ĐỊA
ĐÀNG Ở PHƯƠNG ĐÔNG
|
Nguyễn Văn Tuấn
|
|
Tìm hiểu cội nguồn
văn minh và văn hóa dân tộc hiện đang là một đề tài thời sự nóng trên thế giới,
bởi vì trong xã hội hiện đại và thế kỉ 21, văn hóa sẽ là một yếu tố nhận dạng
của một dân tộc. ở nước ta, sách vở và các công trình nghiên cứu khoa học về
văn hóa dù đã và đang phát triển,nhưng nói chung vẫn còn khiêm tốn. Trong bối
cảnh đó, bạn đọc đang cầm trên tay một cuốn sách rất quan trọng về lịch sử văn
minh và văn hóa Đông Nam Á. Cuốn sách thực chất là một công trình nghiên cứu
văn minh và văn hóa thời tiền sử, và có liên quan mật thiết đến Việt Nam. Cuốn
sách này đã làm cho Tây phương, và sẽ làm cho bạn đọc, thay đổi cái nhìn cố hữu
về văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Để làm sáng tỏ hơn câu phát biểu trên, tôi
muốn có vài hàng thưa chuyện cùng bạn đọc về những diễn biến dẫn đến sự ra đời
và ý nghĩa của tác phẩm này.
Nguyên tác: Eden
in the East, 1998 - Tác giả: Stephen Oppenheimer (1947-)
Người dịch: Lê Sĩ Giảng, Hoàng Thị Hà, Hiệu đính: GS. Cao Xuân
Phổ
Nhà xuất bản Lao
Động và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây ấn hành, 2005
Trước
thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông Nam Á là một vùng nước đọng của
lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ,
hay thậm chí Đông Âu, đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một quan điểm gần
như “chính thống” của đại đa số giới học giả Tây phương là văn hóa Đông Nam Á
chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á chẳng
có phát kiến gì đáng kể.
Cuốn
sách này sẽ làm cho bạn phải suy nghĩ lại, và sẽ thay đổi những định kiến trên.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy người Đông Nam Á có lẽ là một tộc người cổ
nhất thế giới, và là tổ tiên của người miền Nam Trung Quốc ngày nay. Qua những
dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác
nhau được trình bày trong sách, bạn đọc sẽ nhận thức rằng Đông Nam Á là nơi
phát triển nền nông nghiệp sớm nhất, và có thể là quê hương của kĩ nghệ kim
loại đầu tiên trên thế giới. Những kĩ thuật này đã được truyền đi khắp thế giới
qua làn sóng di cư vĩ đại xuất phát từ Đông Nam Á. Những khám phá mà nói theo
nhà khảo cổ học danh tiếng người Mỹ, Wilhelm G. Solheim II, làm cho người ta
phải suy nghĩ lại vai trò và vị trí của người phương Tây trong quá trình tiến
hóa của văn hóa thế giới, bởi vì có nhiều bằng chứng cho thấy một cách hùng hồn
rằng Đông Nam Á (chứ không phải Trung Quốc hay Ấn Độ) có thể là nơi đã đặt một
số nền tảng đầu tiên cho văn minh của nhân loại.
Trước
đây, Đông Nam Á là một lục địa nhỏ chạy dài từ miền Nam Trung Quốc và một phần
đất của Ấn Độ ngày nay đến gần châu Úc. Vào thời đó, biển Đông, vịnh Thái Lan
và biển Java là một vùng đất khô nối liền các khu vực của lục địa. Nói cách
khác, phần đất phía Nam sông Dương Tử thuộc Trung Quốc ngày nay cũng được xem
là một phần đất của Đông Nam Á cổ. Sau khi kỉ Băng hà chấm dứt khoảng 10.000
năm về trước, Đông Nam Á bị ngập bởi nước biển. Những vùng đất thấp của lục địa
trở thành đáy biển Đông ngày nay, và những vùng cao phía Nam lục địa nay là các
quần đảo thuộc Indonesia. Những vùng đất liền hiện nay thuộc Việt Nam,
Campuchia, Lào, Myanmar (Miến Điện), Thái Lan và Malaysia. Do đó, Địa
đàng ở phương Đông bắt đầu bằng một giả thuyết rằng nền văn minh Đông
Nam Á cổ hiện nay đang nằm dưới lòng biển. (Khoảng 5 năm trước đây, người ta
phát hiện một công trình xây cất, tòa nhà được kiến trúc rất độc đáo dưới lòng
biển thuộc Đài Loan). Giả thuyết này có nhiều cơ sở khoa học mà chúng ta sẽ
thấy trong sách.
Người Tây phương, dẫn đầu là người Bồ Đào Nha, bắt đầu biết đến
Đông Nam Á từ thế kỉ 16, khi họ đến đây và thành lập những trạm tìm kiếm hương
liệu hiếm để buôn bán. Người Bồ Đào Nha trở thành độc quyền trong việc mua bán
hương liệu (như hạt nhục đậu khấu, cây đinh hương, cây chùy... ) cả trăm năm
liền. Đến đầu thế kỉ 17, Anh và Hà Lan dùng lực lượng hải quân của họ đẩy lui
người Bồ Đào Nha, và lập các trang trại để bành trướng khai thác hương liệu
sang khai thác cao su, trà (chè) và thiếc. Các đế quốc lần lượt xâm chiếm Đông
Nam Á: Anh chiếm Ấn Độ và Miến Điện, Hà Lan chiếm đóng Java và Sumatra ở
Indonesia, Pháp thì chiếm đóng Việt Nam, Campuchia và Lào, một vùng đất mà họ
đặt tên là "Indochina". (Qua cách đặt tên của thực dân Pháp, chúng ta
cũng có thể thấy định kiến của người Pháp lúc đó xem ba nước Việt, Miên, Lào
chỉ là phần phụ của văn minh Ấn Độ và Trung Hoa ! ) Chỉ có một phần đất duy
nhất không bị thuộc địa hóa là Siam hay Thái Lan ngày nay.
Năm
1858, trong khi người Pháp đã thiết lập ảnh hưởng của họ tại Đông Nam Á, một
học giả tên là Henri Mouhot tiến hành một cuộc thám hiểm khoa học vào các vùng
đất liền Đông Nam Á. Những ghi chép trong cuộc hành trình này được ông sắp xếp
cho xuất bản vào năm 1864 (sau khi ông qua đời) làm cho thế giới bắt đầu chú ý
đến những di tích lịch sử quan trọng như đền Angkor phía Bắc Biển Hồ (Tonle
Sap), lúc đó đang bị bỏ hoang và bị cây rừng bao phủ, nhưng qua kiến trúc hoành
tráng và nghệ thuật điêu khắc độc đáo nó nói lên sự thịnh vượng của một nền văn
minh tiên tiến. Song, Mouhot chỉ ghi lại chi tiết và đề nghị nghiên cứu thêm,
chứ không diễn dịch, những gì ông thấy. Bốn thập niên sau chuyến thám hiểm của
Mouhot, năm 1898, Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp cho thành lập trường Viễn Đông
Bác Cổ (École Française d’Êxtrême Orient, hay EFEO) và nhiều cuộc nghiên cứu về
văn minh và văn hóa Đông Nam Á được tiến hành. Qua nhiều nghiên cứu khảo cổ,
các học giả thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ mới phát hiện ra một số thành phố
Khmer bị chôn vùi trong rừng, và Angkor từng là thủ đô của đế quốc hùng mạnh
Khmer vào đầu thiên niên kỉ (khoảng 1000 năm về trước). Họ còn phát hiện thêm
rằng một nền văn minh rực rỡ khác, Văn minh Chăm, cũng hiện hữu cùng thời với
nền Văn minh Khmer.
Một
trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges Coedès, giám đốc trường Viễn
Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950, bỏ ra nhiều năm để phiên dịch những văn
bia tiếng Phạn mà ông tìm thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam. Coedès và nhiều
đồng nghiệp của ông thời đó tin rằng văn minh nhân loại khởi nguồn từ vùng
Lưỡng Hà (Mesopotamia) đến Ai Cập, rồi lan sang Hy Lạp và La Mã. Niên đại của
các tượng đài tại Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy đây là hai nền văn minh phát
triển sau nền văn minh Lưỡng Hà. Coedès từ đó suy luận rằng Đông Nam Á chỉ là
hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc mà thôi. Năm 1966, Coedès
còn viết: người Đông Nam Á "có vẻ
thiếu thiên tư sáng tạo và năng khiếu tiến bộ”. Mãi đến năm 1971, nhà sử học
người Anh Graham Clark vẫn đánh giá thấp văn minh Đông Nam Á. Ông cho rằng
người tiền sử Đông Nam Á chưa bao giờ thoát khỏi Thời đại Đồ đá (Stone Age) để
tiến lên Thời đại Đồ đồng như các nền văn minh khác. Clark viết rằng không như
văn minh Lưỡng Hà hay Trung Hoa, "người
Đông Nam Á vẫn tiếp tục sử dụng công cụ bằng đá cho đến thời đại Kitô giáo”.
Từ năm 1879, trước một số di vật được sản xuất bằng đồng và một số đồ gốm thuộc
thời tiền sử được tìm thấy ở Đông Nam Á, Clark vẫn bác bỏ sự hiện hữu của một
nền văn minh Đông Nam Á: ông cho rằng đó chỉ là những phát hiện "khác
thường" và tin rằng đó là những công cụ do các nền văn minh khác đem lại
cho Việt Nam mà thôi.
Vào
thập niên 1920, Nhà khảo cổ học người Pháp Madeleine Colani bắt đầu khảo cứu
các vùng duyên hải Việt Nam và qua các di vật thu thập được, bà chứng minh rằng
tại đây đã có cư dân sống qua từ Thời đại Đồ đá. Tiếp theo phát hiện đó, bà
Colani tiến hành khai quật quanh vùng Hòa Bình và phát hiện một nền văn hóa săn
bắt cá biệt mà bà gọi là "Văn hóa Hòa Bình". Sau này, qua bằng chứng
về các công cụ săn bắt làm bằng đá từ Văn hóa Hòa Bình được phát hiện tại nhiều
nơi dọc theo bờ biển Nam Hải chạy dài đến Mã Lai Á, các nhà khảo cổ học kết
luận rằng những di chỉ từ Văn hóa Hòa Bình không phải xuất phát từ một nhóm
người mà từ một công nghệ đồ đá. Thoạt đầu, những phát hiện của Colani có vẻ
xác định những giả thuyết của Graham Clark và Georges Coedès rằng văn minh Đông
Nam Á lạc hậu so với hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Hoa, nhưng mặt khác
Colani còn phát hiện đồ gốm từ Văn hóa Hòa Bình có niên đại 8000 năm về trước -
tức còn cổ hơn thời kỳ mà các nhà khảo cổ tin rằng cư dân Đông Nam Á vẫn còn
học cách làm đồ gốm! Thế rồi, đến khi những trống đồng lớn có hoa văn tinh vi
được phát hiện tại Đông Sơn cho thấy một công nghệ luyện kim khá hoàn chỉnh từ
thời tiền sử đã được hình thành. Phải diễn dịch sao cho hợp lí trước những phát
hiện này ?
Năm
1932, Nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern đề ra một giả thuyết để
giải thích những sự thật trên như sau: Đông Nam Á là vùng đã kinh qua nhiều
"làn sóng văn hóa”, và một làn sóng di cư liên tục đem đến cho Đông Nam Á
những kĩ thuật hiện đại. Ông tin rằng những cái rìu mang hình lưỡi vòm hay
những người thợ làm ra chúng chắc chắn phải xuất phát từ miền Bắc Trung Quốc.
Thế còn trống đồng Đông Sơn? Heine-Geldern đề ra giả thuyết rằng đó là thành
quả của một làn sóng văn hóa khác, lần này thì xuất phát từ người Đông Âu,
những người - theo ông - di cư về phía Nam vào khoảng 1000 năm trước CN và đến
Đông Nam Á vào khoảng 500 năm sau đó. Mặc dù giả thuyết của Heine-Geldern, ngày
nay mới đọc qua ai cũng phải lắc đầu về sự thiếu cơ sở khảo cổ và phi lí của
nó, cực kỳ sơ sài, nhưng được chấp nhận như là một cách giải thích khoa học
nhất thời đó ! Nhưng nhiều bằng chứng thu thập sau đó cho thấy giả thuyết “làn
sóng văn hóa" của Heine-Geldern không thể đứng vững được.
Năm 1930, học giả
người Hà Lan F. D. K. Bosch tái thẩm định những văn bia được khắc trên các đền
đài ở Nam Dương, và ông khám phá rằng các văn bia này không hề đề cập đến sự
xâm nhập hay chinh phục của Ấn Độ. Những ảnh hưởng của Ấn Độ trong ngôn ngữ và
biểu tượng thường thấy trong các vương quốc trong lục địa hơn là trong các vùng
duyên hải. Nếu ảnh hưởng của Ấn Độ đến Đông Nam Á có thật thì nó phải biểu hiện
ở các vùng duyên hải hơn là các vùng trong đất liền. Do đó, phát hiện này cho
thấy cách diễn giải của Heine-Geldern và vài học giả trước đó như Coedès hay
Clark là không đúng. Ngoài ngành khảo cổ học và nhân chủng học, giới thực vật
học cũng thu thập nhiều bằng chứng cho thấy giả thuyết của Heine-Geldern thiếu
cơ sở khoa học. Các nhà thực vật học nghiên cứu nguồn gốc của cây cỏ và cây ăn
trái từng suy luận rằng Đông Nam Á là quê hương của một số loài thực vật như
cây lúa, khoai mỡ, khoai nước, mía và chuối.
Năm
1952, nhà địa lí học người Mỹ Carl Sauer, qua quan sát khí hậu và nhiều giống
cây trồng, đưa ra ý kiến rằng Đông Nam Á có thể là nơi phát sinh nền nông
nghiệp trên thế giới. Nhưng lúc đó, chưa có bằng chứng khoa học nào để làm cơ
sở cho đề xuất này.
Năm
1965, Chester Gorman, một học trò của Wilhelm Solheim II, quyết chí đến Thái
Lan truy tìm những di chỉ về nông nghiệp Thời đại Đồ đá để làm bằng chứng cho
giả thuyết của Sauer. Để làm việc này, Gorman phải học tiếng Thái và bỏ ra
nhiều năm tháng sống với người Thái trong các làng xã xa xôi. Ông lang thang
từng thôn làng và hỏi thăm có ai biết bất cứ di chỉ nào từ các hang động cổ hay
không. Tháng 4/1966, một người thợ săn làng Mai Sang Nam dẫn ông đến một hang
động đá vôi gồm có ba ngăn. Ông bèn đi ngay đến hang động và đặt tên là Động
Linh hồn (Spirit Cave). Qua những phương pháp khảo cổ hiện đại, Gorman và các
cộng sự nghiên cứu viên ước đoán rằng Động Linh hồn đã được con người sử dụng
khoảng 10.000 năm trước CN. Tại đây, Gorman phát hiện một cây rìu và dao có
niên đại 7.000 năm trước CN (niên đại này còn cổ hơn các cây rìu tìm thấy ở
Trung Quốc đến 2.000 năm. Trước đó, người ta vẫn cho rằng các công cụ như thế
do Trung Quốc "xuất cảng" sang Đông Nam Á khoảng 3.000 năm trước CN).
Cũng tại Động Linh hồn, Gorman còn phát hiện con người tại đây đã biết nấu ăn
và đã bắt đầu dùng (hay sản xuất) đồ gốm có trang trí hoa văn.
Sau ba
năm phân tích và viết về khám phá từ Động Linh hồn, Gorman quay lại Thái Lan
vào năm 1972 để khai quật các hang động chung quanh. Ông tìm thấy hai động
khác, và có thể kết luận rằng có một quá trình định cư tại đây khoảng 10.000
năm trước CN đến 1.000 năm sau CN. Ông đặt tên nền kinh tế thịnh vượng này là
nền kinh tế Hòa Bình (vì các công cụ dùng có cùng hình dạng với công cụ tìm
thấy tại Hòa Bình trước đó). Năm 1966, một học trò khác của Solheim là Don
Bayard tiến hành khai quật một nghĩa trang thời tiền sử có tên là Non Nok Tha
(Thái Lan). Tại đây, dù chỉ đào xuống 1,5 mét, ông đã phát hiện 800 bình, lọ
làm bằng gốm được chôn cất cùng với những chủ nhân của chúng. Qua phân tích cẩn
thận, Bayard ước tính niên đại của các di chỉ này từ 3.500 trước CN đến 2.000
năm trước CN (thời gian này cũng là lúc các thành phố vùng Lưỡng Hà bắt đầu
xuất hiện). Ngoài ra, Bayard còn khám phá một số công cụ như rìu, vòng đeo tay
làm bằng đồng và thiếc. Những công cụ tìm thấy ở đây hoàn toàn không có dấu
hiệu thô sơ chút nào; ngược lại, chúng cho thấy người sản xuất đã nấu chảy kim
loại và đổ khuôn. Những phát hiện tại Động Linh hồn và nghĩa trang Non Nok Tha
là một thách thức nghiêm trọng đến những giả thuyết từng được lưu hành và chấp
nhận trước đây. Wilhelm Solheim II không ngần ngại tuyên bố rằng Đông Nam Á là
cái nôi đầu tiên của văn minh nhân loại.
Nhưng
quan điểm của Solheim và những phát hiện quan trọng vừa trình bày trên có ít
người trên thế giới biết đến, vì những tài liệu khảo cổ thường chỉ lưu hành
trong giới chuyên môn, chưa được truyền bá đến mức độ đại chúng. Cuốn Địa
đàng ở Phương Đông là một tác phẩm được viết ra cho quần chúng. Kế
tiếp sự nghiệp của Solheim và những người trước đó, qua cuốn sách bạn đang cầm
trên tay, Stephen Oppenheimer, một bác sĩ nhi khoa, đã bỏ ra 15 năm trời để thu
thập, phân tích và tổng hợp dữ kiện từ các ngành nghiên cứu như di truyền học,
nhân chủng học, thần thoại học, văn học dân gian, ngôn ngữ học, hải dương học
và khảo cổ học để cho ra đời một tác phẩm làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam
Á học và khảo cổ học phải ngẩn ngơ!
Giả
thuyết mà Oppenheimer trình bày trong cuốn sách này lần đầu tiên đặt Đông Nam Á
vào trung tâm của các nguồn gốc văn hóa và văn minh thế giới. Oppenheimer chứng
minh rằng khoảng 9.000 đến 10.000 năm về trước, một số dân vùng Đông Nam Á đã
là những nhà canh nông chuyên nghiệp, không chỉ là những người sống bằng nghề
săn bắn ban sơ như giới khảo cổ học Tây phương mô tả. Vào khoảng 8.000 năm
trước đây, mực nước biển tăng một cách đột ngột và gây ra một trận đại hồng
thủy, và trận lụt vĩ đại này đã làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế giới
này phải di tản đi các vùng đất khác để mưu sinh. Trong quá trình di cư đến các
vùng đất mới, họ đem theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh
nghiệm thiên văn, yêu thuật và đẳng cấp xã hội đến vùng đất mới. Thực vậy, ngày
nay, dấu vết của cuộc di dân trên vẫn còn ghi đậm trong các quần đảo Melanesia,
Polynesia và Micronesia; dân chúng những nơi này nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ
Nam Đảo (Austronesian) có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Theo Oppenheimer, những
"người tị nạn" này có thể là những hạt giống cho những nền văn minh
lớn khác mà sau này được phát triển ở Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập và Địa Trung Hải.
Những kết luận
và phát biểu của Oppenheimer cũng phù hợp với hàng loạt nghiên cứu di truyền
học mới được công bố gần đây. Chẳng hạn như qua phân tích DNA, các nhà khoa học
Mĩ đã có thể tái xây dựng quá trình di cư thời tiền sử. Con người hiện đại di
dân khỏi châu Phi đến châu Á vào khoảng 100.000 năm trước đây. Có thể trong đợt
di dân đầu tiên họ đến vùng Trung Đông, nhưng không thể định cư được vì thời
tiết khắc nghiệt, sau đó có thể họ phải làm thêm một hành trình thứ hai từ
Trung Đông đến tận vùng Đông Nam Á. Cũng có thể họ đi thẳng từ Đông Phi, dọc
theo đường biển ả rập ngày nay băng ngang qua Ấn Độ, và đến định cư ở Đông Nam
Á. Từ Đông Nam Á, họ lại di cư một lần nữa: nhóm một đi về hướng nam ra châu Úc
và Tân Guinea; nhóm hai đi về hướng bắc đến Trung Quốc và Nhật Bản, và cuộc di
dân này xảy ra vào khoảng 55.000 năm trước đây. Điều này cũng phù hợp với các dữ
kiện di truyền gần đây cho thấy người Trung Hoa ngày nay, nhất là người Trung
Hoa ở phía Nam Trung Quốc rất gần và có tổ tiên ở vùng Đông Nam Á.
* * *
Nhưng
những phát hiện mới nhất về văn minh Đông Nam Á có ý nghĩa gì đến đời sống tinh
thần của người Việt chúng ta? Để trả lời câu hỏi này, có lẽ chúng ta cần phải
nói rõ rằng tọa độ văn hóa Việt Nam nằm trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á. Là
người Việt, chúng ta cần phải hiểu và biết về nguồn gốc văn minh và văn hóa
nước nhà, bởi vì văn hóa là tài sản quí báu nhất mà tổ tiên ta đã truyền lại
qua bao thế hệ.
Nếu
thế kỉ 20 là thế kỉ của ý thức hệ, thì thế kỉ 21 là thế kỉ của văn hóa. Suốt
100 năm tranh chấp dai dẳng trong thế kỉ 20, người ta phân biệt các quốc gia
qua chủ nghĩa, và cao điểm của sự phân biệt đó là cuộc "Chiến tranh
lạnh". Trong tương lai, các quốc gia trên thế giới có thể sẽ quy tụ với
nhau thành nhiều nhóm dựa trên văn hóa và tôn giáo. Trong thế kỉ 21, người ta
sẽ hỏi "Anh là ai" thay vì "Anh thuộc phe nào" như trong
thời Chiến tranh lạnh. Tức là một sự chuyển biến về nhận dạng từ phe phái sang
diện mạo. Câu trả lời trước tiên là dựa vào diện mạo văn hóa, bởi vì văn hóa
gắn liền với con người trong thế giới hiện đại.
Cuốn
sách bạn đang cầm trên tay góp phần trả lời cho câu hỏi đó. Người viết lời giới
thiệu này có may mắn đã đọc Eden in the
East và đã có dịp giới thiệu cuốn sách đến bạn đọc Việt Nam qua Tạp
chí Tia Sáng vài năm trước đây. Nay, có cơ hội viết lời giới
thiệu cho bản tiếng Việt của một cuốn sách viết bằng tiếng Anh là một vinh hạnh
cho người viết, bởi vì tôi thấy những câu trả lời khoa học của cuốn sách đã
vượt biên giới quốc gia, âu cũng là một ước muốn của tác giả và những người tổ
chức dịch và xuất bản cuốn sách này sang tiếng Việt.
Trước khi viết
những dòng giới thiệu này, người viết đã đọc hết bản dịch, và người viết rất
phấn khởi thấy bản dịch có chất lượng cao, vì người dịch tỏ ra trân trọng với
tiếng Việt và cẩn thận với các thuật ngữ chuyên môn. Cuốn sách quả xứng đáng có
trong tủ sách văn minh và văn hóa của bạn đọc. Cuốn sách tuy cung cấp cho chúng
ta câu trả lời đầy đủ cho toàn vùng, những vẫn chưa cụ thể cho người Việt chúng
ta. Tổ tiên gần nhất của chúng ta xuất phát từ đâu, hay họ đến Việt Nam bằng
cách nào vẫn còn là những vấn đề khoa học “nóng”, đòi hỏi nhiều nghiên cứu về
di truyền học, khảo cổ học, và ngôn ngữ học. Tuy nhiên, với sự tiến bộ phi
thường về khoa học di truyền và công nghệ sinh học trong khoảng mười năm trở
lại đây, chúng ta có thể tin rằng việc nghiên cứu quá trình lịch sử di truyền
của người Việt sẽ đem lại nhiều kết quả thích thú và làm sáng tỏ hơn về nguồn
gốc tổ tiên của chúng ta. Nhưng muốn làm sáng tỏ vấn đề, xã hội cần đến sự đóng
góp của nhiều người, kể cả bạn đọc. Vì thế bạn đọc không nên chỉ đọc sách, mà
cần phải bỏ thì giờ để suy nghiệm về những dữ kiện trong sách, để đặt vấn đề và
giả thuyết, để tự mình tiến hành nghiên cứu thêm.
Tôi
thực sự hân hạnh mời đón bạn đọc cùng tác giả và dịch giả đi ngược thời gian để
tìm về cội nguồn của một nền văn hóa và văn minh huy hoàng ở Đông Nam Á và Việt
Nam, để tìm thấy hình dáng tổ tiên mình trong những trang sách kế tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét