CÕI TA-BÀ: SỐNG,
CHẾT VÀ TÁI SINH
Đức ĐẠT-LAI LẠT-MA
Frédérique Hatier biên soạn
Hoang Phong chuyển ngữ
Chương VI
Cõi Ta-bà : Sống, Chết và Tái sinh
Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sách gồm những lời
phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma được chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn,
các buổi thuyết giảng và các sách của Ngài. Sách gồm 6 chương, dày 192 trang và
sau đây là chương VI của quyển sách mang tựa đề "Cõi Ta-bà: Sống, chết và tái sinh".
Cõi ta-bà
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết)
chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của
khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu.
Bám víu vào sự sống là một sự hão huyền
Thật hoài công khi muốn bám víu vào sự hiện hữu này, dù sống đến
trăm tuổi ta cũng phải chết một ngày nào đó. Hơn nữa giây phút ra đi không thể
biết trước được, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Dù là người giàu có, dù được
những người chung quanh chăm sóc, sự sống này sớm muộn cũng chấm dứt, không cứu
vãn được. Của cải chẳng giúp được gì, cái chết của một người tỉ phú không khác
cái chết của một con thú hoang.
Vô thường
Trong chu kỳ hiện hữu, trên dòng nối tiếp bất tận của vô số kiếp
tái sinh và trong khoảng thời gian của mỗi kiếp, bất thần tất cả vụt biến đổi.
Tuy không có gì báo trước, thế nhưng hình như tất cả bỗng nhiên được tháo gỡ,
địa vị xã hội sụp đổ, đoàn tụ trở thành chia ly, sự sống trở thành cái chết.
Hạnh phúc trôi nhanh. Tất cả những gì thuộc sở hữu của ta trở nên vô
thường. Tất cả những gì trước đây ta xem là thật cũng chỉ là vô
thường.
Sân khấu của vô thường
Tái sinh không phải là một cách tránh né cái chết. Trái lại, mỗi
chúng ta trong từng ngày nhích lại gần hơn với cái chết, tương tợ như những con
vật bị đưa đến lò sát sinh. Trong vũ trụ này, bất cứ gì đều bị chi phối bởi quy
luật vô thường và sẽ tan rã. Ngài Đạt-lai Lạt-ma thứ VII có nói như sau :
"Những người còn trẻ, cường tráng và khoẻ mạnh nhưng chết sớm chính là
những vị thầy thuyết giảng cho chúng ta về vô thường. Vô thường tương tợ như
một sân khấu, sau một màn trình diễn các diễn viên trở vào hậu trường thay y
phục và sau đó lại trở ra ".
Nguồn gốc của sự sống hiện tại và tương lai
Kinh sách Phật giáo giảng rằng tâm thức (esprit - spirit) không
có khởi thủy, do dó sự tái sinh cũng không có khởi thủy. Phân tích cẩn thận và
nghiêm túc sẽ thấy rằng tri thức (conscience - consciousness) không hề là
nguyên nhân thực thể của vật chất, ngược lại vật chất cũng không phải là nguyên
nhân thực thể của tri thức. Giả thuyết duy nhất có thể chấp nhận được là nguyên
nhân của tri thức là một tri thức khác đã có từ truớc. Đấy là một cách chứng
minh và giải thích nguồn gốc của sự sống trong quá khứ và tương lai [sự tiếp nối của sự sống].
Tái sinh làm người là một sự quý hiếm
Hãy tưởng tượng một cái ách [dùng cho bò kéo cày]
bằng gỗ nạm vàng trôi dạt trong một đại dương mênh mông. Có một con rùa già mù
lòa sống trong đáy đại dương, cứ cách một trăm năm lại nổi lên mặt nước để thở
một lần. Vậy thì cơ may khiến con rùa chui đầu vào cái ách bằng vàng ấy là bao
nhiêu? Đức Phật giảng rằng được tái sinh dưới thể dạng con người cũng hiếm hoi
như thế. [cái ách nạm vàng thật quý
giá tượng trưng cho sự tái sinh làm người, thế nhưng đồng thời nó cũng tượng
trưng cho sự trói buộc và nhọc nhằn].
Tái sinh và đầu thai
Chư Phật bảo rằng tái sinh là một sự thật. Chính thế, đây là một
sự thật hiển nhiên. Chúng ta tin rằng có một thứ tri thức (consciuosness) thật
tinh tế làm nguồn gốc phát sinh ra đủ mọi thứ mà chúng ta gọi là sự sáng tạo.
Tri thức tinh tế ấy hiện hữu trong mỗi cá thể từ lúc khởi thủy tiếp tục cho đến
khi đạt được Phật tính. Đấy là gì mà người ta gọi là sự "hiện hữu"
(être - being). Nó có thể mang nhiều hình tướng khác nhau, chẳng hạn như một
con thú, một con người hoặc cũng có thể là một vị Phật. Đấy là nguyên tắc căn
bản của giả thuyết tái sinh.
Theo dòng thời gian từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, tâm thức
tinh tế chuyển đổi từ hình tướng này sang hình tướng khác và tìm cách đạt được
Phật tính. Nếu tái sinh là một sự bắt buộc đầu thai là một sự chọn lựa. Quyền
được chọn lựa dành riêng cho một số cá thể xứng đáng, chủ động được sự tái sinh
của mình trong tương lai, đấy là trường hợp của chư Phật và một số người khác
nữa.
Khi tâm thức đạt được một cấp bậc phẩm tính nào đó mà chúng ta
gọi là tri thức tinh tế, tâm thức không còn chết nữa, ít nhất là theo ý nghĩa
thông thường của chữ này. Tâm thức đó hàm chứa khả năng giúp nó có thể chọn lựa
một thân xác khác để đầu thai. Đấy là trường hợp đặc biệt của các vị bồ-tát (boddhisattva).
Dù đang đứng ở ngưỡng cửa của niết-bàn (nirvana), người
bồ-tát cũng không bước vào, vì họ nhất quyết lưu lại trong cõi ta-bà tức là chu
kỳ hiện hữu để giúp đỡ chúng ta.
Dưới cái nhìn của chúng tôi [những người Phật giáo], tái sinh và đầu thai là một điều hiển nhiên, một hiện tượng
vật lý, có thật như những hạt nguyên tử.
Sự chối bỏ
Tất cả mọi cảm nhận - thích thú hay hạnh phúc trong chu kỳ hiện
hữu - dù mãnh liệt hay tuyệt vời đến đâu đều chấm dứt một cách thảm thương. Hãy
nghĩ đến bản chất hư ảo của chúng để hiểu rằng nên chấm dứt ngay cái vòng lẩn
quẩn đó, dù cố gắng tiếp tục thêm cũng chẳng lợi ích gì. Vì thế hãy phát động
trong lòng sự ghê tởm sâu xa về chuỗi dài thử thách đó [tức chu kỳ hiện hữu] và
quyết tâm từ bỏ nó. Vậy chúng ta thử tìm hiểu thật chính xác xem đâu là nguyên
nhân mang lại các nỗi khốn khổ và đớn đau ấy.
Sự tin tưởng do bản năng về một cái tôi độc lập
Khổ đau không phải vô cớ xảy ra, thế nhưng nó cũng không phải là
tác phẩm của một vị Trời toàn năng nào cả. Đấy là sản phẩm phát sinh từ những
lầm lẫn và những hành động thúc đẩy bởi các thể dạng tâm thức không chủ động
được của chính mình. Nguyên nhân trước hết của khổ đau là vô minh, đấy là sự
hiểu biết sai lạc về bản chất của mọi hiện tượng, tự xem mình hiện hữu một cách
tự tại. Vô minh phóng đại cương vị của các hiện tượng và tạo ra các ranh giới
phân biệt ta với người khác. Tự xem mình quý giá nhất trong vũ trụ khiến ta đối
xử với người khác như chính ta là một vị Phật. Trên thực tế thái độ đó chưa bao
giờ mang lại hạnh phúc lâu bền.
Tính cách lừa phỉnh của các thể dạng bên ngoài
Khi nào ý thức được các hiện tượng chỉ là sự lừa phỉnh khi đó ta
mới đủ khả năng để hiểu là chúng không hàm chứa một sự hiện hữu tự tại nào. Sự
phủ nhận đó không có nghĩa là loại bỏ một thứ gì đã từng hiện hữu trước đây,
đấy chỉ là cách đơn giản thừa nhận những gì chưa bao giờ hiện hữu sẽ đương
nhiên không hiện hữu. Vì lầm lẫn chúng ta xem các thể dạng bên ngoài là thật.
Thế nhưng các thể dạng bên ngoài không tương quan với bất cứ một thực thể nào.
Ảo giác khiến ta tưởng lầm sợi giây thừng là con rắn
Hãy lấy thí dụ một cuộn giây thừng vào lúc nhá nhem tối, ta
tưởng lầm đấy là một con rắn. Sự nhận biết sai lầm cho rằng sợi giây thừng là
con rắn gây ra trong tâm thức một số phản ứng chẳng hạn như sự sợ hãi, sợ hãi
làm phát sinh ra hành động thí dụ như tông cửa phóng chạy hoặc tìm cách giết
con rắn. Tất cả các hành động ấy xảy ra chỉ vì một sự lầm lẫn nhỏ nhặt. Cũng
thế chúng ta tưởng lầm thân xác và tâm thức của mình hàm chứa một cái tôi nào
đó, từ đấy sinh ra mọi thứ sai lầm khác chẳng hạn như dục vọng, giận dữ. Từ
thái độ ích kỷ tức bám víu vào một cái tôi ta phân biệt mình với người khác.
Tất cả đều thuộc vào một tổng thể
Nếu một vật thể nào đó không thể phân tách ra nhỏ hơn nhất định
vật thể ấy mang tính cách độc lập, thế nhưng chẳng có bất cứ gì không thể phân
chia được. Bất cứ gì lệ thuộc vào các thành phần tạo ra nó đều được chỉ định
dựa vào thể dạng tương kết giữa các thành phần ấy, và sự xác định ấy chỉ hiện
hữu xuyên qua ý niệm của ta. Nếu như tất cả các thành phần hiện hữu một cách cụ
thể [đúng như chúng đã hiển
hiện ra], hiện thực phải được
xác nhận một cách minh bạch bằng các phương pháp phân giải. Thí dụ, theo quy
ước người ta chấp nhận sự hiện hữu của "cái tôi" biết biểu lộ vui
thích và cảm nhận được đớn đau, thế nhưng khi sử dụng phép phân giải để khảo
sát và tìm kiếm "cái tôi" ấy thì không thấy nó đâu cả. Dù có xoay
chiều đổi hướng phép phân giải ta cũng không thể tìm thấy "cái tôi" ở
bất cứ nơi nào. Không có một tổng thể nào khác hơn các thành phần tạo ra nó, [câu này có nghĩa là không tìm thấy một thành phần
nào tượng trưng cho "cái tôi" trong một tổng thể, trong số tất cả các
thành phần tạo ra một cá thể (tổng thể) con ngưởi gồm thân xác và tâm thức
không tìm được một thành phần nào gọi là "cái tôi"].
Sự tiếp nối liên tục của tri thức
Dù thân xác chỉ là tổng hợp của nhiêu thành phần hóa học và vật
lý, thế nhưng vẫn có một tác nhân tinh tế rạng ngời và tinh khiết tạo ra sự
sống của các sinh linh. Tác nhân ấy không mang tính cách vật chất nên không cân
đo được, thế nhưng không phải vì thế mà nó không hiện hữu. Theo quan điểm Phật
giáo, tri thức (consciousness) được hiểu là phi-vật-chất. Nhất định phải có một
nguyên nhân sinh ra tri thức, nguyên nhân ấy thuộc bản thể tinh anh tạo ra sự
sống, do đó tri thức cũng có cùng một bản thể với sự sống. Nếu không có một
khoảnh khắc tri thức xảy ra trước đó sẽ không có một tri thức nào xảy ra tiếp
theo sau, dù bất cứ dưới hình thức nào, [khi nào có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước, sau đó mới có một
khoảnh khắc tri thức khác tiếp nối theo sau]. Tri thức không phát sinh từ hư vô, nó cũng không tan biến để
trở thành hư vô. Vật chất cũng không thể trở thành tri thức. Khi nào hiểu được
không có một sự dừng lại [chấm
dứt] nào của sự tiếp nối
tri thức trong một kiếp sống, khi đó ta mới nhận thấy tính cách hợp lý (lôgic)
của luận cứ cho rằng sau cái chết còn có một sự sống khác. [tri thức tiếp nối liên tục hết kiếp nay sang kiếp
khác không ngưng nghỉ, khái niệm đó cho thấy các kiếp sống (chết - tái sinh)
thay nhau hiển hiện trên dòng tiếp nối đó, vì thế sự tiếp nối liên tục của tri
thức không thể đứt đoạn (ngưng nghỉ) trong một kiếp sống]
Tâm thức là gì
Khảo sát cẩn thận sẽ thấy tâm thức (esprit - spirit) là một thứ
gì đó tương tợ như một không gian trong suốt, hoàn toàn trống không, trong đó
tất cả mọi sự hiển hiện (appartions -appearances) đều đình chỉ [có nghĩa là tất cả mọi tư duy và xúc cảm đều là
những sự hiển hiện, do đó chúng không phải là các thành phần tự tại của tâm
thức, người ta thường lầm tưởng những sự hiển hiện ấy là "cái tôi"].
Tư duy là gì
Đối với cá nhân tôi, tôi tin chắc tất cả mọi hiện tượng trước
hết đều phát sinh từ tư duy (pensée - thought) [chủ trương của học phái Duy thức]. Tư duy tạo ra nhiều tác động hơn hẳn so với vật chất. Theo
triết học Phật giáo, tư duy dù kỷ cương hay không đều làm phát sinh ra nghiệp (karma),
nghiệp nhất thiết ảnh hưởng đến các yếu tố bên trong, các yếu tố này sau đó mới
tác động vào các yếu tố bên ngoài.
Nghiệp là gì
Nghiệp (karma)
có nghĩa là một "hành động". Nghiệp tác động bằng ba cách :
thân xác, ngôn từ và tâm ý [khái
niệm về ba cửa ngõ trong giáo lý Phật giáo : thân, khẩu, ý]. Nghiệp tạo ra ba thứ hậu quả : đạo hạnh,
không đạo hạnh và trung hòa. Quá trình vận hành của nó gồm hai giai đoạn : thí
dụ ta suy tính trong đầu sẽ làm một việc gì đó, đấy là một hành động duy ý ;
sau đó sự suy tính chuyển thành hành động trên thân xác hoặc ngôn từ, đấy là
hành động thực thi đã được suy tính trước [cố tình]. Những hành động
tiêu cực nhất định mang lại khổ đau, các hành động tích cực đương nhiên mang
lại tốt đẹp. Các hành động tạo nghiệp theo đuổi chúng ta từ kiếp này sang kiếp
khác. Tích lũy được các hành động tích cực sẽ mang lại lợi ích trong tương lai
và các kiếp sống về sau, ngược lại nếu liên tiếp phạm vào những hành động tai
hại nhất định ta sẽ phải nhận lãnh các hậu quả phát sinh từ những hành động đó.
Quy luật nguyên nhân và hậu quả
Nếu muốn biết ta đã làm những gì trước đây chỉ cần nhìn vào thân
xác ta hôm nay sẽ rõ [thân xác đó xinh đẹp,
khoẻ mạnh, thông minh..., hay xấu xí, bệnh tật, đần độn...?] Nếu muốn biết sau này ta sẽ ra sao, hãy quan
sát xem tâm thức ta đang vận hành như thế nào.
Thích thú và đớn đau
Thích thú và đớn đau là hậu quả. Bản chất khác biệt và đa dạng
của chúng cho thấy chúng lệ thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế muốn
tìm thấy sự thích thú, ta phải tạo ra các nguyên nhân làm phát sinh ra nó, muốn
lẫn tránh khổ đau ta cũng phải tìm cách loại bỏ nguyên nhân làm phát sinh ra
khổ đau. Khi một nguyên nhân mang lại khổ đau được ghi khắc trên dòng tiếp nối
liên tục của tri thức, dù muốn tránh xa khổ đau cách mấy ta cũng sẽ phải đối
đầu với nó.
Lầm lỗi kéo theo sự trừng phạt
Hậu quả của các hành động tai hại tùy thuộc vào cường độ của ảo
tưởng (illusion) làm phát sinh ra chúng. Hậu quả tương xứng với nguyên nhân của
nó. Thí dụ, tái sinh trong một cõi thấp hơn vì vi phạm vào hành động sát nhân
chẳng hạn, kể cả trường hợp vẫn còn giữ được thể dạng con người đi nữa thì sự
hiện hữu đó sẽ rất ngắn. Phạm vào hành động trộm cắp sẽ tái sinh trong cảnh
thiếu thốn, phạm vào hành vi dục tính thiếu đạo hạnh sẽ gặp người phối ngẫu
ngoại tình ; lầm lỗi kéo theo sự trừng phạt, bất hòa đưa đến chia rẽ giữa bạn
bè, cứ như thế mà tiếp tục. Quán nhận sai lầm sẽ tạo ra tình trạng hoang mang
bất định hướng.
Hanh phúc hay khốn cùng trong hiện tại là hậu quả của những hành
động mà ta thực thi trong quá khứ, không hơn không kém.
Quy luật chi phối sự tái sinh
Vô số kiếp tái sinh đang chờ đợi ta, các kiếp ấy có thể tốt hay
xấu. Không thể tránh được hậu quả của nghiệp. Không thể đảo ngược các hành
động. Ta sẽ gặt hái hậu quả một ngày nào đó. Khi một hành động được thực thi,
nguyên nhân sẽ sinh ra, nó hiện hữu và tăng trưởng cho đến khi nào tạo ra hậu
quả. Hành động dù được thực thi từ nhiều kiếp trước, tác động của nó vẫn luôn
tiềm tàng, dù trải qua những khoảng thời gian thật lâu dài.
Chìa khoá mang lại sự may mắn và kém may mắn
Các thành phần cá nhân rất khác biệt nhau trong tập thể con
người. Nhiều người luôn gặt hái được thành công, một số khác chỉ gặp toàn thất
bại. Một số người dù không mong muốn nhưng cứ gặp đủ mọi thứ bất hạnh, trái lại
một số khác tưởng chừng khó tránh khỏi những chuyện tệ hại, thế nhưng chẳng có
gì xảy ra. Nêu lên các sự kiện trên đây để thấy rằng không bắt buộc mọi chuyện
phải xảy ra theo như ý mình muốn. Đôi khi ta cố gắng tìm đủ mọi cách để mang
lại thành công thế nhưng chỉ thấy toàn thất bại. Người ta nghĩ rằng có người
may mắn có người không, thế nhưng may mắn phải có một lý do tức phải có một
nguyên nhân nào đó tạo ra nó. Theo Phật giáo đấy là hậu quả mang lại từ các
việc đã làm trong kiếp trước hay trong kiếp sống hiện tại. Kể cả trường hợp
phải đối đầu với nghịch cảnh, thế nhưng nếu tiềm năng [của nghiệp tích cực mang lại sự "may mắn"] đã chín, sức cố gắng sẽ mang lại thành
công.
Trách nhiệm
Hậu quả phát sinh từ nghiệp thật sự chỉ có ý nghĩa tốt đẹp khi
nào chúng mang lại lợi ích góp phần vào sự cải thiện đời sống xã hội và giúp
chống lại các kẻ thù nguy hiểm nhất tức vô minh, bám víu và hận thù. Dù tin hay
không tin, trên thực tế quy luật nhân quả luôn tác động vào cuộc sống thường
nhật của ta. Khi tất cả mọi người đều ý thức được tính cách chặt chẽ của quy
luật nhân quả, có lẽ khi đó cũng không cần đến cảnh sát vì tâm thức sẽ đóng vai
trò đó. Vì thế, phương pháp hiệu quả nhất ngăn ngừa sát nhân là tự mình phải
cảnh giác lấy mình. Khi nào ý thức được tương lai hoàn toàn nằm trong tay mình,
khi đó ta sẽ không phạm vào tội sát nhân [có thể áp dụng cho những người gây ra chiến tranh và điều khiển các
cuộc tàn sát]. Biến cải nội tâm sẽ
giúp tránh được các hành động phạm pháp mang lại sự an bình trong xã hội, thế
nhưng muốn biến cải nội tâm phải hiểu được bản chất của chính mình là gì.
Tất cả đều bắt nguồn từ tâm thức
Các sự kiện, các biến cố nhất thiết tùy thuộc vào động cơ thúc
đẩy làm phát sinh ra chúng. Hãy lấy bối cảnh gia đình để làm thí dụ : nếu mọi
người đều cư xử tốt đẹp với nhau không khí gia đình sẽ êm ấm, nếu một người bực
dọc tức thời căng thẳng sẽ phát sinh. Dù bữa cơm có thịnh soạn, chương trình
truyền hình buổi tối thật lý thú cũng không đủ sức mang lại sự an bình trong
gia đình. Bối cảnh tùy thuộc vào thể dạng tâm thức bên trong nhiều hơn các điều
kiện môi trường bên ngoài.
Cộng nghiệp
Nhiều chúng sinh lệ thuộc vào các bối cảnh thời gian và không
gian khác nhau, thế nhưng họ có thể tích lũy một thứ nghiệp tương tợ nhau. Họ
tái sinh chung trong một thời đại và trong cùng một nơi chốn. Khổ đau mà họ
gánh chịu là kết quả mang lại từ cộng nghiệp của họ [thí dụ nhiều cá thể cùng tái sinh trong một xứ sở
nào đó, họ chịu chung những đại nạn xảy ra cho xứ sở ấy, đấy gọi là cộng
nghiêp. Ở một mức độ nhỏ hơn chẳng hạn như tai nạn máy bay, hành khách thật đa
dạng thế nhưng tất cả gánh chịu một hậu quả giống nhau]
Tác động do mỗi người tạo ra đối với môi trường chung
Nói một cách tổng quát người ta có thể bảo rằng sự tiến hóa của
vũ trụ nhất thiết liên hệ với nghiệp của chúng sinh. Sự kiện
này thật vô cùng phức tạp, thế nhưng ta thử lấy thí dụ về sự thay đổi khí hậu
chẳng hạn. Hãy tưởng tượng ra một tập thể con người bị chi phối bởi hận thù và
giận dữ, tôi nghĩ rằng thể dạng xúc cảm tiêu cực đó tác động vào môi trường
chung quanh tạo ra nóng bức và khô cằn [Trung đông ?].
Nếu sự bám víu và ham muốn của tập thể quá mạnh và lan rộng sẽ tạo ra ẩm thấp
hoặc ngập lụt [Trung quốc, Nam Mỹ, Á
châu...?]. Tôi chỉ muốn
nêu lên các suy diễn trên đây thế thôi và không khẳng định gì cả. Dù là một cá
thể hay một tập thể, sự sinh hoạt, thái độ và tâm thức của từng người, ngày này
sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác đều góp phần
tác động vào môi trường chung.
Ai tạo ra vũ trụ
Hiện tượng tiến hóa nhất định phải có một nguyên nhân, thế nhưng
sự giải thích nguyên nhân đó lại có hai cách khác nhau. Hoặc ta chấp nhận vũ
trụ do Trời sáng tạo, điều đó mang lại nhiều mâu thuẫn vì nhất thiết khổ đau và
những gì xấu xa cũng phải do Trời sáng tạo. Hoặc có thể giải thích là tiềm năng
cộng nghiệp của vô tận chúng sinh có giác cảm làm phát sinh ra vũ trụ, tượng
trưng cho một môi trường chung thích nghi với sự hiện hữu của các sinh linh ấy.
Vũ trụ mà chúng ta đang sống được tạo dựng từ các hành động và tham vọng của
chính chúng ta. Và cũng chính vì thế mà chúng ta đang hiện diện tại nơi này. Ít
ra điều đó cũng tỏ ra hợp lý (lôgic). [một cách giải thích vô cùng cao siêu, cần mở thật rộng tâm thức
vượt lên trên định kiến và các khái niệm quy ước mới nắm vững được chiều sâu của
cách lý luận trên đây, nên liên tưởng đến học thuyết Duy thức].
Bản chất không tì vết của tâm thức
Nếu các thứ nọc độc của tâm thức - như bám víu, hận thù và vô
minh - là những thành phần tự tại của tâm thức, sẽ không có cách nào loại bỏ
chúng khỏi tâm thức, và nếu đúng như thế hận thù chẳng hạn sẽ thường xuyên ngự
trị trong ta, nó chỉ chấm dứt khi nào tri thức chấm dứt ; đối với các trường
hợp bám víu và dục vọng cũng thế. Thật ra thì không đúng, ta có thể loại trừ
tận gốc bám víu, hận thù và vô minh bởi vì chúng không thuộc vào thành phần tự
tại của tri thức, điều đó cho thấy bản thể của tâm thức không hề bị các khiếm
khuyết [bám víu, hận thù và vô
minh] làm cho sứt mẻ.
Bản chất rạng người của tâm thức
Tâm thức mang bản chất hoàn toàn rạng ngời và "sáng
suốt", vì thế sự giải thoát có thể thực hiện được. Tìm thấy bản thể đích
thật của tâm thức có nghĩa là đạt được sự giải thoát.
Tánh không
Con người sinh ra và chết đi. Khổ đau, hạnh phúc đến với họ rồi
cũng ra đi. Các biến đổi ấy hiện ra và biến mất. Nếu khổ đau và phúc hạnh đúng
là những sự kiện độc lập chúng sẽ bất biến, tức không đổi thay. Nếu phúc hạnh,
khổ đau và ba thứ nọc độc là bám víu, hận thù và vô minh không lệ thuộc vào
những nguyên nhân bên ngoài, chúng sẽ giữ nguyên như thế không hề biến đổi. Thế
nhưng [không đúng như thế] tất cả các hiện tượng ấy chỉ có thể quan
niệm được bằng thể dạng tánh không và vô ngã của chúng. Do đó tất cả mọi hiện
tượng đều được tạo dựng bởi thực thể trống không, [nói cách khác] sự tạo dựng đó chỉ là các biểu tượng hay cách hiển hiện của
thực thể trống không.
Tánh không và con số 0
Tánh không tương quan với sự trống không, sự vắng bóng hoàn toàn
của bất cứ một sự hiện hữu nội tại nào. Tôi thường giải thích tánh không tương
tợ như con số không (0). Con số 0 có nghĩa là không có gì cả, thế nhưng nếu
không có nó ta không thể tính toán gì được. Vì thế con số 0 là một thứ gì đó,
đồng thời cũng không có gì cả. Sự trống không cũng tương tợ như thế. Trống
không là trống không, thế nhưng đồng thời nó cũng là nền móng của tất cả.
Không gian và vụ nổ lớn Big Bang
Rất nhiều triết gia Đông phương, đặc biệt là các triết gia Phật
giáo, nêu lên bốn yếu tố : đất, nước, lửa và khí, kèm theo với chúng là không
gian. Bốn yếu tố đầu tiên sở dĩ tồn tại là nhờ vào yếu tố thứ năm tức không gian
làm cơ sở chuyển tải cho chúng.
Theo một số kinh sách Phật giáo chẳng hạn như kinh Kalachakra
Tantra [kinh Thời luân], không gian hay không trung (ether) không
phải là một sự trống không hoàn toàn hay một sự trống rỗng không có bất cứ gì
trong đó. Không gian được cấu hợp bởi những "hạt vi tế trống không".
Các hạt vi tế trống không làm phát sinh ra bốn yếu tố dưới các thể dạng vật
chất tiên khởi thật tinh tế và sau đó mới trở nên thổ thiển hơn (tức là khí,
lửa, nước và đất), người ta gọi đấy là quá trình của sự hình thành. Sau đó
chúng tan biến dần, bắt đầu từ thể dạng vật chất thô thiển nhất (đất, nước, lửa
và khí) chuyển sang các thể dạng vật chất thật tinh tế để hội nhập trở lại với
các hạt vi tế trống không, đấy là quá trình của sự tan biến. Không gian hay
tánh không toàn cầu làm cơ sở vận hành cho cả hai quá trình.
Vụ nổ lớn Big Bang tượng trưng cho sự hình thành của vũ trụ cho
thấy có những điểm tương đồng với tánh không toàn cầu [trong Phật giáo]. Các hạt vi thể tinh tế nhất do các ngành khoa học vật lý tân
tiến khám phá cho thấy khá tương đồng với những gì mà chúng ta [những người Phật giáo] gọi là các "hạt vi tế trống
không". Vì thế tôi thấy hết sức quan trọng phải nghiên cứu về các sự tương
đồng trên đây.
Nguồn gốc của vũ trụ
Phật giáo cho rằng thế kỷ chúng ta đang sống là hậu quả để lại
từ các thế kỷ trước, có thể tiếp tục sự suy luận trên đây ngược về khởi thủy
của thời gian, tức cách nay khoảng hai mươi hay hai mươi lăm tỉ năm. Thế nhưng
tại sao và bằng cách nào vụ nổ Big Bang đã xảy ra ? Điều đó không ai trả lời
được. Đối với tôi có hai cách giải thích tuy cả hai không thể chấp nhận được.
Cách thứ nhất cho rằng không có nguyên nhân nào cả, mọi sự vật tự nó xảy ra như
thế. Theo tôi thì cách giải thích này không hiểu nổi. Đối với Phật giáo bất cứ
một hiện tượng nào cũng phải có một nguyên nhân làm phát sinh ra nó. Cách giải
thích thứ hai mang tính cách thần thánh : vào một ngày đẹp trời nào đó Trời
quyết định sáng tạo ra thế giới. Chúng ta cũng không thể chấp nhận sự giải
thích này. Theo kinh sách Phật giáo những hạt vi thể tinh tế hiện hữu từ trước
trong không gian, trước khi vũ trụ được hình thành, và hiện thời chúng vẫn đang
hiện hữu. Các hạt vi thể tinh tế mang đặc tính tinh thần cấu tạo ra các sinh
linh và làm phát sinh ra Big Bang. Tại sao ? Bằng cách nào ? Bất cứ một vũ trụ
nào sau khi được phát sinh sẽ biến mất sau đó. Vô số chu kỳ [sinh diệt] tiếp nối nhau bất tận. Thế nhưng vũ trụ trong tổng thể của nó
tức là "vũ-trụ-tâm-thức" vẫn luôn hiện hữu. Người ta cũng có thể cho
rằng "tâm-thức-tinh-tế" trên đây ["vũ-trụ-tâm-thức"] hàm chứa một sức mạnh [tiềm năng] vô song, đấy chính
là nguyên tắc sáng tạo nguyên thủy. Một số chúng sinh vào một lúc nào đó có thể
tận hưởng sự hiện hữu của vũ trụ ấy [khi đã đạt được giác ngộ]. Vì thế mà vũ trụ ấy đang hiện hữu. [giác ngộ là khả năng hội nhập với sức mạnh vô
song của "vũ-trụ-tâm-thức"].
"Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng"
Chúng ta là trống không, hay ít ra các chất liệu cấu tạo ra
chúng ta là trống không. Cũng cần nhắc lại là chữ trống không không có nghĩa là
"hư vô". Một số người hiểu sai cho rằng Phật giáo chủ trương chủ
nghĩa "hư vô" ("nihilism"). Theo Phật giáo, thế giới trong
đó gồm có chúng ta là một thể chất lưu chuyển, một dòng chảy của các thể dạng.
Điều đó không có nghĩa là không có gì cả. Tất cả mọi sự vật đều lệ thuộc vào
nhau. Không có gì hiện hữu riêng biệt được. Các vật thể này gánh chịu tác động
của các vật thể khác, khiến chúng xuất hiện, hiện hữu, biến mất và lại hiện ra.
Thế nhưng tự chúng chúng không thể tự hiện hữu. Vì thế hình tướng là
"trống không", có nghĩa là hình tướng không thể tách rời một cách
riêng rẽ ra được, nó không thể độc lập. Hình tướng này lệ thuộc vào vô số hình
tướng khác [để hiện hữu].
Trống không là hình tướng bởi vì bất cứ hình tướng nào cũng bắt
buộc hình thành trong cái trống không đó, tức trong thể dạng vắng mặt của sự
hiện hữu nội tại. Trống không tham gia vào việc hướng dẫn hình tướng, ["Hình tướng là trống không, trống không là hình
tướng" là một trong những
câu nổi tiếng nhất trong Bát nhã Tâm kinh].
Con đường trực tiếp : thuyết thần bí, du-già, thiền định và thể
dạng xuất thần
Tư duy thuộc lãnh vực khái niệm mang tính các hạn hẹp, như chúng
ta đều biết. Chính vì thế hầu hết các tín ngưỡng trên đường dò tìm sự hiểu biết
[bằng khái niệm] đều vấp phải thật nhiều khó khăn nan giải, vì thế tất cả đều
tìm cách dựa vào một "con đường trực tiếp" hơn. Trên con đường đó
người ta thấy xuất hiện đủ các phương pháp như : thần bí, du-già, một số hình
thức thiền định, sự xuất thần với mục đích mang lại sự giác ngộ. Phương pháp
tiếp cận trực tiếp của Phật giáo Tây tạng dựa vào "kinh nghiệm" có
thể đưa chúng ta trở về cội nguồn của thế giới, thế nhưng phương pháp này thật
vô cùng gay go, đòi hỏi phải có một tâm thức thật tinh luyện đạt đến cấp bậc
cao nhất của sự tinh tế, giúp nó tách rời ra khỏi các chu kỳ thời gian [thời gian theo Phật giáo mang tính cách chu
kỳ, chu kỳ thời gian nêu lên trong câu trên đây ám chỉ các chu
kỳ sinh diệt của các vũ trụ nối tiếp nhau, xin xem lại mục Nguồn gốc
của vũ trụ trình bày trên đây]. Một số bạn hữu của tôi hiện còn sống đã đạt được thể dạng ấy
[Đức Đạt-lai Lạt-ma không
bao giờ tuyên bố là Ngài thực hiện được bất cứ một điều gì "siêu nhiên",
Ngài chỉ là một nhà tu hành rất bình dị và Ngài chỉ kể ra các phép mầu nhiệm mà
người khác làm được].
Sự xuất thần và phúc hạnh
Khi xuất thần ta đạt được một trạng thái tâm linh thật tinh tế ;
khi cường độ của nó đạt đến điểm tột đỉnh ta có thể cảm nhận với tất cả niềm
hân hoan thể dạng vắng bóng của sự hiện hữu nội tại, tức là tánh không, sự
trống không.
Thân xác và chiêm bao
Thừa hưởng hậu quả từ nghiệp của mình trong quá
khứ, một số người thực hiện được những việc khác thường trong kiếp sống hiện
tại. Chẳng hạn như các trường hợp tâm thức xuất khỏi thân xác, sở dĩ đạt được
khả năng đó là nhờ vào các thành quả tu tập từ các kiếp trước. Các khả năng
trên đây phát lộ như là năng khiếu sẵn có. Tuy nhiên trong một số trường hợp
đấy là kết quả do sự tu tập ngay trong kiếp sống này mang lại. Thiết nghĩ cũng
nên xác nhận rõ ràng "thân ảo mộng" [hiện tượng "xuất hồn"] không phải là một sự quán thấy tâm thần nhưng đấy là một
thân xác tinh tế thật sự, có khả năng tách rời khỏi thân xác thông thường và
cảm nhận được thế giới bên ngoài đúng như chúng ta cảm nhận trong trạng thái
bình thường. Đây là một đường hướng khảo cứu quan trọng nên quan tâm.
Khoa học và tri thức
Các khảo cứu khoa học sở dĩ tiến hành được là nhờ vào các dụng
cụ và máy móc. Các khảo cứu mang tính cách tâm linh trái lại tiến hành nhờ vào
các kinh nghiệm nội tâm và thiền định. Thiết nghĩ cần phải phân biệt thật minh
bạch giữa những gì khoa học bó tay và những gì khoa học chứng minh là không
hiện hữu. Phải hiểu rõ có vô số hiện tượng rất thần bí. Giác quan của con người
có khả năng cảm nhận thật giới hạn, vì thế ta không thể bảo rằng bên ngoài khả
năng nhận biết của ngũ giác không có gì cả.
Đối với việc tìm hiểu tri thức (consciousness), rất nhiều sinh
linh [ám chỉ các sinh linh
ngoại lệ, các thánh nhân] kể cả một số người,
từ thật nhiều thế kỷ trước đã từng cảm nhận trực tiếp được tri thức, thế nhưng
ngày nay chúng ta vẫn còn mù tịt không hiểu tri thức là gì [tức không hiểu phương thức vận hành và bản chất
của tri thức là gì]. Các sự nhận biết của
tri thức không mang hình tướng, không màu sắc, đấy là các hiện tượng không thể
nhận biết bằng các phương pháp thông thường dùng để khảo sát các hiện tượng bên
ngoài.
Phật giáo có phải là một khoa học tâm linh hay không ?
Các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mở rộng thêm không gian cho
chúng ta. Thật tuyệt vời ! Từ thuở nhỏ tôi đã say mê lãnh vực khảo cứu khoa học
này ; các khám phá về không gian thật vô cùng lợi ích cho nhân loại. Thế nhưng
các khảo cứu nội tâm cũng đáng cho chúng ta chú ý. Trong lãnh vực tâm thức còn
nhiều khoảng không gian rộng lớn chờ được khám phá.
Nhiều khoa học gia không xem Phật giáo như một tôn giáo cứng
nhắc mà họ đánh giá Phật giáo như một ngành khoa học, và cũng nên hiểu đấy là
một ngành khoa học vô cùng phức tạp. Phương pháp tiếp cận của Phật giáo căn cứ
vào thực nghiệm giống như tất cả các ngành khoa học khác.
Niết-bàn là gì ?
Niết-bàn là một thứ " phẩm tính nào đó của tâm thức".
Bản chất con người chỉ bị ô nhiễm tạm thời. Sự giao tiếp bình thường giữa chúng
ta với cái mà chúng ta gọi là hiện thực hoàn toàn bị lệch lạc. Luôn nên nhớ đến
sự kiện này. Vì căn cứ trên ảo giác nên sự tương giao đó [giữa ta và hiện thực] sai lầm từ căn bản. Chỉ khi nào chúng ta ra
thoát được mọi ảo giác khi ấy chúng ta mới thấy sự kiện trên đây là một sự
thật. Phải loại bỏ sự ô nhiễm đó [tức là sự cảm nhận sai lầm về hiện thực] ra khỏi tâm thức, và điều đó có thể thực
hiện được như chúng ta đều biết [tức là đạt được giác ngộ, mục đích tối thượng của Phật giáo].
Sau khi thực hiện được sự tinh khiết hóa gọi là giác ngộ trên
đây, tâm thức sẽ đạt được thể dạng phẩm hạnh cao nhất gọi là niết-bàn.
Trong thể dạng đó tâm thức biến thành trí tuệ và thoát ra khỏi các chu kỳ hiện
hữu. Đã từng có rất nhiều vị hiền triết đạt được niết-bàn và
họ chỉ cần tu tập trong một kiếp sống duy nhất.
Cái chết và ánh sáng trong suốt
Cái chết nhất định sẽ đến với ta một ngày nào đó không sai chạy.
Nếu phí phạm những giây phút tốt đẹp nhất đời mình vào những việc phù phiếm,
không chuẩn bị cho cái chết, khi giây phút cuối cùng đã đến ta sẽ mất hết khả
năng suy nghĩ vì chỉ biết lo âu. Quá sợ hãi ta không còn đủ trầm tĩnh để tu tập
nữa.
Khi giây phút cuối cùng gần kề ta phải tập trung tư duy vào
những gì thiết thực. Thể dạng tâm thức đúng vào lúc đó sẽ quyết định cho những
gì xảy ra sau này. Những giây phút cuối cùng hàm chứa một sức mạnh quan trọng
hơn cả những gì xứng đáng mà ta thu góp trong suốt cuộc sống. Vì thế phải sử
dụng thiền định để tìm hiểu quá trình của cái chết và tập cho quen dần với nó.
Chính tôi thường xuyên tu tập theo cách ấy. Mỗi ngày tôi sử dụng thiền định để
vượt qua tám giai đoạn tan biến của cái chết.
Quá trình của cái chết khởi đầu bằng sự tan biến của cấu hợp
hình tướng ; các thành phần đất suy yếu, thành phần nước thay thế và trở thành
cơ sở chống đỡ cho sự hiểu biết bình thường. Người hấp hối có cảm giác như thân
xác bị lún sâu xuống đất [cảm
thấy thân xác cứng đơ và rất nặng]. Hai mắt hoa lên [khả năng thị giác suy yếu]. Người hấp hối có cảm giác nhìn thấy một ảo ảnh nào đó bên
trong nội tâm. Sau đó cấu hợp xúc giác tan biến [không còn cảm thấy quần áo mặc trên người, lưng chạm xuống giường
cũng không biết, người khác hay vật gì va chạm vào thân xác cũng không hay biết]. Tiếp theo đó sức mạnh của thành phần nước
giảm xuống, thay vào đó thành phần lửa trở nên lấn lướt hơn. Miệng khô, mắt đờ
đẫn. Nội tâm quán thấy những hình ảnh giống như khói.
Trong giai đoạn thứ ba, cấu hợp của khảnăng nhận biết tan biến.
Thể dạng lửa không còn chuyển tải được tri thức, thể dạng khí thay thế vai trò
đó và trở nên quan trọng hơn. Đối với môi trường chung quanh người hấp hối
không còn nhận biết được người thân. Nội tâm quán thấy những hình ảnh giống như
đom đóm, tương tợ như các đốm lửa bắn ra từ một chiếc pháo bông.
Trong giai đoạn thứ tư, các cấu tạo tâm thần tan biến. Thể dạng
gió (khí) yếu dần không còn chuyển tải được tri thức. Triệu chứng bên ngoài là
ngưng thở. Triệu chứng bên trong là cảm giác nhìn thấy một ngọn lửa màu đỏ
nhạt.
Thông thường vào giai đoạn này các bác sĩ y khoa xác định quá
trình của cái chết đã kết thúc theo tiêu chuẩn y khoa. Thế nhưng theo chúng tôi
[những người Phật giáo Tây
tạng] quá trình của cái
chết chưa chấm dứt, tuy rằng bắt đầu từ thời điểm này khả năng cảm nhận của các
giác quan đã mất, thế nhưng tri thức vẫn hoạt động, điều đó không có nghĩa là
người hấp hối có thể hồi tỉnh lại được. Bốn cấp bậc thô thiển và tinh tế vẫn
còn tiếp tục tồn tại trong giai đoạn này, chúng chỉ tan biến sau này khi bốn
giai đoạn cuối cùng bắt đầu diễn tiến [tất cả là tám giai đoạn].
Cấp bậc thô thiển nhất [thứ năm, tức giai đoạn đầu của bốn giai đoạn cuối cùng] tan biến trước nhất, dấu hiệu bên trong là
sự quán thấy một màu trắng tương tợ như bầu trời mùa thu thật tinh khiết chan
hòa ánh trăng rạng rỡ. Bên ngoài không còn một dấu hiệu nào phát hiện.
Sự quán thấy màu trắng và khí lực hay "gió" chuyển tải
nó tan biến [giai đoạn thứ sáu]. Một sự quán thấy khác tinh tế hơn xuất hiện :
đó là một màu đỏ rực rỡ tỏa rộng, tương tợ như bầu trời mùa thu trong suốt chan
hòa ánh sáng màu đỏ của mặt trời.
Trong giai đoạn thứ bảy, phát sinh một sự quán thấy khác, tinh
tế hơn các cấp bậc trước : đó là sự quán thấy một màu đen bóng loáng gần như
dầy đặc. Hình ảnh này tương tợ như bầu trời mùa thu thật tinh khiết vào lúc gần
nửa đêm. Trong phần đầu của giai đoạn này, người chết vẫn còn ý thức, thế nhưng
khả năng yếu dần và cuối cùng lắng vào một trạng thái vô tri.
Khi sự cảm nhận màu đen bóng loáng và dầy đặc cùng với năng lực
chuyển tải nó tan biến, một sự cảm nhận tinh tế hơn hết so với tất cả các cảm
nhận trước đây hiển hiện : đấy là "ánh sáng trong suốt của cái chết".
Thể dạng cảm nhận đó tương tợ như bầu trời bình minh vào mùa thu, trong vắt
không một gợn mây. Người ta gọi đấy là tri thức nguyên thủy, bởi vì nó là nguồn
gốc làm phát sinh ra tất cả các thể dạng tri thức khác. Đấy chính là lúc sự
sống chấm dứt thật sự.
Đối với những người bình thường, giai đoạn trên đây hoàn toàn vô
thức, tương tợ như bất tỉnh. Riêng đối với những người luyện tập du-già thì đấy
lại là giây phút phải đem ra ứng dụng các kết quả tu tập của mình trước khi các
tế bào trong cơ thể thoái hóa [trong
giai đoạn này các cơ quan trong cơ thể không còn dùng được để ghép cho các bệnh
nhân khác]. Người du-già có khả
năng nhận biết được thể dạng tinh tế cao nhất trên đây : đấy là "tri thức
ánh sáng trong suốt", [người
luyện tập ý thức được thể dạng ánh sáng trong suốt và hội nhập với ánh sáng đó,
không chuyển sang quá trình thô thiển của sự tái sinh]
Ba cấp bậc tri thức
Tri thức được phân chia thành ba cấp bậc tinh tế khác nhau : thể
dạng đang trong lúc thức (hay thể dạng thô thiển của tri thức), thể dạng chiêm
bao (tinh tế hơn) và thể dạng ngủ thật say (tinh tế hơn hết, hoàn toàn không
còn chiêm bao).
Người ta có thể so sánh ba thể dạng ấy với ba giai đoạn sinh,
chết trên phương diện vật chất và thể dạng trung gian gọi là bardo [trung ấm hay trung hữu] trước khi xảy ra sự tái sinh [thụ thai]. Ba giai đoạn vừa kể [sinh, chết và trung gian] được phân biệt thành ba cấp bậc khác nhau, căn cứ vào ba cấp
bậc tri thức tinh tế của chúng. Trong khi xảy ra quá trình của cái chết, người
đang chết lắng thật sâu vào tri thức tinh tế. Thế nhưng sau khi đã chết, và sau
giai đoạn trung gian hay bardo, cá thể ấy lại bị chi phối trở lại
bởi sự tái sinh, theo đó tri thức cũng dần dần trở nên thô thiển hơn. Tri thức
càng lúc càng trở nên dầy đặc trong quá trình diễn tiến của sự tái sinh và đầu
thai.
Rất nhiều tập sách thuật lại trường hợp nhiều người nhớ lại kiếp
trước của mình. Nghiên cứu thêm về các hiện tượng trên đây sẽ mang lại nhiều
lợi ích và mở rộng thêm kiến thức cho nhân loại.
Phép luyện tập du-già
Đối với một số người phép luyện tập du già quá khó, tạo ra đau
đớn và chẳng giúp ích được gì cho tâm thức. Đối với một số người khác đó là một
phương pháp đơn giản và tự nhiên, giúp mang lại sự thoải mái trên phương diện
tổng quát. Tuy nhiên phương tiện dùng để tinh khiết hóa tâm thức vẫn chính là
tâm thức. Nếu cảnh giác cẩn thận, theo dõi các quá trình vận hành của tâm thức,
ta sẽ vô cùng ngạc nhiên nhận thấy tầm quan trọng vô song của nó. Tâm thức
chính là trung tâm của tất cả [từ
các biến cố và hiện tượng cho đến sự giải thoát và giác ngộ].
Con đường trí tuệ
Trí tuệ cần thiết cho việc tìm hiểu sự thật sâu xa hay tối
thượng, tức là tánh không - trí tuệ dùng để cảm nhận sự vắng mặt của cái ngã -
nó có thể mang tính cách trực tiếp hay gián tiếp. Trí tuệ dựa vào sức mạnh duy
nhất của nó và được bổ khuyết thêm một số khả năng khác - sự tin tưởng, sự tập
trung và cố gắng - có thể phá tan được sức mạnh của ảo giác.
Sự tiếp cận hợp lý (lôgic) đối với hiện thực
Những người tu tập Phật giáo luôn chú tâm vào chủ đích tìm kiếm
sự thật hay hiện thực. Thế nhưng đồng thời họ cũng khẳng định không nên hoàn
toàn tin tưởng vào sự cảm nhận của mình đối với hiện thực, bởi vì có một sự
cách biệt giữa các thể dạng hiển hiện của các sự vật và phương cách hiện hữu
của chúng. Tuy nhiên sau đây là các phương pháp tốt nhất có thể sử dụng để tiếp
cận và tìm hiểu hiện thực : phương pháp suy luận căn cứ trên sự hợp lý (lôgic),
phương pháp suy diễn (phân tích), tam đoạn luận mang lại sự hiển nhiên, đấy là
ba thứ khí cụ chính yếu được sử dụng để chứng minh sự hợp lý (lôgic). Đấy là
các modus operandi [tiếng La-tinh, tạm dịch là các "phương
thức hành động"] giúp chuyển một sự quán nhận sai lầm trở thành một sự
cảm nhận vững chắc, [Phật giáo xem các hiện
tượng chỉ là ảo giác không phải hiện thực, bản chất của hiện thực là tánh
không, muốn quán nhận được tánh không rất khó, phải dựa vào nhiều phương pháp
khác nhau].
Sự hợp lý (lôgic) và trí tuệ tự tại
Trí tuệ dùng để quán nhận sự vắng mặt của cái ngã. Sự quán nhận
đó được căn cứ vào sự hợp lý (lôgic) thật vững chắc và khi ta đã quen với quá
trình phân tích sự vững chắc của nó [tức sự vắng mặt của cái ngã] trí tuệ tự tại sẽ phát hiện để loại bỏ vô minh. Không những
trí tuệ có thể tự hiển hiện mà còn có thể tỏa rộng đến vô biên nếu ta biết phát
huy nó. Khi trí tuệ nẩy nở sẽ khiến các ý nghĩ về sự hiện hữu tự tại suy yếu
dần và sau cùng sẽ hoàn toàn biến mất. Mọi sự khổ nhọc và lầm lẫn sẽ tan biến
khi tiếp xúc với hiện thực. Chúng không còn lưu lại một dấu vết nào trong bầu
không gian của hiện thực tinh khiết, kết quả thực tiễn là trong trường hợp đó
ta không còn tạonghiệp [phát huy được trí tuệ, quán nhận được tánh không, loại bỏ được vô
minh, nhìn thấy được bản chất vô ngã của mọi hiện tượng, ta không còn tạo
nghiệp nữa và đấy cũng là thể dạng giải thoát].
Tu tập Đạo Pháp mang lại sự an bình
Đạo Pháp giải thích tại sao lại có nhiều cấp bậc khổ đau khác
nhau. Theo thuyết nhân quả nghiệp chi phối hành động và hậu
quả của nó, dựa vào đó chúng ta tin có kiếp sau [nếu không có kiếp sau không thể giải thích sự bất hạnh quá ư khác
biệt giữa các cá thể con người].
Sự tin tưởng đó góp phần mang lại cho chúng ta một sự an bình trong cuộc sống
và giúp chúng ta chấp nhận các biến cố tiếp nối nhau xảy ra trong cuộc đời
mình. Chúng ta hiểu rằng mọi sự lo âu và toan tính đều hoàn toàn vô ích, không
nên quá âu sầu về những nỗi khổ đau của mình, [vì đó là hậu quả do chính mình tạo ra].
Dù quán nhận được bản chất khổ đau có tính cách tạm thời thế
nhưng không nên khinh thường hoặc nghĩ rằng : "chẳng có gì quan
trọng". Khả năng ý thức được sự khổ đau đúng với bản chất của nó [vì đôi khi ta hiểu lầm khổ đau là hạnh phúc,
chẳng hạn như sự thích thú do giác cảm mang lại] là một phẩm tính giúp khơi động niềm khát vọng loại bỏ nó, [vì khổ đau mang tính cách tạm thời không phải tự
tại và vĩnh viễn, vì thế phải ý thức được điều đó để loại bỏ nó].
Bốn sự thực cao quý
Đức Phật dạy rằng : "Đây là khổ đau đích thực, đây là
nguyên nhân đích thực, đây là con đường đích thực". Ngài nói thêm :
"Hãy ý thức khổ đau, loại bỏ những nguyên nhân của nó, đạt được sự chấm
dứt khổ đau, bước theo con đường đúng đắn" [tức là bát chánh đạo]. Đức Phật lại giảng thêm : "Hãy ý thức được khổ đau, mặc
dù chẳng có gì để ý thức, hãy từ bỏ các nguyên nhân mang lại khổ đau, mặc dù
chẳng có gì để từ bỏ, hãy xa lánh thế tục một cách nghiêm túc, mặc dù chẳng có
gì để xa lánh" [có nghĩa tất cả đều là
tánh không, nắm vững tánh không của mọi hiện tượng mới có thể đạt được giác ngộ
tối thượng, loại bỏ khổ đau chỉ là sự giải thoát]. Đấy là ba thể dạng của bản thể tự tại, của hành động và kết
quả tối thượng của Tứ Diệu Đế.
Bures-Sur-Yvette, 18.12.2010
Hoang Phong chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét