NẠN ẤU DÂM
TRONG CÔNG GIÁO
Nguyễn Nhân Trí
(nguyennhantri.wix.com)
Tượng giáo sĩ Tây Ban Nha Junipero Serra
đứng ôm một bé trai thổ dân lõa thể trong
Plaza de San Francisco ở Havana (ảnh:
travelblog.org)
Tòa
Thánh La Mã được xem là trụ sở quản trị tối cao về tâm linh và hành chính của
tất cả tổ chức và tín đồ Công Giáo trên toàn thế giới. Tòa Thánh giữ quyết định
tối hậu về những giáo luật, tín điều, lẫn các tiêu chuẩn đạo đức của giáo dân.
Đức Giáo Hoàng, người đứng đầu Tòa Thánh, được xem là đại diện cho Thiên Chúa,
người có khả năng giao tiếp với Thiên Chúa và có quyền phán quyết về mọi vấn đề
tâm linh trong Công Giáo. Tòa Thánh có thể ban phép lành cho một người cũng như
có quyền trừng phạt người đó bằng cách từ chối không thay mặt Chúa xóa bỏ tội
lỗi của họ.
Thế
lực tâm linh của Tòa Thánh do đó bao trùm đủ mọi tầng lớp trong tín đồ. Ảnh
hưởng chính trị của Tòa Thánh lan tràn hầu hết mọi quốc gia Thiên Chúa Giáo.
Tín đồ tôn sùng Đức Giáo Hoàng như một vị thánh sống. Họ xem luật lệ đưa ra bởi
Tòa Thánh như những quy lệnh thiêng liêng. Đối với họ, Tòa Thánh là biểu tượng
của quyền lực Thiên Chúa và của quang minh, công chính.
Cái
nhìn của tôi không hẳn như vậy.
Theo
tôi, Tòa Thánh lẫn các Giáo Hoàng, chỉ là một nhóm người vì lý do nầy hay lý do
khác đã đạt được địa vị, chức sắc trong tổ chức tôn giáo của họ. Họ cũng chỉ là
những người phàm như bạn, như tôi. Họ không có khả năng tâm linh siêu đẳng gì
hơn ai khác. Họ cũng có những phản ứng tâm lý, nhu cầu tình cảm, đòi hỏi sinh
lý và họ cũng có thể vi phạm những lỗi lầm trong đời sống giống như chúng ta.
Nói
về “lỗi lầm”, ở đây tôi muốn nói về cách thức Tòa Thánh đối ứng với nạn ấu dâm
bởi các tu sĩ Công Giáo lan tràn từ bao nhiêu thế hệ nay. Tệ nạn nầy đã và vẫn
được cố bao che, dấu diếm bởi những giám mục, hồng y cao cấp nhất trong Giáo
Hội. Chỉ gần đây thì tệ nạn nầy vì bị phanh phui ra tràn loạt nên mới được Tòa
Thánh dần dà nhìn nhận một cách e dè bất đắc dĩ.
Trong
bài tiểu luận nầy tôi sẽ nhắc đến tên một số nhân vật liên quan trong vài vụ án
nổi tiếng. Điều tôi muốn chú trọng không phải là về hành động ghê tởm của các
linh mục phạm tội ấu dâm mà là về hiện tượng Giáo Hội Công Giáo cố tình che dấu
các tội ác đó một cách nhất quán và có hệ thống.
Cho
đến nay, các cuộc điều tra chỉ có thể kết luận rằng tệ nạn ấu dâm lan tràn khắp
nơi, ở nhiều quốc gia và nhiều giáo phận khác nhau. Không ai biết rõ con số
chính xác bao nhiêu tu sĩ đã phạm tội (mà chưa bị phát giác), cũng như bao
nhiêu nạn nhân (vì họ không bao giờ trình báo). Không có gì cho thấy là tệ nạn
nầy đã không từng hiện hữu từ bao nhiêu thế kỷ trước đây trong Thiên Chúa Giáo.
Tấm ảnh minh họa ở đầu tiểu luận nầy là bức tượng trong Plaza de San Francisco
ở Havana mô tả giáo sĩ Tây Ban Nha Junipero Serra (sống ở thế kỷ 18) đang đứng
ôm một đứa bé trai thổ dân lõa thể. Với kiến thức ngày nay về nạn ấu dâm lan
tràn trong cộng đồng tu sĩ Công Giáo, bức tượng nầy làm một số du khách rợn
người với câu hỏi có phải chăng tác giả của nó muốn ngầm biểu dương một sự kiện
gì rất đen tối hơn so với hình ảnh ngây thơ tự nhiên người ta đã từng nghĩ về
nó trước đây?
Một
cuộc điều tra năm 1990 ở Chicago cho rằng 40 trong tổng số 2.200 tu sĩ Công
Giáo (nghĩa là 1,8%) được phỏng vấn có thể đã từng có những hành vi tình dục
xúc phạm đến trẻ con trong khoảng thời gian 40 năm trước đó. Một cuộc điều tra
khác cho thấy khoảng 2% linh mục trong giáo phận ở Boston có thể đã hành dâm
với trẻ con trong khoảng thời gian 50 năm. Một tài liệu khác cho thấy con số
nầy là 1,6% trong giáo phận Philadelphia từ năm 1950 đến nay. Đại học Luật Hình
sự John Jay ở New York đã phát hành một bản tường trình cho rằng hàng ngàn linh
mục Công Giáo đã can dự vào nạn ấu dâm trong vòng 50 năm nay.
Cũng
cần nói ngay là vì môi trường điều tra giới hạn nên các bản tường trình vừa kể
thường chỉ có thể đưa ra những trường hợp có “giá trị chứng cớ thấp” (“low
threshold of proof”). Trong một vụ án hình sự, thí dụ như cưỡng hiếp hay ấu
dâm, thì công tố viện cần có những bằng chứng “hoàn toàn bất khả nghi” (“beyond
reasonable doubt”). Vì thế tuy hành vi của các tu sĩ trên đã bị tường trình
nhưng ngay cả nếu họ có bị đưa ra truy tố thì không có gì chắc chắn tất cả họ
đều sẽ bị lãnh án.
Tuy
vậy, trong số các vụ trình báo đã được dẫn đến truy tố thì phần lớn các cuộc
truy tố nầy đều thành công. Một số giám mục, tổng giám mục và hồng y cũng đã
bắt buộc phải từ chức vì tội cố tình dấu giếm các vụ ấu dâm của các linh mục
trong giáo phận họ. Hai vụ án nổi bật nhất (có lẽ vì chúng đã được tường thuật
trên báo chí nhiều nhất) liên quan đến Hồng Y Bernard Law, người đã từng là
Tổng Giám Mục của Boston ở Mỹ, và Giám Mục Brendan Comiskey của Ferns ở Ái Nhĩ
Lan. Gần đây hơn vào tháng Năm 2015, Tổng Giám Mục John Nienstedt và một trong
các phụ tá thân cận nhất của ông là Phó Tổng Giám Mục Lee Piche tại giáo phận
Minneapolis và Saint Paul của Minnesota ở Mỹ đã “được cho phép từ chức” bởi Tòa
Thánh khi đứng trước nhiều bằng chứng không chối cãi được cho thấy họ đã chủ
tâm bao che một linh mục sau nầy bị kết án tù vì vi phạm tình dục với hai đứa
bé trai.
Ngay
cả khi tòa án pháp luật không có đủ chứng cớ hoàn toàn bất khả nghi để kết án,
trong nhiều trường hợp, thí dụ như vụ án liên quan đến Hồng Y Desmond Connell
của giáo phận Dublin ở Ái Nhĩ Lan, thì uy tín và thanh danh của Giáo Hội cũng
bị tổn hại nặng nề vì nhiều hành vi mờ ám của họ.
Sau
mỗi vụ án dạng nầy bị phanh phui ra ánh sáng thì con số giáo dân tham dự thánh
lễ mỗi tuần ở trong các quốc gia nầy giảm xuống rõ rệt. Trong 10 năm sau các vụ
án ở Ái Nhĩ Lan, con số giáo dân đến dự thánh lễ hàng tuần giảm từ 63% xuống
còn 48%. Theo sau đó là ngân khoản thu nhập của Giáo Hội từ giáo dân cúng lễ
mỗi tuần trong các thời kỳ nầy cũng thấp kém hẳn. Các chuyên gia kinh tế của
Tòa Thánh đã từng tỏ ý lo ngại rằng hậu quả của những vụ án ấu dâm, kể cả tiền
bồi thường, có thể đưa Tòa Thánh đến tình trạng phá sản.
Mỗi
lần sau một vụ án ấu dâm xảy ra, một số cơ sở Công Giáo cũng đưa ra thêm vài
luật lệ mới để cố chấn chỉnh tổ chức của họ lại. Tuy nhiên, nhiều nhà phê bình
cho rằng các luật lệ mới nầy vẫn chưa đủ vào đâu trong việc thực sự ngăn ngừa
tình trạng ấu dâm xảy ra nữa trong tương lai.
Tất
cả các vụ truy tố tu sĩ Công Giáo về tội ấu dâm thường liên quan đến 2 vấn đề
chính:
1.
Thứ nhất, hành vi tình dục của tu sĩ với trẻ con hoặc xảy ra trong các cơ sở
tín ngưỡng (thí dụ, ở nhà thờ) hoặc xảy ra tại các môi trường bên ngoài (thí
dụ, ở tư gia giáo dân).
2.
Thứ hai, theo tôi nghiêm trọng hơn, là cách hành sử của Giáo Hội đối với các vụ
ấu dâm liên quan đến tu sĩ Công Giáo; nói rõ hơn là lập trường của Giáo Hội cố
tình không tường trình các sự việc nầy đến chính quyền, trấn áp hoặc thuyết
phục gia đình nạn nhân lẫn nhân chứng để họ không phổ biến sự việc ra công
chúng hay trình báo với cảnh sát.
Một
điều cần thấy là đa số linh mục qua công việc hàng ngày trong giáo phận cho
phép họ có nhiều cơ hội gặp gỡ và sinh hoạt gần gũi với trẻ em trai gái đủ hạng
tuổi. Hơn nữa, nhờ vào địa vị của họ, các tu sĩ nầy được sự tín nhiệm hầu như
vô giới hạn từ gia đình của những trẻ em nầy. Sự kiện trên dẫn đến việc những
tu sĩ có khuynh hướng ấu dâm thường có sẵn một nguồn “tài nguyên” to lớn và dễ
dàng để sử dụng so với những kẻ tội phạm ấu dâm khác. Các tu sĩ nầy sử dụng
nhiều phương cách khác nhau để đạt được mục đích đen tối của họ. Tài liệu từ
các cuộc điều tra cho thấy trẻ con nạn nhân thường bị dụ dỗ, gạt gẫm hay bị hăm
dọa bằng những lời tiêu biểu sau đây: “Hãy giữ kín việc nầy vì đây là một
chuyện bí mật chỉ có hai người chúng ta và Thiên Chúa biết được mà thôi”, hoặc
là “Nếu cho Cha làm cái nầy thì Cha sẽ làm phép đưa ông Nội của con, người vừa
mới qua đời, lên thiên đàng”, hoặc là “Nếu cãi lời Cha thì mang tội có thể bị
đày xuống Địa Ngục”.
Nhiều
người cho rằng việc ngăn cấm tu sĩ trong vấn đề tình dục đã dẫn đến tình trạng
ấu dâm lan tràn ngày nay. Tuy vậy cho đến nay không có chứng cớ rõ rệt nào cho
thấy giả thuyết trên có giá trị thực tế. Trong khi tu sĩ Công Giáo không được
có hoạt động tình dục, một số giáo phái Thiên Chúa Giáo khác cho phép tu sĩ của
họ được có vợ. Thống kê cho thấy tỉ lệ liên quan đến nạn ấu dâm trong số các tu
sĩ được phép có vợ nầy cũng tương tự như tỉ lệ liên quan đến ấu dâm của các tu
sĩ Công Giáo (1,5% đến 2% như vừa trình bày ở trên). Điều nầy cho thấy việc
ngăn cấm hoạt động tình dục không phải là nguyên do chính sinh ra nạn ấu dâm.
Cũng
có lý thuyết cho rằng những tu sĩ có hành vi ấu dâm là những người có khuynh
hướng đồng tính luyến ái. Bởi vậy một trong các tiêu chuẩn tuyển chọn học viên
để trở thành tu sĩ Công Giáo là lọc trừ trước những ai được xem là đồng tính
luyến ái. Trong chương trình bày trừ nạn ấu dâm trong cộng đồng tu sĩ, Giáo Hội
cũng chú ý đặc biệt đến những tu sĩ bị cho là đồng tính luyến ái. Tuy vậy nhiều
trường hợp cho thấy nạn nhân của các tu sĩ ấu dâm bao gồm cả trai lẫn gái. Thí
dụ như Brendan Smyth (từng là cha xứ của nhiều giáo phận ở Belfast, Dublin và ở
Mỹ) tự thú đã xâm phạm tình dục hàng trăm trẻ em nam lẫn nữ. Điều nầy cho thấy
khuynh hướng ấu dâm bắt nguồn từ sự kích thích bởi trẻ con thay vì chỉ bởi
người đồng giới tính.
Có
người cũng cho rằng một số kẻ có khuynh hướng ấu dâm đã cố ý gia nhập hàng ngũ
tu sĩ Thiên Chúa Giáo vì đây là một môi trường lý tưởng để hành động mà không
thường gặp chống đối hoặc không dễ bị vạch mặt hoặc bị truy tố. Tuy nhiên cho
đến nay không có bằng chứng trung lập nào thỏa đáng đủ để ủng hộ giả thuyết
nầy.
Chúng
ta biết tệ nạn ấu dâm không chỉ hiện hữu trong cộng đồng tu sĩ Công Giáo. Hiện
tượng ấu dâm có thể thấy trong nhiều chi nhánh Thiên Chúa Giáo khác, trong
những tôn giáo khác cũng như trong các đoàn thể hướng đạo, học đường, trụ sở
huấn luyện thể thao, v.v. Tuy nhiên, tỉ lệ xảy ra trong cộng đồng tu sĩ Công
Giáo có vẻ rất lớn. Và điểm đáng nói nhất là mức độ nhất quán và tích cực của
tầng lớp lãnh đạo trong Giáo Hội để che đậy và bảo vệ những kẻ phạm tội. Vấn đề
nầy không thấy xảy ra trong bất kỳ tổ chức, đoàn thể nào khác. Tại sao có sự
khác nhau nầy? Câu trả lời rất giản dị: đó là vì Giáo Hội Công Giáo có phương
tiện và quyền lực để làm được chuyện đó.
Giáo
Hội là một tổ chức “kín” với cấu trúc, luật lệ, đẳng cấp và sự vận hành của
quyền lực không khác mấy như trong các thâm cung hay triều đình Trung Hoa thời
phong kiến. Mọi sự việc đều được giữ bí mật trong nội bộ. Có những nhân vật
trong Giáo Hội mang quyền lực hầu như tuyệt đối, cộng vào đó là vị thế gần như
là “thiêng liêng” được e dè kính nễ bởi thế giới bên ngoài. Đây là cửa ngõ dẫn
đến tệ nạn lạm dụng quyền thế.
Sự
đồng nhất trong các phương cách bao che để đối ứng với những vụ ấu dâm ở mọi
nơi, từ Belfast cho đến Ba Tây, từ Úc Đại Lợi cho đến Áo, cho thấy nguồn gốc
của vấn đề nầy xuất phát từ chính bên trong Giáo Hội. Phương cách được Giáo Hội
sử dụng ở mọi nơi đều giống y hệt nhau. Đây là một hệ thống đã được thiết kế
với những mục tiêu rõ rệt ngay từ đầu: giữ bí mật hoàn toàn, tránh tai tiếng
thất lợi lan tràn ra dư luận, che chở thanh danh của Giáo Hội, bảo vệ tài sản
của Giáo Hội.
Cũng
có thể nói rằng tất cả phương cách của Giáo Hội dùng để đối ứng với nạn ấu dâm
trong hàng ngũ tu sĩ của họ đều có một dụng ý chung: đó là với bất cứ giá nào
cũng phải tránh không để các tu sĩ nầy bị liên quan đến pháp luật.
(Cũng
cần phải nói ở đây là không phải tất cả mọi tu sĩ cao cấp trong hàng ngũ Giáo
Hội đều đồng lòng che dấu tệ nạn nầy. Tài liệu cho thấy cũng có vài người muốn
làm cái gì đó để thay đổi tình trạng nầy, kể cả phanh phui sự thật ra công
chúng. Tuy vậy, do áp lực nội bộ và luật lệ nghiêm khắc của Tòa Thánh, tiếng
nói của họ không bao giờ được phép thoát ra bên ngoài.)
Khi
một linh mục bị giáo dân than phiền về hành vi ấu dâm của họ, trước hết giới
cầm quyền trong Giáo Hội sẽ tìm cách để khỏa lấp và dập tắt lời than phiền của
giáo dân đó. Họ làm việc nầy bằng nhiều cách: hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề, đòi
hỏi sự thông cảm về “tình cảnh khó xử” của Giáo Hội, kêu gọi sự tha thứ của gia
đình nạn nhân, bồi thường cho phụ huynh để họ không trình báo chính quyền, v.v.
Và điều quan trọng nhất là Giáo Hội luôn luôn yêu cầu gia đình nạn nhân tuyên
thệ trước mặt Thiên Chúa rằng họ sẽ giữ kín không kể lại sự việc nầy cho bất kỳ
ai khác biết.
Như
đã nói, Giáo Hội Công Giáo hiểu rõ là họ sở hữu một thế lực tâm linh rất đáng
kể đối với tín đồ. Đó là vì quan niệm của giáo dân cho Giáo Hội là những cá
nhân cao cả, tốt lành hơn mọi người khác, và đặc biệt có thể thay mặt Ơn Trên
xóa rửa tội lỗi cho họ. Do đó khi thảo luận và thương lượng, Giáo Hội có thể
uốn nắn cách suy nghĩ và phản ứng của gia đình nạn nhân theo đường hướng cần
thiết. Có khi giáo dân đến tố giác một trường hợp ấu dâm lại được tu sĩ đại
diện Giáo Hội làm phép rửa tội cho họ chẳng khác gì chính linh hồn họ bị nhơ
nhuốc. Các bản tường trình sau nầy còn cho thấy trong nhiều trường hợp, chính
gia đình nạn nhân đã mang mặc cảm tội lỗi vì đã than phiền với Giáo Hội về cha
xứ địa phương có hành vi tình dục với con em họ. Những phụ huynh nầy cảm thấy
có trách nhiệm vì sự than phiền của họ đưa đến tai tiếng xấu cho tôn giáo của
họ, gây ra sự bất an trong giáo phận họ, và luôn cả làm hư hại thanh danh của
chính linh mục đã xâm phạm tình dục con em họ!
Hiện
tượng “nạn nhân cảm thấy tội lỗi” vừa kể trên thật ra khá bất thường và hầu như
chỉ thấy xảy ra với Giáo Hội Công Giáo. Bất thường, và khó hiểu, là tại sao một
tổ chức nhân danh đạo đức như thế lại có thể đặt trọng quyền lợi của mình lên
trên quyền lợi của trẻ con, và tại sao họ có thể liên tục làm điều đó thành
công một cách lộ liễu như vậy từ vụ nầy đến vụ khác, từ thế hệ nầy qua thế hệ
khác.
Việc
làm kế tiếp của Giáo Hội khi đứng trước một vụ ấu dâm là thuyên chuyển tu sĩ
phạm tội đến một giáo phận mới. Đây là phương cách phổ biến nhất để tách rời
phạm nhân ra khỏi phạm trường và đồng thời có thể gây ấn tượng với nạn nhân là
“mọi việc đã được giải quyết”.
Tuy
nhiên, Giáo Hội hầu như không bao giờ cho ban quản trị (thí dụ như giám mục hay
tổng giám mục) của giáo phận mới nầy biết gì về lịch sử cũng như khuynh hướng
ấu dâm của tu sĩ vừa đến bổ nhiệm. Trong một số trường hợp, ngay cả khi tổng
giám mục địa phương biết rõ về tu sĩ có thành tích vi phạm tội ấu dâm nhiều
lần, tu sĩ nầy vẫn được cho phép tiếp tục hoạt động trong những môi trường
chung đụng với trẻ em. Vì vậy, một linh mục vừa bị tố giác xâm phạm tình dục
trẻ em ở một giáo xứ vẫn sẽ được giao cho trách nhiệm làm việc gần gũi với trẻ
em trong giáo xứ khác. Và không lâu sau thì ngựa quen đường cũ và các trẻ em
trong giáo xứ mới nầy cũng sẽ mang cùng số phận của các trẻ em trong giáo xứ
trước.
Sự
kiện nầy tái diễn nhiều lần trong nhiều giáo xứ vì Giáo Hội tiếp tục “giải
quyết vấn đề” bằng cách thuyên chuyển vị linh mục từ nơi nầy đến nơi khác.
Trong vài trường hợp đặc biệt khi không còn giáo xứ nào để thuyên chuyển nữa
thì các linh mục tái phạm tội quá nhiều lần sẽ được gởi sang hẳn qua một quốc
gia khác (thí dụ như trường hợp cha xứ Brendan Smyth sau khi không còn chỗ trú
ở Ái Nhĩ Lan đã được gởi sang Mỹ để tiếp tục làm cha xứ và tiếp tục xâm phạm
tình dục trẻ em).
Chủ
trương nổi bật kế tiếp của Giáo Hội là không trình báo nhà cầm quyền khi biết
rằng tu sĩ dưới quyền họ phạm tội (hay bị tố giác về tội) ấu dâm. Luật pháp
nhiều quốc gia đòi hỏi một người phải trình báo nhà cầm quyền khi nghe biết về
một trường hợp vi phạm tình dục liên quan đến trẻ em, ngay cả khi không có bằng
chứng rõ rệt. Khi nói về luật pháp, một khuynh hướng phổ biến trong Công Giáo
cho rằng tu sĩ là một thành phần đặc biệt trong xã hội. Họ cho rằng vì Công
Giáo là “tôn giáo chính thống” (“true church”) của Giê-su nên luật lệ của họ,
được đặt ra bởi những người đã được Thiên Chúa giao phái phận sự, có giá trị
hơn luật pháp xã hội. Do đó Giáo Hội chủ trương dùng giáo luật (Canon law) để
xét xử tu sĩ của họ, thay vì dùng luật hình sự (criminal law) mà luật pháp áp
dụng cho tất cả mọi người khác. Điều nầy cho thấy Giáo Hội tự cho rằng họ đứng
bên ngoài, và bên trên, luật pháp quốc gia. Vì việc nầy, Giáo Hội đã bị xem là
cố ý “ngăn cản quá trình thể hiện công lý” (“perverting the course of
justice”), và chính ngay việc nầy cũng là một tội hình sự.
Hơn
thế nữa, giáo luật Công Giáo về việc xưng tội và rửa tội không cho phép người
nghe xưng tội tiết lộ chi tiết cho ai khác biết. Giáo luật nầy đã được dùng
nhiều lần như một lý do (hay một cái cớ để tạo lối thoát?) giải thích tại sao
các tu sĩ quản trị trong Giáo Hội không thể trình báo các tu sĩ vi phạm ấu dâm
với nhà cầm quyền sau khi các tu sĩ nầy đã xưng tội với họ.
Tất
cả bản tường trình về các vụ án ấu dâm đã xảy ra cho đến nay đều cho thấy một
số lãnh đạo trong Giáo Hội hoặc 1/ có những mưu toan cố tình che dấu hành vi
của kẻ phạm tội, hoặc 2/ đã bất cẩn cực kỳ trong quá trình đối ứng với những vụ
ấu dâm trong lãnh phận của họ.
Một
thí dụ vào năm 1990 có người đã lén thâu âm được Phó Hồng Y Quinn ở Cleverland
nói rằng ông đã cho cất dấu tất cả bằng chứng có hại cho Giáo Hội khỏi hồ sơ
của các tu sĩ đang bị trình báo phạm tội ấu dâm; tuy nhiên nếu văn phòng của
Đức Giáo Hoàng cần thì các bằng chứng phản cảm nầy vẫn có thể được đưa ra với
điều kiện là chúng không được sử dụng trước tòa án pháp luật nào.
Một
thí dụ khác về trường hợp cha sở Jim Grennan ở Ái Nhĩ Lan, người bị điều tra về
tội vi phạm tình dục với 12 nữ học sinh trong nhóm sinh hoạt của ông ta tại một
nhà thờ địa phương. Tập hồ sơ cảnh sát của Grennan bỗng dưng ngày nào đó bị
thất lạc mất. Vì thiếu bằng chứng đầy đủ, Grennan đã thoát khỏi bị truy tố. Sau
nầy, viên cảnh sát quản lý cuộc điều tra về Grennan khi qua đời đã được Giáo
Hội ban tặng một giải thưởng tri ơn vì ông “đã tích cực phục vụ cộng đồng”.
Nhiều
cuộc điều tra cũng cho thấy một số chức sắc cao cấp trong Giáo Hội đã mua chuộc
gia đình nạn nhân bằng tiền để họ không thưa kiện. Vào giữa thập niên 1990,
Tổng Giám Mục Desmond Connell (sau nầy trở thành Hồng Y) của Dublin đã cho một
tu sĩ dưới quyền ông “mượn” một số tiền lớn để trả cho cha mẹ một bé trai trong
đoàn thánh ca địa phương (tên Andrew Madden) để họ không trình báo với cảnh sát
là tu sĩ trên đã vi phạm tình dục với con họ. Sau khi sự việc đổ bễ, Hồng Y
Connell khai rằng ông không hề cho tu sĩ ấy mượn tiền để mua chuộc gia đình nạn
nhân. Ông khẳng định rằng ông “chỉ cho mượn một số tiền, và tu sĩ ấy đã tự ý
dùng món tiền nầy để mua chuộc nạn nhân”.
Nhìn
tổng quát, có vẻ như thái độ chung của nhiều giới chức cao cấp trong Giáo Hội
là phải bảo vệ Giáo Hội bằng mọi cách. Chúng ta biết rằng có những thành viên
trong một tổ chức sẵn sàng làm nhiều sự việc mà chính họ biết là sai trái chỉ
vì họ tin rằng các sự việc sai trái đó cuối cùng sẽ mang lợi ích cho đoàn thể
của họ. Hiện tượng “ăn cây nào rào cây nấy” nầy không có gì lạ. Lý luận “cứu
cánh biện hộ cho phương tiện” cũng không có gì lạ. Tuy nhiên, mức độ áp dụng
các câu tục ngữ trên và quan niệm “trung thành” trong Giáo Hội Công Giáo được
xem là đặc biệt ngoại hạng trong trường hợp nầy.
Khi
nhìn lại nhiệm kỳ dài 27 năm của cựu Giáo Hoàng John Paul II (từ 1978 đến 2005)
chúng ta có thể thấy một lịch sử ấu dâm khủng khiếp nhất. Có thể chỉ là vì
trong thời kỳ nầy những cuộc tố cáo và điều tra mới bắt đầu bùng nổ lớn ra hơn
hẳn trước đó. Trong thời kỳ nầy chỉ tại các quốc gia Âu Châu là Ái Nhĩ Lan, Úc,
Đức, Chi-Lê, Alaska, Tân Tây Lan, Thụy Điễn, Haiti, Hòa Lan, Anh Quốc, Ý,
Caribbean, Kenya, Thụy Sĩ, Croatia, Pháp, Na-Uy, Nigeria, Nam Phi, Áo, Bĩ và Ba
Tây đã có hơn 1700 linh mục bị tố cáo về tội cưỡng dâm trẻ em. Đặc biệt chỉ
riêng Ái Nhĩ Lan có 800 tu sĩ đã bị tố cáo liên quan tình dục với 14 ngàn trẻ
em. Trong Mỹ Châu, tất cả mỗi tỉnh lỵ của Gia Nã Đại đều có ít nhất một tu sĩ
Công Giáo bị tố cáo về ấu dâm. Ở Alaska có một địa phương mà 80% tất cả trẻ em
trong làng đã bị cha xứ cùng một cộng sự viên thay nhau cưỡng hiếp, lần lượt,
và xảy ra mỗi ngày.
Thống
kê ở các quốc gia Á Châu cũng không khá gì hơn so với các nước Âu Mỹ. Ngay cả
hội Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), một tổ chức nhân quyền lớn nhất thế
giới, lần đầu tiên trong 50 năm đã phải nêu danh Tòa Thánh La Mã trong bản
tường trình quốc tế hàng năm và khuyến cáo họ là “đã bỏ lơ trách nhiệm liên
quan đến việc bảo vệ nhân quyền trẻ em”.
Vào
năm 2010, một giám mục dựa trên con số đơn nộp tố cáo và tuyên bố nạn ấu dâm ở
Hoa Kỳ đã giảm xuống rõ rệt. Giám mục nầy cho biết trong 2009 trên toàn quốc
“chỉ nhận được 15.235 vụ than phiền” (!) Việc nầy lập tức đưa ra câu hỏi “Thế
thì thật sự con số trẻ em bị tu sĩ Công Giáo cưỡng bức tình dục là bao nhiêu!?”
Bản
tường trình của Hội Đồng Điều Tra Murphy năm 2009 ước đoán chỉ nội trong Hoa Kỳ
có khoảng 100 ngàn trẻ em là nạn nhân ấu dâm bởi tu sĩ Công Giáo trong 3 thập
niên. Nếu ngoại suy ra thì con số trẻ em trên thế giới đã bị tu sĩ Công Giáo
cưỡng bức tình dục trong khoảng thời gian nầy lên đến không dưới 300 ngàn.
Trong
suốt nhiệm kỳ của Giáo Hoàng John Paul II, Tòa Thánh có vẻ như đã làm đủ mọi
cách để bảo vệ tu sĩ phạm tội. Tòa Thánh qua nhiều năm đã đứng đơn chống án xin
Tòa Thượng Thẩm ở Mỹ được phép không phải đệ trình bộ hồ sơ dầy 12 ngàn trang
của họ chứa đựng dữ kiện liên quan đến các tu sĩ bị tố cáo ấu dâm. Đại diện Tòa
Thánh, Hồng Y Angelo Sodano, tại thánh lễ Phục Sinh ở Công Trường St Peter vào
tháng Tư 2010 tuyên bố rằng “những cáo buột của báo chỉ chỉ là lời nhỏ nhen
không đáng để tâm đến”. Tuy nhiên, khi Tòa Thượng Thẩm ra trác lệnh cho phép
phóng viên báo chí được khảo nghiệm bộ hồ sơ trên thì người ta thấy có vô số
các dữ kiện gớm ghiết về tu sĩ cưỡng dâm trẻ con chứa đựng bên trong. Việc nầy
đã phát khởi một phong trào như nước vỡ bờ chỉ trích, phản đối hành vi bao che
của Tòa Thánh.
Người
kế vị John Paul II là cựu Giáo Hoàng Benedict cũng được xem là đã góp phần vào
chính sách bao che, dấu giếm tệ nạn ấu dâm trong Công Giáo. Vào năm 1980,
Benedict (lúc đó vẫn còn mang tên Joseph Ratzinger) là tổng giám mục của giáo
phận Munich ở Đức. Tài liệu vừa được đưa ra ánh sáng vào năm 2010 cho thấy lúc
đó ông đồng ý thâu nhận vào Munich một tu sĩ tên H. (dấu tên) đã từng có bị
trình báo nhiều lần về tội ấu dâm ở giáo phận Essen. Tuy vậy, tu sĩ H. nầy vẫn
được tiếp tục làm việc thân cận với trẻ em trong giáo phận Munich, dưới quyền
quản trị của Ratzinger. Tài liệu nầy cũng cho biết tu sĩ H. mặc dù vào năm 1986
đã bị phạt và mang án treo vì tội ấu dâm vẫn được giữ chức vụ của ông ta tổng
cộng hơn 30 năm, và tiếp tục vi phạm tình dục với trẻ em nhiều lần trong thời
gian nầy.
Cũng
cần nói thêm là sau khi sự việc nầy bị phanh phui ra vào năm 2010, Giáo Hội đã
cử người điều tra để tìm hiểu chi tiết và lý do tại sao Đức Giáo Hoàng đương
thời lúc đó của họ đã không có hành động thích hợp vào những năm 1980. Giới phê
bình cho rằng đây chỉ là một màn cố chữa cháy buồn cười: Giáo Hội tự đề cử
người của họ để điều tra lãnh tụ của họ! Dĩ nhiên là kết quả cuộc điều tra nầy
đã không dẫn đến bằng chứng nào cho thấy Benedict có lỗi trong vấn đề trên.
Sau
khi Benedict bị cáo buột là đã có trách nhiệm, ít nhất là vì bất cẩn, trong vụ
tu sĩ H. trước đây, người ta nghĩ rằng với cương vị một Đức Giáo Hoàng thì ông
đáng lẽ sẽ nỗ lực sửa đổi, cải thiện hệ thống kiểm soát và quản lý các tu sĩ có
tiền tích ấu dâm trong Công Giáo. Tuy vậy, trong suốt thời gian còn lại cho đến
khi từ chức năm 2013, Benedict đã không làm một điều gì cả để thay đổi tình
trạng nầy. Vài hội bảo vệ trẻ em đặt ra câu hỏi vì thái độ “không làm gì cả” đó
nên không biết có bao nhiêu trẻ em khác sau nầy đáng lẽ đã tránh khỏi nhưng đã
trở thành nạn nhân ấu dâm của tu sĩ Công Giáo.
Ngay
cả lá thư của cựu Giáo Hoàng Benedict gởi đến xin lỗi cộng đồng Công Giáo ở Ái
Nhĩ Lan vào tháng Ba, 2010 cũng đã làm nhiều nạn nhân phẫn nộ thay vì cảm kích.
Người ta cho rằng lá thơ nầy chỉ xin lỗi về vấn đề tu sĩ phạm tội ấu dâm. Tuyệt
nhiên không có gì nhắc đến việc Tòa Thánh có trách nhiệm về việc bao che các tu
sĩ nầy và cung cấp cơ hội cho họ tiếp tục phạm tội nhiều lần nữa. Trong lá thơ
nầy, Benedict cũng không đề cập đến những hồng y, tổng giám mục đã liên quan
đến các vụ bao che nổi bật sẽ bị Giáo Hội trừng phạt như thế nào.
Hai vị Giáo hoàng bao che cho những Linh mục phạm tội ấu dâm: Giáo hoàng
John Paul 2 (1920-2005) và Giáo
hoàng Benedict 16 (1927- ) – Rõ ràng
là có hai chuẩn mực đạo đức và pháp luật khác nhau: Trong khi toàn thể nhân loại
lên án và kết tội những Linh mục phạm tội ấu dâm thì Giáo hội Công giáo Vatican lại bao che cho những tội ác nầy. Không
những thế, Giáo hoàng John Paul 2 còn được Giáo hoàng Francis đương nhiệm phong … “Thánh” vào ngày 27-4-2014
(Ảnh: beliefnet.com)
Năm
2014, chính hội đồng Liên Hiệp Quốc cũng phải lên tiếng chỉ trích Tòa Thánh đã
không dập tắt được tệ nạn ấu dâm mà còn dung dưỡng việc bao che. Dưới áp lực từ
mọi phía, Tòa Thánh bắt buột phải tỏ cho thế giới thấy họ đang tích cực sửa đổi
lỗi lầm của họ. Đương kim Đức Giáo Hoàng Francis đã thành lập một ban cố
vấn gồm 7 nữ và 9 nam trong đó có tu sĩ lẫn thường dân, dưới sự hướng dẫn của
Sean O’Malley, một Hồng Y người Mỹ. Ban cố vấn nầy có nhiệm vụ nghiên cứu và
góp ý với Đức Giáo Hoàng tìm kiếm phương cách hữu hiệu nhất đối phó với tệ nạn
ấu dâm. Đặc biệt là trong ban cố vấn trên có một người Anh và một người Ái Nhĩ
Lan đã từng là nạn nhân bởi tu sĩ Công Giáo.
Thể
theo đề nghị của ban cố vấn trên, vào đầu 2015 Giáo Hoàng Francis đã chuẩn
duyệt việc thành lập một hội đồng tòa án chủ yếu nhằm điều tra những giám mục
đã cố tình che đậy các vụ án ấu dâm trong giáo phận họ, cụ thể nhất bằng cách
thuyên chuyển các tu sĩ phạm tội từ giáo phận nầy sang giáo phận khác thay vì
trình báo cảnh sát đúng theo luật pháp đòi hỏi. Hội đồng tòa án nầy có một quy
trình thẩm tra quy định rõ ràng từng bước những gì cần phải làm để đảm bảo các
giám mục, tổng giám mục đó bị trừng phạt nhanh chóng và thích đáng. Hội đồng
tòa án nầy đồng thời cũng dùng quy trình trên để phục hồi thanh danh cho những
giám mục vô tội đã bị tố cáo sai lầm. Đây là một lối đi chưa từng thấy trong
những chiến dịch bài trừ ấu dâm (nói chung là đều đã thất bại) của Giáo Hội từ
trước đến nay.
Nhiều
người cho đây là một bước tiến đúng hướng của Đức Giáo Hoàng Francis trong việc
bắt buộc giới chức cao cấp trong Giáo Hội chịu trách nhiệm về các tu sĩ phạm
tội dưới quyền họ. Đây cũng được xem là một bước tiến lạc quan trong việc phòng
chống các trường hợp ấu dâm trong tương lai cũng như giúp đỡ quá trình bình
phục tâm lý của những nạn nhân. Tuy nhiên cũng có không ít người khác vẫn cho
là hành động nầy không giúp gì nhiều vì nó quá ít oi và quá trễ. Nhóm Nạn Nhân
bị Cưỡng Bách bởi Tu Sĩ nhận xét: “Đức Giáo Hoàng đáng lẽ cần tước bỏ chức vị
của hàng tá giám mục về tội đồng lõa. Tuy vậy cho đến nay vẫn chưa có ai bị mất
chức cả!”
(Trường
hợp Tổng Giám Mục John Nienstedt và Phó Tổng Giám Mục Lee Piche tại Minnesota ở
Mỹ đã kể ở Phần 1 là họ đã được Tòa Thánh “cho phép tự nguyện từ chức” chớ
không phải bị Tòa Thánh lột chức vì đã phạm lỗi).
Becky
Ianni, lãnh đạo của nhóm Nạn Nhân bị Cưỡng Bách bởi Tu Sĩ ở Washington, cho
rằng bà không cần thấy sự thành lập của một hội đồng nữa, nhất là hội đồng nầy
cũng sẽ gồm có những người hoặc đã đích thân liên can đến ấu dâm hoặc đã hỗ trợ
việc bao che ấu dâm trong Giáo Hội. Vấn đề ở đây, theo bà, không phải là Giáo
Hội thiếu người được giao cho trách nhiệm điều tra đồng nghiệp của họ. Vấn đề ở
đây là Giáo Hội không có người đủ can đảm để thi hành hoàn chỉnh trách nhiệm
điều tra các đồng nghiệp của họ. Bà không hề yêu cầu được thấy sự thành lập một
quy trình hướng dẫn cách thức điều tra, truy tố và trừng phạt những kẻ phạm
tội. Bà chỉ muốn thấy những việc đó thật sự xảy ra mà thôi. Và, theo bà, cho
đến nay vẫn chưa có gì xảy ra.
Peter
Saunders là một trong hai thành viên đã từng là nạn nhân ấu dâm trong ban cố
vấn vừa kể trên. Ông nói: “Chừng nào các tu sĩ cao cấp đã bị tố giác ra đến
trước mặt hội đồng thì chúng ta mới biết quy trình thẩm tra nầy có ích lợi gì
hay không”.
Câu
nói của bà Becky Ianni ở trên “hội đồng nầy cũng sẽ gồm có những người hoặc đã
đích thân liên can đến ấu dâm hoặc đã hỗ trợ việc bao che ấu dâm trong Giáo
Hội” có lẽ dựa vào bài tường thuật của một ký giả người Ý tên Eugenio Scalfari
của tờ báo Ý La Repubblica ngày 14 tháng Bảy 2014. Ký giả nầy cho biết vào ngày
Chúa Nhật trước đó, ông đã được gặp mặt và đàm thoại riêng với Giáo Hoàng
Francis. Cuộc đàm thoại nầy vì không phải là một buổi phỏng vấn chính thức nên
ông đã không dùng máy ghi âm. Ông kể lại Giáo Hoàng Francis khi nói đến vấn đề
ấu dâm của tu sĩ Công Giáo đã so sánh tệ nạn nầy “giống như một bệnh cùi hũi
trong Giáo Hội”. Giáo Hoàng cũng tuyên bố: “Chúng ta có khoảng 2% là những kẻ
ấu dâm bao gồm những linh mục, giám mục và hồng y. Một số khác, lớn hơn nhiều,
tuy biết về điều nầy nhưng vẫn không lên tiếng gì cả”, và “Đây là một điều
không tha thứ được. Giống như Giê-su, tôi sẽ lấy gậy đập đầu các tu sĩ ấu dâm nầy…”
Các
báo chí thế giới xem đây là lời thú nhận của Giáo Hoàng Francis về 2 điều. Thứ
nhất, trong Giáo Hội có khoảng 2% tu sĩ có tính ấu dâm (con số nầy có vẻ phù
hợp với các tỉ lệ của những cuộc điều tra trước đây – như đã nói ở trên). Điều
nầy có nghĩa là khoảng 8 ngàn tu sĩ có khuyn hướng ấu dâm trong số tổng cộng
410 ngàn tu sĩ của Công Giáo. Thứ hai, trong số 2% nầy ngoài các linh mục, giám
mục còn là cả một số hồng y nữa (“hồng y” là phụ tá thân cận của Giáo Hoàng làm
việc trong Tòa Thánh). Tuy nhiên ngay sau khi bài báo trên được đăng ra, Tòa
Thánh đã vội vã cãi chính rằng “bài tường thuật trên báo La Repubblica tuy diễn
tả được nội dung tổng quát của cuộc đàm thoại nhưng có vài chi tiết không chính
xác. Đáng kể nhất là Đức Giáo Hoàng không hề nói là 2% tổng số tu sĩ Công Giáo
có khuynh hướng ấu dâm mà thật ra chỉ nhắc đến 2% như một con số thường được
các nhà bình luận ước lượng; và Đức Giáo Hoàng không hề nói là trong số đó có
bao gồm cả những hồng y”.
Một
sự kiện khác không mấy gì có lợi cho Giáo Hoàng Francis là việc người giữ chức
Trưởng Tài Vụ hiện tại của Tòa Thánh lại cũng đã bị điều tra về việc bao che
một tu sĩ phạm tội ấu dâm dưới quyền ông ấy. Hồng Y George Pell, một tổng giám
mục người Úc đã được Giáo Hoàng Francis tuyển chọn đến Vatican làm Trưởng Tài
Vụ cho Giáo Hội vào tháng Hai năm 2014. Chỉ đến tháng Ba cùng năm, George Pell
bị Hội Đồng Thẩm Tra Hoàng Gia Bài Trừ Ấu Dâm của Úc Châu gọi ra chất vấn về
một vụ án ấu dâm xảy ra vào năm 1993 ở Ballarat (một thành phố nhỏ ở miền đông
nam nước Úc).
Cuộc
điều tra nầy thật ra chú trọng vào các vụ ấu dâm đã xảy ra trong vài thập niên
bắt đầu từ 1970 tại Ballarat. Tài liệu cho thấy rằng rất có thể tất cả trẻ em
trai từ 10 đến 16 tuổi tại trường tiểu học St Alipius ở thị trấn thôn quê nầy
đều đã bị cưỡng dâm bởi các linh mục làm việc ở đó. Việc nầy có ảnh hưởng sâu
đậm lâu dài đến rất nhiều gia đình trong vùng. Một người đã từng là nạn nhân
đưa ra một tấm ảnh lớp học cũ của ông ấy có 33 học sinh, trong đó cho đến nay
đã có 12 người tự tử chết. Một người khác, cũng đã từng là nạn nhân, nhắc đến
Viện Mồ Côi St Joseph’s trong thị trấn nơi mà ông đã bị cưỡng hiếp liên tục từ
lúc 5 tuổi. Ông kể lại lúc đó ông được bảo rằng: “Cha chỉ muốn thanh tẩy cho
con mà thôi”.
Trong
vụ án nầy, tổng giám mục George Pell không phải là nghi phạm trực tiếp. Tu sĩ
phạm tội tên Gerald Ridsdale (là một trong những linh mục làm việc ở Ballarat
lúc đó và hiện đang ở tù vì vụ nầy) là chú ruột của nạn nhân (David Ridsdale,
chỉ mới 11 tuổi lúc bị cưỡng dâm). Gia đình nạn nhân khai rằng khi họ than
phiền với tổng giám mục George Pell (lúc đó thân thiết với họ như là một người
bạn gia đình) thì ông hỏi họ muốn được trả bao nhiêu tiền để đổi lấy sự im lặng
của họ. Họ cũng khai rằng George Pell lúc đó đã giải quyết vấn đề bằng cách
thuyên chuyển tu sĩ phạm tội ấy từ giáo xứ nầy đến giáo xứ khác.
Trong
buổi thẩm vấn vào tháng Ba 2014, Hồng Y Pell đã phủ nhận tất cả cáo buộc trên.
Ông khai rằng tuy ông rất thông hiểu nỗi đau đớn của nạn nhân và gia đình nhưng
ông không hề cố mua chuộc ai cả, cũng không hề liên quan gì đến việc linh mục
Ridsdale được thuyên chuyển từ nơi nầy đến nơi khác. Ngay khi bài tiểu luận nầy
được soạn thảo (tháng Chín 2015), cuộc điều tra trên vẫn còn đang tiếp diễn.
Nhóm Nạn Nhân bị Cưỡng Bách bởi Tu Sĩ ở Úc kêu gọi Hồng Y Pell tình nguyện trở
về Úc một lần nữa để ra trước Hội Đồng Thẩm Tra cung cấp thêm dữ kiện cần thiết
nhưng đến nay Hồng Y Pell đã từ chối làm điều nầy.
Một
chi tiết gần như lý thú là sáng ngày linh mục Gerald Ridsdale ra hầu tòa vào
năm 1993 về tội ấu dâm thì người ta thấy có giám mục George Pell đi theo kèm kế
bên để ủng hộ tinh thần. Trong khi đó bên phía nạn nhân thì không có ai đại
diện Giáo Hội đến để hỗ trợ cả. Nếu George Pell thật sự “thông hiểu nỗi đau đớn
của nạn nhân và gia đình” như ông nói thì tại sao hôm đó ông lựa chọn đi theo
hỗ trợ kẻ tội phạm thay vì đi theo hỗ trợ gia đình nạn nhân? Nhiều người cho
rằng chỉ nội việc nầy thôi cũng cho thấy rõ Giáo Hội đứng bên phe nào giữa tu
sĩ phạm tội và đứa bé nạn nhân.
LM
Gerald Ridsdale (mang kiếng
đen) ra hầu
tòa
với sự ủng hộ tinh thần của Giám mục
George Pell
(Ảnh: AAP/theguardian.com)
Những
sự kiện lịch sử vừa được trình bày ở đây đã làm giới phê bình kết luận rằng
đàng sau những giáo đường trang nghiêm và những chương trình phước thiện bác ái
của Công Giáo chỉ là một thế giới quan liêu, đẳng cấp, phe phái và lắm lúc đầy
gian trá của Tòa Thánh. Như đã nói, cấu trúc từ xưa đến nay của Tòa Thánh không
khác mấy với các tổ chức phong kiến của vua chúa thời xưa. Những người làm việc
trong môi trường nầy nếu muốn tồn tại sẽ phải hành sử tương tự, bằng không họ
sẽ bị nghiền nát bởi guồng máy khổng lồ và phức tạp của Giáo Hội.
Người
ta cũng dùng thí dụ nầy để cho thấy Tòa Thánh La Mã không phải là một cơ sở
hoàn toàn thánh thiện, trong sạch và quang minh chính đại như chúng ta thường
nghĩ. Và tu sĩ Công Giáo không phải là những người lúc nào cũng cao cả, đức
hạnh và đáng tín nhiệm hơn mọi người khác.
(Thật
ra thì kết luận trên có thể áp dụng cho bất cứ tổ chức tôn giáo và bất cứ dạng
tu sĩ nào. Tuy nhiên câu tục ngữ “chiếc áo không làm nên thầy tu” mặc dù dễ
hiểu nhưng cũng rất khó nhớ cho nhiều người để áp dụng khi giao dịch trong môi
trường tôn giáo.)
Nguyễn Nhân Trí
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét