NGUYÊN TRƯỞNG
“ĐOÀN
CÔNG TÁC ĐẶC BIỆT MIỀN TRUNG”
DƯƠNG VĂN HIẾU LÊN TIẾNG
Lâm Lễ Trinh
Ông Lâm Lễ Trinh, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội Vụ thời Đệ Nhất Cọng Hòa
LGT - Bài viết dưới đây cần được đọc một cách thận
trọng vì ba lý do: (i) Đối tượng phỏng vấn là ông Dương Văn Hiếu, một người làm nghề tình báo của
chế độ Ngô Đình Diệm, đối tượng nầy được chọn để phục vụ cho nỗ lực phục hồi chế độ Diệm
của một số phần tử hoài-Ngô tại hải ngoại, (ii) Cuộc phỏng vấn có tính riêng
tư, không được công khai hóa hoặc có sự tham dự của chứng nhân, và (iii) Người
phỏng vấn là ông Lâm Lễ Trinh, vốn là cựu Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ cũng của chế độ Ngô Đình Diệm, đã từng
có nhiều cuộc phỏng vấn khác mà tính khách quan đã bị nhiều người đặt vấn đề.
Tuy
nhiên, thấp thoáng đàng sau cuộc phỏng vấn nầy, có nhiều chỉ dấu cho ta thấy những
điều mà chế độ Diệm đã bị phê phán là không có gì sai: Đó là hiện tượng tập
trung quyền lực quốc gia vào tay anh em nhà Ngô mà ta gọi là “gia đình trị”, đó
là những mâu thuẩn quyền lực của nhóm chop bu nhà Ngô giữa hai ông Nhu và Cẩn
(và những bóng “áo đen” của cha cố), và đó là chính sách công an trị thông qua
nhiều bộ máy mật vụ để đàn áp đối lập từ Huế đến Sài Gòn.
Nam
Giao cho đăng lại nguyên văn bài nầy (2015) như một tài liệu từ một nhân chứng
- Những sai lầm dễ dàng phát hiện về ngày tháng, tên người và tên tổ chức là của
hai tác giả Lâm Lễ Trinh / Dương Văn Hiếu. Phần nhấn mạnh (màu vàng) là của
NG.
Sự tịnh khẩu từ 1963 cho đến nay của
ông Dương Văn Hiếu, nguyên Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung thời Đệ
nhứt Cộng hoà Việt Nam, là một cuộc hành trình xuyên sa mạc dài trên bốn thập
niên. Tác giả bài này đã liên lạc lại được với ông Hiếu hiện định cư tại San
Jose, Californie. «Con người biết quá nhiều, L’homme qui en savait trop» và
từng bị gán biệt danh «Hùm Xám của Chế độ» đã chấp nhận trả lời nhiều câu hỏi
của chúng tôi liên hệ đến một giai đoạn chính trị cực kỳ sôi động trong cuộc
chiến tranh tình báo chống Bắc Việt từ 1954 cho đến tháng 11.1963.
Sau vụ đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô
Đình Diệm, ông Hiếu bị Hội đồng Quân Dân Cách mạng điều tra, đưa ra Côn đảo với
một số nhân vật khác của Chính phủ củ và được trả tự do năm 1964. Đêm
28.4.1975, ông rời Việt Nam với đứa con trai đầu lòng trên một chiếc tàu Hải
quân VN cùng với Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám đốc Công An. Năm
1989, gia đình gồm có vợ và tám người con sau qua đoàn tụ với ông tại Hoa kỳ.
Ông Dương Văn Hiếu nay 81 tuổi, sức
khoẻ không dồi dào như trước nhưng trí nhớ còn sắc bén khi nhắc đến ký ức xa
xưa. Ông giới hạn hoàn toàn sự giao thiệp bên ngoài về mặt chính trị và đã từ
chối mọi đề nghị phỏng vấn của báo chí. Sau đây là những điểm chính có thể tiết
lộ trong cuộc nói chuyên có ghi âm giữa ông Dương Văn Hiếu (DVH) và tác
giả (LLT).
- LLT: Xin ông vui lòng cho biết sơ lược, nếu được, những năm niên thiếu
của ông và trường hợp nào ông tham gia ngành công an và được bổ nhiệm vào chức
vụ Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐMT). Chức vụ chót của
ông trước cuộc đảo chính 1.11.1963 là gì ?
