ĐÁNH GIÁ
TÀI LIỆU TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU
LỊCH SỬ
VIỆT NAM CỌNG HÒA
Lâm Vĩnh
Thế
Sách báo Anh ngữ đã được xuất bản về
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và về Chiến tranh Việt Nam trong hơn nữa thế kỷ vừa
qua chiếm môt số lượng có thể nói là khổng lồ. Gần đây hơn, trong khoảng thời
gian độ hai mươi năm qua, chúng ta thấy xuất hiện khá nhiều sách báo Việt ngữ
đã được xuất bản tại hải ngoại về nhiều vấn đề, sự kiện, biến cố trong các lãnh
vực chính trị, quân sự của VNCH truớc năm 1975. Một phần rất lớn những cuốn
sách và bài báo thuộc loại này do những vị đã từng có hoạt động trong chính
quyền hoặc quân lực VNCH, ngay cả có tham dự vào chính các biến cố chính trị,
quân sự đó. Các tác giả, do đó, thuờng có khuynh huớng ghi lại các biến cố với
khá nhiều chi tiết. Tuy nhiên, đa số các tác giả đều viết lại các biến cố theo
ký ức của mình, nhiều khi không dựa vào bất cứ tài liệu nào nên sự chính xác
của các chi tiết mà họ ghi lại không cao lắm. Bản thân tác giả bài viết này đã
thực hiện khá nhiều cuộc nghiên cứu về lịch sử của VNCH, đặc biệt chú trọng vào
giai đoạn 1963-1967. Trong quá trình nghiên cứu, nguời viết không tránh khỏi
phải đọc khá nhiều những tài liệu nói trên.
Bài viết này đuợc soạn thảo để chia
xẻ với độc giả những kinh nghiệm trong việc đánh giá tài liệu có liên quan đến
lịch sử của VNCH.
Những Đòi Hỏi Đối Với Người Nghiên Cứu Sử
Trong bất cứ thời đại nào và tại bất
cứ quốc gia nào, người làm công tác nghiên cứu và ghi chép lại lịch sử cần phải
công bằng, vô tư và khách quan. Tại sao vậy? Bởi vì mục tiêu của họ là ghi lại
một cách trung thực và chính xác các sự việc, biến cố đã xảy ra trong quá khứ
để cho trong tương lai khi có người muốn tìm hiểu thì có thể biết được sự thật.
Muốn ghi lại một cách trung thực và
chính xác sự kiện lịch sử, đòi hỏi đầu tiên là nguời nghiên cứu phải có một sự
hiểu biết khá đầy đủ về giai đoạn lịch sử mà mình định nghiên cứu. Sự hiểu biết
này phải đuợc thể hiện trên một số lãnh vực: ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, chính
trị, kinh tế và quân sự. Về ngôn ngữ, người nghiên cứu lịch sử phải hoàn toàn
làm chủ được (mastering) ngôn ngữ của tài liệu, hiểu thật rõ thông tin chứa
đựng trong tài liệu. Không những thế, người nghiên cứu còn phải có khả năng nắm
đuợc những biến đổi của ngôn ngữ về ngữ vựng (kể cả tiếng lóng), về chính tả,
về văn phong, vv. duới ảnh hưởng của những đổi thay về văn hóa, xã hội, và
chính trị. Có như thế, người nghiên cứu mới có khả năng phát hiện đuợc những
tài liệu ngụy tạo. Về mặt văn hóa, xã hội, người nghiên cứu cũng cần phải có những
hiểu biết về hệ thống giáo dục, tín nguỡng, phong tục, tập quán của con người
trong giai đoạn lịch sử đó để có thể hiểu đuợc cách hành xử, ứng phó cũng như
hành động của các đối tượng nghiên cứu. Sau hết, người nghiên cứu cũng phải có
hiểu biết đầy đủ về hệ thống tổ chức và điều hành của bộ máy chính trị, kinh tế
và quân sự của quốc gia trong giai đoạn lịch sử đó để có thể hiểu đuợc các tài
liệu về chính sách, đuờng lối cũng như những kế hoạch, chương trình đề ra trong
giai đoạn đó. Bên cạnh đòi hỏi sự hiểu biết về bộ máy chính quyền như vừa nói,
người nghịên cứu cũng phải rất quen thuộc với tên họ của các nhà lãnh đạo cũng
như các chính trị gia, các tuớng lãnh và các nhân sĩ trong giai đoạn lịch sử
đó.
Việc đòi hỏi kế tiếp là phải cố gắng
tìm cho được các tài liệu có liên quan đến sự kiện lịch sử đó. Di nhiên không
thể nào có thể bảo đãm là đã tìm được tất cả các tài liệu về việc đó. Người nghiên
cứu chỉ có thể cố gắng tìm cho được tài liệu càng nhiều càng tốt. Trong khi thu
thập tài liệu, dĩ nhiên, các tài liệu loại nhứt đẳng (primary documents; tức là
loại tài liệu gốc) cần phải đuợc ưu tiên chú ý.
Khi đã thu thập đuợc một số tài liệu
tạm đủ rồi, việc kế tiếp phải làm là sắp xếp các tài liệu lại theo thứ tự thời
gian mà tài liệu đã đuợc soạn thảo, in ấn để có một cái nhìn tổng quát về toàn
bộ tài liệu. Việc sắp xếp này giúp ích rất nhiều cho người nghiên cứu. Truớc
tiên là nó giúp cho người nghiên cứu thấy rõ mối quan hệ giữa các tài liệu: cái
nào có trước, cái nào có sau, cái nào tạo ra cái nào, cái nào chịu ảnh huởng
của cái nào, vv. Từ đó người nghiên cứu sẽ có thể sắp xếp tài liệu theo tầm
quan trọng của chúng. Việc sắp xếp này cũng giúp cho người nghiên cứu, trong
bước kế tiếp là đánh giá tài liệu, có thể loại bỏ bớt những tài liệu thuộc loại
"râu ria," không có giá trị vì không chứa đựng thông tin gì mới, hay
thuộc loại ngụy tạo, hoàn toàn không đáng tin.
Buớc kế tiếp, rất quan trọng trong
công tác nghiên cứu, là việc đánh giá tài liệu. Việc đánh giá tài liệu gồm hai
phần: hình thức của tài liệu và nội dung của tài liệu. Về hình thức, việc đầu
tiên là phát hiện những lỗi về nhân danh, địa danh; các lỗi này có thể do in ấn
mà cũng có thể do chính tác giả của tài liệu phạm phải, nhứt là trong các tài
liệu do người ngoại quốc viết ra. Kế tiếp, người nghiên cứu phải đặc biệt chú
trọng đến văn phong, ngữ vựng sử dụng trong tài liệu để có thể xác định thời
gian tài liệu đuợc làm ra, từ đó có thể biết được tài liệu là thật hay được
ngụy tạo. Nếu tài liệu gồm có cả hình ảnh, bản đồ, biểu đồ, thống kê, vv. Thì người
nghiên cứu càng phải xem xét cẩn thận hơn, nhứt là các tiêu đề của các phần đó
xem có đúng không. Người nghiên cứu còn phải đặc biệt quan tâm đến phần ghi chú
về xuất xứ của các tài liệu đã được sử dụng trong quá trình hình thành của tài
liệu đang được đánh giá; phần này rất quan trọng, vì nó giúp ích rất nhiều
trong việc đánh giá tài liệu, cho biết mức độ hiểu biết của tác giả về đề tài bàn
đến trong tài liệu, cũng như mức độ nghiêm túc của tác giả tài liệu. Về nội dung
của tài liệu, nguời nghiên cứu cần phải đọc thật kỷ tài liệu, hiểu thật rõ ý nghĩa
của thông tin trong tài liệu để có thể nắm chắc được tác giả muốn chuyển đạt
điều gì và với mục đích gì. Cần phải hiểu rõ động cơ của tác giả vì đó là điều kiện
cần để xác định tính vô tư, khách quan của tài liệu. Những sự việc, biến cố đề
cập đến trong tài liệu cần phải được so sánh với cùng sự việc, biến cố được đề cập
đến trong những tài liệu khác để nhận định về tính chính xác của tài liệu đang được
đánh giá. Thông thuờng những tài liệu do chính tác giả là người đã có tham gia
vào các sự việc, biến cố đó đáng được tin hơn những tài liệu do các tác giả không
phải là người có tham dự. Nhưng điều này cũng không phải là tuyệt đối vì người
trong cuộc cũng có thể quên đi nhiều chi tiết qua thời gian, hoặc do chính sự chủ
quan của họ mà họ có thể không nhìn thấy một số chi tiết hay bỏ qua một số chi
tiết mà họ cho là không quan trọng, không đáng kể. Đó là chưa kể đến việc phần
lớn các sách hồi ký được các tác giả viết ra là để biện minh cho hành động của
mình hoặc đề cao cá nhân mình; việc này khiến cho các hồi ký phần nhiều không
được vô tư, khách quan, ngay cả có thể không chính xác.
Khi hoàn thành việc nghiên cứu, và
đúc kết lại những thông tin mà mình tin là đúng sự thật lịch sử, nguời nghiên
cứu phải có những nhận định thật vô tư, khách quan về các sự việc, biến cố được
ghi lại. Chuyện gì đúng thì phải nói là đúng, chuyện gì sai thì phải nói là
sai; tuyệt đối không nên đứng trên lập truờng phe phái mà phán xét. Sau hết,
nguời nghiên cứu phải ý thức rằng cái gọi là "sự thật lịch sử" trong
chính công trình nghiên cứu của mình cũng chỉ là phản ánh
của việc tìm tòi và hiểu biết của
giai đoạn nghiên cứu của mình mà thôi. "Sự thật lịch sử" đó dứt khoát
không thể là phán quyết sau cùng; các nhà nghiên cứu trong tương lai có thể tìm
ra được những tài liêu mới, soi sáng thêm cho đề tài nghiên cứu và đem lại một
cái nhìn mới hơn, hoàn hảo hơn đối với sự việc, biến cố lịch sử đã được nghiên
cứu đó.
Kinh Nghiệm Thực Tiển Đánh Giá Tài Liệu Về VNCH
Kinh nghiệm của người viết bài này
tương đối giới hạn. Lý do chánh là vì trọng tâm nghiên cứu của người viết chỉ
là giai đoạn ngắn ngủi giữa hai nền cộng hòa, 1963-1967. Hơn nữa, người viết đã
quyết định chỉ tìm hiểu về khía cạnh chính trị của giai đoạn lịch sử đó mà
thôi; các mặt quân sự, kinh tế và xã hội chỉ được đề cập đến khi cần để minh
họa cho khía cạnh chính trị. Do đó số tài liệu tham khảo, cả tiếng Anh và tiếng
Việt, không được nhiều lắm.
Đối Với Tài Liệu Anh Ngữ
Tài liệu Anh ngữ của người Mỹ về VNCH
gồm hai phần :
1) Những sách báo, tài liệu nghiên
cứu và hồi ký của các nhân vật chính trị, quân sự của Hoa Kỳ đã được xuất bản;
và
2) Tài liệu của Chính phủ Hoa Kỳ,
nhứt là các tài liệu mật nay đã đuợc bạch hóa (giải mật; declassified). Trong quá
trình nghiên cứu, người viết bài này đã sử dụng một số tài liệu Anh ngữ trong
công việc nghiên cứu của mình, trong đó tài liệu đã giải mật của Chính phủ Hoa
Kỳ, đặc biệt là của Cơ Quan Trung Ương Tình Báo (Central Intelligence Agency --
CIA), chiếm một phần rất quan trọng. Việc đánh giá các tài liệu Anh ngữ này hoàn
toàn tuân theo những đòi hỏi đã trình bày bên trên.
■ Về các tài liệu thuộc loại nghiên
cứu, người viết đã tham khảo các sách liệt kê sau đây:
· The Agency: the rise
and decline of the CIA; ấn bản có sửa chửa, của John Ranelagh, do nhà Simon
& Schuster xuất bản vào năm 1987, gồm 869 trang.
· Anatomy of a war: Vietnam,
the United States and the modern historical experience của nhà Pantheon
Books xuất bản vào năm 1985, gồm 828 trang.
· Choosing war: the
lost chance for peace and the escalation of war in Vietnam của Fredrik
Logevall do University of California Press xuất bản vào năm 1999, gồm 529
trang.
· Foreign relations of
the United States của John P. Glennon làm soạn gỉa chính cùng với các soạn
giả phụ là các ông Edward C. Keefer và Charles S. Sampson, do nhà U.S.
Government Printing Office xuất bản vào năm 1992. Phần của các năm 1964-1968.
· Intervention: how
America became involved in Vietnam của George McT. Kahin, do nhà Alfred A,
Knopf xuất bản vào năm 1986, gồm 550 trang.
· Lyndon B. Johnson’s
Vietnam papers: a documentary collection của soạn giả David M. Barrett, do
nhà Texas A & M University Press xuất bản vào năm 1997, gồm 869 trang.
· The Lost Revolution:
the U.S. in Vietnam, 1946-1966; ấn bản có sửa chửa, của Robert Shaplen, do
nhà Harper & Row xuất bản vào năm 1966, gồm 404 trang.
· Vietnam: a history
của Stanley Karnow do nhà Penguin Books xuất bản vào năm 1983, gồm 752 trang.
· Vietnam: the
definitive documentation of human decisions của soạn giả Gareth Porter, do
nhà E.M. Coleman Enterprises xuất bản vào năm 1979, gồm 2 quyển.
· The U.S. Government
and the Vietnam War: executive and legislative roles and relationships, của
William Conrad Gibbons do Princeton University Press xuất bản, 1986-1995. Đặc
biệt là các phần Part II (1961-1964), Part III (January-July 1965) và Part IV
(July 1965-January 1968).
■ Về các tài liệu thuộc loại hồi ký,
người viết đã tham khảo các sách liệt kê sau đây:
· In retrospect: the
tragedy and lessons of Vietnam của Robert S. McNamara và Brian Van DeMark
do nhà Times Books xuất bản vào năm 1995, gồm 414 trang.
· A soldier reports của
William C. Westmoreland, do nhà Doubleday xuất bản vào năm 1976, và sau đó
nhà Da Capo Press tái bản vào năm 1989, gồm 446 trang.
· Swords and plowshares
của Maxwell D. Taylor, do nhà W.W. Norton xuất bản vào năm 1972, gồm 434 trang.
· The Vantage point: perspectives
of the presidency, 1963-1969 của Lyndon B. Johnson, do nhà Holt, Rinehart
and Winston xuất bản vào năm 1971, gồm 636 trang.
■ Về tài liệu đã giải mật của Chính
phủ Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa, người viết đã sử dụng cơ sở dữ liệu trực tuyến
Declassified Documents Reference Systems
(DDRS) trong sưu tập của Trường Đại Học Saskatchewan, Canada.
■ Về các tài liệu thuộc loại tham
khảo, tác giả cũng có sử dụng một số tài liệu liệt kê sau đây:
· Dictionary of the
Vietnam War của soạn giả James S. Olson, do nhà Greenwood Press xuất bản vào
năm 1988, gồm 585 trang.
· Encyclopedia of the
Vietnam War của soạn giả Stanley I. Kutler, do nhà Charles Scribner’s Sons
xuất bản vào năm 1996, gồm 711 trang.
· Encyclopedia of the
Vietnam War: a political, social, and military history của soạn giả Spencer
C. Tucker, do nhà ABC-CLIO xuất bản vào năm 1998, gồm 3 quyển tổng cộng 1196 trang.
Việc tham khảo các tài liệu tiếng
Anh đã được số hóa (digitized) và có thể đọc nguyên văn (full text) phần lớn
được thực hiện qua kho Văn Khố Ào về Việt Nam (Vietnam Virtual Archive, thường được viết tắt là VVA) của Trung Tâm
Việt Nam (Vietnam Center) của Trường Đại Học Texas Tech University, tại thành
phố Lubbock, Texas, Hoa Kỳ.
Về phương diện hình thức, những lỗi
lầm thường gặp phải trong tài liệu Anh ngữ đều liên quan đến các nhân danh và
địa danh. Tuy nhiên, phải công nhận là các tài liệu Anh ngữ (thuộc loại nghiên
cứu, hồi ký hay tham khảo) được xuất bản thông thuờng ít có các lỗi này vì các
nhà xuất bản, đặc biệt là các nhà xuất bản thương mại lớn (trade publisher) và
các nhà xuất bản đại học (university press) của Tây Âu và Bắc Mỹ, đều tự đặt ra
cho chính họ nhiều quy định và duyệt xét rất chặt chẽ trong tiến trình in ấn.
Tài liệu đã giải mật của CIA, đặc biệt là loại Công điện (Intelligence
Information Cable) vì cung cấp loại tin sống (raw intelligence) và không thông
qua tiến trình kiểm chứng và đánh giá, thường vấp phải lỗi lầm này.1
Xin nêu ra đây một trường hợp điển
hình như sau:
Trong Công điện mang số TDCS-314/01862-65
của CIA, đề ngày 10-2-1965, được gìải mật ngày 20-12-1975, gồm 4 tr., liệt kê
thành phần Nội các mà Bác si Nguyễn Lưu Viên dự định thành lập và sẽ trình diện
Quốc Truởng Phan Khắc Sửu vào ngày 12-2-1965, nhưng sau đó không thành,2 tên họ của một số nhân vật
đã bị viết sai như sau:
- ông Nguyễn Văn Trường, Bộ Trưởng Giáo Dục, đã bị viết sai
là Le Van Truong
- ông Đàm Sĩ Hiến, Bộ Trưởng Xã Hội, đã bị viết sai là Nam Si Hien
- ông Lữ Văn Vi, Bộ Trưởng Tư Pháp, đã bị viết sai là Luu Van Vi
- ông Phan Khắc Sửu, Quốc Trưởng, đã bị viết sai là Pham Khac Suu
- Bác sĩ Phan Quang Đán, Tổng Trưởng Văn Hóa Xã Hội, đã bị
viết sai là Pham Quan Dan
Việc nhận ra được những lỗi về tên
người trong công điện này của CIA rõ ràng đòi hỏi người nghiên cứu phải nắm rất
vững tên họ của các nhân vật chính trị của VNCH trong giai đoạn này.
Về phương diện nội dung, việc đánh
giá các tài liệu của các tác giả và soạn giả Mỹ, thuộc tất cả cả 3 loại nghiên
cứu, hồi ký và tham khảo, do các nhà xuất bản lớn hay các nhà xuất bản đại học
hay chính phủ xuất bản thường không gặp nhiều khó khăn vì tất cả các sách đó
đều đã được xét duyệt cẩn thận bởi các nhân viên có khả năng và giàu kinh
nghiệm của chính các nhà xuất bản. Những sự kiện, biến cố với thời gian và địa
điểm xảy ra được viết trong các tài liệu phần lớn đều được ghi chú rất kỷ
lưởng, giúp cho việc kiểm chứng, đánh giá được dễ dàng.
Hệ thống điểm sách của Bắc Mỹ rất
đầy đủ, và vì vậy, khi một tác phẩm quan trọng được phát hành thì chúng ta có
thể thấy xuất hiện rất nhiều bài điểm sách (reviews) đánh giá tác phẩm đó. Vì
vậy các nhà xuất bản không thể buông thả hay lơ là trong việc xét duyệt tác
phẩm về cả hình thức lẩn nội dung trước khi xuất bản tác phẩm. Xin nêu ra đây
một thí dụ cụ thể để minh họa về tính cách nghiêm túc của các tài liệu của Hoa
Kỳ thuộc loại nghiên cứu.
Trong tác phẩm The U.S. Government and the Vietnam War: executive and legislative
roles and responsibilities. Part III: January – July 1965 của tác giả William Conrad Gibbons, do nhà
Princeton University Press xuất bản năm 1989,
ở trang 122, dưới tiêu đề: The Marines are sent to Danang (Thủy Quân Lục Chiến được gửi tới Đà Nẵng), tác giả
ghi như sau: “On February 22, General Westmoreland
requested that two Marine battalion landing teams (a battalion landing team is a battalion with support forces; there
are three or four battalions in a
brigade) be deployed to Danang, with a third held in reserve on ships off shore.” 193 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như
sau: “Ngày 22 Tháng Hai, Tướng
Westmoreland yêu cầu gửi hai tiểu đoàn đổ bộ Thủy Quân Lục Chiến (một tiểu đoàn đổ bộ là một tiểu đoàn với các đơn vị yểm
trợ; một lữ đoàn có ba hoặc bốn tiểu
đoàn) tới Đà Nẵng, với một tiểu đoàn thứ ba ở được giữ làm trừ bị trên các chiến hạm ở ngoài khơi.”) Và
ngay dưới cuối trang, ghi chú số 193 được
trình bày như sau:
193. Johnson Library, NSF NSC
History, Deployment of Forces, MACV to CINCPAC 220743Z Feb. 1965, MAC JOO 5515.
Ghi chú này cho biết rõ thông tin mà tác giả trình bày bên trên nằm trong tài liệu
được đánh số MAC JOO 5515, là một văn thư của Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại
Việt Nam (MACV = Military Assistance Command – Vietnam) gửi về cho Tổng Tư Lệnh
Lực Lượng Hoa Kỳ Tại Thái Bình Dương (CINCPAC = Commander-In-Chief – Pacific)
ngày 22 tháng 2 năm 1965, lúc 07 giờ 43, được lưu trữ tại Thư Viện Tổng Thống
Lyndon Baines Johnson, trong bộ hồ sơ có tiêu đề Deployment of Forces (Phối Trí
Lực Lượng), là một phần của bộ hồ sơ thuộc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (NSC =
National Security Council).
Vì thế người viết không tìm thấy
những điều không trung thực trong các tác phẩm của người Mỹ như đã tìm thấy khá
nhiều trong những tác phẩm của một số tác giả người Việt, như phần bên dưới sẽ
cho thấy rõ. Điều này không có nghĩa là người viết tuyệt đối tin tưởng tất cả
những gì các tác giả Mỹ viết ra. Người viết luôn luôn chú ý tới khuynh hướng
chính trị của các tác giả để có thể hiểu rõ hơn động cơ, ý đồ của họ trong khi
họ diễn giải các sự kiện, biến cố. Lấy một thí dụ để minh họa. Cuốn Vietnam: a history của Stanley Karnow
được giới báo chí Mỹ đánh giá cao. Báo Los
Angeles Times đánh giá Karnow và cuốn sách như sau:
“His is a rich and unusual mixture;
he has the reporter’s eye for meaningful detail, an ear for the memorable quote,
and he works hard to give the Indochina epoch a historian’s perspective.” (Xin
tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Cuốn sách của ông ấy là một sự pha trộn phong
phú và bất thường; ông ấy có con mắt của một phóng viên để có thể nhìn thấy một
chi tiết có ý nghĩa, một cái tai có thể nghe được một câu nói đáng ghi nhớ, và
ông ta làm việc tích cực để mang lại cho cái giai đoạn Đông Dương đó một bối
cảnh lịch sử.”) Tờ Boston Globe thì
khen như sau: “The most comprehensive, up-to-date, and balanced account we have of the Vietnam War.”
(Xin tạm dịch sang tiếng Việt như sau: “Đây
là một bản tường thuật tổng hợp, cập nhựt và quân bình nhứt mà chúng ta có được về Chiến Tranh Việt Nam.”) Tất cả
các nhận xét, đánh giá về tác giả và cuốn
sách này đều rất đúng. Tác giả là môt nhà báo có trình độ, tốt nghiệp từ
hai đại học danh tiếng của Mỹ và Pháp
là Đại Học Harvard và Đại Học Sorbonne, và đã làm phóng viên cho 2 tuần báo lớn của Mỹ là Time và Life tại Đông Nam
Á (bao gồm cả Việt Nam) từ năm 1959.
Ông quen biết nhiều nhân vật Mỹ và Việt trong đủ mọi giới nên thông tin trong cuốn sách của ông rất chính xác.
Người viết không tìm thấy một điểm
sai sự thật nào trong cuốn sách của ông. Nhưng cuốn sách của ông, nếu phân tích kỷ cho đến cùng,
chúng ta sẽ nhận ra rằng, tuy không lộ liễu, trắng trợn, nó hàm ý ca ngợi Miền
Bắc hơn là Miền Nam trong cuộc chiến này.
Gần 1/3 cuốn sách ở phần đầu, trình
bày lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam, và sau đó là hoạt động của Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như cuộc chiến tranh chống người Pháp
(1949-54) thật ra muốn cho độc giả thấy bản chất cách mạng tốt đẹp và tính
chính thống của những người Cộng Sản. Ở trang 239, trong phần kết thúc về việc
Miền Bắc cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào tháng 12 năm 1960, mặc
dù đã nhận định rằng “The front’s real leadership resided in the People’s
Revolutionary party and the Liberation army, its Communist components, which
took their orders from the Politburo in Hanoi,” (xin tạm dịch sang tiếng Việt
như sau: “Quyền lãnh đạo thật sự của Mặt Trận nằm trong Đảng Nhân Dân Cách Mạng
và Quân Đội Giải Phóng, các thành phần Cộng sản của Mặt Trận, họ nhận lệnh từ
Bộ Chính Trị ở Hà Nội”) ông vẫn kết luận rằng “But to label the National
Liberation Front as simply a satellite of Ho Chi Minh’s regime, as American
spokesmen were to do, was to miss a key point.” (xin tạm dịch sang Việt ngữ như
sau: “Nhưng gán cho Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc cái nhản hiệu là một vệ tinh
của chế độ Hồ Chí Minh, như các phát ngôn nhân của Hoa Kỳ đã làm, là không thấy
được một điểm chính).
Chính vì vậy, tác giả là ký giả Mỹ
đầu tiên và duy nhứt mà Chính quyền Cộng Sản cho phép nhập cảnh trở lại vào
Việt Nam trong 7 tuần lễ ngay từ năm 1981, khi mà giữa Mỹ và Việt Nam vẫn còn
chưa có quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, để thật công bình đối với tác giả
Karnow, chúng ta vẫn phải nhìn nhận rằng chuyến đi Việt Nam 7 tuần lễ vào năm
1981 đó đã mở mắt cho ông rất nhiều về chế độ Cộng sản Việt Nam, như ông đã
trình bày khá chi tiết trong các trang 35-42 của Chương mở đầu của cuốn sách mà
ông đặt cho tiểu tựa là The War Nobody
Won (tạm dịch sang Việt ngữ: Cuộc Chiến Không Ai
Thắng). Dù sao đi nữa, người viết cũng rất dè dặt khi trích dẫn cuốn sách này.
Việc đánh giá về nội dung của các
tài liệu mật của Hoa Kỳ, đặc biệt là tài liệu của CIA, tương đối khó khăn hơn
so với các sách được xuất bản vì chúng ta không được biết nguồn gốc của thông tin
trong tài liệu. Tất cả các tài liệu mật của Hoa Kỳ, ngay cả sau khi đã đuợc
giải mật và công bố để cho mọi người có thể truy dụng, đều luôn luôn xóa bỏ
phần "Source and Appraisal," nên chúng ta không bao giờ có thể biết
được nguồn gốc của thông tin trong tài liệu là từ đâu ra hay do ai cung cấp.
Ngoài ra, rất nhiều tài liệu loại này còn bị thanh lọc (sanitized) nữa, nghĩa
là bôi đen một số từ, cụm từ hay có khi nguyên cả đoạn (paragraph) trong tài liệu.
Thông thường tài liệu thuộc loại
Công điện của CIA đều chứa đựng loại thông tin mới mẻ, chưa có sách báo nào đề
cập đến nên không thể phối kiểm bằng tài liệu đã được xuất bản truớc đó. Cách
tốt nhứt là đối chiếu và phối kiểm chúng với những tài liệu cũng của CIA đuợc
làm ra tiếp sau đó. Xin nêu ra một trường hợp để minh họa như sau:
* Trong cuộc bầu cử Tổng Thống đầu
tiên của Đệ Nhị Cộng Hòa vào tháng 9-1967, chúng ta đều biết là lúc đầu cả 2
tướng Thiệu và Kỳ đều ra ứng cử Tổng Thống trong hai liên danh riêng rẻ; Tuớng
Thiệu đứng chung liên danh với ông Trịnh Quốc Khánh, còn Tuớng Kỳ thì chung
liên danh với Luật sư Nguyễn Văn Lộc; nhưng sau đó, vào giờ chót của thời hạn
nộp đơn ứng cử, ngày 30-6-1967, sau cuộc họp của Hội Đồng Quân Lực (HĐQL) kéo
dài 2 ngày (29 và 30-6) tại Bộ Tổng Tham Mưu do Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham
Mưu Trưởng, triệu tập, hai Tướng Thiệu Kỳ quyết định rút bỏ hai liên danh đó và
cùng đứng chung với nhau trong một liên danh mới, Tướng Thiệu ứng cử Tổng Thống
và Tướng Kỳ ứng cử Phó Tổng Thống. Lúc đó tin này là một bất ngờ, gây chấn động
rất lớn trong hang ngũ những người ủng hộ Tuớng Kỳ. Tài liệu mật của CIA cũng
có bàn về chuyện này. Tài liệu thứ nhứt của CIA là một Công điện, đề ngày
3-7-1967, gồm 10 trang, với chủ đề (Subject) như sau: "Agreement between
Chief of State Thieu and Prime Minister Ky that Thieu, as President, will be a
figurehead and Ky, as Vice President, will retain principal control after the
elections." 3 (Xin
tạm dịch sang tiếng Việt như sau: “Thỏa thuận giữa Quốc Trưởng Thiệu và Thủ
Tướng Kỳ là Thiệu, với tư cách Tổng Thống, sẽ chỉ là hình thức và Kỳ, với tư
cách Phó Tổng Thống, sẽ toàn quyền kiểm soát sau cuộc bầu cử.”) Tài liệu này
cung cấp thông tin nhằm giải thích tại sao Tướng Kỳ chịu đứng chung liên danh
với Tướng Thiệu và còn nhuờng cho Tướng Thiệu ứng cử Tổng Thống. Đó là vì Tướng
Thiệu đồng ý chấp nhận, nếu đắc cử, ông chỉ là Tổng Thống trên danh nghĩa mà thôi,
Tuớng Kỳ vẫn tiếp tục nắm trọn quyền hành trong quân đội và chính quyền.
Việc thỏa thuận này sẽ được ghi lại
trên văn bản và sẽ đuợc giữ bí mật giữa các tướng lãnh cao cấp trong HĐQL mà
thôi. Mật uớc này giữa các tướng lãnh cao cấp là một sự vi phạm nghiêm trọng
Hiến pháp của VNCH mới ban hành vào ngày 1-4-1967 nên thông tin này là một điều
quá bất thường và đồng thời cũng rất khó mà kiểm chứng đuợc, nên rất khó tin.
Hơn nữa, công điện này lại chứa đựng nhiều đoạn ca ngợi Tướng Kỳ rất nhiều đồng
thời lại chỉ trích, chê bai Tướng
Thiệu khá nặng. Vì thế mức độ khả
tín của công điện này tương đối không cao lắm. Ngày 11-8 1967, Đại sứ Hoa Kỳ,
lúc đó là ông Ellsworth Bunker, đã hỏi thẳng Tướng Kỳ về việc này và ông Kỳ đã
chối phắt đi là không có.4
Nhưng chưa đầy một tuần lễ sau đó,
ngày 14-8-1967, Walt W. Rostow, Cố Vấn An Ninh Quốc
Gia, đã gửi một văn thư cho Tổng
Thống Lyndon B. Johnson cho biết họ đã có được một bản của cái gọi là
"Charter = Hiến chuong" (gồm 22 trang) của Ủy Ban Quân Sự Tối Cao bí
mật đó của các tướng lãnh VNCH.5
Hai ngày sau đó, một công điện của CIA cũng xác nhận sự hiện hữu của ủy ban đó,
và nguồn tin là một tướng lãnh thành viên của ủy ban đó.6 Đến đây thì không còn nghi ngờ gì nữa cả: mật ước của các tướng lãnh
cao cấp của VNCH là môt chuyện có thật.7
Trong những tài liệu Anh ngữ này có
một số hồi ký của các nhân vật chính trị và quân sự của VNCH, liệt kê sau đây
theo thứ tự thời gian đuợc xuất bản:
● Twenty years and
twenty days, của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, do nhà Stein and Day xuất bản
tại New York vào năm 1976, gồm 239 trang.
● Our endless war:
inside Vietnam, của Trung Tướng Trần Văn Đôn, do nhà Presidio Press xuất
bản tại San Rafael, California vào năm 1978, gồm 274 trang. Cuốn sách này về
sau được chuyển ngữ sang tiếng Việt với tựa đề là Việt Nam nhân chứng: hồi ký chánh trị, do nhà Xuân Thu xuất bản tại
Los Alamitos, Calif. vào năm 1989, gồm 562 trang.
● The Palace file,
của Tiến si Nguyễn Tiến Hưng, do nhà Harper & Row xuất bản tại New York vào
năm 1986, gồm 542 trang. Cuốn sách này về sau đuợc chuyển ngữ sang tiếng Việt
với tựa đề là Hồ sơ mật Dinh Độc Lập,
do nhà C & K Promotions xuất bản tại Los Angeles, Calif. vào năm 1987, gồm
908 trang.
● In the jaws of
history, của Đại sứ Bùi Diễm và David Chanoff, do nhà Houghton Mifflin xuất
bản tại New York vào năm 1987, gồm 367 trang. Cuốn này về sau được Indiana
University Press tái bản tại Bloomington, Indiana vào năm 1999, với cùng số
trang. Cuốn sách này về sau cũng được chuyển ngữ sang tiếng Việt với tựa đề là Gọng kìm lịch sử, do nhà Phạm Quang Khai
xuất bản tại Paris vào năm 2000, gồm 596 trang.
● Buddha's child : my
fight to save Vietnam, của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Marvin J. Wolf, do
nhà St. Martin's Press xuất bản tại New York vào năm 2002, gồm 376 trang
● The twenty-five year
century: a South Vietnamese general remembers the Indochina War to the fall of
Saigon, của Trung Tướng Lâm Quang
Thi, do University of North Texas Press xuất bản vào năm 2011, gồm 423 trang.
Trong các cuốn hồi ký này, hai cuốn
sách của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ và cuốn sách của Đại sứ Bùi Diễm là đáng lưu
ý nhứt vì cả hai tác giả đều là những nhân vật đã đóng những vai trò quan
trọng, nhứt là Tướng Kỳ, trong khoảng thời gian 1963-1967 tại VNCH.
Hai cuốn sách này của Tuớng Kỳ tuy
xuất bản cách nhau 26 năm nhưng nội dung tương đối giống nhau vì là hồi ký của
cùng một nhân vật. Cuốn thứ nhứt hoàn toàn viết theo trí nhớ, không có dựa vào
tài liệu và cũng không có hình ảnh gì cả. Cuốn thứ nhì chứa đựng nhiều chi tiết
hơn, có một số hình ảnh và thỉnh thoảng có trích dẫn tài liệu. Tuy nhiên hai cuốn
đều giống nhau ở những điểm sau đây: dao to búa lớn, tự đề cao nhiều quá, và
rất nhiều chổ không trung thực.
Nguời viết không bàn về chuyện dao
to búa lớn và về việc tự đề cao quá lố của Tướng Kỳ, chỉ xin nêu ra một số điểm
tiêu biểu về tính không trung thực của ông mà thôi. Trong cuốn thứ nhứt, Twenty years and twenty days, ở trang
75, ông Kỳ cho biết chính ông đã tạo dựng ra hai Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG)
và Ủy Ban Hành Pháp Trung Uong (UBHPTƯ). Nguyên văn Anh ngữ như sau: "I
wanted collaboration and I got it by setting up a ruling committee called the
Committee of National Leadership, composed of powerful figures within the
military, a dozen able civilians, and spokesmen for each political party. At
the heart of the committee was the Executive Council—the government, with me as
chairman." 8 (Xin tạm
dịch sang tiếng Việt như sau: Tôi muốn có sự hợp tác và có được nó bằng cách
thiết lập một ủy ban cầm quyền gọi là Ùy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, gồm những nhân
vật uy quyền của quân đội, khoảng độ một chục nhân vật dân sự có khả năng, và
các phát ngôn nhân của các chính đảng. Ở giữa lòng Ủy Ban đó là Ủy Ban Hành
Pháp—tức là Chính phủ—do tôi đứng đầu.”) Điều này hoàn toàn không đúng, cả 2 Ủy
Ban đó đều do Đại Hội Đồng các tuớng lãnh của QLVNCH thành lập và đề cử nguời.
Tướng Thiệu chỉ trở thành Chủ Tịch UBLĐQG sau khi Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu
từ chối sự đề cử của các tướng lãnh hiện diện, và chính Tướng Chiểu, sau đó, đã
đề cử Tướng Thiệu. Cũng như thế, Tướng Kỳ chỉ trở thành Chủ Tịch UBHPTƯ sau khi
Tướng Nguyễn Chánh Thi từ chối sự đề cử của các tướng lãnh hiện diện, và cũng chính
Tướng Thi, sau đó, đề cử Tuớng Kỳ.9
Ngoài ra, đoạn văn đó cũng chứa đựng
một số thông tin không đúng. Ông Kỳ cho biết là trong UBLĐQG, ngoài các tướng
lãnh còn có độ một chục nhân vật dân sự có khả năng, và các phát ngôn viên của
các chính đảng. Điều này hoàn toàn không đúng khi UBLĐQG mới thành lập vào ngày
14-6-1965. Lúc đó UBLĐQG chỉ gồm có tổng cộng tất cả 10 nguời và tất cả đều là
tướng lãnh QLVNCH. Chỉ sau khi xảy ra vụ Biến Động Miền Trung vào năm 1966, sau
khi Tướng Nguyễn Chánh Thi bị cách chức Tư Lệnh Vùng I, thì UBLĐQG mới quyết
định nới rộng thành phần và mời thêm 10 nhân vật dân sự tham gia.
Trong một đoạn, khác, khi nói về
việc tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến năm 1966 ở trang 99, ông Kỳ cho biết là
ông đã ký 2 sắc luật về việc đó. Nguyên văn Anh ngữ như sau: "... by May
1966 I was able to sign a decree setting up a committee to draft electoral laws
and procedures. ... The following month I signed another decree setting
September 11 as the date for the election of a constituent assembly..." 10 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “...vào khoảng tháng 5 năm 1966 tôi đã có thể ký một sắc lệnh thiết
lập một ủy ban để soạn thảo các luật và thủ tục bầu cử... Tháng kế tiếp tôi ký
một sắc lệnh nữa ấn định ngày 11 tháng 9 là ngày bầu cử một quốc hội lập
hiến...”) Điều này cũng không đúng vì việc ký ban hành sắc luật thuộc thẩm
quyền của Quốc Truởng, tức là Chủ Tịch UBLĐQG.
Chính Tướng Thiệu, với tư cách Chủ Tịch UBLĐQG, là nguời đã ký hai sắc luật đó.
Trong cuốn hồi ký thứ nhì, Buddha's child: my fight to save Vietnam,
Tướng Kỳ cũng đã ghi lại nhiều chuyện không đúng. Nguời viết đã đánh giá các điểm
không trung thực này khá nhiều trong khi thực hiện cuộc nghiên cứu về đề tài "Mật
uớc giữa các tuớng lãnh cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa" đã trình bày bên
trên, cũng như trong khi hoàn thành Chương 9 của cuốn sách Việt Nam Công Hòa, 1963-1967: những năm xáo trộn, trong đoạn nói về
việc cách chức Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I.11 Để minh họa cho việc đánh
giá này, người viết xin ghi lại đây diễn tiến của việc cách chức Trung Tướng
Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I:
·
Theo sách Buddha’s child: my fight to
save Vietnam, Tướng Kỳ cho biết ông rất tức giận vì bị người của Tướng Thi
chê bai Chính phủ trung ương và làm nhục ông trong chuyến viếng thăm Vùng I vào ngày 2-3-1966, và quyết
định cách chức Tư Lệnh Vùng I của Ông Thi ngay lập tức, sau khi phi cơ vừa cất
cánh rời hỏi phi trường Phú Bài (Huế). Ông viết như sau ở trang 198: “I turned back to Co and said: “As soon
as we are airborne, use the aircraft radio and send a cable to Thi, relieving
him of his command.” Co, stunned, asked: “What did you say?” I repeated myself,
and a few minutes later he sent the cable.” (Xin tạm dịch sang tiếng Việt như
sau: “Tôi quay lại phía Có và nói: “Ngay sau khi mình đã bay lên rồi, anh hảy dung
điện đài trên máy bay và gửi công điện cho Thi, cách chức tư lệnh của hắn.” Có,
choáng váng, hỏi lại: “Anh nói cái gì?” Tôi lập lại, và vài phút sau anh ta gửi
công điện đi.”) Người được nêu tên Có chính là Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó
Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, Tổng Ủy Viên Chiến Tranh Kiêm Ủy Viên
Quốc Phòng, tức là Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng.
·
Sự thật đâu phải như vậy. Tướng Thi chỉ bị Ùy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia cách chức
ngày 11-3-1966.12 Trước
đó 3 ngày, ngày 8-3-1966, UBLĐQG (thu hẹp, chỉ gồm bốn tướng Nguyễn Văn
Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Hữu Có
và Cao Văn Viên) đã mời Tướng Thi vào Sài Gòn, thuyết phục ông từ chức với lý
do sang Hoa Kỳ chửa bệnh một thời gian nhưng không thành vì
Tướng Thi không đồng ý.13 Ngày hôm sau, 9-3-1966,
UBLĐQG thu hẹp này còn cố gắng thuyết phục ông thêm một lần nũa nhưng ông vẫn
không chịu. UBLĐQG thu hẹp này phải quyết định quản thúc ông tại nhà và triệu
tập Đại Hội Đồng Quân Lực vào ngày hôm sau, 10-3-1966, để thảo luận và quyết
định về Tướng Thi.14
Riêng bản thân Tướng Kỳ, ngay sau đó đã ra lệnh cho người của ông điện thoại
cho Đại sứ Hoa Kỳ mời ông đến gặp ngay để bàn về việc cách chức Tướng Thi.15 Ngày 10-3-1966, Hội Đồng
Quân Lực đã họp, thảo luận, và bỏ phiếu kín với kết quả là tất cả các tướng
lãnh hiện diện đều bỏ phiếu thuận đối với việc cách chức Tướng Thi. Chỉ có duy
nhứt 1 phiếu trắng của Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Nhảy Dù.16 Và ngày hôm sau,
11-3-1966, UBLĐQG mới công bố quyết định này.
Khác hẳn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ
luôn luôn sử dụng dao to búa lớn và tự đề cao quá đáng trong hai cuốn hồi ký
vừa điểm qua, tác giả Đại Sứ Bùi Diễm trong cuốn hồi ký In the jaws of history luôn luôn thận trọng và nghiêm túc. Tuy
nhiên, đoạn nói về việc Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng sáng ngày
8-3-1965 trong cuốn hồi ký của ông cần phải được đánh giá lại.
·
Theo sách In the jaws of history, ông
Bùi Diễm cho biết sang sớm ngày hôm đó, Thủ Tuớng Quát gọi điện thoại, kêu ông
đến gặp ngay vì có chuyện khẩn cấp. Khi ông đến nơi thì ông Quát cho biết Thủy Quân Lục Chiến (TQLC)
Mỹ đang đổ bộ vào Đà Nẵng nên Chính phủ cần phải ra ngay một thông báo chính
thức vể việc này. Ông Quát yêu cầu ông cùng với một viên chức Mỹ có mặt lúc đó là ông Melvin Manfull
soạn thảo ngay thông cáo báo chí này. Điểm chính yếu mà tác giả Bùi Diễm muốn
nói là biến cố đó tuy không phải hoàn toàn là một bất ngờ lớn đối với ông nhưng nó quá đột ngột và Chính
phủ Quát không có chuẩn bị cho biến cố đó.
·
Sự thật không phải như vậy. Biến cố này hoàn toàn không phải đột ngột và Chính
phủ Quát rõ ràng đã có những chuẩn bị cho biến cố đó. Bằng chứng như sau: 1)
Hình ảnh trên báo chí thời đó cho thấy lúc TQLC Mỷ đổ bộ lên bải
biển có sự hiện diện của các thiếu nữ chào đón quân Mỹ với các vòng hoa; và có
cả sự hiện diện của Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I để chào đón
Chuẩn Tướng Frederick J. Karch, Tư Lệnh Lữ Đoàn TQLC Mỹ; 2) Một số công điện
của Đại sứ Mỹ lúc đó là Tướng Maxwell Taylor gửi về Bộ Ngoại Giao Mỹ để tường
trình việc ông đến gặp Thủ Tướng Quát để thông báo về việc đổ bộ 2 tiểu đoản TQLC
Mỹ vào Đà Nẳng, cũng như việc Tướng Westmoreland, Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ tại Việt
Nam gặp gở Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quân Lực
và Trung Tướng Trần Văn Minh, Tổng Tư Lệnh QLVNCH, và sau đó bay ra Đà Nẳng để
gặp và thảo luận với Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I, về việc đổ
bộ 2 tiểu đoàn TQLC này.
Vì tác phong thận trọng và nghiêm
túc của tác giả Bùi Điễm trong cuốn hồi ký này, người viết tin rằng tác giả
hoàn toàn không có động cơ che dấu sự thật. Vậy thì tại sao tác giả lại trình
bày biến cố này như vậy trong cuốn hồi ký của ông ? Người viết nghĩ rằng chỉ có
một cách giải thích tương đối hợp lý: đó là vì tác giả không được Thủ Tướng
Quát thông báo về việc này với lý do rất có thể vì Thủ Tướng Quát chỉ xem việc
đổ bộ 2 tiểu đoàn TQLC Mỹ này là một việc hoàn toàn thuần túy quân sự (lý do
Đại sứ Mỹ nêu ra khi gặp Thủ Tướng Quát là chỉ để bảo vệ phi trường Đà Nẵng,
nơi xuất phát các phi cơ bay đi oanh tạc Bắc Việt của Chiến Dịch Rolling
Thunder đã được cả 2 Chính phủ Việt Mỹ thông qua rồi) nên ông chỉ thông báo cho
các tường Thiệu, Minh và Thi mà thôi. Xin xem chi tiết trong bài viết “Tìm hiểu thêm về việc Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 8-3-1965.” 17
■ Đối Với Tài Liệu Việt Ngữ
Vì trọng tâm nghiên cứu của nguời
viết là khoảng thời gian giữa hai nền Cộng hỏa, 1963-1967, nên số luợng tài
liệu Việt ngữ mà nguời viết tham khảo thật ra cũng không nhiều lắm. Có thể chia
các tài liệu tiếng Việt này ra làm 3 nhóm: nghiên cứu, hồi ký, và linh tinh.
Nhóm sách Việt ngữ thuộc loại nghiên
cứu, do những tác giả nghiêm túc, dựa trên tài liệu lịch sử khả tín, chỉ chiếm
một số lượng tương đối rất thấp, gần như không đáng kể, thí dụ như:
· Lê Xuân Khoa. Việt
Nam 1945-1995: chiến tranh, tị nạn, bài học lịch sử. Tập I: Tị Nạn 1954 và Bài Học Bốn Cuộc Chiến (1945-1979).
Bethesda, Md.: Tiên Rồng xuất bản, 2004. 568 tr.
· Nguyễn Tiến Hưng. Khi
đồng minh tháo chạy. San Jose, Calif.: Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2005.
705 tr.
· Nguyễn Tiến Hưng. Tâm
tư Tổng Thống Thiệu. San Jose, Calif.: Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2010.
711 tr.
Rất tiếc người viết không sử dụng
được các cuốn sách này trong việc nghiên cứu của mình vì nội dung của chúng
thảo luận về những vấn đề nằm ngoài khoảng thời gian 1963-1967, trừ một phần
rất nhỏ của cuốn sách best-seller của Giáo sư Lê Xuân Khoa, từ trang 458 đến
trang 465.
Nhóm sách quan trọng nhứt thuộc loại
hồi ký của những nhân vật chính trị và quân sự của VNCH. Sau đây là danh sách
các cuốn hồi ký mà người viết có tham khảo, xếp theo thứ tự thời gian xuất bản:
· Đỗ Mậu, Việt Nam máu
lửa quê hương tôi, 1987, 1267 trang.
· Nguyễn Chánh Thi, Việt
Nam: một trời tâm sự, 1987, 385 trang.
· Nguyễn Tiến Hưng, Hồ
sơ mật Dinh Độc Lập, 1987, 908 trang.
· Phạm Bá Hoa, Đôi dòng
ghi nhớ, 4 ấn bản, 1994, 1995, 1998, 2007, 385 trang.
· Lý Tòng Bá, 25 năm
khói lửa, 1995, 282 trang.
· Nguyễn Xuân Phác, Hồi
ký Nguyễn Xuân Chữ, 1996, 399 trang.
· Tôn Thất Đính, 20 năm
binh nghiệp, 1998, 455 trang.
· Bùi Diễm, Gọng kìm
lịch sử, 2000, 596 trang.
· Huỳnh Văn Lang, Nhân
chứng một chế độ, 2000, 3 tập.
· Phạm Văn Liễu, Trả ta
sông núi, 2002-2004, 3 tập.
· Hồ Văn Kỳ Thoại, Can
trường trong chiến bại, 2006, 329 trang.
· Liên Thành, Biến động
miền trung, 2008, 433 trang.
· Vũ Quốc Thúc, Thời
đại của tôi, 2010, 2 tập.
· Lê Xuân Nhuận, Biến
loạn miền trung, 2012, 488 trang.
· Đỗ Sơn, Chuẩn Tướng
Phạm Duy Tất và sự thật cuộc triệt thoái Quân Đoàn II, 2013, 388 trang.
Nhìn vào danh sách trên đây, chúng
ta nhận ra ngay là phần lớn các tác giả đều là quân nhân; chỉ có 5 vị (các ông
Nguyễn Tiến Hưng, Nguyễn Xuân Phác, Bùi Diễm, Huỳnh Văn Lang và Vũ Quốc Thúc)
không phải là quân nhân.
Các cuốn hồi ký nêu trên, hoặc ít
hoặc nhiều, đều có nội dung có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của người viết
nhưng quan trọng nhứt là các cuốn liệt kê sau đây:
· Việt Nam máu lửa quê
hương tôi
· Việt Nam: một trời
tâm sự
· Đôi dòng ghi nhớ
· Gọng kìm lịch sử
· Trả ta sông núi
Chúng đã cung cấp một số thông tin
quan trọng cho việc nghiên cứu của người viết với mức độ khả tín khác nhau.
Người viết xin lần lượt điểm qua từng cuốn như sau:
·
Việt Nam máu lửa quê hương tôi: tác
giả Đỗ Mậu là một sĩ quan cao cấp (Đại Tá, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, cơ
quan chịu trách nhiệm về an ninh chính trị trong Quân đội cho chế độ Đệ Nhứt
Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Đinh Diệm), đã tham gia tích cực vào cuộc đảo chánh
ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và sau khi cuộc đảo chánh thành
công ông được thăng lên cấp Thiếu Tướng (giống như 2 vị Đại Tá kia là: Nguyễn Hữu
Có và Nguyễn Văn Thiệu); cuốn hồi ký của ông là cuốn sách đồ sộ nhứt (với 1267
tr.), với nhiều tài liệu tham khảo nhứt, và với mức độ khả tín khá cao, nhưng
đồng thời cũng là cuốn sách bị chỉ trích nhiều nhứt và nặng nề nhứt bởi những
người hoặc theo Công Giáo hoặc thuộc phe tôn sùng Ngô Đình Diệm với lý do là tác
giả viết sách chỉ vì muốn biện minh cho việc chống lại ông Ngô Đình Diệm và lên
án hành động phản quốc của một số con chiên Công Giáo.
Ông Douglas Pike (1924-2002), một
chuyên gia Hoa Kỳ về Việt Cộng và Chiến Tranh Việt Nam, cũng như phần đông
những tác giả nghiêm túc khác, có cái nhìn vô tư và khách quan hơn đối với tác
phẩm đồ sộ này. Ông viết như sau:
“A big book, this 1286-page
autobiography of the well-known former ARVN general and GVN minister and
vice-premier is also a detailed history of the Vietnamese first republic. There
is a great deal of historical analysis here in addition to recounting of
events. For instance, Do Mau is exceedingly hard (provocative even) on Catholicism
and its influence on Vietnamese culture.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau:
“Là một tác phẩm đồ sộ, cuốn tự truyện 1286 trang này của một cựu tướng lãnh,
tổng trưởng và phó thủ tướng nổi tiếng cũa Chính phủ VNCH, cũng là một cuốn lịch
sử chi tiết của nền Đệ Nhứt Công Hòa của Việt Nam. Ngoài việc kể lại các biến
cố, cuốn sách còn có rất nhiều đoạn phân tích chính trị. Ví dụ, tác giả Đỗ Mậu
tỏ ra rất cứng rắn (ngay cả gần như khiêu khích) đối với Công Giáo và ảnh hưởng
của tôn giáo này đối với văn hóa Việt Nam”). Nguồn liệu: Mục điểm sách của tạp
san Indochina chronology, vol. 5, no.
3 (July / Sept. 1986).
Chương 18 của cuốn sách này, với
tiểu đề Ba năm xáo trộn, từ tr. 825 đến tr. 930, cung cấp nhiều thông tin quan
trọng và có mức độ khả tín khá cao về giai đoạn 1963-1965 mà tác giả có lúc
tham gia như một tác nhân tích cực và cũng có lúc là một nạn nhân đáng thương
của các tướng lãnh trẻ vốn là đàn em của tác giả, nhứt là sau khi tác giả bị
cho về hưu vào tháng 3 năm 1965 (Sắc Lệnh số 119/QT/SL do Quốc Trưởng Phan Khắc
Sửu ký ngày 24-5-65; trong Sắc Lệnh ghi rõ: “Được nghĩ phép 3 tháng có lương kể
từ ngày 21-12-64, và được xuất ngũ để hồi hưu theo thâm niên kể từ 21-3-65: Đại-tướng
Dương Văn Minh, càc Trung-tướng Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn
Nghiêm, Lê Văn Kim, các Thiếu-tướng Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Quan, Nguyễn Văn Ngượt
tự Giác Ngộ. Nguồn liệu: Đoàn Thêm. 1965:
việc từng ngày ; tựa của Lãng Nhân. Sài Gòn: Cơ sở xuất bản Phạm Quang
Khai, 1968. Los Alamitos, Calif.: Nhà xuất bản Xuân Thu tái bản, 1989. Tr. 85).
·
Việt Nam: một trời tâm sự: tác giả
Nguyễn Chánh Thi là một vị tướng lãnh của QLVNCH, cấp bậc và chức vụ cuối cùng
của ông là Trung Tướng, Tư Lệnh Vùng I. Cuốn hồi ký của ông, quả đúng như cái
tựa mà ông dùng cho cuốn sách, là tâm sự của ông. Ông viết với trái tim, với
cảm xúc, bộc lộ rõ cá tính của ông là một người chánh trực, nhiệt huyết, nóng
tính, và không thỏa hiệp với cái xấu, cái ác. Toàn bộ cuốn sách của ông không
có một ghi chú nào hết, và cũng không có liệt kê ra bất cứ tài liệu tham khảo nào
hết. Ông nhớ tới đâu viết tới đó, và vì không có tra cứu tài liệu tham khảo,
rất nhiều sự kiện ông không ghi ra ngày tháng hoặc ghi không đúng. Và, dĩ
nhiên, có những điều ông không nhớ nên không viết ra. Một thí dụ nhỏ: ông hoàn
toàn không có đề cập đến vụ TQLC Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 8-3-1965 lúc ông
đang là Thiếu Tướng Tư Lệnh Vùng I và có mặt tại bải biển để đón chào Chuẩn
Tường Frederick J. Karch, Tư Lệnh Lữ Đoàn TQLC Hoa Kỳ đó. Do những tính chất
đặc biệt này, cuốn hồi ký của ông chứa đựng một lượng thông tin rất lớn có mức
độ khả tín khá cao vì chúng liên hệ trực tiếp đến chính bản thân, cuộc đời, và
sự nghiệp của ông, nhưng rất cần được kiểm chứng và đánh giá. Lấy một thí dụ để
minh họa. Về diễn tiến của vụ ông bị cách chức Tư Lệnh Vùng I vào tháng 3-1966,
ở trang 340, ông viết như sau: “Lúc 9 giờ 30 sáng ngày 10-3-1966, tôi đến Saigon,
về ở số nhà 9 đường Gia Long. Anh Phạm Văn Liễu đã có mặt ở đó.” Chi tiết về
ngày tháng là không đúng. Tướng Thi đã về Sài Gòn trước đó ít nhứt là 2 ngày,
vì vào ngày 8-3-1966, ông đã có mặt trong một buổi họp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Đại
Tá Phạm Bá Hoa, trong cuốn hồi ký của ông, Đôi dòng ghi nhớ
(ấn bản lần 4, 2007), ở trang 192, đã ghi như sau: “Ngày 08 tháng 03 năm 1966,
buổi họp thu hẹp của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia gồm Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung
Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Cao Văn Viên, và Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi.
Buổi họp có mục đích giải quyết trực tiếp vụ Trung Tướng Thi đã nhiều lần tỏ ra
chống lại lệnh của trung ương.” Tác giả Phạm Bá Hoa lúc đó còn mang cấp bậc
Trung Tá và giữ chức vụ Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Buổi họp vừa nói
là do chính tác giả sắp xếp theo lệnh của Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham
Mưu Trưởng. Vì vậy thông tin về buổi họp này có mức độ khả tín rất cao. Sau đó
tác giả, trong những trang kế tiếp, còn tường thuật
thêm các diễn tiến trong các ngày 9, 10 và 11 tháng 3-1966, đặc biệt là việc
các tướng Thiệu, Kỳ, Viên và Có cố gắng thuyết phục Tướng Thi một lần nữa vào sáng
ngày 9-3-1966, sau đó mới quyết định quản thúc Tướng Thi tại nhà, và triệu tập
Đại Hội Đồng Quân Lực vào ngày 10-3-1966 để thảo luận và quyết định về việc
cách chức Tướng Thi. Công điện của Đại sứ Hoa Kỳ (lúc đó là ông Henry Cabot
Lodge, thời gian này là lần thứ hai ông làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, lần thứ
nhứt là trong khoảng thời gian từ ngày 22-8-1963 cho đến ngày 28-6-1964) gửi về
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 9-3-1966 cũng xác nhận việc các tướng lãnh VNCH đã có
bàn về việc cách chức Tướng Thi đã xảy ra vào buổi sáng ngày 9-3-1966 trước khi
ông đi gặp Tướng Kỳ.18
·
Đôi dòng ghi nhớ: tác giả Phạm Bá Hoa
là một sĩ quan cao cấp của QLVNCH, cấp bậc và chức vụ cuối cùng là Đại Tá, Tham
Mưu Trường Tổng Cục Tiếp Vận, Bộ Tổng Tham Mưu. Cuốn hồi
ký của ông là một trong một vài cuốn
hồi ký khá hiếm của các nhân vật chính trị và quân sự của VNCH có mức độ khả
tín rất cao. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng tại Bộ Tổng Tham Mưu
QLVNCH, như Chánh Văn Phòng của Tham Mưu Trưởng Liên Quân Thiếu Tướng Trần
Thiện Khiêm lúc xảy ra cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Đình
Diệm, và Chánh Văn Phòng của Tổng Tham Mưu Trưởng
Trung Tướng Cao Văn Viên, lúc diễn ra vụ cách chức Tư Lệnh Vùng I của Trung
Tướng Nguyễn Chánh Thi. Ông chỉ ghi lại những sự kiện mà chính ông có chứng
kiến hoặc tham dự, và có ghi chép lại đầy đủ. Chúng ta vừa có dịp khảo sát phần
nào mức độ khả tín của cuốn hồi ký này trong phần trên.
·
Gọng kìm lịch sử: tác giả Bùi Diễm là
một khuôn mặt chính trị khá quen thuộc của sân khấu chính trị của VNCH trong
thời gian 1963-1975. Ông đã từng giữ chức vụ Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng của Chính
phủ Phan Huy Quát (từ ngày 16-2-1965 đến ngày 19-6-1965), và Đại sứ VNCH tại
Hoa Kỳ (1967-1972). Cuốn hồi ký này chỉ là bản dịch sang tiếng Việt của nguyên
tác tiếng Anh của tác giả In the jaws of history. Những gì người viết
đã nhận định về nguyên tác cũng áp dụng cho bản dịch này.
·
Trả ta sông núi: tác giả Phạm Văn
Liễu là 1 sĩ quan cao cấp của QLVNCH, đã từng tham dự cuộc đảo chánh thất bại
ngày 11-11-1960 của binh chủng Nhảy Dù, phải sống lưu vong tại Cao Miên cùng
với Đại Tá Nguyễn Chánh Thi trong thời gian 3 năm; đã từng giữ chức vụ Tổng Giám
Đốc Cảnh Sát Quốc Gia (1965-1966). Cuốn hồi ký của ông gồm 3 tập, trong đó Tập
2 có liên quan đến phạm vi nghiên cứu về lịch sử VNCH của người viết. Vì được
sự tin dùng của cả 2 tướng Nguyễn chánh Thi và Nguyễn Cao Kỳ (2 vị tướng có thế
lực nhứt trong Nhóm Tướng Trẻ, mà báo chí Hoa Kỳ lúc đó thường gọi chung là The Young Turks, nhứt là của Tướng Thi,
mà ông đã có phần tham dự rất tích cực trong việc các tướng lãnh tạo ra Ủy Ban
Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG) và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (UBHPTƯ), và sau đó
là Nội Các Chiến Tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, sau khi Chính phủ Phan
Huy Quát giao quyền lại cho phe quân nhân. Do đó, phần lớn các thông tin trong
Tập 2 liên quan đến các sự kiện, biến cố trong giai đoạn 1965-1967 có mức độ khả
tín khá cao. Qua các thông tin ở các trang 302-303, chúng ta được biết khá chi tiết việc các
tướng lãnh bầu Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu vào chức vụ Chủ Tịch UBLĐQG (tức
Quốc Trưởng) và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ vào chức vụ Chủ Tịch UBHPTƯ (tức Thủ
Tướng). Phần đánh giá về cá tính của 2 tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ
ở 2 trang 306-307 cũng rất chính xác.
■ Trong nhóm tài liệu thuộc loại
linh tinh, bộ sách biên niên của tác giả Đoàn Thêm là đáng tin cậy nhứt. Bộ
sách này gồm có tất cả 6 cuốn:
· Hai mươi măm qua:
1945-1964, 424 tr.
· Việc từng ngày: 1965,
243 tr.
· Việc từng ngày: 1966,
262 tr.
· Việc từng ngày: 1967,
334 tr.
· Việc từng ngày: 1968,
481 tr.
· Việc từng ngày: 1969,
454 tr.
Phần lớn độc giả đều biết cụ Đoàn
Thêm là một tác giả rất nghiêm túc, lại có căn bản là một nhà hành chánh lảo
luyện, nhiều năm kinh nghiệm. Những dữ kiện ghi lại trong các cuốn biên niên của
cụ, đặc biệt là danh sách các chính phủ, các cuộc cải tổ nội các, các việc
thăng cấp của các tuớng lãnh, phần lớn dựa vào tài liệu cụ thu thập đuợc và ghi
chép lại trong suốt thời gian làm việc, trong đó chắc chắn một phần khá nhiều
là những văn kiện của chính phủ đăng trong Công Báo VNCH nên rất chính xác. Một
lý do nữa của mức độ khả tín cao của các cuốn biên niên này là việc chúng đuợc
xuất bản không bao lâu sau khi sự việc, biến cố xảy ra (về sau này những cuốn
biên niên của cụ Đoàn Thêm đuợc tái bản tại hải ngoại trong thập niên 1990 chỉ
là bản in lại nên hoàn toàn không có thêm bớt, thay đổi gì cả).
Giá trị của những cuốn biên niên này
của tác giả Đoàn Thêm nằm ở chổ giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử VNCH rất
nhiều trong việc dựng lại một cách chính xác thứ tự thời gian xảy ra của các
biến cố quan trọng trong đời sống chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội của VNCH
trong khoảng thời gian đó. Nếu muốn tìm hiểu nguyên nhân của các biến cố hay
tác động hổ tương giữa các biến cố thì bộ sách này sẽ không giúp được gì nhiều
vì đó không phải là mục tiêu của bộ sách này.
■ Trong các tài liệu thuộc loại linh
tinh này cũng cần lưu ý đến một số ít các tài liệu tham khảo sau đây:
· Chiến tranh Việt Nam
toàn tập: từ trận đầu (Áp Bắc – 1963) đến trận cuối (Sài Gòn – 1975) của
Nguyễn Đức Phương do Làng Văn xuất bản vào năm 2001, gồm 957 trang.
· Lược sử Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa của Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, do Hương Quê
xuất bản vào năm 2011, gồm 899 trang.
· Từ điển Chiến tranh
Việt Nam 1954-1975 của Nguyễn Kỳ Phong biên soạn, do Nhà sách Tự Lực xuất
bản vào năm 2009, gồm 500 trang.
Các tài liệu này mặc dù nghiêng nặng
về mặt quân sự nhưng có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin quan trọng và
chính xác về các nhà lãnh đạo VNCH trong giai đoạn 1963-1967 vì hầu hết các vị
này đều là tướng lãnh.
Thay Lời Kết
Việc nghiên cứu lịch sử VNCH càng
ngày càng được nhiều người Việt ở nước ngoài cũng như ở trong nước quan tâm.
Chuyện này, cũng như nhiều chuyện khác, có hai mặt. Mặt tích cực là giúp cho
những thế hệ trẻ, sanh sau ngày 30-4-1975, có nhiều tài liệu để hiểu rõ hơn về
chế độ cộng hòa ở Miền Nam trước ngày 30-4-1975. Mặt tiêu cực là cũng sẽ có
nhiều tài liệu có thể tạo ra hiểu lầm hoặc hiểu sai về VNCH vì đã không được
các tác giả viết ra với tinh thần vô tư, khách quan cần thiết của một người
viết sử. Việc đánh giá các tài liệu về lịch sử của VNCH, do đó, trở nên rất
quan trọng, không những đối với các tác giả mà luôn cả đối với độc giả.
Bài viết này mong góp được một số ý
kiến cho mọi người trong việc đánh giá các tài liệu, cả tiếng Việt và tiếng
Anh, về lịch sử của VNCH.
Ghi Chú:
1. Lâm Vinh Thế, "Tài liệu mật của CIA về Việt Nam Cộng Hòa,"
trong Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa (Hamilton, Ont.:
Hoài Việt, 2008), tr. 252-274.
2. Lâm Vinh Thế, "Một nội các chết non của V.N.C.H.” trong
Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa (Hamilton, Ont.: Hoài
Việt, 2008), tr. 118-129.
3. “Agreement between Chief of State
Thieu and Prime Minister Ky that Thieu, as President, will be a figurehead and
Ky, as Vice President, will retain principal control after the elections”,
trong cơ sở dữ liệu Declassified Documents Reference System (DDRS). Tài liệu
này là môt Công điện của CIA, thuộc loại Intelligence Information Cable, đề
ngày 3-7-1967, giải mật ngày 6-4-1993, gồm 10 tr.. Tài liệu này đã được Virtual
Vietnam Archive (VVA) đánh số là Item Number 04107108007 và có thể đọc trực
tuyến và toàn văn tại trang Web của VVA tại địa chỉ INTERNET sau đây: http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/ của Đại Học Texas
Tech University, tại Lubbock, Texas, Hoa Kỳ.
4. “Cable from Ambassador Bunker on
... report on alleged "military affairs committee," trong cơ sở dữ
liệu DDRS. Tài liệu này là một Công điện MẬT từ Toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn
gửi về Bộ Ngoại Giao, đề ngày 11-8-1967, giải mật ngày 2-11-1994, gồm 3 tr. Tài
liệu này đã được VVA đánh số là Item Number 0010137106 và có thể đọc trực tuyến
và toàn văn tại trang Web của VVA theo địa chỉ INTERNET đa có ghi ở Ghi chú số
3 bên trên. Xin luu ý một điều là: VVA đa điều chỉnh tựa đề của Công điện này
và gọi nó là Letter from Ambassador
Bunker to President Lyndon B. Johnson. Trong Công điện này, Đại sứ Bunker
tuờng trình cuộc nói chuyện của ông với Tuớng Kỳ. Phần nói về mật uớc giữa các
tuớng lãnh VNCH, ở cuối tr. 1 và đầu tr. 2, ghi nhu sau: "3. Report on alleged
"military affairs committee" ... As interpreted by Ky today in
conversation with Ambassador, group is presumably the military members of the
Directorate who meet regularly to consider matters relating to reorganisation
and improvement to Republic of Vietnam Armed Forces, pacification and related
subjects. Ky stated there is no inner group which will seek to control government
after elections as called and said this story could be flatly denied."
5. “Military control organization”, văn thư của Walt W. Rostow, Cố Vấn
An Ninh Quốc Gia, gửi cho Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson. Văn thư nầy, chí
có 1 trang, đề ngày 14-8-1967, giải mật ngày 28-9-1995, đã được VVA đánh số
Item Number 0010133019 và có thể đọc trực tuyến và toàn văn tại trang Web của
VVA. Văn thư ghi rõ như sau: "... the generals have written a
"charter" for their planned Supreme Military Committee. The purpose
is clear: to maintain military control of government after the election. Our
text of the alleged "charter" (22 pages) came from a usually reliable
source in the Vietnamese military."
6. “Comments on "Supreme Military Committee," trong cơ sở dữ
liệu DDRS. Tài liệu này là một công điện của CIA thuộc loại Intelligence Information
Cable, đề ngày 16-8-1967, giải mật ngày 20-9-1979, gồm 3 tr. Tài liệu ghi rõ
như sau: "...stated on 15 August 1967 that word of the existence of the
"Supreme Military Committee" had probably leaked out from one of the
generals who is a member of it."
7. Lâm Vinh Thế, "Mật uớc giữa các tuớng lãnh cao cấp của Việt
Nam Cộng Hòa," trong Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng
Hòa (Hamilton, Ont. : Hoài Việt, 2008), tr. 228-251.
8. Nguyễn Cao Kỳ. Twenty years and twenty days. New York :
Stein and Day, 1976. Tr. 75.
9. Phạm Văn Liễu. Trả ta sông núi : hồi ký. Tập 2:
1963-1975. Houston, Tex. : Văn Hóa, 2003. Tr. 302-303.
10. Nguyễn Cao Kỳ, sđd, tr. 99.
11. Lâm Vinh Thế. Việt Nam Cộng Hòa, 1963-1967 : những năm xáo trộn. Hamilton, Ont. :
Hoài Việt, 2010. Tr. 144-145. Xin đọc thêm Ghi chú số 30, ở các tr. 247-248.
12. Đoàn Thêm. 1966: Việc từng ngày; tựa của Lãng Nhân. Sài Gòn: Cơ sở xuất bản Phạm
Quang Khai, 1968. Tái bản: Los Alamitos, Calif.: Nhà xuất bản Xuân Thu, 1989. Tr.
42, tác giả ghi như sau: “11-3-66. Hội-đồng các Tướng-lãnh và UBLĐQG nhóm họp 5
tiếng đồng-hồ tại Bộ Tổng-tham-mưu và quyết định cho Trung-tướng Nguyễn Chánh
Thi, Tư-lịnh Vùng I Chiến-thuật kiêm Đại-biều Chính-phủ tại vùng này, được nghĩ
phép để đi chữa bệnh mũi.”
13. Phạm Bá Hoa. Đôi dòng ghi nhớ; hồi ký chính trị, 1963-1975. Ấn bản lần 4. Houston,
Tex.: Ngày Nay, 2007. Tr. 192-193 có ghi như sau: “Ngày 08 tháng 03 năm 1966,
buổi họp thu hẹp của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia gồm Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu,
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Cao Văn Viên,
và Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi. Buổi họp có mục đích giải quyết trực tiếp vụ
Trung Tướng Thi đã nhiều lần tỏ ra chống lại lệnh của trung ương...Từ lúc bắt
đầu họp cho đến lúc chấm dứt khi trời tối hẳn, không một vị nào bước ra ngoài,
ngoại trừ trường hợp Trung Tướng Viên bảo tôi lo ăn trưa. Với nét mặt đăm chiêu
qua những nếp nhăn trên vầng trán của các vị, tôi đoán là cả ngày họp chẳng đạt
được kết quả nào. Riêng Trung Tướng Thi có vẻ như tức giận thì phải.”
14. Phạm Bá Hoa, sđd, tr. 198 có ghi
như sau: “Cuối cùng cũng không đạt kết quả, nên Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu
hẹp quyết định “quản thúc” Trung Tướng Thi, lúc đầu dự trù tại câu lạc bộ Bộ
Tổng Tham Mưu, nhưng sau đó đưa về quản thúc tại nhà ông với sự canh giữ của An
Ninh Quân Đội và Quân Cảnh.” Sau đó, ở trang 199, có ghi như sau: “Trước khi ra
về, Trung Tướng Viên tạt vào phòng tôi: “Chú mời “Đại Hội Đồng Quân Lực” họp
lúc 10 giờ sáng mai (10/3/1966). Không mời Tư Lệnh Sư Đoàn 1 (Thiếu Tướng
Nguyễn Văn Chuân, tại Huế) và Sư Đoàn 2 (Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lãm, tại Quảng
gãi). Lý do sẽ cho biết khi họp.”
15. Gibbons, William Conrad. The U.S. Government and the Vietnam War:
executive and legislative roles and relationships. Part IV: July 1965 –
January 1968. Princeton, N.J.:
Princeton University Press, 1995. Tại các tr. 268-269, có ghi như sau: “On March 9, Ambassador Lodge received
a telephone call from Ky’s office asking him
to come immediately to a meeting with the Premier... Ky asked Lodge for advice about removing Thi, saying that
at a meeting earlier that day other members
of the junta had favoured removal. He added that he could not continue as
Premier unless this was done. Lodge
replied that, as U.S. Ambassador, he could not comment, but speaking
unofficially and as a friend he thought Ky should plan his moves carefully and
should document his case against Thi before acting.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “Vào ngày 9 tháng 3, Đại sứ Lodge nhận được điện thoại từ Văn phòng
của Kỳ yêu cầu ông đến gặp ngay Thủ Tướng...Kỳ yêu cầu Lodge cố vấn về việc
cách chức Thi, cho biết là trước đó cùng ngày các thành viên của nhóm tướng
lãnh đã đồng ý việc cách chức. Ông nói thêm là ông không thể tiếp tục làm Thủ
Tướng nếu không làm chuyện này. Lodge trả lời rằng, với tư cách Đại sứ Hoa Kỳ,
ông không thể bình luận về chuyện này, nhưng một cách không chính thức và với
tư cách là một người bạn, ông nghĩ là Kỳ nên chuẩn bị việc này một cách cẩn
thận và nên có tài liệu đầy đủ chông lại Thi trước khi hành động.”
Việc Đại sứ Lodge được mời đến gặp
Tướng Kỳ để bàn về việc cách chức Tướng Thi đề cập đến trong sách này được xác
nhận trong một công điện do Đại sứ Lodge gửi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày
9-3-1966 (giải mât ngày 21-7-1997, gồm 2 trang), trong đó có ghi rõ như sau:
“He had had a meeting with all the generals this morning, less Thi, Vinh Loc
and Quang, and had told them that he intended to share this burden with them,
and asked them to take appropriate steps for removal of General Thi. If not,
he, Ky, would go back to commanding the air force and someone else could be
prime minister. He could not go on this way. The generals this morning had
wanted to know what I thought. A meeting of all ten generals with Thi present
is scheduled for tomorrow, Thursday, morning. He asked my advice.” Xin tạm dịch
sang tiếng Việt như sau: “Ông ta (tức là Tướng Kỳ) đã có một buổi họp với tất
cả các tướng lãnh sáng nay, trừ Thi (tức Tướng Nguyễn Chánh Thi), Vĩnh Lộc (tức
Tướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh Vùng 2) và Quang (tức Tướng Đặng Văn Quang, Tư Lênh
Vùng 4), và đã bảo họ là ông muốn chia xẻ với họ cái gánh nặng này, và yêu cẩu
họ thực hiện các bước thích hợp cho việc cách chức Tướng Thi. Nếu không, ông ta,
Kỳ, sẽ trở về chỉ huy Không Quân, và một người nào khác có thể làm Thủ Tướng.
Ông ta không thể tiếp tục như thế này. Các tướng lãnh sáng nay muốn nghe ý kiến
của tôi (tức Đại sứ Lodge). Một buổi họp của tất cả các tướng lãnh với sự hiện
diện của Tướng Thi đã được sắp xếp cho sáng mai, Thứ Năm. Ông ta hỏi ý kiến của
tôi.”
16. Phạm Bá Hoa, sđd, các tr. 201-202
có ghi như sau: “Sau nhiều tiếng đồng hồ thảo luận gay gắt, đến phần bò phiếu
kín: “Thuận hay không thuận cách chức Trung Tướng Thi?” Khi kiểm phiếu có 1
phiếu trắng, còn lại đều thuận. Trung Tướng Có, đẩy ghế ra sau, đứng dậy, và
lên tiếng: “Trong phòng họp này, chúng ta là những người có trách nhiệm trong
Đại Hội Đồng với tư cách thay mặt toàn quân, bỏ phiếu thuận hoặc không, còn
phiếu trắng trong trường hợp này là “lưng chừng,” không dứt khoát lập trường.
Vậy, ai là người bỏ phiếu trắng nên giải thích cho anh em rõ.” Vừa dứt câu, có
tiếng đẩy ghế thật mạnh, tất cả cặp mắt của những vị có mặt gần như đồng loạt
quay nhìn, và một người dỏng dạc đứng lên. Đó là Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, Tư
Lệnh Nhảy Dù. “Kính thưa Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, kính
thưa quí vị. Tôi là người bỏ phiếu trắng. Trung Tướng Thi đã một thời là cấp
chỉ huy của tôi trong binh chủng Nhảy Dù, nên tôi không thể hành động chống
Trung Tướng Thi cho dù Trung Tướng Thi có sai trái với quân đội. Tôi vẫn biết
rằng, hành động của tôi không làm thay đổi được quyết
định chung cuộc, nhưng tôi vẫn làm
vì lẽ đó. Và nếu sau này, có điều gì xảy ra với Trung Tướng Viên, tôi vẫn hành
động như tôi vừa làm. Và bây giờ, quí vị toàn quyền quyết định về tôi: “Ở lại
hay ra khỏi Nhảy Dù, tôi thi hành ngay.” Xin cám ơn.”
17. Lâm Vĩnh Thế, “Tìm hiểu thêm về việc Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 8-3-1965,” đăng trong Trang Web Nam Kỳ Lục
Tỉnh tại địa chỉ Internet sau đây:
18. “Ambassador Lodge reports on his
meeting with South Vietnam’s Prime Minister Ky, who informed Lodge that he met
with all of his generals, less Thi, Vinh Loc and Quang, and asked them to take
appropriate steps for the removal of General Thi,” trong cơ sở dữ liệu DDRS.
Tài liệu này là một công điện mang số 007554 của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn
gửi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ngày 9-3-1966, được giải mật ngày 21-7-1997, 2 tr.
Lâm Vĩnh Thế
Hamilton, Ontario, Canada
05-04-2016