Bản Đánh Giá
Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt
(Special National Intelligence Estimate)
Số Thứ Tự: SNIE
53-2-63
Tình Hình Tại
Nam Việt Nam
(The Situation in South Vietnam)
(The Situation in South Vietnam)
Đệ trình bởi
GIÁM ĐỐC TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG
(Director of Central Intelligence)
(Director of Central Intelligence)
Đồng thuận đệ
trình bởi
HỘI ĐỒNG TÌNH BÁO HOA KỲ
(United States Intelligence Board)
(United States Intelligence Board)
Ngày ghi ở bìa
hồ sơ:
Ngày 10 tháng 7,
năm 1963
Chấp thuận giải mật:
Tháng 1 năm 2005
Bản thứ 354
Tên hồ sơ: DOC_0001166414.pdf
Trang bìa
trước
Các
cơ quan tình báo sau đây đã tham dự vào việc soạn thảo bản đánh giá này:
Sở Tình Báo Trung Ương (CIA) và các
sở tình báo của các Bộ Ngoại Giao, Quốc Phòng,
Lục Quân, Hải Quân, Không Quân, và
Sở An Ninh Quốc Gia (NSA).
Đồng
thuận bởi:
Giám Đốc Nghiên Cứu và Tình Báo, Bộ
Ngoại Giao
Giám Đốc, Sở Tình Báo Quốc Phòng
(DIA)
Phụ Tá Chánh Sở Tình Báo, Bộ Lục
Quân
Phụ Tá Chánh Sở Tình Báo Hải Quân,
Bộ Hải Quân
Phụ Tá Chánh Sở Tình Báo, Không Lực
Hoa Kỳ
Giám Đốc Sở An Ninh Quốc Gia
Không
có ý kiến của:
Đại Diện Ủy Hội Năng Lượng Hạt Nhân
của USIB, và
Phụ Tá Giám Đốc Sở Điều Tra Liên
Bang (FBI) vì vấn đề ngoài lĩnh vực hoạt động.
(LỜI NGƯỜI DỊCH: Hồ sơ mật này có tầm mức quan trọng đặc biệt
vì do tất cả các sở tình báo Hoa Kỳ có phạm vi hải ngoại cùng soạn, hay duyệt,
và đúc kết, trình lên ngày 10 tháng 7-1963, một tháng sau ngày Hòa Thượng
Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân.
Điểm ghi nhận từ hồ sơ này:
(1) Dân bất mãn chế độ ông Diệm từ lâu và rộng khắp (xem các đoạn A, đoạn
2, 4, 14);
(2) Chế độ ông Diệm đã thiên vị cho Thiên Chúa Giáo La Mã, chèn ép
các tôn giáo khác (xem đoạn 2, 4, 14); Xem thêm chi tiết về đàn áp Phật
Giáo ở link http://tinyurl.com/thuvienhoasen-NhatTu-TQD,
về đàn áp Đạo Cao Đài ở link http://tinyurl.com/HoangNamGiao-CaoDai,
về đàn áp Phật Giáo Hòa Hảo ở link http://tinyurl.com/HoangNamGiao-PGHH;
(3) Phật Giáo không phải là một thế
lực đối lập, cũng không có ý muốn kết hợp thành một khối đối lập rộng rãi, và sẽ hài lòng nếu chính phủ ông Diệm thực hiện
các cam kết (xem đoạn 3, 6, 9, 14);
(4) Phật Giáo VN đã được nhiều chính phủ quốc tế ủng hộ công khai,
lên tiếng trước Liên Hiệp Quốc phản đối chế độ ông Diệm (xem đoạn 8);
(5) Ông Diệm tráo trở. Trong quá khứ, ông Diệm đã từng hứa và rồi lật ngược
(xem đoạn 9);
(6) Ông Nhu cứng rắn, đòi ông Diệm dẹp bỏ các cam kết với Phật Giáo
(xem đoạn 12, 13, 16);
(7) Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục là một thế lực chính trị (xem đoạn
3, 13);
(8) Sự kiện ngày 8/5/1963, Phật Tử tụ
tập ở Đài Phát Thanh Huế bị xe bọc sắt và lính nổ súng làm nhiều người chết, có
vài trẻ em. Chính quyền đổ lỗi có Việt Cộng khủng bố. Hồ sơ mật này của tình báo
Mỹ nói, có chứng cớ do lính của chính phủ
ông Diệm thảm sát (xem đoạn 3).
Cần ghi nhận bối cảnh hồ sơ này:
- Ngày
30/5/1963, cảnh sát và mật vụ vây chùa Xá Lợi tại Sài Gòn, và các chùa Từ Đàm,
Báo Quốc, Linh Quang tại Huế.
- Ngày
31/5/1963 sinh viên tất cả các phân khoa Viện Đại Học Huế họp hội nghị tại chùa
Từ Đàm, kiến nghị Tổng thống và Chính phủ giải quyết năm nguyện vọng của Phật
giáo, thực thi chính sách tự do, dân chủ và bình đẳng, chấm dứt dùng thủ đoạn
với tín đồ Phật giáo.
- Ngày
1/6/1963, tại Huế, một cuộc biểu tình và tuyệt thực lớn được tổ chức. Tại Sài
Gòn và các tỉnh nhiều cuộc biểu tình, tuyệt thực. Tại Chùa Ấn Quang và Chùa Xá
Lợi, 800 người tuyệt thực.
- Ngày
3/6/1963, tại Huế, cảnh sát và quân đội có vũ trang chặn đường không cho đoàn
biểu tình đến chùa. Quần chúng ngồi xuống đường, chắp tay hướng về chùa Từ Đàm
cầu nguyện thì bị cảnh sát dùng lựu đạn cay và quân khuyển giải tán. Thiền sư
Trí Thủ tới, kêu gọi dân ngưng biểu tình. Khi đoàn người về tới Bến Ngự thì bị đơn
vị cảnh sát khác tấn công bằng lựu đạn cay và lựu đạn khói.
- Ngày
4/6/1963 cảnh sát phong toả các chùa Từ Đàm, Báo Quốc và Linh Quang. Quần chúng
kéo lên chùa nhưng bị ngăn lại. Đám đông áp dụng chiến thuật ngồi xuống đường
cầu nguyện. Cảnh sát dùng lựu đạn cay và quân khuyển tấn công, làm 142 người bị
thương, trong đó 49 người bị thương nặng. Các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Giác Minh,
Từ Quang, Báo Quốc, Từ Đàm và Linh Quang hoàn toàn bị cô lập và bị cắt điện nước.
Chính quyền đưa tài liệu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào các chùa rồi lục soát
để vu cáo các thiền sư và phật tử theo Cộng Sản. Tại các tỉnh, các chùa trụ sở
của giáo hội Phật Giáo Việt Nam và Giáo Hội Tăng Già đều bị phong tỏa. Ông Diệm
lập Ủy ban Liên bộ để nghiên cứu nguyện vọng của Phật giáo, do phó tổng thống
Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu. Ủy Ban này họp với Ủy Ban Liên Phái của PG. Đối thoại
không kết quả, trong khi chính quyền vẫn xiết chặt, Ủy Ban Liên Phái ra lệnh
tiếp tục đấu tranh.
- Ngày
27/5/1963, hoà thượng Thích Quảng Đức 67 tuổi, trụ trì chùa Quan Âm (Gia Định)
viết một lá thư cho Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc tình nguyện tự thiêu.
- Ngày
11/6/1963, tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng, đúng 10 giờ sáng,
hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu trong tư thế kiết già trước sự chứng kiến
của hàng trăm quần chúng và Phật tử. Chiều 11/6/1963, chính quyền phong tỏa
chùa Xá Lợi ở Sài Gòn, nơi để di thể của thiền sư Quảng Đức.
- Ngày
4/6/1963 đến 2 giờ sáng ngày 16/6/1963, Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ họp,
đưa ra Thông Cáo Chung với sự chấp thuận của Chủ tịch Tổng Hội Phật giáo Việt
Nam Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Tổng thống Ngô Đình Diệm. Bản văn
quy định về treo cờ tôn giáo, sẽ tách các tôn giáo ra khỏi dụ số 10 để chờ đaọ luật
về tôn giáo sẽ do Quốc hội thông qua cuối năm 1963 hoặc đầu năm 1964, hứa thả
các Phật Tử bị bắt những ngày qua, hứa gỡ luật khắt khe về xây chùa đối với
Phật giáo, hứa trừng phạt các viên chức có lỗi trong sự kiện Phật đản ngày
8/5/1963...
- Ngày
18/6/1963, Văn phòng Tổng thống gửi mật điện số 1432/VP/TT cho các những người
có trách nhiệm ra lệnh tạm thời nhượng bộ phong trào Phật giáo, chuẩn bị dư
luận để phản công đồng thời thanh trừng những nhân viên nhà nước ủng hộ Phật
giáo. Một bản sao của mật điện lọt vào tay của Ủy Ban Liên Phái.
- Ngày
26/6/1963, ĐLHT Thích Tịnh Khiết gửi thư cho Tổng thống Ngô Đình Diệm tố cáo
các hành động kể trên là âm mưu chống Phật giáo, tố cáo chính quyền tiếp tục đàn
áp Phật giáo, tố cáo Ngô Đình Nhu có ý định tổ chức cuộc biểu tình của Thanh
Niên Cộng Hòa để yêu cầu chính phủ duyệt lại bản Thông cáo chung.
- Ngày
7/7/1963, chính quyền đem những người tham gia đảo chính ngày 11/11/1960 ra xét
xử trong đó có nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Trong ngày 7/7, nhà văn Nhất
Linh đã tự sát bằng rượu pha độc dược.
- Ngày
9/7/1963, bộ Nội Vụ ban hành nghị định 358-BNV/KS ấn định thể thức treo cờ Phật
giáo cho Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Tuy nhiên phía Phật giáo lại kết luận
chính phủ đang gây chia rẽ giữa Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và các phái Phật
giáo khác.
- Ngày
10/7/1963, Bản Đánh Giá Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt SNIE 53-2-63 do tất cả các
sở tình báo có phạm vi hoạt động hải ngoại đúc kết.
Hồ sơ
mật này được dịch toàn văn dưới đây bởi Cư Sĩ Nguyên Giác.)
TÌNH
HÌNH
TẠI
NAM VIỆT NAM
GHI CHÚ
VỀ PHẠM VI
Bản văn
“Các Viễn Ảnh tại Việt Nam” (tức là Bản
Đánh Giá Tình Báo Quốc Gia, National Intelligence Estimate, mã số NIE 53-63) đề
ngày 17 tháng 4-1963 ghi quan ngại đặc biệt đối với tiến trình của nỗ lực chống
nổi dậy, và với các yếu tố quân sự và chính trị hầu như là sẽ ảnh hưởng nỗ lực đó.
Mục tiêu chính yếu của bản văn SNIE (Bản Đánh Giá Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt) hôm
nay là khảo sát về những can dự của các diễn biến mới đây tại Nam Việt Nam đối
với sự ổn định đất nước, đối
với khả năng sinh tồn của chế độ Ngô Đình Diệm, và đối với quan hệ đối với
Hoa Kỳ.
KẾT LUẬN
- Khủng hoảng Phật Giáo tại Nam Việt Nam đã nêu bật và làm căng thẳng thêm sự bất mãn đã có từ lâu và rộng khắp với chế độ ông Diệm và kiểu hoạt động của chính phủ này. Nếu – như dường nhiều phần sẽ xảy ra – ông Diệm không thực hiện một cách chân thực và đúng đắn các cam kết ông đã nói với những người Phật Tử, sự hỗn loạn sẽ có thể bùng lên lần nữa, và xác suất của một cuộc đảo chánh hay ám sát nhắm vào ông Diệm sẽ nhiều phần có thể xảy ra. (Xem các đoạn 4, 14)
- Sự không thoài mái ẩn tàng của chế độ Diệm về mức độ Hoa Kỳ tham dự ở Nam Việt Nam đã căng hơn bởi vấn đề Phật Giáo và quan điểm cứng rắn của Mỹ. Thái độ này sẽ hầu như không đổi và nhiều phần sẽ có thêm áp lực để giảm sự hiện diện Hoa Kỳ tại VN. (Xem các đoạn 10-12).
- Cho tới giờ, vấn đề Phật Giáo vẫn chưa bị lợi dụng một cách hiệu quả bởi người Cộng Sản, cũng như chưa có ảnh hưởng khả lượng nào đối nỗ lực chống nổi dậy. Chúng tôi không nghĩ rằng ông Diệm có vẻ gì sẽ bị lật đổ bởi một cú đảo chánh của Cộng Sản. Chúng tôi cũng không nghĩ rằng người Cộng Sản sẽ nhất thiết hưởng lợi nếu ông Diệm bị lật đổ bởi một vài thành phần đối lập không-Cộng-Sản. Một chế độ nối tiếp (sau Diệm) không Cộng Sản có thể lúc đầu sẽ chống Cộng kém hiệu quả, nhưng với hỗ trợ từ Hoa Kỳ, sẽ có thể trở thành một khối lãnh đạo chính quyền và nỗ lực chiến tranh một cách hiệu quả, hợp lý. (Xem các đoạn 7, 15-17).
THẢO
LUẬN
I. GIỚI
THIỆU
1. Hai vấn đề chính yếu mà chính phủ
Nam Việt Nam đối mặt từ khi hiện diện năm 1954 là: (a) để hình thành các cơ chế
và sự trung thành cần thiết để Việt Nam sống còn như một quốc gia độc lập, và
(b) để chống lại hiểm họa từ nỗ lực xâm lăng và lật đổ từ chính quyền Hà Nội –
nguyên đã khởi động từ năm 1960 bởi một cuộc chiến du kích đang lan rộng. Trong
nỗ lực đối phó với các vấn đề này, VNCH đã bị ngăn trở bởi sự thiếu tự tin và vì
thiếu năng lực để tạo ra sự cảm thông và ủng hộ từ phần lớn người Việt -- kể cả
nhiều thành phần trí thức và nông dân.
Trong các tuần gần đây, những khuyết điểm và căng thẳng này tại khung chính trị
Nam VN càng lộ rõ hơn và dày đặc hơn.
II. VẤN ĐỀ
PHẬT GIÁO
2. Tổng Thống Diệm, gia đình ông, và
phần lớn quan chức chế độ là giaó dân Công
Giáo La Mã, trong một dân số có 70% tới 80% là Phật Tử. Chế độ đã lộ hẳn
sự ưu đãi Thiên Chúa Giáo trong việc tuyển dụng nhân sự và đã thiên vị cho Giáo
Hội Thiên Chúa Giáo. Nhưng không có hạn chế pháp lý đối với tự do tôn giáo, và
cho tới gần đây, hầu hết Phật Tử có vẻ như thụ động trong việc ứng phó đối với
vị trí định chế đặc quyền của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo. Tuy nhiên, đã có nhiều
sự kỳ thị hành chánh nhắm vào Phật Tử, mặc dù đó có thể là từ sự vô tâm hay từ
nhiệt tâm đặt sai chỗ của các viên chức cấp thấp như là từ chính sách GVN có ý
thức. Tình hình đó hiển nhiên đã tạo ra một luồng cảm xúc bất mãn, chứng cớ thấy
rõ là ở mức độ lan rộng và dày đặc từ các vụ bùng phát mới đây.
3. Trong tháng 4-1963, GVN ra lệnh
cho các viên chức tỉnh thực hiện nghị định có từ lâu nhưng phần lớn bị bỏ lơ,
trong đó nói về việc treo cờ tôn giáo nơi công cộng. Như đã xảy ra, lệnh này đưa
ra vừa trước ngày Phật Đản (ngày 8 tháng 5-1963), một lễ lớn của Phật Giáo, và
vừa mới sau khi các lá cờ của Đức Giáo Hoàng (Thiên Chúa Giáo La Mã) đã được
treo tràn ngập trong một loạt các lễ hội được chính phủ GVN khuyến khích để mừng
25 năm ngày ông Ngô Đình Thục, anh của ông Diệm, nhậm chức Tổng Giám Mục Huế. Một
cuộc biểu tình phản kháng xảy ra ở Huế vào ngày 8 tháng 5-1963, và bị một đơn vị
Dân Vệ nổ súng giải tán. Trong cuộc xô xát kế tiếp, nhiều người bị giết, trong đó
có vài trẻ em. Chính phủ Diệm đổ tội các cái chết là do khủng bố Việt Cộng bất
kể chứng cớ cho thấy ngược lại, và việc hành xử kiêu căng kế tiếp về chuyện này
và về hậu quả của nó đã bùng lên thành khủng hoảng toàn quốc. Những người Phật
Tử, cho tới lúc đó vẫn chưa có tổ chức và chưa biểu lộ phản kháng, đã bày tỏ sức
mạnh và sự kết hợp lớn -- đủ để đưa ra một nhóm các thỏa hiệp từ Tổng Thống Diệm
hôm 16 tháng 6-1963. Thêm nữa, sự kiện các lãnh đạo Phật Giáo đã có thể thách
thức chính phủ công khai mà không dẫn tới sự trả thù nghiêm trọng đã cho họ niềm
tự tin lớn.
4. Vào giây phút này, phong trào Phật
Giáo vẫn còn được kiểm soát hiệu quả bởi các vị sư ôn hòa, những người từ chối
nhận hỗ trợ từ, hay sự hợp tác mặt ngoài với bất kỳ đối lập chính trị nào của ông
Diệm, dù Cộng Sản hay không Cộng Sản, và có vẻ như đang tìm cách bảo đảm rằng
người Phật Tử giữ đúng các cam kết của họ [trong thỏa hiệp với ông Diệm]. Giới
lãnh đạo Phật Giáo này đã cho chính phủ ông Diệm một thời kỳ ân huệ (mà kết thúc
vào cuối tháng 6-1963) trong đó để cho thấy rằng Phật Tử có thiện chí thực hiện
cam kết, mà nếu không thì biểu tình sẽ tiếp tục. Cho tới giờ đã không có biểu tình
thêm, nhưng giới lãnh đạo Phật Giáo thấy rõ là đang yên nghỉ.
5. Bất kể Phật Tử tự kềm chế đối với
việc khai thác khía cạnh chính trị của vấn
đề, đã thấy rõ có những quá đà chính trị. Vấn đề này đã làm lan rộng sự phẫn nộ
và có thể trở thành một tiêu điểm để gây rộng khắp bất mãn với chế độ ông Diệm.
Nó cung cấp một chủ đề mà hầu hết những thành phần đối lập không-Cộng-Sản (ngay
cả một số giáo dân Thiên Chúa Giáo La Mã) có thể thấy điểm chung để đồng ý. Có
chứng cớ thấy rõ rằng tự vấn đề này, và ngay cả hơn nữa, việc gia đình ông Diệm
xử trí tới giờ đã có sự ổn định tại hầu như ở các cấp quân đội và công chức của
chính phủ, trong khi giới quân dân cấp
trung và cấp thấp hầu hết là Phật Tử. Trong vài trường hợp, công chức như dường
đã bày tỏ làm lơ hay kình lại các chỉ thị của chính phủ ông Diệm, còn các quan
chức cũng có lúc tránh né công việc ban lệnh chính phủ xuống cho cấp dưới của họ,
và thông tin về các hành động sắp tới của chính phủ lại hiển nhiên là bị lộ để cho các nhà sư biết
trước. Trong bất kỳ trường hợp nào, các diễn biến mới đây đang làm cho nhiều
quan chức chính phủ phải tái xét lại quan hệ của họ với, và mức độ của sự trung
thành của họ với chế độ ông Diệm; đã có chứng cớ rộng khắp về sự bất mãn nghiêm
trọng và về âm mưu đảo chánh trong giới chỉ huy quân sự và công chức.
6. Vấn đề Phật Giáo có vẻ như đã được
ủng hộ lớn lao từ nhiều nhóm đối lập không-Cộng-Sản
trong và ngoài lãnh thổ Nam VN. Cũng có vẻ như đã có một cảm giác tăng dần
trong số những người từng ủng hộ chế độ rằng vị trí của ông Diệm có thể đã bị tổn
thương một cách nguy hiểm và một cách vĩnh viễn. Nhưng cho tới giờ, chúng tôi
không có chứng cớ nào về những nhóm đối lập đa dạng có thể kết hợp thành các liên
minh mới hay hiệu quả với nhau.
7. Vấn đề Phật Giáo sẽ có vẻ như một
cú trúng số hiển nhiên cho người Cộng Sản, nhưng tới giờ vẫn không có chứng cớ
nào rằng họ đã có thể lợi dụng một cách hiệu quả. Họ có thể đã trà trộn vào các
chức sắc Phật Giáo ở một mức độ, nhưng không đưa ra được bất kỳ ảnh hưởng khả
nhận nào, bất kể chính phủ ông Diệm đang ám chỉ như thế. Cho tới giờ, khủng hoảng
Phật Giáo không có vẻ như đã có bất kỳ ảnh hưởng khả lượng nào đối với nỗ lực
chống nổi dậy đang tiến hành, mặc dù tinh thần và hiệu năng của các lực lượng
quân dân VNCH có vẻ sẽ bị thiệt hại nếu vấn đề kéo dài.
8. Khủng hoảng Phật Giáo cũng đã làm
tổn thương VNCH về mặt quốc tế, với ảnh hưởng quan trọng có thể có đối với thành
công tương lai của chính sách Mỹ đối với Đông Nam Á. Phản đối đang lan rộng tại
các quốc gia có Phật Tử chiếm đa số, với ám chỉ rằng hành động của Mỹ có thể giúp
giải quyết khủng hoảng. Cam Bốt và Tích Lan đã lên tiếng trước Liên Hiệp Quốc,
và có thể nhiều nước nữa sẽ làm như thế. Tại các nước khác, kể cả tại Hoa Kỳ,
khủng hoảng đã cho một kích động mới đối với việc chỉ trích chính sách Mỹ với lý
cớ rằng Mỹ đang ủng hộ một chế độ đàn áp và mất lòng dân.
9. Hướng tương lai của vấn đề Phật
Giáo sẽ phần lớn được quyết định bởi hành động của chính phủ VNCH trong thời
gian gần. Nhiều phần là các vấn đề mới nêu lên gần đây có thể được giải quyết nếu
chính phủ thực hiện phần cam kết trong thương lượng đã có. Tuy nhiên, những thành
phần có ý thức tinh vi về chính trị của xã hội Nam VN, bao gồm cả những người
Phật Tử, đều biết về những hành vi quá khứ của ông Diệm là thường dùng việc thương
thuyết để kéo dài thời gian, và thường đưa ra lời hứa để làm dịu sự khủng hoảng
tức thì. Nguy hiểm thực sự trong tình hình hiện nay là ông Diệm có thể mong muốn
sử dụng kỹ thuật như thế, kỹ thuật mà trước kia đã giúp ông ta tốt đẹp nhưng lại
có thể là tai họa nếu lần này lại làm như thế nữa. Nếu những cuộc biểu tình tiếp
diễn, người ta sẽ có thể đoán là sẽ xuất hiện một giới lãnh đạo Phật Giáo có tính
chính trị hơn và kém ôn hòa hơn. Trật tự công cộng sẽ bị đe dọa. Đặc biệt, chúng
ta không thể biết chắc là những đơn vị quân đội hay cảnh sát nào sẽ phản ứng nếu
bị ra lệnh bắn vào những cuộc biểu tình dẫn đầu bởi các vị sư Phật Giáo.
III. ẢNH
HƯỞNG CÁC DIỄN BIẾN MỚI ĐÂY VỀ QUAN HỆ MỸ-VNCH
10. Chính phủ Sài Gòn luôn luôn bày tỏ
vài quan ngại về ảnh hưởng các quan hệ Hoa Kỳ trong vấn đề Nam VN, và dần dần đã
cảm thấy phải hạn chế sự hiện diện và hoạt động của Mỹ tại Nam VN. Thái độ này khởi
lên vì, một phần từ một quan ngại về tính chính đáng, có thể gọi là quá nhạy cảm,
đối với, vẻ bề ngoài cũng như sự kiện thực tế, về nền chủ quyền mới đạt được của
VN. Tuy nhiên, ở một mức độ được suy xét, nó khởi lên từ việc chính phủ ông Diệm
nghi ngờ về ý đồ của Mỹ đối với chính phủ này, và từ niềm tin của chính phủ ông
Diệm rằng hiện diện của Mỹ nhiều hơn sẽ tạo
thế lực cho các nhóm chính trị, và các nhóm này có thể đe dọa ưu thế chính trị
của ông Diệm.
11. Vấn đề Phật Giáo bùng khởi vào một
trong những thời điểm nhạy cảm của chế độ ông Diệm, và căng thẳng đã bị thúc đẩy
thêm, bởi các sự kiện tiếp theo. Việc xử
lý hồi ban đầu của chính phủ Diệm về vấn đề [Phật Giáo] đã làm cho Mỹ khựng
lại vì xấu hổ nghiêm trọng và mối quan ngại, mà, rồi thì, đã dẫn tới một loạt
kháng thư khẩn cấp mạnh mẽ từ phía Mỹ (LND: hồ sơ dùng chữ “forceful US démarches” trong đó có
chữ Pháp “démarches” để chỉ một thủ
tục khẩn cấp của Bộ Ngoại Giao Mỹ, là bản văn phản đối gửi một chính phủ nước
khác và yêu cầu trả lời. Xem Wikipedia http://en.wikipedia.org/wiki/D%C3%A9marche)
Gia đình ông Diệm đã cay đắng bất mãn những hành động này của Hoa Kỳ, và có thể
cảm thấy rằng những cuộc biểu tình của Phật Giáo đã ít nhất, một cách gián tiếp
vì có hiện diện của người Mỹ. Trong hoàn cảnh đó, nhiều phần sẽ có tăng thêm áp
lực để giảm hiện diện của người Mỹ.
12. Một vai trò chính trong chuyện này
sẽ là em của ông Diệm, ông Ngô Đình Nhu. Nhu luôn luôn là phụ tá chính trị chính
yếu của ông Diệm, nhưng trong các năm kể từ 1954 đã có mức tăng dần quyền lực cá
nhân và thẩm quyền của ông Nhu -- một sự tăng quyền, một phần vì hoàn cảnh, và
chủ yếu là do ông Nhu nỗ lực nắm thêm
quyền lực. Ông Nhu có tham vọng chính trị riêng, và hầu như chắc chắn tự xem ông
là người nối ngôi ông anh. Vì nhiều lý do, ông Nhu từ lâu trong chỗ riêng tư đã
nhìn Mỹ với một chút ngờ vực và khó chịu. Những chỉ trích từ phía Mỹ đối với chính
phủ VNCH đặc biệt làm ông Nhu nổi giận, vì Nhu biết rằng ông và vợ ông thường
xuyên là mục tiêu chính. Trên hết, Nhu hầu như chắc chắn ngờ vực rằng không rõ
sự ủng hộ của Mỹ giành cho Diệm rồi có sẽ chuyển sang ủng hộ Nhu hay không.
13. Trong những cuộc thương thuyết với
Phật Giáo, ông Nhu thúc giục ông Diệm giữ quan điểm cứng rắn và, bằng chính lời
tuyên bố của Nhu là, không ủng hộ chút nào đối với các nhượng bộ đã đạt với Phật
Giáo. Dựa vào những việc đã qua, chúng tôi nghĩ là sẽ không có vẻ gì là Nhu sẽ
giúp thực hiện các cam kết; ảnh hưởng của ông Nhu đối với ông Diệm dự kiến sẽ
trên chiều hướng trì hoãn và cù nhầy đối với những cam kết, một khuynh hướng mà
chính ông Diệm cũng đã bác bỏ. Chuyện này nhiều phần sẽ không chỉ ông bà Nhu và
ông Diệm, nhưng cũng sẽ có [can thiệp của]
ông anh là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục và ông em là Ngô Đình Cẩn, lãnh
chúa chính trị của các tỉnh Miền Trung, một cách hiển nhiên là tiếp tục ngờ vực
tính chính đáng của các khiếu kiện từ Phật Tử, và đánh giá thấp mức độ căng thẳng
của khủng hoảng.
IV. VIỄN ẢNH
14. Nếu chính phủ Diệm tiến hành thực hiện một cách hiệu quả các cam kết ngày
16-6-1963, phần nhiều các bất mãn từ vấn đề Phật Giáo có thể êm dịu lại. Tuy
nhiên, ngay cả nếu quan hệ giữa chính phủ ông Diệm và Phật Tử lắng xuống, những
bất đồng tổng quát đối với chế độ ông Diệm (mà cuộc khủng hoảng này làm bùng lên
và đưa ra phía trước) phần nhiều cũng sẽ tồn tại. Thêm nữa, nếu (và điều này có thể là) chế độ
cố ý trì hoãn, vụng về và kém thành thực trong việc ứng phó vấn đề Phật Giáo, sẽ
có thể bùng trở lại những cuộc biểu tình, và Nam VN sẽ có thể vẫn ở trong trạng
thái căng thẳng chính trị nội địa. Trong những hoàn cảnh đó, xác suất sẽ cao hơn
bao giờ hết để xảy ra một vụ đảo chánh hay ám sát nhắm vào ông Diệm mà không do
Cộng Sản chủ mưu. Chúng ta không thể loại trừ khả thể của một cú đảo chánh do Cộng
Sản mưu toan, nhưng một âm mưu của Cộng
Sản sẽ ước đoán được là khó thành công, khi nào mà đa số những người đối lập và
chỉ trích chính phủ ông Diệm vẫn (như bây
giờ hiện nay) cảnh giác đối với hiểm họa Cộng Sản.
15. Xác suất xảy ra sẽ lớn hơn đối với
một cú đảo chánh không do Cộng Sản gây ra – và về sự thành công của nó -- trong
trường hợp lại có sự kiện kình nhau trở lại giữa chính phủ Diệm và Phật Giáo và
dẫn tới những cuộc biểu tình rộng lớn ở Sài Gòn. Những xô xát kéo dài và các hỗn
loạn tổng quát sẽ, nhiều hay ít, hẳn là sẽ xảy ra – khi lực lượng an ninh không
biết sẽ nên ủng hộ phía nào. Trong hoàn cảnh như thế, một nhóm nhỏ, đặc biệt là
một nhóm có những kế hoạch ứng phó trước
cho trường hợp đó, có thể sẽ có khả năng lật đổ chính phủ. Ngược lại, một thỏa
hiệp kéo dài giữa chính phủ ông Diệm và Phật Tử sẽ giúp giảm cơ nguy đảo chánh.
16. Bất kỳ mưu toan nào muốn lật đổ ông
Diệm sẽ hầu như chắc chắn cũng phải lật đổ ông Nhu, nhưng nếu ông Diệm đi mà ông
Nhu còn, thì chúng tôi tin phần chắc rằng ông Nhu sẽ tìm cách lên nắm quyền –
trong một bước đầu tiên, có thể sẽ là vận dụng qua guồng máy hiến định. Chúng tôi
không tin là nỗ lực [ứng cử] của ông Nhu sẽ thành công, bất kể nền tảng chính
trị cá nhân mà ông Nhu đã vun trồng xuyên qua Thanh Niên Cộng Hòa (mà ông là Tổng
Thủ Lãnh), chương trình ấp chiến lược (do Ủy Ban Liên Bộ thực hiện, mà ông Nhu
là Chủ Tịch Ủy Ban này), và trong quân đội. Ông Nhu và vợ ông đã trở thành những
biểu tượng sống của tất cả những gì bị căm ghét trong chế độ hiện nay, vì sức mạnh
chính trị riêng của ông Nhu sẽ kéo dài hơn ông Diệm. Sẽ có thể có một cuộc tranh
đấu với bạo lực không nhỏ, nhưng đủ để quân đội phẩn chắc là sẽ ra trị an, hoặc
là sẽ ủng hộ người nối ngôi hiến định để đưa Phó Tổng Thống Thơ lên [thay ông
Diệm], hoặc là sẽ ủng hộ một lãnh tụ dân sự không Cộng Sản khác, hoặc là ủng hộ
một chính phủ quân phiệt.
17. Một chế độ nối tiếp không Cộng Sản có thể không
hiệu quả hơn chế độ ông Diệm trong việc chiến
đấu chống lại Việt Cộng; thực sự, ít nhất, lúc đầu nó có thể kém hiệu quả, và nỗ lực chống nổi dậy có
thể sẽ tạm thời rối loạn. Tuy nhiên, có một khối lớn nhân sự dầy kinh nghiệm và
được huấn luyện, nhưng chưa được vận dụng hết, không chỉ trong quân đội và lực
lượng công chức của chính phủ hiện nay, nhưng cũng đang có nhiều ở ngoài chính
phủ này, tới một mức độ nào đó. Những phần tử này, khi được ủng hộ tiếp tục từ
Hoa Kỳ, có thể tạo ra một sự lãnh đạo hiệu quả một cách hợp lý đối với chính phủ
và nỗ lực chiến tranh.
Đính kèm Hồ sơ mật bản số 354, dạng
PDF.
Trang đầu,
trang số 1; và trang cuối, trang số 6
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét