KEITH WELLER TAYLOR LÀ AI?
Nguyễn
Đình Vân Tiên
Tối 24/3/2015, tại khách
sạn Caravelle ở TP. Hồ Chí Minh, Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh (QVHPCT) tổ chức
trao giải thưởng năm 2015 cho một số người, trong đó có Keith Weller Taylor
(KWT).
Trong diễn văn đọc tại buổi
lễ, Nguyên Ngọc (NN) thay mặt QVHPCT ca tụng KWL hết lời: "Keith Taylor là
một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam, cả ở nước
ngoài"(1). NN nói tâng bốc thế thôi, chứ ở Việt Nam có bao lăm người biết
KWT là ai.
Hãy nghe ông ta tự bạch (2):
Tháng 5 - 1968, KWT tốt
nghiệp đại học. Lúc đó, do tác động của cuộc tổng tiến công của quân dân miền
Nam Việt Nam, chính phủ Mỹ không cho sinh viên tiếp tục hoãn dịch rộng rãi như
trước. KWT phải vào lính, hoặc "bị bắt
quân dịch và bị gửi đi bất cứ nơi nào để làm bất cứ một phận sự gì",
hoặc "chọn cho mình một nhiệm vụ
trong quân đội". KWT chọn hướng thứ hai : ông ta xin gia nhập
ngành quân báo để được huấn luyện về tình báo và tiếng Việt trong hai năm với
hy vọng "may ra chiến tranh sẽ kết
thúc trước khi năm học được hoàn tất". Hy vọng đó không thành sự thật,
KWT bị gửi sang chiến trường Việt Nam năm 1970 với cấp bậc trung sĩ.
KWT kể: "Tôi nhận thấy một vấn đề ở Việt Nam: quân đội
Mỹ đang trong chiều hướng bị mất tinh thần. Sau khi công luận [ở Mỹ] quay lưng
lại với cuộc chiến vào năm 1968, phong trào phản chiến thâm nhập vào quân đội Mỹ
ở Việt Nam. Tất cả các vấn nạn thường thấy trong cuộc chiến như xì-ke, xung đột
sắc tộc, bạo hành, giết hại nhau và bất phục tùng đều là bằng chứng đã ảnh hưởng
đến tinh thần tác chiến của quân đội [Mỹ ở Việt Nam] và, ít ra theo hiểu biết của
tôi, chúng có liên quan đến sự kiện: do hệ quả của sự lãnh đạo tồi, [nhân dân]
nước Mỹ không còn ủng hộ chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn đang được kỳ vọng phải
tiếp tục chiến đấu. Các nhà lãnh đạo trong quân đội, cả quân nhân lẫn dân sự,
nhận ra sự cần thiết phải "tái phối trí" quân đội ra khỏi Việt Nam
[rút dần quân Mỹ về nước theo chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh] càng nhanh
càng tốt để ngăn chặn tinh thần bất mãn lan rộng sang các chiến tuyến khác trên
thế giới. Trong khi đó, chúng tôi đã được yêu cầu thử thời vận của mình như là
"người tử trận cuối cùng ở Việt Nam" (…) Rõ ràng tôi đã bị ảnh hưởng
bởi não trạng bất mãn này. Đối với tôi, dường như cuộc chiến đang bị thua (the
war was being lost) và chúng tôi, chỉ đơn giản là một hậu vệ có thể bị hy sinh.
Tôi không thích điều đó. Tôi trở nên nghi ngờ cấp trên của tôi, cảm nhận rằng sự
thất trận (the debacle) mà chúng tôi đang tham gia ít nhất đã giúp cho sự nghiệp
của họ cơ hội để thăng tiến, trong khi đối với những phần tử còn lại trong
chúng tôi chỉ còn một băn khoăn giữa sự
sống hay cái chết".
May cho KWT, ông ta không
chết ở Việt Nam mà chỉ bị thương, được giải ngũ và trở về Mỹ giữa năm 1971 với
tâm trạng "choáng váng và mất phương
hướng"(dazed and disoriented).
Ông viết: "Tôi đã giận dữ vì đã phải
hy sinh tuổi trẻ của mình cho sự vô dụng của người già". Vì vậy,
"trong hơn hai thập kỷ, tôi cưỡng lại
tư tưởng của bản thân rằng mình là một cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Việt
Nam. Tôi muốn được trở về với cuộc sống và không được mô tả bởi câu chuyện đau
buồn đó. Tôi không thích Đài tưởng niệm ở Washington, D.C với tên của tất cả những
người tử vong được khắc trên một bức tường đá. Đó là đài tưởng niệm cho người
chết, nhưng tôi là một người sống sót và bức tường này không có liên hệ gì với
tôi".
Để "trở về với cuộc
sống", tháng 1 - 1972, KWT đã ghi danh làm nghiên cứu sinh tại Đại học
Michigan. Vì đã được học tiếng Việt trước đó, KWT chọn lịch sử Việt Nam cổ đại
(từ khi lập quốc đến giữa thế kỷ X) làm đề tài luận án, xem đó là "một lối thoát an lành cho kinh nghiệm rối
ren của cá nhân tôi đối với cuộc chiến Việt Nam". Luận án được bảo vệ
năm 1976, được sửa sang lại thành sách, xuất bản năm 1983 dưới nhan đề "The Birth of Vietnam" (Sự ra đời của
Việt Nam). KWT tránh chọn đề tài liên quan đến lịch sử Việt Nam hiện đại vì
không muốn đụng tới cuộc chiến tranh mà ông ta đã tham dự ở Việt Nam.
Lâu nay, hầu hết người Mỹ
tự hào đất nước họ là siêu cường số 1 thế giới, đánh đâu thắng đó, nên họ không
thể nuốt trôi thất bại thảm hại trước quân và dân một nước nhỏ bé chưa phát triển
như Việt Nam. Bên cạnh nỗi buồn chiến bại đó là mặc cảm tội lỗi vì nước Mỹ đã
ném bom, rải hóa chất độc, thảm sát, tra tấn, … gây bao tang thương chết chóc
cho nhân dân Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ chỉ ra những sai lầm trong chính
sách đối với Việt Nam của nhiều đời tổng thống Mỹ suốt 30 năm sau Chiến tranh
thế giới thứ hai (1945 - 1975). Sau một thời gian im lặng, Robert McNamara, cựu
bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người được xem là "kiến trúc sư của chiến tranh
Việt Nam" đã lên tiếng thừa nhận: "Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp" (We were wrong,
terribly wrong) (3). Tuy chiến tranh Việt
Nam đã kết thúc, nhưng vẫn tiếp tục phủ bóng đen lên lương tâm người Mỹ. Tâm trạng
đó được gọi là "hội chứng Việt Nam" (Vietnam Syndrome).
Từng tham chiến ở Việt
Nam, KWT bị "hội chứng" ấy dày vò. Ông ta tâm sự: "Rất nhiều năm, kinh nghiệm chiến trường của
tôi giống như một cục bướu lớn không tiêu hóa nổi vẫn nằm sâu trong tâm thức".
Nếu thỉnh thoảng bị yêu cầu nói về chiến tranh Việt Nam, ông ta thừa nhận: "Tôi luôn ngán ngẩm khi phải làm điều đó, bởi
vì nói chuyện trước công chúng về cuộc chiến thường mang lại cho tôi cảm giác
buồn nôn".
Một số người Mỹ hiếu chiến
không muốn nước Mỹ đắm chìm lâu dài trong "hội chứng Việt Nam », sợ
nó ảnh hưởng đến vai trò của Mỹ trên trường quốc tế. Ronald Reagan lên tiếng
kêu gọi: "Chúng ta đã sống với
"hội chứng Việt Nam" trong thời gian quá lâu… Năm tháng trôi qua, người
ta nói với chúng ta rằng hòa bình sẽ đến nếu chúng ta ngưng can thiệp [vào
các nước khác] và trở về nước [Mỹ]. Đã đến lúc chúng ta thừa nhận rằng sự nghiệp
của chúng ta [ở Việt Nam] là cao quý…
Chúng ta sẽ làm ô danh việc tưởng nhớ 50.000 thanh niên Mỹ đã chết trong sự
nghiệp ấy nếu chúng ta cứ cảm thấy phạm tội
như thể chúng ta làm một điều gì đó xấu hổ và chúng ta bủn xỉn trong việc
đối xử với người [lính từ Việt Nam] trở
về"(4).
Sau lời hô hào của R.
Reagan, khuynh hướng "xét lại chiến tranh Việt Nam" (Vietnam War Revisionism) xuất hiện trong
giới nghiên cứu lịch sử ở Mỹ nhằm biện hộ cho sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam.
KWT đã tìm đến khuynh hướng này để mong "vứt bỏ cảm giác tội lỗi sai lầm về
cuộc chiến tranh mà [ông ta] đã cưu mang khoảng một phần tư thế kỷ".
Năm 1998, ông ta viết bài
"Các xung đột vùng miền giữa các dân
tộc Việt từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX" (Regional Conflicts among the
Viêt Peoples between the 13th and 19th Centuries) (5). Ngày 26/6/2003, trả lời
phỏng vấn của đài BBC nước Anh, ông ta muốn đưa ra "một cái nhìn mới về lịch
sử Việt Nam" (6). Mùa thu năm sau, trên tạp chí Michigan Quarterly Review,
KWT giải thích "đã bắt đầu dạy về
chiến tranh Việt Nam như thế nào". Cách nay hai năm, KWT cho xuất bản
cuốn Một lịch sử của người Việt Nam
(A History of the Vietnamese)(7). Trong cuốn sách này cũng như các bài viết vừa
kể, KWT tự phủ nhận những gì bản thân ông đã viết trong cuốn sách đầu tiên The Birth of Vietnam.
Không khó để chỉ ra những sai
lầm nghiêm trọng trong kiến thức và nhận thức của KWT. Một số nhà nghiên cứu
trong nước và nước ngoài đã có bài phê bình. Chẳng hạn giáo sư Norman G. Owen
đã đưa ra một số nhận xét về cuốn A
History of the Vietnamese như sau:
“Về việc Mỹ dính líu [ở Việt Nam], Taylor để lộ ra sự mâu thuẫn lớn trong suy nghĩ, và chương trọng yếu cuối
cùng (“Từ hai nước trở thành một nước”
từ trang 561 đến trang 619) có lẽ là
chương gây tranh cãi nhiều nhất. Ông ta xuất hiện như người cuối cùng (…) bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa chống lại cả
những người Cộng sản (…) lẫn những
người Mỹ (…). Ông ta không biết hay
tránh né việc những người tả khuynh phê phán Mỹ phá hoại Hội nghị Genève năm
1954, khiêu khích hay ngụy tạo các sự kiện ở vịnh Bắc Bộ năm 1964 (để có cớ mở
rộng chiến tranh [ra miền Bắc]), phá
hoại cuộc đàm phán ở Paris năm 1968, “bí mật” ném bom Căm-pu-chia năm 1969 và
tiến hành vụ ném bom Hà Nội vào dịp lễ Chúa giáng sinh năm 1972 mà không có lý
do rõ ràng. Thay vào đó, ông ta lại phẫn nộ với Averell Harriman và nhóm của
ông này tại Bộ Ngoại giao [Mỹ] đã xúi
giục việc lật đổ Ngô Đình Diệm [mà Taylor gọi là] “thành tích gây tai họa nhất của Kennedy ở Việt Nam” (tr. 589) và với những người có trách nhiệm trong việc
rút lại sự ủng hộ của Mỹ [cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu] năm 1975 để cho [Việt Nam] Cộng hòa phải “tử thương bởi một đồng minh lật
lọng” (tr. 626) (…). Ông ta xem những
cuộc đột nhập [của quân Mỹ và quân Thiệu] vào Căm-pu-chia và Lào là tích cực trong việc tạo ra thời gian để Việt
Nam hóa chiến tranh và như vậy giúp chế độ Sài Gòn “thành công trong việc ổn định
miền Nam Việt Nam” (tr. 606 – 607) ít
ra là cho tới khi Mỹ bán đứng chế độ Sài Gòn bằng Hiệp định hòa bình Paris năm
1973, “vứt bỏ chủ quyền của Đệ nhị Cộng hòa” (tr. 612 – 613)”.
Vẫn theo giáo sư N. G. Owen,
trong cuốn sách trên, Taylor cũng “đánh
giá lại một vài lãnh tụ bị nhiều tiếng xấu ở miền Nam. Mặc dù thừa nhận họ có
nhiều thiếu sót sai lầm, ông ta miêu tả Ngô Đình Nhu là người có nhiều ý định
dân chủ (tr. 581; Taylor khẳng định Nhu bị ghét vì ông duy trì an ninh có
hiệu quả và chống lại sự giám hộ của Mỹ, tr. 577), Nguyễn Cao Kỳ tỏ ra “không có tỳ vết tham nhũng nào” (tr.
593) và Nguyễn Văn Thiệu – được [Taylor] ca tụng một cách yếu ớt hơn - được biết là không “tham nhũng thái quá hay lạm quyền quá đáng” (tr. 607) v.v và
v.v…(8)
Trong bài viết này, chúng tôi
không có ý định kể ra tất cả những sai lầm trong cuốn sách và các bài viết của
KWT, mà chỉ muốn tìm hiểu cái mà ông ta gọi là “một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam” gồm hai điểm sau đây:
1. Việt Nam không phải là một dân tộc thống nhất sống trên một lãnh thổ
thống nhất
Đất nước Việt Nam trải dài
trên 15 vĩ độ, từ đỉnh Lũng Cú (23°22’59 Bắc đến mũi Cà Mau (8°30’ Bắc). Mặt
khác, lãnh thổ Việt Nam được mở rộng dần về phía Nam. Do đó, việc hình thành những
vùng miền là điều tự nhiên. Nhưng dù ở đâu và được ghi vào bản đồ Việt Nam lúc
nào, các vùng miền đó đều là những bộ phận hợp thành của một Tổ quốc Việt Nam duy nhất và thống
nhất.
Cường điệu một số điểm dị biệt giữa các vùng miền, KWT chia nước
Việt Nam thành ít nhất 5 vùng miền: Đông Kinh (tức vùng đồng bằng sông Hồng, lấy
Hà Nội làm trung tâm), Thanh Nghệ Tĩnh (gồm ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà
Tĩnh), Thuận Quảng (gồm bốn tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng
Nam và thành phố Đà Nẵng), Bình Định và Nam Bộ. Điều đáng nói là KWT buộc các
vùng miền này phải thường xuyên mâu thuẫn, đối kháng với nhau, thường xuyên
xung đột với nhau: “Trong những năm mà
tôi đề cập, không có giai đoạn nào mà những người nói tiếng Việt không đánh lẫn
nhau hoặc giao chiến với các nước láng giềng”.
Ứng dụng thuyết “xung đột vùng
miền”, KWT xem cuộc tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong thế kỷ
XVI như cuộc xung đột giữa Đông Kinh với Thanh Nghệ: “Đông Kinh đã trung thành sâu sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ XVI
và Đông Kinh đã cứng rắn chống lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào
cuối thế kỷ này”. KWT nhận định: “Cuộc xung đột vùng giữa Đông Kinh và Thanh
Nghệ là đặc điểm nổi bật trong hình dung của chúng ta về một kinh nghiệm lịch sử
Việt Nam… Bắt đầu với Hồ Quý Ly và sau đó với Lê Lợi, Thanh Nghệ trở thành khu
vực của các vị vua và lãnh chúa có khao khát thống trị Đông Kinh”.
Tương tự như vậy, KWT giải
thích sự phân tranh giữa họ Trịnh và họ Nguyễn là cuộc xung đột giữa Đông Kinh
và Thuận Quảng , cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là “sự phản ứng của vùng Bình Định
trước những yêu sách của các nhà cai trị Thuận Quảng áp đặt lên vùng này”. Vùng
Bình Định “sản sinh ra một nhân vật, Nguyễn
Huệ, người dẫn quân từ lãnh thổ này sang lãnh thổ khác và đã cố tìm cách thống
nhất mọi khu vực của người Việt dưới uy quyền của ông”. Sau khi Nguyễn Huệ
qua đời, “Nguyễn Ánh cuối cùng đã xây dựng
nền tảng quyền lực tại Sài Gòn ở Nam Bộ và từ đây đã đi chinh phục toàn bộ các
vùng ở miền Bắc nơi người Việt sinh sống, lập nên một vương quốc vào đầu thế kỷ
XIX mà trước đó chưa bao giờ tồn tại”.
Không chỉ người đọc Việt Nam cảm
thấy chối tai trước những từ “xung đột”,
“chính phục” cứ bị lặp đi lặp lại …
mà người đọc nước ngoài cũng thấy không chịu được. Chẳng hạn giáo sư N. G. Owen
(đã nói ở trên) nhận xét: trong cuốn A History of the Vietnamese, “các tiêu đề
lớn nhỏ - về “Chiến tranh 70 năm”, “Chiến tranh 50 năm”, “Chiến tranh 30 năm” –
gợi lên ý nghĩ về các cuộc xung đột nồi
da nấu thịt đẫm máu và liên miên, nhưng không nói đến nhiều cuộc chiến tranh với
nước ngoài và vô số những cuộc nổi dậy. Kết quả là một bức tranh chắp vá về mặt
chính trị và văn hóa”(9).
Thuyết “xung đột vùng miền” của
KWT xây dựng trên những kiến thức và quan điểm sai lầm, nên không khó để bác bỏ.
Thật ra, những cuộc nội chiến nói trên xảy ra giữa hai thế lực chính trị - quân
sự có quyền lợi mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, chiến tranh Nam triều – Bắc triều nổ
ra giữa nhà Mạc (lật đổ nhà Lê) và nhà Lê trung hưng (tìm cách lập lại ngai
vàng của dòng họ mình); Trịnh – Nguyễn phân tranh xảy ra giữa con cháu của Nguyễn
Kim (người đầu tiên khởi xướng việc trung hưng nhà Lê) và con cháu của Trịnh Kiểm
(người bị xem là đã giết con trai của Nguyễn Kim) v.v… Những thế lực này hoàn
toàn không đại diện cho quyền lợi của một vùng miền nào và chưa hẳn đã nhận được
sự ủng hộ của người dân trong vùng miền đó. Thái độ chính trị của một người
không phụ thuộc vào việc người đó ở một vùng miền nào. Không hiếm những người
thay đổi thái độ chính trị như cha con Nguyễn Thiến. Thiến làm thượng thư nhà Mạc,
hai con là Quyện và Miễn làm tướng của nhà Mạc, nhiều lần cầm quân đánh nhau với
nhà Lê. Do mâu thuẫn trong nội bộ nhà Mạc, ba cha con dẫn quân bản bộ về hàng
nhà Lê (1550). Năm sau, Quyện theo quân nhà Lê ra đánh nhà Mạc. Năm 1557, sau
khi cha qua đời, Quyện và Miễn bỏ nhà Lê, trở về với nhà Mạc, lập nhiều chiến
công. Năm 1592, Quyện và Miễn bị nhà Lê bắt, sau bị giết. Thử hỏi KWT xếp ba
cha con của Thiến vào vùng miền nào?
Thuyết “ xung đột vùng miền”
trở nên nguy hiểm khi KWT biến những cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài
thành nội chiến, phủ nhận các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chẳng hạn, nhà Minh xâm lược
Việt Nam đầu thế kỷ XV. KWT quả quyết: “Có
nhiều bằng chứng cho thấy đa số sĩ phu ở Đông Kinh sẵn sàng chấp nhận sự cai trị
của quân Minh và rằng nhiều thế gia vọng tộc ở khu vực này (…) đã trung thành
phục vụ quân Minh (…). Hiệu lực sự cai trị của nhà Minh đã không thể xảy ra nếu
không có sự chấp nhận và tham gia với mức độ lớn của người địa phương”. Theo
KWT, “người Đông Kinh nhìn Lê Lợi như một
kẻ nổi loạn nhà quê”. “Không khó để đọc
cái gọi là phong trào giải phóng dân tộc của Lê Lợi như là cuộc chinh phục của
Thanh Nghệ đối với Đông Kinh, với việc nhiều nhân vật Đông Kinh xem người Minh
như thế lực bảo vệ [Đông Kinh] chống
sự quê kệch của các tỉnh phía Nam”.
Tương tự như thế, vào giữa thế
kỷ XIX, “khi vấn đề bảo hộ của Pháp xuất
hiện, giới tinh hoa Thuận Quảng ủng hộ việc hòa hoãn và hợp tác [với thực
dân Pháp] để cứu chế độ quân chủ, trong
khi các lãnh đạo Thanh Nghệ ủng hộ cuộc kháng chiến [chống Pháp]… Chính sự chủ động của người Thanh Nghệ đã dẫn
đến việc đưa hoàng gia thoát khỏi Huế và kêu gọi “Cần vương” năm 1885… trong
lúc các lãnh đạo Thuận Quảng nhanh chóng hòa hoãn với Pháp chống lại các đối thủ
Thanh Nghệ của họ”.
Trong khi cường điệu sự xung đột
vùng miền (không có thật) giữa Đông Kinh - Thanh Nghệ hay giữa Thanh Nghệ - Thuận
Quảng, KWT cố tình che giấu tội ác xâm lược của nhà Minh hay của thực dân Pháp.
Thuyết “xung đột vùng miền”
không dừng lại ở đó. Trong bài điểm sách A
History of the Vietnamese, Liam C. Kelley (Đại học Hawaii, Mỹ) viết: “Qua cuốn sách dài hơi này, Taylor
nhiều lần lôi kéo sự chú ý của người đọc vào những kích thước vùng miền của lịch sử Việt Nam. Đó là những căng thẳng
giữa Thanh Hoá và Thăng Long trong những thế kỷ trước hay giữa Sài Gòn và Hà Nội
trong thời gian gần đây hơn, chủ nghĩa địa phương đã là một nét đặc trưng lâu
dài trong trải nghiệm lịch sử của những người nói tiếng Việt…”(10).
Lời bình luận của L. C. Kelley để lộ thâm ý của
KWT: ông ta muốn dẫn dắt người đọc đi đến kết luận: chiến tranh trong hai thập
kỷ qua tại Việt Nam chỉ là “xung đột vùng miền” giữa miền Bắc và miền Nam; miền
Bắc kháng chiến chống Mỹ, còn miền Nam là đồng minh của Mỹ; chứ không phải là chiến tranh của Mỹ xâm lược
Việt Nam!
2.
Việt Nam không có lịch sử và văn hóa thống nhất, phát triển liên tục
Theo KWT, “những người quyết tâm cai trị toàn bộ các dân
tộc Việt sẽ nhấn mạnh về một lịch sử và văn hóa Việt Nam đơn nhất, với một cội
nguồn duy nhất và một xung lực duy nhất xuyên suốt thời gian và không gian. Nhưng
những giấc mơ về tính độc nhất này là sự thể hiện niềm tin chính trị, chứ không
phải là điều nghiễm nhiên”.
Ngược lại, KWT chủ trương “chia lịch sử và văn hóa Việt Nam thành từng
khu vực” và cho rằng “lịch sử của mỗi
vùng cũng đứt đoạn”, cũng “mang tính
chất giai đoạn, chứ không tiến triển liên tục”.
KWT không thừa nhận có một dân
tộc Việt Nam thống nhất và tồn tại liên tục hằng ngàn năm nay. Do đó, KWT dùng
khái niệm “những người nói tiếng Việt” (people
who speak Vietnamese) cùng sống trên mảnh đất hình chữ S. Những người nói
tiếng Việt không nhất thiết hợp thành một dân tộc Việt duy nhất, cũng như những
người nói tiếng Anh ở Mỹ, Anh, Canada, Australia, New Zealand… thuộc nhiều dân
tộc khác nhau.
Khái niệm “những người nói tiếng
Việt” gợi cho chúng ta nhớ lại mồ ma Thierry d’Argenlieu. Trong thông tư số 215/CP.Cab ngày
15/1/1947, viên cao ủy Pháp tại Đông Dương này cấm dùng từ “Việt Nam” trong các
tài liệu chính thức, trên báo chí cũng như khi trò chuyện; thay vào đó, ông ta
bắt dùng cụm từ “ba xứ nói tiếng An-nam” (trois
pays de langue annamite – ba xứ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ)(11).
KWT không thể chối bỏ một thực
tế hiển nhiên là người Việt từ đỉnh Lũng Cú đến mũi Cà Mau “đều nói một ngôn ngữ mà tất cả đều hiểu”,
nhưng vẫn gượng gạo đưa ra nhận xét: “Cái
“ngôn ngữ chung” đó là một lớp âm thanh, từ vựng và cú pháp tương đối hời hợt
[?!] mà ẩn bên dưới đó là những lớp sâu sắc
hơn của những mô hình ngôn ngữ vùng”, “bên
dưới lớp âm thanh, ngữ âm, lời nói chung, hay bất kỳ cách tưởng tưởng nào của
chúng ta về hiện tượng ngôn ngữ con người, là những con người khác biệt mà cái
nhìn của họ về bản thân và người khác dựa vào địa hình vùng họ sống và dựa vào
những trao đổi văn hóa có được tại vùng đó”.Không chĩ khác biệt trong không
gian, người Việt còn khác biệt trong thòi gian : “Người Việt thế kỷ 13, 15, 17 không giống người Việt thế kỷ 20” !
Như thế, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm khác với Hồ Chí Minh,
Võ Nguyên Giáp !
Vì Việt Nam, theo KWT, không
phải là một dân tộc thống nhất và phát triển liên tục nên ông ta phủ nhận việc
Việt Nam có một lịch sử chung: “Ý tưởng về
một “lịch sử chung” là một điều được tưởng tượng và tranh luận, chứ không phải
là một vấn đề hiển nhiên; nó không phải là một di sản rõ rệt, mà đúng hơn, nó
được nghĩ ra, dạy dỗ và học từ thế hệ này sang thế hệ khác: nó là vấn đề truyền
thụ. Một “lịch sử chung của người Việt” là chuyện ý thức hệ và chính trị, không
phải là học thuật (…). Việc xây dựng một “lịch sử chung” nằm trong địa hạt thần
thoại”.
KWT cũng phủ nhận việc Việt
Nam có một bản sắc văn hóa dân tộc. Trước đây, các nhà viết sử thường nhận định
“người Việt Nam trở thành một loại người
riêng biệt là nhờ một phản ứng chung hay thống nhất trước mối đe dọa can thiệp
của nước ngoài”. KWT bác bỏ điều đó, cho đó “đơn giản là sự kiêu ngạo của cách viết sử [theo khuynh hướng] dân tộc chủ nghĩa đã biến “tinh thần chống
ngoại xâm” thành tố chất vĩnh cửu trong “bản sắc Việt Nam””.
Song song với việc phủ nhận
truyền thống “đánh giặc, giữ nước” của dân tộc Việt Nam, KWT công khai bảo vệ
chiến tranh xâm lược mà Mỹ đã tiến hành nhiều nơi trên thế giới (trong đó có Việt
Nam).
Trong khi “đối với một số học giả đồng nghiệp, lên án
Hoa Kỳ là một đế quốc, bạo quyền phát-xít rất hợp thời trang”, thì KWT “không còn cảm thấy bị đe dọa bởi những khẳng
định vô căn cứ như vậy”. KWT “chấp nhận
tiền đề rằng Hoa Kỳ có một vai trò chính đáng, thậm chí không thể tránh được,
trong thế giới ngày nay”, “tin rằng
quyền lực toàn cầu trong tay của Hòa Kỳ nên được coi như là một trách nhiệm, chứ
không phải là một điều mà chúng ta cần phải xin lỗi”. Áp dụng tiền đề đó
vào trường hợp Việt Nam, KWT tuyên bố: “Tôi
không thể chấp nhận định lý rằng Hoa Kỳ không có lý do chính đáng để được can
thiệp vào Việt Nam”. Theo KWT, “yếu tố
dẫn đến thất bại của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam [tức chế độ Diệm – Thiệu] không phải là thiếu ý chí và quyết tâm,
mà là một loạt các quyết định sai lầm
trong chính quyền Kennedy và Johnson đã kéo dài cuộc chiến đưa đến bế tắc, làm
cạn kiệt sự kiên nhẫn của người dân Mỹ”. Tóm lại, “bi kịch của Việt Nam không phải là nước Mỹ đã can thiệp [vào Việt Nam]
khi họ không nên can thiệp, mà đúng hơn
là sự can thiệp đã quá vụng về”.
KWT thường bác bỏ quan điểm sử
học của Việt Nam (trước kia cũng như hiện nay), cho đó là sử học dân tộc chủ
nghĩa, sử học chính trị hóa. Thực ra, KWT dưới lớp áo “sử gia”, đã sử dụng sử học để phục vụ những
quan điểm chính trị sai trái, xuyên tạc lịch sử Việt Nam, biện minh cho chiến
tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Thế nhưng, trong diễn văn ngày
24/3/2015 nói trên, Nguyên Ngọc thay mặt cho Quỹ văn hóa PCT, ca ngợi KWT là “một người thật sự yêu đất nước này, muốn hiểu
nó tận cùng như hiểu chính mình, để cho đất nước anh hùng mà khổ đau này sống
thật đàng hoàng trong thế giới xiết bao khó nhọc ngày nay” và “cảm ơn KWT vì tình yêu chân chính và nỗ lực
trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt Nam, cho Việt Nam”(12).
Nguyên Ngọc có biết ai là những
người đã gây ra khổ đau cho đất nước này không?
Thật là mỉa mai khi Nguyên Ngọc
tâng bốc KWT là “người thật sự yêu đất nước này”. Phải chăng KWT yêu theo kiểu
Nguyên Ngọc đang yêu?
Cụ Phan Châu Trinh là chí sĩ
hy sinh trọn đời mình cho dân cho nước. Không ai có thể lợi dụng tên tuổi cụ để
làm chuyện phản quốc !
Nguyễn Đình Vân Tiên
4/2015
Chú thích:
1, 12, www.quyphanchautrinh.org.
2, Đoạn tự bạch này nằm trong
bài “Tôi bắt đầu dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào” (How I Began to Teach about the Vietnam War) đăng trên Michigan Quarterly Review số mùa thu
2004. Chúng tôi sử dụng bản dịch của Thái Anh trên www.diendannguoidanvietnam.com
nhưng xin phép sửa đôi chữ dịch chưa sát với nguyên văn (lost, legitimate…)
3, Robert S. McNamara, In Retrospect – The Tragedy and Lessons of
Vietnam (Hồi tưởng quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học ở Việt Nam),
NXB Times Books, New York, 1995, tr. xvi.
5, Bài in trong sách Guerre et Paix en Asie du Sud-Est (Chiến
tranh và hòa bình ở Đông Nam Á) do NXB L’ Harmattan ấn hành, Paris, 1998. Chúng
tôi sử dụng bản dịch của Lê Quỳnh đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số 269 và 270, tháng 10/2006.
7, Cambridge University Press ấn
hành, New York, 2013.
10, Journal of Vietnamese Studies,
vol. 9 (1), 1/1/2014.
11, Philippe Devillers, Paris – Saigon – Hanoi, les archives de la
guerre 1944 – 1947 (Paris – Sài Gòn – Hà Nội, hồ sơ lưu trữ chiến tranh
1944 – 1947), NXB Gallimard/Julliard, Paris, 1988, tr. 336.
Nguồn: Internet, 4/2015