- DVH: Tôi sanh ra tại Hà Nam, Bắc Việt, trong một gia đình trung lưu
làm ăn thành công. Tôi học tại trường trung học Louis Pasteur và Thăng Long, Hà
Nội. Vừa lấy xong bằng diplôme d’Etudes primaires supérieures vào năm 1944-1945
thì Nhựt đảo chính Pháp. Tôi lập gia đình năm 1948, bố vợ tôi là bác sĩ Nguyễn
Văn Tam từng phục vụ trong Liên khu 5 và cộng tác với Đức cha Lê Hữu Từ ở Phát
Diệm. Sau Hiệp định Genève năm 1954, tôi được cụ Võ Như Nguyện, Giám đốc Công
an Trung Phần, để ý trong một buổi học tập chính trị mà tôi là thuyết trình
viên (về đề tài Điện Biên Phủ). Ông tuyển tôi vào ngành công an. Giữa 1957, tôi
giữ chức Trưởng ban Khai thác Nha CA-CS Trung nguyên Trung phần. Khi ông Nguyễn
Chử, một lãnh tụ Quốc Dân Đảng, thay thế cụ Nguyện, tôi trở thành Trưởng ty
Công an Tỉnh Thừa Thiên và Đô thị Huế. Nhờ phá vở được trong vòng hai năm hệ
thống điệp báo Cộng sản Khu 5 và mở rộng hoạt động ra đến các tỉnh Quảng trị,
Quảng Ngải, Bình Thuận, Qui Nhơn..v..v.., tôi được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên
Nguyễn Đình Cẩn và Đại biểu Chính phủ Miền Trung Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt
tình với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Giữa 1957, tôi được bổ nhiệm Trưởng Đoàn
Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐBMT) để làm việc tại Sàigòn vào đầu
năm 1958. Chủ đích của Đoàn là thi hành chính sách của Cố vấn Ngô Đình Cẩn mệnh danh «Chiêu mời
(sau đổi thành Cải tạo) và Xử dụng các cán bộ cựu kháng chiến». Lúc đó tôi đã
gia nhập đảng Cần Lao. Sau vụ đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn
Đông và Phan Quang Đán ngày 11.11.1960, tôi làm Phụ tá cho Tổng Giám đốc Công
an Nguyễn Văn Y, còn ông Nguyễn Văn Hay thì giữ chức Phó Tổng giám đốc Công
an.(Vợ ông Hay là một người em bà con của tướng Dương Văn Minh)
- LLT: Có phải cùng một lúc, ba sĩ quan Cần Lao Nguyễn Văn Châu, Phạm
Thư Đường và Lê Quang Tung cũng được đưa vào Nam. Châu trong chức Giám đốc Nha
Chiến tranh Tâm lý, Bộ Quốc phòng; Đường, Phụ tá cho Trần Kim Tuyến, Sở Nghiên
Cứu Xã hội Chính trị (SNCCTXH); và Tung, cầm đầu Lực lượng Đặc biệt?
Ngoài ra, còn có Phan Ngọc Các, hoạt động cho cánh Cần Lao Ngô Đình Cẩn. Đoàn CTĐBMT đặt
trụ sở tại đâu? có bao nhiêu nhân viên? chi phí họat động do cơ quan nào trang
trải?
- DVH: ĐCTĐBMT có trách vụ lo về tình báo chiến
lược và phản gián, không liên hệ đến ba sĩ quan vừa kể và Phan Ngọc Các. Trụ sở
của Đoàn đặt tại trại Lê Văn Duyệt, Sàigòn, gần Quân khu Thủ đô. Dưới quyền
tôi, có tám nhân viên và hai thơ ký đánh máy. Chi phí hoạt động (lương bổng, đồ
ăn, feuille de route.v.v...) do Phòng Hành chính của Phụ tá Nguyễn Thành tại
Tổng Nha Công an cấp vì trên
giấy tờ, tôi và các nhân viên được coi như vẫn thuộc Ty Công an Thừa Thiên.
Đôi khi Đoàn cũng nhận được sự trợ giúp của Chánh Văn Phòng Đặc biệt Võ Văn
Hải, với tiền lấy từ Quỷ đen của Tổng thống. Số tiền này không hệ trọng, chỉ có
tính cách nâng đỡ tinh thần. Riêng cá nhân tôi không được cấp một nhà chức vụ.
Tôi có mua một công xá gần nhà bí thơ Trần Sử ở khu Công Lý, Sàigòn. Đoàn không nhận một ngân khoản nào
đến từ ông Ngô Đình Cẩn.
- LLT: Xin ông cho biết vài chi tiết hệ trọng trong hồ sơ Vũ Ngọc Nhạ
(từng tự xưng là cố vấn của TT Diệm) và Huỳnh Văn Trọng (cố vấn của Tổng thống
Thiệu)
- DVH: Nhạ không bao giờ làm
cố vấn cho TT Diệm. ĐCTĐBMT đã bắt y thời Đệ nhứt Cộng Hòa như
một cán bộ CS tép riu, một tiểu công chức tại Bộ Công Chánh. Nhạ mang nhiều tên
khác: Vũ Đình Long, Hai Long, Ông Giáo, Thầy Bốn..v..v.. Còn Trọng thì bị dính
trong vụ mệnh danh «Gián điệp Pháp ở Nhà hàng Morin Huế». Y đã trốn thoát qua
Nam Vang. Sau 1963, trở về Sàigòn, y được Nhạ bố trí vào Dinh Độc lập. Chính
Tổng trưởng Nội vụ Hà Thúc Ký đã thả Nhạ sau 1963. Nhạ tái hoạt động với cụm
tình báo A 22 trong đó có Trọng và Lê Hữu Thúy tự Thắng. Linh mục Hoàng Quỳnh giới thiệu
Nhạ cho Trần Ngọc Nhuận, cha sở nhà thờ Phú Nhuận, bạn thân của vợ chồng Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu.
- LLT: ĐCTĐBMT có xử dụng «hầm» P42 – được báo giới ngoại quốc mô
tả là «địa ngục trần gian»- để tra vấn các tù nhân hay không ?
- DVH: P42 là một biệt thự
thuộc Bộ Canh nông nằm bên trong Sở Thú, Jardin botanique Sàigòn, dùng để nhốt một số can phạm
chính trị đặc biệt. Đoàn chúng tôi không xử dụng vì có trại Lê Văn Duyệt
rồi.
- LLT: Trong công tác, ông phúc trình cho ai? Tổng thống? Ông Nhu hay
ông Cẩn? Ông có trao đổi tin tức, tài liệu gì với cơ quan CIA hay không? Mối
giao hảo công vụ giữaĐCTĐBMT và Tổng Nha Công An, Sở NCXHCTcủa
Trần Kim Tuyến, Tổng Nha An ninh Bộ Quốc phòng (Đỗ Mậu) và Lê Quang Tung ra
sao?
- DVH: Tôi làm việc gần ông
Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng cần hỏi thêm, Tổng thống gọi tôi vào Dinh. Tôi
chỉ gởi bản sao một vài phúc trình cho ông Cẩn. Trong những ngày cuối cùng
trước đảo chính 1963, tôi bị
ông Cẩn hiểu lầm “nhức đầu”. Ông Nguyễn Văn Minh, bí thơ ông Cẩn, và
Trung tá Phạm Thư Đường, chánh văn phòng Cố vấn Nhu cũng ở trong hoàn cảnh đó. Tôi
không bao giờ liên lạc với CIA. Tuy nhiên, sau vụ đảo chính 1.11.1963, bị Cách
Mạng giam tại Chí Hoà, tôi mới được biết rằng tên Phan Khanh, phụ tá cho tôi,
chiụ trách nhiệm về operations, được CIA móc nối. Khanh do ông Cẩn giới thiệu với tôi “vì biết võ”.
Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám đốc Công An cũng như Trần Kim Tuyến (SNCCTXH),
Lê Quang Tung (Lực lượng Đặc biệt) và Đỗ Mậu (An ninh Quân đội) không ưa tôi. Vợ ông Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn
Lương và bà Thiếu tướng Nguyễn Văn Là (tiền nhiệm ông Y tại Công An) đều không
thích bà Tuyến vì tranh dành địa vị bên cạnh bà Nhu nên ảnh hưởng đến các ông
chồng. Tôi tránh xen vào mê hồn trận này.Riêng về Đỗ Mậu, ông hận tôi vì
ĐCTĐBMT đã phát hiện và bắt Thiếu úy Lê Hữu Thúy, một điệp viên VC được ông đặt
làm Trưởng phòng An ninh tại Nha An ninh Quân đội.
- LLT: Phương pháp làm việc của ĐCTĐBMT có gì mới lạ? Hiệu
quả công tác của Đoàn ra sao? Phản ứng của phía CS Bắc Việt như thế nào?
- DVH: Sau đây tóm tắc vài
đặc điểm của Chính sách Cải tạo (đi đôi với việc thành lập Lực Lượng Võ Trang
Nhân Dân): Trong các nhà tù không song sắt, Công an Mật vụ ăn, ở, học tập, chơi
và sinh hoạt chung với cán bộ Việt cộng sa lưới. Các Toán trưởng thu thập những
tờ khai báo của những cán bộ này nạp cho Ban cải tạo hay Ban nghiên cứu. Chúng
tôi không bắt công khai mà tổ chức bắt bí mật; giữ kín hoàn toàn những trường
hợp đầu hàng hay hợp tác; Đoàn chúng tôi đã tạo nên một màng lưới phục kích,
bao vây các cán bộ từ chính đường giây giao liên và cơ sở cũ mà Cách mạng đã
dày công tổ chức. Thay vì hỏi cung thông thường, chúng tôi áp dụng phương thức
mạn đàm, trao đổi, tranh luận, khai thông tư tưởng, cởi mở với đối tượng. Nếu
cần, mua chuộc, dụ dỗ chuyển hướng. Đối với những cán bộ CS ngoan cố, chúng tôi
xử dụng tập thể CS cải tạo để khuyên nhũ lôi cuốn hoặc, theo đường lối “xa luân
chiến”, giải thích chính sách chuyển hướng, tranh luận áp đảo các thắc mắc, phản
ứng của người bị bắt…v..v..
Vì thời lượng buổi nói chuyện hôm nay giới hạn nên chúng tôi mong
trở lại vấn đề phức tạp này trong một dịp khác. Để trả lời phần hai câu hỏi của
Luật sư, ít nữa 4 quyển sách tịch thu được trong chiến khu VC cho thấy chúng
rất e sợ “chính sách mới lạ, kỳ diệu và nguy hiểm” do ĐCTĐBMT áp
dụng. Bốn quyển ấy mang tên “Đoàn Mật vụ của Ngô Đình Cẩn (tác giả Văn Phan),
Đường Thời Đại (tác giả Đặng Đình Loan), Cuộc chiến tranh đặc biệt (hồi ký của
Đinh Thị Vân) và Bội phản hay Chân chính (tiểu thuyết hồi ký của Dư Văn Chất).
Với chính sách này, Đoàn chúng tôi bắt gọn được - vào hạ bán niên 1958 - hai
màng lưới Tình báo Chiến lược và Quân báo CS từ Bến Hải vào đến Sàigòn.Trong
tài liệu mệnh danh “Thư vào Nam” của
Tổng bí thơ Lê Duẫn gởi tháng 7.1962 cho Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc, khi ấy
Xứ Ủy Nam bộ, có đoạn viết: “Đã có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5 (Miền Trung),
tình hình khó khăn đến mức tưởng như Cách mạnh không thể duy trì và phát triển
được.”
- LLT: Vì sao (Nha sĩ dỏm và
Play boy) Phan Ngọc Các, đại diện Cần Lao cho ông N Đ Cẩn tại Miền Nam, bị bắt?
Ai bắt?
- DVH: Cố vấn Nhu ra lệnh cho
Lê Quang Tung bắt vì Các làm tiền thương gia Hoa kiều Chợ Lớn, Các tuyển nạp đảng viên Cần Lao
lung tung. Ông Cẩn rất bất mãn về chuyện Các bị bắt và bảo tôi thưa lại với ông
Nhu phóng thích Các. Tung là người của ông Cẩn. Tôi có cảm nghĩ Tung và Tuyến
theo dõi tôi còn (Nguyễn Văn) Y thì đố kỵ tôi.
- LLT: Thái Trắng (tức Lê Văn Thái, qua đời tại San Diego) và Thái Đen
(tức Nguyễn Như Thái, biệt danh Đại tá Thanh Tùng) có làm việc cho ông hay
không?
- DVH: Chỉ có Thái Đen cọng
tác với tôi. Thái Trắng làm việc với Tuyến, y là bà con vợ trước (Đặng Tuyết
Mai) của Nguyễn Cao Kỳ. Không biết tại sao Thái Đen lại mang biệt danh “Đại tá
Thanh Tùng” vì y không bao giờ có chân trong Quân đội hay đồng hoá sĩ quan. Y
phụ tá cho tôi về mặt hành chính, bị Toà lên án khổ sai chung thân, bị đưa ra
Côn đảo về tội “bắt người trái phép” và được thả ra trước tôi. Thời Đệ nhị Cọng
Hoà, hình như Nguyễn Ngọc Loan có xử dụng đương sự.
- LLT: Ông có thể cho biết tên và chức vụ của vài cán bộ cao cấp Việt
Cộng bị ĐCTĐBMT bắt giữ?
- DVH: Có thể cho biết hai tên:
1-Trần Quốc Hương tự Mười Hương, Ủy viên Trung ương Đảng, người
chỉ huy màng lưới Tình báo Chiến lược của Hà Nội tại Miền Nam. Y bị bắt lối năm
1958. Chính tôi đã đưa Hương ra Huế gặp bí mật hai ông Nhu và Cẩn ở Thuận An,
trên một chuyến máy bay đặc biệt do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ lái. Hương được Hội
đồng Cách Mạng trả tự do tháng 5.1964.
2- Đại tá Cộng Sản Lê Câu đã giúp tôi khám phá ra Phạm Bá Lương, Công cán Ủy
viên của Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu. Lương ăn trộm và chuyển cho Hà Nội
toàn bản chính kế hoạch kinh tế Staley-Vũ Quốc Thúc.Tôi gài bẩy bắt Lương khi y
lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhứt để đi Thái Lan vì công vụ. Ông Mẫu
không hay biết lý do.
- LLT: Ông biết gì về đại tá Phạm Ngọc Thảo?
- DVH: Trong phạm vi trách
nhiệm phản gián, tôi có theo dõi Phạm Ngọc Thảo. Tôi biết Thảo được Đức cha Thục giới
thiệu vào Bảo An và Thảo có liên hệ chính trị với bác sĩ Tuyến trong
những năm tháng chót trước cuộc binh biến 1.11.1963. Hình như Thảo có trình với Tổng thống
Diệm rằng Đoàn Công tác của chúng tôi bám sát y. Tôi có dịp thưa với
Tổng thống nên lưu ý đến Thảo vì Thảo có bà con làm việc cho Bắc Việt trong chức
vụ hệ trọng. Tổng thống có vẻ suy tư và nói: tại sao không khai thác kinh
nghiệm của Thảo trong lãnh vực ấp chiến lược và khu trù mật?
- LLT: Khi xảy ra những biến động Phật giáo tại Huế năm 1963 thì ông ở
đâu? Có trách vụ gì? Xin cho biết vài ý kiến về cuộc khủng hoảng Phật giáo.
- DVH: Lúc đó tôi công tác ở
Sàigòn, tôi không liên hệ trực tiếp đến vụ Phật giáo. Tôi nhớ: Một hôm tôi vào
trình việc trong Dinh (Độc Lập), Tổng thống than phiền rằng cụ vừa kinh lý khu Dinh
điền Vị Thanh về, đi ngang một ngôi chùa, thấy cờ Phật giáo treo trên cột cao
giữa sân chùa, còn Quốc kỳ thì bắng giấy, nhỏ cở bàn tay, dán trên trụ cột
ngoài cổng, không ra thể thống gì cả. Khi về, Tổng thống có mời Đức Khâm Mạng
Toà Thánh và ông Mai Thọ Truyền (một trong hai Phó Hội chủ Tổng Hội Phất giáo)
vô cho biết tình trạng và yêu cầu lưu ý các giáo dân phải tôn trọng Quốc kỳ
theo thể thức được Chính phủ quy định. Hai vị vừa kể hứa lưu ý giáo dân. Sau đó
Tổng thống có ra lệnh miệng cho ông Đổng lý Văn phòng Quách Tòng Đức gởi công
điện nhắc các Tỉnh. Không
biết vì sao ông Đức để đến ngày chót trước Lễ Phật Đản 8.5.1963 mới gởi công
điện. Tổng thống có kêu ông Đức vô hỏi, ông Đức xin từ chức, Tổng thống nói:
công chuyện đổ bể như thế, xin thôi có ích chi?
Ngoài ra, lúc bị giam chung với tôi sau ngày 1.11.1963, Thiếu tá
Đặng Sĩ, Tiểu khu trưởng kiêm Phó Tỉnh trưởng Thừa Thiên, nói với tôi rằng ông
bị oan vì được Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đoàn 1, Vùng 1 Chiến thuật,
cho phép ông chiều ngày 8.5.1963, trước Đài Phát thanh Huế, dùng lựu đạn hơi để
giải tán biểu tình. Không biết “bàn tay bí mật” nào đã vung một trái lưu đạn
chiến đấu gây thiệt mạng cho 8 em bé và thương tích cho nhiều người khác. Sĩ bị
Toà phạt khổ sai chung thân. Thượng tọa Trí Quang, làm việc cho CS, đóng vai
trò hàng đầu trong vụ Phật giáo, lợi dụng mối giao hảo tốt với Cố vấn Cẩn. Sau
1975, tướng Nghiêm không bị làm khó vì đi đêm với Bắc Việt từ trước. Cũng như
bác sĩ Lê Khắc Quyến, giám đốc Bênh viện Huế. Tổng giám mục Ngô Đình Thục hành động nóng nảy, Cố vấn
Cẩn bị bó tay.
- LLT:Chuyện gì đã xảy ra cho Ông sau ngày đảo chính 1.11.1963 ?
- DVH: Tôi bị bắt cùng với
hai phụ tá là Nguyễn Tư Thái (tức Thái Đen} và Phan Khanh. Ủy ban Điều tra tội
ác - do một chính khách Hoà Hảo chủ tọa - thẩm vấn tôi về những tố cáo làm
tiền, bắt người và thủ tiêu đối lập. Tôi còn nhớ bà góa phụ Đinh Xuân Quảng, vợ
của một cựu Bộ trưởng thời Bảo Đại, thưa tôi đã tra khảo bà. Không có bằng
chứng cụ thể. Tại Tổng Nha Công an, Tống Đình Bắc thay tôi. Y và Trần Bá Thành
nắm trong tay nhật ký memories của tôi. Thành nằm vùng cho CS. Nếu tôi có giết
bất cứ ai thì chắc chắn Tướng (Mai Hữu) Xuân đã “làm thịt” tôi rồi. Chính y
cũng đã nói với tôi như vậy. Tuy nhiên, Toà án Cách mạng, do một Thẩm phán dân
sự chủ tọa, (trong đó đại tá Dương Hiếu Nghĩa là một thành viên}, đã xử tôi khổ
sai chung thân về tội “bắt người trái phép”. Trong vụ tảo thanh các chùa Phật ở
Sàigòn, chính Cảnh sát Đô thành của Giám đốc Trần Văn Tư đã bắt các sư sải.
Đoàn CTĐBMT đâu có nhân viên để làm chuyện đó. Trong các phiên xử
khác, Tòa phạt từ tù đến khổ sai các ông Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y, Trần Văn
Tư, Hà Như Chi, Nguyễn Lương, Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỷ, Bùi Dzinh..v..v..Vợ
tôi đã phải bán đôi bông tai 80.000 đồng và vay một số tiền khác để trả thù lao
100.000 đồng cho luật sư Vương Văn Bắc.
- LLT: Trong trường hợp nào ông và các nhân vật chế độ cũ được tự do? Vì
sao? Riêng về ông, sau đó, có bị nhà chức trách làm khó dễ gì hay không?
- DVH: Không nhớ rõ ngày
tháng nào năm 1964, một buổi sáng, Chính phủ cho ba chiếc máy bay Dakota DC3 ra
Côn sơn chở tất cả tội nhân (lối 30, 40 người) về Sàigòn và chúng tôi được
phóng thích. Một thời gian ngắn sau, tôi được giấy đòi của Công an, trung tá
Nguyễn Mậu dẫn tôi đến trình diện với Tổng giám đốc Nguyễn Văn Hai. Tướng Hai
đưa tôi bằng xe jeep đến Bộ Nội vụ trình diện với tướng Trần Thiện Khiêm. Ông
Khiêm tiếp tôi nhã nhặn và “khuyên” tôi nên thủ phận làm ăn. Đây là một lời
cảnh cáo rất rõ. Để nuôi sống gia đình, mỗi ngày tôi đi mua âu dược của các
Viện bào chế, đóng thùng gởi ra Đà nẳng gởi bán tại Tiệm thuốc của dược sĩ Hà
Thị Tiểu Hương.
Một hôm, năm 1968, thời Tổng thống Thiệu, Thái Đen (tưc Nguyễn Tư
Thái, một cộng sự viên cũ trong ĐCTĐBMT), đến khoe với tôi rằng y
“làm việc cho Toà Đại sứ Hoa ky’. Bất thần, lối một tuần sau, có giấy đòi tôi
đến trình diện tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, bến Bạch Đằng. Nơi đây, Đặc
ủy trưởng Nguyễn Khắc Bình đề nghị tôi hợp tác với Phòng Nghiên cứu về Tình
báo. Tôi xin vài ngày suy nghĩ. Tôi đến thỉnh ý Đức cha Nguyễn Văn Bình. Ngài khuyên tôi nên nhận để
tránh mọi phiền toái. Tôi trả lời với tướng Bình tôi nhận, với điều kiện
trả lại nhà cửa của tôi bị tich thâu oan và bạch hóa hồ sơ của tôi bị bôi bẩn
trong một buổi họp báo. Ông Bình cho biết việc này cần có quyết định của Quốc
hội và đòi hỏi thời gian. Vài bửa sau, Tướng Bình sai một sĩ quan cầm đến nhà
tôi 40.000 đồng, nóí là giúp tôi trong cơn túng bấn. Để thoát mọi phiền nhiểu,
tôi đành nhận cộng tác với Phủ. Tôi được cấp một văn phòng và một thơ ký đánh
máy. Mỗi tháng tôi có phận sự đúc kết những tài liệu tình báo từ các Quân khu
và viết bản phân tích trình thượng cấp: Một việc làm chán phèo! Tôi biết đây là
một hình thức “giam lõng” và theo dõi tôi. Có một hôm, một người xưng tên
Nguyễn Văn Canh đến văn phòng để xin phỏng vấn và lấy tài liệu soạn thảo luận
án Tiến sĩ Luật. Một thời gian sau, tôi không đến làm việc nữa. Rồi Chính phủ
Miền nam sụp đổ. (Giai đoạn Dương Văn Hiếu “bị cầm chân” tại Cục Trung ương
Tình báo được tướng Nguyễn Khắc Bình, hiện ở San Jose, xác nhận.)
- LLT: Một số nhân vật đối kháng như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp và Vũ
Tam Anh bị Đệ nhứt Cọng hoà thủ tiêu. Ông có thể cho biết cơ quan nào chịu
trách nhiệm? Do lệnh của ai?
- DVH: ĐCTĐBMT không liên hệ. Chúng tôi không có trách nhiệm truy nả các phần tử đối lập.
Sau 1975, một số sử liệu cho biết chính thẩm sát viên Khưu Văn Hai và đồng bọn
trong Ban Cảnh sát Đặc biệt thuộc Tổng Nha Công An của đại tá Y đã giết N B Toàn và T C Diệp. Về
Vũ Tam Anh, có thể là do
tổ chức (Lực lượng Đặc biệt, trên nguyên tắc thuộc Bộ Quốc Phòng) của Lê Quang Tung. Tôi
không nghĩ Tổng thống Diệm đã ra lệnh vì ông đã từ chối đưa ra Toà Hà Minh Trí
là người ám sát hụt ông ở Ban Mê Thuột và ông cũng đã nhẹ tay với phi công Phạm
Phú Quốc, người dội bom Dinh Độc Lập với Nguyễn Văn Cử.
- LLT: Ông biết gì về sự bội phản của Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ
trưởng Nguyễn Đình Thuần và Trần Kim Tuyến.
- DVH: Tôi nhớ có lần tôi
phúc trình với Tổng thống tin đồn về Huê kiều Chợ Lớn mua licenses tại Bộ Kinh
tế, Cụ nghe, trầm ngâm, không nói gì. Qua ông Thuần, CIA nắm hết tin tức về nội tình Chính phủ.
Cụ có vẻ rất mến và tin tưởng ông Thuần. Về Bs Tuyến thì vào cuối 1962, ông Tuyến hoàn toàn
thất sủng, không còn quyền gì, thay thế bởi đại tá Phạm Thư Đường. Bà Nhu rất ghét ông bà Tuyến.
- LLT: Ông nghĩ sao về tin ông Nhu có qua Paris điều đình với De Gaulle
về chuyện trung lập hoá Việt Nam và gặp Xứ ủy Miền Nam, Ủy viên Bộ chính trị
Bắc Việt Phạm Hùng tại rừng Tánh Linh, Long Khánh, để thương thuyết?
- DVH: Tôi có nghe những tin ấy. Cá nhân tôi nghĩ chỉ
đó là tin đồn. Một người quốc gia quyết liệt như Tổng thống Diệm không thể bắt
tay với Cộng sản bất luận dưới hình thức nào vì Hiến pháp VN công khai phủ nhận
Xã hội Chủ nghĩa và đặc biệt, vì Cộng sản đã giết dã man anh và cháu của Tổng
thống. Đòn hiệp thương Nam-Bắc do ông Cố vấn Nhu tung ra có thể là một cách
bắt bí Hoa kỳ. Không ngờ CIA đã biết rõ nội vụ. Ông Nhu đã chui vảo cái bẩy do
chính ông giăng ra.
- LLT: Nhìn lui lại, ông nghĩ rằng thời Đệ nhứt Cộng hoà, đảng Cần Lao
có thực lực trong quần chúng hay không? Việc đem tổ chức Cần lao vào Quân đội
có lợi hay hại? Ông Nhu và ông Cẩn có hoàn toàn đồng ý với nhau về cách tổ chức
và lãnh đạo đảng Cần Lao hay không?
- DVH: Về mặt lý thuyết, Cần Lao dựa vào chủ nghĩa Nhân vị được ông cố
vấn Ngô Đình Nhu nghiên cứu kỹ. Đảng Cần Lao, tiếc thay, thiếu một chính sách tuyển lựa, huấn luyện và
xử dụng cán bộ hữu hiệu. Ngoài ra, còn vấn đề kỷ luật. Đa số đảng viên được chọn
trong thành phần công chức có quyền và địa vị. Đảng không đi sâu vào đại chúng
ở thành thị, đặc biệt ở nông thôn. Các khoá tu nghiệp về chủ thuyết Nhân
vị do Đức cha Ngô Đình
Thục tổ chức tại Vĩnh Long không đào sâu và giải quyết vấn đề. Tôi có
dịp thuyết trình về đề tài này trong một phiên học tập về ấp Chiến lược ở Suối
Lồ Ồ năm 1962. Sau đó, tôi có thỉnh cầu ông Nhu, với tư cách Tổng Bí thơ Cần
Lao, ban huấn lệnh nhưng không thấy ông nói gì. Câu chuyện bỏ qua!
Ông Cẩn ít nặng về lý thuyết hơn ông Nhu. Ông Cẩn có vẻ chú trọng
hơn về vấn đề cán bộ, thực tế hơn. Trong nội bộ Cần Lao cũng có nhiều nhóm: nhóm Bắc, nhóm Trung
(của ông Cẩn), nhóm Trần Quốc Bửu (Tổng Liên Đoàn Lao Công), nhóm Tinh Thần
(Nguyễn Tăng Nguyên), nhóm Nam kỳ Bộ (Huỳnh Văn Lang), nhóm Hà Đức Minh-Trần
Văn Trai. Không thống nhứt. Ít khi thấy Tổng thống nhắc đến đảng Cần Lao. Tổng
thống để ý đến Phong trào Cách Mạng Quốc gia. Cân Lao không có Ban Chấp hành
Trung ương. Chỉ có Văn phòng Tổng Bí Thứ (ông Nhu) gồm có 5 Phòng trực thuộc. Tôi không nghĩ đem Cần Lao vào
Quân đội hoàn toàn có lợi. Các tướng lãnh đóng vai trò cốt cán trong
cuộc chính biến 1.11.1963 phần đông là đảng viên Cần Lao được Tổng thống tin
dùng và bị Hoa kỳ mua chuộc.
- LLT: Về mặt tình báo, ĐCTĐBMT của ông, SNGCTXH của
Tuyến, LLĐB của Lê Quang Tung và Nha An ninh Quân đội của Đỗ Mậu có dẫm chân
với nhau hay không? Ông biết gì về giấc mơ của Trần Kim Tuyến - sau 1960 - cầm
đầu một Bộ An Ninh thống nhất về một mối các cơ quan cảnh sát, tình báo chiến
lược và phản gián quốc nội và quốc ngoại (gồm luôn Bộ Nội vụ)? Vì Tổng thống
Diệm từ chối đề nghị này nên ông Tuyến bất mản và làm phản.
- DVH: Tôi nghĩ: không trùng dụng, không dẫm chân. Đoàn Công tác của
chúng tôi, thật vậy, lo về phản gián, chống Cộng. Sở ông Tuyến chú trọng đến
vấn đề tình báo nội an, đối lập trong xứ. Cơ quan của Đỗ Mậu phụ trách những gì
liên hệ đến an ninh của Quân đội còn Lực lượng của Tung, gồm có một Trung đoàn,
thì có trách vụ bảo vệ Tổng thống và các công thự. Tuy nhiên, trong những năm
chót, Tung vượt quá quyền
hạn của mình. Các cơ quan.không phối hợp chặt chẻ.
Tôi không biết gì về vấn đề Bộ An ninh nêu trên.
Trong giai đoạn chót, Tổng
thống, Đức Cha và hai ông Nhu, Cẩn không đồng nhứt tư tưởng, đặc biệt trong vụ
khủng hoảng Phật giáo. Tổng Giám mục Thục xen vào việc treo cờ càng làm tình
hình thêm rối ben. Mỹ quyết tâm lật đổ ông Diệm, thủ tiêu ông Nhu. Vì
thế cuộc binh biến thành công. Đất nước phiêu lưu vào hổn loạn.
Thủy Hoa Trang – California, 11-2010
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét