
Do not be overcome by evil, but overcome evil with good.” (Đừng để bị đánh bại bởi cái ác, nhưng hãy đánh bại các ác bằng cái thiện.”
Cũng trong Kinh Thánh, nơi sách Isaiah 5:20:
Woe to those who call evil good and good evil...” (Sầu khổ cho những ai gọi ác là thiện, và gọi thiện là ác...”
Trong tháng 6-2003, Tướng tình báo Hoa Kỳ William G. Boykin đứng thuyết trình trong nhà thờ Good Shepherd Community Church tại Sandy, Ore., chiếu các hình dương bản về Osama bin Laden, Saddam Hussein và Kim Jung Il (lãnh tụ Bắc Hàn), nói:
Why do they hate us? The answer to that is because we're a Christian nation.... We are hated because we are a nation of believers. Our spiritual enemy will only be defeated if we come against them in the name of Jesus.” (Tại sao họ thù chúng ta? Câu trả lời rằng, vì chúng ta là một đất nước Cơ Đốc... Chúng ta bị căm thù vì chúng ta là quốc gia của những người có đức tin. Kẻ thù tâm linh của chúng ta sẽ chỉ bị đánh bại nếu chúng ta nhân danh Chúa Jesus để chống lại họ.)

Câu hỏi là: Phật Giáo nằm ở đâu trong cuộc thánh chiến toàn cầu đó? Thực sự, trong tận cùng của Phật Giáo, cuộc “thánh chiến” thực sự nằm trong tâm của mỗi Phật Tử: họ luôn luôn phải giữ tâm chánh niệm, luôn luôn phòng hộ tâm ý để xa lìa tham sân si, luôn luôn thấy các pháp sinh khởi trong tâm và ngoài xã hội đều là do duyên mà khởi – và do vậy, họ sẽ tùy thuận nơi từng quốc độ họ cư trú, để dấn thân vào chợ theo cách riêng, và đó là khi Vua Trần Nhân Tông dẫn quân ra trận để đánh dẹp quân Bắc phương, và rồi về lại ở nơi một góc núi sân chùa.
Nghĩa là, Phật Tử không có thánh chiến theo nghĩa những cuộc thánh chiến đang diễn ra ở toàn cầu, và họ cũng không hề nhân danh bất kỳ một đấng nào để trừu tượng hóa một cuộc chiến dưới trần gian cho thành một cuộc chiến tìm lên cõi trời – nơi các khoa học gia như Albert Einstein cũng đã nói thẳng rằng không hề có Thượng Đế nào tạo ra thế gian này cả.
Do vậy, với đặc tính hòa binh và khoa học, Phật Giáo đã hiển lộ với sức quyến rũ lớn đối với giới trí thức, từ lĩnh vực khoa học cho tới nghệ sĩ.

Vấn đề là, giữa những cuộc thánh chiến, khi nhiều tôn giáo bị các chính phủ vận dụng và  lèo lái (1), Phật Giáo có thể làm được hay không để tự hòa nhập với dân tộc trong mọi quốc độ, để gìn giữ cho dân tộc đó không tham dự một số cuộc thánh chiến lẽ ra có thể tránh, hay để có thể làm hòa cho những cuộc thánh chiến đó? Đó là vị trí cực kỳ khó, và không ai có thể trả lời được.
Và vấn đề nữa, khi giới trí thức Châu Âu, Hoa Kỳ và Ả Rập bám lấy chiếc phao Phật Giáo, họ có thể sẽ hội nhập vào Phật Pháp thêm những điểm nhìn của Cơ Đốc Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, vân vân. Đó là lý do có các danh từ mới, như: chữ JewBu, còn gọi là JuBu, là viết tắt của Jewish Buddhist, chỉ người gốc Do Thái Giáo tu thêm một số phương pháp Phật Giáo, hay đã quy y thành Phật Tử.
Một điều cũng nên suy nghĩ: giáo lý hòa bình của Phật Giáo có thể được các chính phủ địa phương vận dụng, hội nhập với các tín ngưỡng khác ở địa phương để khắc phục cái hung hăng ở các tôn giáo khác và để dùng như một phương tiện để trị an xã hội?

***

Có thể nhìn thấy một thí dụ ở Trung Quốc, nơi chế độ chính thức vẫn là vô thần, và vẫn một quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước Bắc Kinh nhìn thấy cần phải dựa vào Phật Giáo để làm cho hòa hài xã hội. Một phần, để dễ dàng làm cho an lòng dân ở Tây Tạng, và cũng để có thể kết hợp lòng dân Hoa Kiều toàn cầu, kể cả để vuốt ve nhà nước Đài Loan.

Khi hai tượng Phật khổng lồ có từ thế kỷ thứ 6, nơi vách núi Bamiyan, miền Trung Afghanistan, bị quân Taliban dùng mìn phá hủy vào tháng 3-2001, cả thế giới văn minh sững sờ... Nhà nước Trung Quốc ngay lập tức nghĩ ra một độc chiêu: cho hàng trăm thợ đá, tạc một pho tượng Phật khổng lồ theo mô hình Bamiyan ở Leshan, tỉnh Sichuan.(2)
Bạn có thể nghĩ rằng chính phủ TQ giỏi nghề làm hàng copy, hay có thể nghĩ rằng đây là cách để tăng thương vụ du lịch. Nhưng nếu chúng ta thấy các võ tăng Thiếu Lâm lưu diễn khắp toàn cầu, nhiều người chúng ta có thể nghĩ rằng nhà nước TQ đã trở thành Phật Tử thuần thành, hay ít nhất cũng đang diễn trò vận dụng tôn giáo để trị an xã hội.

Cũng nên nhìn từ chiều ngược lại: nhà nước Trung Quốc đã từng cáo buộc nhiều Linh mục Thiên Chúa Giáo làm gián điệp cho Sở Tình Báo Hoa Kỳ OSS (tiền thân của CIA) từ cuối thập niên 1930s.
Xem trang 150 của sách “A New History of Christianity in China,” tác giả Daniel H. Bays, nêu cụ thể trường hợp Linh mục Vincent Lebbe và LM Thomas Megan được Sở OSS tuyển dụng (và đó cũng là một lý do TQ cấm Đạo Thiên Chúa La Mã hoạt động).
  


Chính những kinh nghiệm quá khứ đã cho Bắc Kinh thấy  rằng CIA hiện nay vẫn có thể sử dụng những phương pháp cũ, hoặc sẽ có thể vận dụng các tôn giáo  mới để làm suy yếu chế độ. Do vậy, dễ hiểu tại sao Bắc Kinh chụp ngay cơ hội làm tượng Phật, và vẫn luôn luôn tổ chức nhiều lễ hội Phật Giáo để an toàn trăm bề, và được tiếng lành hy vọng đồn xa, trong khi vẫn bàn tay sắt với người Tây Tạng.

***

Trong cuộc chiến chống khủng bố Hồi Giáo ở Bắc Phi và Trung Đông, tôn giáo có bị vận dụng hay không? Đó lại là chuyện khác, nơi đây, chúng ta muốn nêu nghi vấn rằng, giáo lý hòa bình của Đức Phật có được sử dụng trong cuộc chiến chống Hồi Giáo cực đoan hay không? Chính xác, chúng ta không biết rõ câu trả lời.
Tuy nhiên, có thể có trường hợp nào Phật Giáo đã được hội nhập với Hồi Giáo để trở thành những nguyên tắc sống mới, cho hòa bình hơn? Nghĩa là, kết hợp giáo lý (hay bóp méo giaó lý?) vì những mục tiêu trần gian? Hay vì một trực giác tâm linh của một thế hệ mới trong thời của thánh chiến này?

Về phương diện học thuật, đã có một tác phẩm quan trọng, tựa đề “Common Ground Between Islam and Buddhism” (Điểm Chung Giữa Hồi Giáo và Phật Giáo) của Reza Shah Kazemi (tốt nghiệp Tiến sĩ Tôn giáo Đối chiếu ở University of Kent, Hoa Kỳ năm 1994).
Làm sao có thể tìm được điểm chung giữa kháí niệm Thượng Đế trong Hồi Giáo với bất kỳ khái niệm nào trong Phật Giáo, một tôn giáo không công nhận có Thượng Đế?
Tuy nhiên, trong thời thánh chiến bùng nổ khắp nơi, những cuộc đối thoại tôn giáo liên tục được thực hiện, lý tưởng hòa bình và phương pháp tu học hòa bình của Phật Giáo đã nổi bật, và đã trở thành chiếc phao cho tất cả các quốc gia đa tôn giáo bám víu, nếu không công khai như ở Trung Quốc thì cũng lặng lẽ như ở Singapore.

Tác phẩm của Kazemi đã đáp ứng nhu cầu nhấn mạnh yếu tố hòa bình vào các xã hội có khuynh hướng Hồi Giáo. Sách này có lời giới thiệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14, và lời giới thiệu của Hoàng Tử Ghazi bin Muhammad, người ở vị trí Cố Vấn Tối Cao về Tôn Giáo của vua Jordan.   
Học giả Elena Lloyd-Sidle nhận định về cuốn sách trên:
Although Buddhism is clearly non-theistic, the ultimate Reality affirmed by Buddhist thought, and the supreme goal sought by it, is proposed to correspond closely with the Essence (al-Dhāt) of God in Islam.” (Mặc dù Phật Giáo hiển nhiên là phủ nhận Thượng Đế, nhưng công nhận có Thực Tại tối hậu và đó là mục đích tối cao để phải tìm đến – nơi này [trong sách Kazemi] được giải thích là có nghĩa rất gần với Yếu Tính của Thượng Đế trong Hồi Giáo.)  
Có đúng như thế không? Hẳn là nhiều Phật Tử không đồng ý. Nhưng nhiều học giả Tây Phương  muốn nói như thế, và trong các hội nghị liên tôn, các khái niệm nhấn mạnh tới hòa bình trong Phật Giáo (và dĩ nhiên, cả trong Hồi Giáo) đều được nhấn mạnh nhiều hơn là nói tới dị biệt.
Đặc biệt, Kazemi cũng có tác phẩm biên khảo về một hệ phái Hồi Giáo, tưạ đề "Sufism: Love and Wisdom" (Hồi Giáo Sufism: Yêu Thương và Trí Tuệ) in năm 2006.
Tựa sách hiển nhiên là rất Phật Giáo, kiểu Phật Tử ưa nói, là từ bi và trí tuệ.
Chưa hết, Kazemi còn có một bài viết năm 2011 trên tạp chí Religions (tạp chí cổ vũ hòa đồng liên tôn), tưạ đề "Loving Compassion in Islam and Buddhism: Rahma and Karunā" (Yêu Thương Từ Bi trong Hồi Giáo và Phật Giáo: Rahma và Karuna).

Những công trình như thế rất tốt cho hòa bình thế giới. Nhưng câu hỏi là, giáo pháp Đức Phật có thể sẽ tới một lúc bị hiểu nhầm, bị ngộ nhận không?
Đó cũng nên là quan tâm của người học Triết Học.
Trên tập san Triết học (triethoc.edu.vn) ngày 26-3-2014, học giả Bùi Văn Nam Sơn có bài viết tựa đề “Từ hậu - hiện đại đến hậu hậu - hiện đại trong tư tưởng tôn giáo,”  trong đó cũng nói về một số khuynh hướng tôn giáo mới.
Bài này đăng lại trên báo Văn Hóa Nghệ An ngày 19-4-2014.
Thực ra, nguyên khởi bài này đượtác giả họ Bùi ghi là “Bài tham luận hội thảo quốc tế: Chủ nghĩa Hậu hiện đại và tôn giáo mới, tổ chức tại Trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, ngày 14.06.2013.”
Như thế, qua hội thảo quốc tế này, chính phủ và học giới VN cũng bộc lộ quan tâm về hiện tượng các tôn giáo mới.

Tác giả Bùi Văn Nam Sơn đặc biệt giớí thiệu với học giới VN về 3 trào lưu tôn giáo mới.
Theo tác giả:
Cả ba tìm cách tích hợp khoa học, lý tính và tâm linh theo cách mới mẻ, bằng cách nối kết tính khách quan của khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn và tâm lý học với tính chủ quan phê phán hậu-hiện đại.”
Trong đó, người học Phật có thể chú ý đặc biệt tới, trích:
A. H. Almaas[7], với cách “tiếp cận Kim Cương”, tìm cách mở ra con đường tâm linh hiện đại tích hợp các truyền thống minh triết Đông-Tây với tâm lý học miền sâu, dành sự chú ý đặc biệt đến cách thức trải nghiệm cá nhân về Bản chất đích thực của Tồn tại. Trong khi Tồn tại là bản tính đích thực của thực tại thì Bản chất là phần tồn tại tạo nên bản tính đích thực của cá nhân. Nó phải được thể nghiệm trong Hiện tại với nhiều chất lượng phương diện khác nhau như từ bi, cương nghị, ý chí, an lạc, v.v…”(hết trích)
Ghi chú [7] được họ Bùi ghi chú là:
[7] Xem: A. H. Almaas: Essence: The Diamond Approach to Inner Realization, 1986.”
Tưạ sách trong ghi chú trên có thể dịch là “Yếu Tánh: Phương Pháp Kim Cương để Nội Chứng,” in năm 1986.
Nghĩa là, mới đọc tựa sách, đã thấy ngay ngôn ngữ Phật Giáo Tây Tạng. Nhưng có phải đây là đúng là Phật Giáo Tây Tạng?
Tác giả A.H. Almaas hiện cư ngụ ở Hawaii, ngoài việc viết sách, rao giảng tôn giáo riêng, ông cũng mở các khóa nhập thất.
Khóa nhập thất sắp mở vào cuối tháng 5-2014 có tên là “Quasar 2014 Retreat: Tantra of Everyday Life” (Nhập Thất 2014 Thiên Hà: Mật Pháp của Đời Sống Hàng Ngày).
Ngôn ngữ rất đặc chất Phật Giáo Tây Tạng.

Đạo sư này tên thật là Hameed Ali, sinh năm 1944 tại  Kuwait (quốc gia Ả Rập này có 60-70% là Hồi Giáo Sunni, và 30-40% là Hồi Giáo Shias), vào Mỹ năm 18 tuổi. Khi ghi danh học bậc Tiến Sĩ ở đại học UC Berkeley, đột nhiên ông chuyển hướng tâm linh. Và bây giờ, ông rao giảng một tôn giáo kiểu như tổng hợp giữa Hồi Giáo và Phật Giáo.
A. H. Almaas đã viết một bài tưạ đề “God as Essence” (Thượng Đế là Yếu Tính) trên trang web riêng của ông, được ghi là trích tứ sách “For the Love of God” (Vì Lòng Yêu Thương Thượng Đế) in năm 1990, trong đó có hội nhập một số yếu tố ngộ nhận Phật Giáo như Kazemi (đã nêu trên):
I was brought up, in a Muslim community, with a belief in God...
... Essence is not something we have to work toward, for it is what we truly are...
... this presence revealed itself to be the inner nature of everything, and I began feeling more and more that this living conscious-ness, this pure essence of being, was God. I called it Truth, Reality, Being, or God...
...God can be seen in His beingness and God can be seen in His essence.”(hết trích)
Dịch:
“Tôi trưởng thành trong một cộng đồng Hồi Giáo, với niềm tin vào Thượng Đế...
...Bản tánh không phải là cái gì chúng ta phải làm cho ra, mà nó chính là cái chúng ta thực sự là... Hiện thể này tự hiển lộ nó để là bản tánh bên trong tất cả, và tôi đã bắt đầu cảm thấy mạnh mẽ hơn rằng cái ý thức sinh động này, cái yếu tánh trong sạch của hữu thể, chính là Thượng Đế. Tôi gọi đó là Sự Thật, Thực Tại, Hữu Thể, hay Thượng Đế...
...Thượng Đế có thể được thấy trong Sự Hữu của Ngài, và Thượng Đế có thể được thấy trong Yếu Tánh của Ngài.” (hết dịch)

Đó cũng là ngô nhận rất lớn của rất nhiều học giả (và đạo sư) quốc tế khi nói về  Phật Giáo. Cả Kazemi và Almaas cũng muốn đồng nhất Phật Tánh với Thượng Đế. Có thể đây là nhu cầu liên tôn cần ngăn chận thánh chiến từ những người Hồi Giáo cực đoan? Hay chỉ là ngộ nhận vì họ thực sự không hiểu và không trải qua những kinh nghiệm tu học Phật pháp?
Hãy nhớ rằng, Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo tin rằng: Thượng Đế sinh ra vũ trụ.
Hãy đọc kỹ đoạn văn vừa dịch trên, chúng ta thấy ngay rằng các học giả quốc tế đã ngộ nhận về Phật Tánh, còn gọi là Bản Tánh, hay Tự Tánh, khi họ cho đồng nghĩa với Thượng Đế. Điều nguy hiểm là, Almaas đang sử dụng ngôn ngữ Phật Giáo Tây Tạng, như chữ “Kim Cương” hay chữ “Tantra”...

Thực sự, Bản Tánh không hề sinh ra vũ trụ nào hết, cũng không là bất kỳ pháp nào hết.
Mà căn bản là: tất cả các pháp, tất cả vũ trụ, tất cả đều do duyên sinh ra.  Lý duyên khởi đã nói rằng không hề có pháp nào độc lập tự hữu. Nếu không tin lý duyên khởi, tất cũng sẽ không tin Tứ Thánh Đế, và không còn gì là Phật Pháp.
Do vậy, nói Bản Tánh, hay nói Tự Tánh, chỉ có nghĩa là Vô Tự Tánh. Vì làm gì có pháp nào tự sinh, tự hữu. Lý duyên khởi này còn được xương minh là Tánh Không, hay Không Tánh. Và hoàn toàn không có nghĩa là có cái Tánh Không nào tự hữu.
Nếu nói rằng Phật Tánh đồng nghĩa Thượng Đế, hẳn là phá hoại Phật pháp vậy.
Do vậy, nếu nói Phật Tánh là có, tất là sai; nếu nói Phật Tánh không có, tất cũng sai. Ngôn ngữ này phải lìa tứ cú. Trong khi đó, nếu bạn nói rằng “nếu nói Thượng Đế là có, tất là sai,” thì người Hồi Giáo cực đoan có thể chặt đầu bạn liền.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhiều lần giảỉ thích minh bạch, nhưng các học giả (và đạọ sư) quốc tế không chịu đọc (và học) kỹ.

Trong bản tin tựa đề “The Essence of Emptiness” (Cốt Tủy của Tánh Không), ngày 30-10-2011, kể chuyện Đức Đạt Lai Lạt Ma thăm Nhật Bản, dạy về Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra).
Trích dịch như sau:
Dĩ nhiên, Tánh Không  không giống như không có gì hết, Ngài nhấn mạnh... Ngài nói, ‘Nếu tôi đang ngồi ở đây, nơi đâu là Đạt Lai Lạt Ma? Phần nào của tôi là Đạt Lai Lạt Ma? Và nếu bạn nghĩ về bạn, phần nào là bạn? Nơi nào cái ‘bạn’ đó  từ đâu tới? Có phải là thân xác của bạn? Hay tay bạn? Hay tâm bạn?
...
Nếu bạn ghét ai đó, nơi nào là người đó? Phần nào trên cơ thể đó là người đó? Nó hầu như chỉ trong đầu của bạn. Và tương tự, [hãy tự nêu câu hỏi như thế] khi bạn thương ai đó. Nếu bạn ghét ai đó, chúng ta có thể gần như nói, ai là ‘bạn’ và ai là ‘người kia’? Tự do tới chỉ khi bạn cắt bỏ ảo giác và sự phóng chiếu
...
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, ‘Dính chấp vào cái hiển lộ có vẻ là thật là điều làm cho tâm chúng ta không sáng suốt. Và cũng vậy, là cái in hình của cái hiển lộ như là thật.’
Khi một cậu bé hỏi, là hai hình ảnh phóng chiếu đó có thể kết làm bạn hay không, Đức Đạt Lai Lạt Ma đàò sâu cuộc thảo luận về các pháp hiện ra như nó là. Ngài nói, ‘Chúng ta vừa ăn trưa xong, và đó là có thật. Và cũng có thật là thân xác vừa mới ăn trưa đó. Nhưng nếu quý vị đi tìm cái tự ngã, sẽ không tìm được ở nơi đâu.
...
 ‘Đôi khi chúng ta cực kỳ giận dữ  đối với ai đó, thậm chí thù nghịch nữa. Nhưng chính xác là, chúng ta giận nhắm vào đâu? Thân xác người đó? Hay tâm người đó? Thực sự, người chúng ta ghét đó không hề hiện hữu. Người này gọi là kẻ thù: người đó ở đâu? Khi chúng ta khảo sát chân thực, chúng ta không thể tìm ra hắn...
...
Ngài kết luận: ‘Bản tánh của Tánh Không là, tất cả các pháp đều tùy thuộc vào tất cả các pháp khác. Và tại Nhật Bản, các bạn có nền khoa học cao cấp, nhưng các bạn không thể mua hòa bình nôi tâm bằng khoa học. Các bạn phát minh ra nhiều máy ảnh, nhưng máy ảnh không chụp được tâm của bạn. Chưa đâu!
Khi một người đàn ông từ đại chúng hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma về vô thường, trong tương quan tới trận động đất ở Nhật bảy tháng trước, Ngài nói rằng có hai mức độ vô thường” cái thứ nhất thấy được, hiển nhiên. Nhưng vô thường cũng đang xảy ra, từ từ, từng giây đồng hồ. Do vậy, cái thấy rõ chỉ là một hiển lộ đột ngột của cái đang luôn luôn diễn tiến. Ngài nói, ‘Trí tuệ về Tánh Không đôi khi được ví như mẹ của Phật Giáo, trong tất cả mọi thừa, mọi tông phái. Còn Bồ Đề Tâm, tức lòng từ bi, là cha...” (Bản gốc ở đây: http://www.dalailama.com/news/post/762-the-essence-of-emptiness)

Nhắc lại chỗ Đức Đạt Lại Lạt Ma nói, bản tánh của Tánh Không là tất cả các pháp đều tùy thuộc vào tất cả các pháp khác. Câu nói này là lý duyên khởi, là phủ nhận rốt ráo mọi kháí niệm Thượng Đế của Cơ Đốc hay Hồi Giáo.
Phương pháp Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng dẫn trên gọi là “analytical meditation” (thiền phân tích), dùng nhiều câu hỏi để khảo sát tâm mình.
Điều cũng cần cảnh giác rằng, nhiều đạo sư đang có khuynh hướng nói rằng đạọ nào cũng là đạọ, và tất cả các đạo đều nói như nhau về nguyên lý tối hậu. Nhưng thực sự là khác hẳn: Phật Giáo là dùng lý duyên khởi, và do vậy sẽ là sai nếu có ai nói rằng Phật Tánh cũng là Thượng Đế.

Hãy nhớ rằng, hòa bình chỉ thực sự có khi mọi người cùng nhận ra Tánh Không của các pháp, tất nhiên lòng căm thù không còn nữa, vì không thấy có ai thù ghét và không thấy có ai bị thù ghét.
Trong khi tất cả những người tin vào Thượng Đế đều có lý do để nhân danh đấng tối cao đó để tàn sát, để thánh chiến.
Ngắn gọn, Phật Giáo mới là hòa bình thực sự.


GHI CHÚ:

(1) Sở Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ CIA đã rải Kinh Thánh Cơ Đốc trong vùng Đông Dương, và đã dùng một số giáo sĩ làm tai mắt... (Thiện Pháp. Nhìn Về Ảnh Hưởng Tôn Giáo. Link: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-94_14-1_5-50_6-1_15-1_4-20290_17-94/nhin-ve-anh-huong-ton-giao.html#detail)

(2) BBC, Oct 5, 2001: Buddha rises again. (http://news.bbc.co.uk/2/hi/south_asia/1581411.stm)