[Trích
từ BBC] Ông sinh năm 1928 trại Trà Vinh, là một cây bút nổi tiếng tại Sài
Gòn với các tác phẩm triết học và những bài báo viết về thanh niên Việt Nam
trước 1975.
Ông Lý Chánh Trung từng
giảng dạy đại học tại Văn Khoa Sài Gòn, dạy triết học tại Viện Đại học Huế và
Đà Lạt.
Những tác phẩm nổi tiếng
của ông trước 1975 như Ba năm xáo trộn,
Tìm về dân tộc, Cách mạng và đạo đức, Tìm
hiểu về nước Mỹ, Bọt biển và sóng
ngầm, Tôn giáo và dân tộc.
Ông Nguyễn Quốc Thái, biên
tập tờ Tạp chí Đất Nước năm 1966 nói
ông Trung là người “có tư tưởng rất cách tân”. Khi đó ông Lý Chánh Trung làm
chủ nhiệm tờ này.
Trả lời BBC Tiếng Việt từ
Sài Gòn, ông Thái mô tả: “Cái nhìn của
anh Trung được sự chú ý của giới trí thức trong nước, giới Công giáo và người
ngoài Công giáo. Nhiều bài của anh gây ấn tượng với Hội đồng Giám mục lúc đó."
"Những bài viết của anh Lý Chánh Trung về dân tộc, sau này tập hợp trong
quyển "Tìm về dân tộc" đã đánh rất mạnh vào tâm thức, tình tự dân tộc
của sinh viên, học sinh và trí thức." [Ngưng trích]
Báo Người
Việt Online nhớ lại rằng “Ông là một thầy dạy Triết rất hay ở Đại học Văn
Khoa và ngành Sư Phạm, ban Triết Học. Những tập giáo khoa của ông về Hiện Tượng
Học, Đạo Đức Học, … được trình bày khúc chiết, dễ hiểu và sâu sắc, có thể nói là
tài hoa, trong đó không ẩn một ý chính trị nào. Thỉnh thoảng trong chổ riêng tư
chuyện trò với sinh viên, ông kể về thời mới lớn, khi tham gia phong trào Việt
Minh ở quê ông, như là những kỷ niệm đẹp trong đời”
Báo Thanh
Niên Online còn cho biết thêm: “GS Lý Chánh Trung là một trí thức yêu nước
nổi tiếng, một người từng tu nghiệp ở Bỉ và làm Tiến sĩ ở Pháp trong những năm
50 của thế kỷ trước. Sau năm 1975, ông từng là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban T.Ư
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
TP.HCM, Đại biểu Quốc hội 3 khóa VI, VII, VIII.”
***
Chúng tôi
xin trích đăng lại hai nhận định của ông từ hai tác phẩm có sức lan tỏa mạnh nhất
trong giới thanh niên sinh viên miền Nam trong những năm 1960’s và 70’s. Một trích
dẫn trong cuốn Tìm Về Dân Tộc khi ông
hồi tưởng lại tâm trạng bơ vơ lạc lỏng của một người Công giáo trên chính quê hương
mình trong một ngày vui của Dân tộc. Và một trích dẫn trong cuốn Tôn Giáo Và Dân Tộc khi ông đánh giá chiến
lược truyền đạo bất khoan dung của Giáo hội Công giáo tại các nước Á châu.
Hy vọng rằng
hai tác phẩm nầy sẽ được tái bản và phổ biến rộng rãi để những thế hệ sau, nhất
là những trí thức trẻ Công giáo Việt Nam, biết được tâm tình và tư duy của một
người đồng đạo của họ trên bước đường … tìm về Dân Tộc. – KT
Tìm Về Dân Tộc
(Trình Bày, 1967) & Tôn Giáo Và Dân
Tộc (Lữa Thiêng, 1972)
■ Tìm Về Dân Tộc (trang 23) – Tâm tình
của một người “khách lạ trên chính quê hương mình” nhân ngày 9-3-1945, ngày quân
đội Nhật đảo chánh Pháp, chấm
dứt 80 năm ách đô hộ của thực dân Pháp, mà còn đảm bảo rằng Pháp sẽ không thể
nào trở lại Việt Nam với tư cách một nước thống trị nữa. (Xem
thêm Lê Mạnh Hùng)
Từ trường Taberd Sài Gòn ra Huế, tôi được học ở trường
Providence, thọ giáo với các linh mục của hội Mission Etrangère.
Nói đến xứ Trung Kỳ, nghe xa lạ làm sao. Từ nhỏ chí lớn, tôi chỉ biết có cờ Tam sắc, bây giờ ra
Huế mới hay rằng xứ An Nam còn có một lá cờ, lá cờ vàng sọc đỏ (thuở đó mới có
một sọc thôi...)
Nhưng lá cờ đó không gây cho tôi một sự hãnh diện nào mà
trái lại: Tất cả những vật đó có vẻ mốc meo, mục nát, lỗi thời, không còn một chút gì liên hệ với tôi.
Tôi còn nhớ buổi chào cờ trọng thể đầu niên học tại trường
Providence, tòa Khâm sứ và Chính phủ Nam triều đều cử đại diện đến tham dự. Bên
người Pháp là hai ông sĩ quan trẻ tuổi hùng dũng trong bộ quân phục trắng tinh.
Bên người Việt có hai cụ sồn sồn bụng phệ, khăn đóng áo rộng thùng thình lẹp
xẹp đôi dép hàm ếch, lại còn phe phẩy cái quạt đồi mồi ngay trong lễ thượng cờ.
Chúa ơi! Trông mới chán đời làm sao!
Trường Providence tân tiến hơn trường Taberd, có một nền
giáo dục hoàn bị, cởi mở hơn trường Taberd. Các Cha gần gũi học sinh hơn các sư
huynh. Nơi đây tôi đã hấp thụ những kiến thức vững chắc để có thể hiểu biết nền
văn hóa Tây phương là nền văn hóa quân bình, nhân bản và sâu sắc. Tôi cũng đã
thấm nhuần nền đạo lý Kitô giáo để cảm thấy cái đòi hỏi (ít ra cũng được như
thế) hướng cuộc đời mình về một cái gì tốt.
Nền giáo dục này hội điều kiện cho tôi “thành người”. Chỉ tiếc một điều là “con người đào tạo nơi
đây không phải là con người Việt Nam”! Quê hương vắng bóng ngay giữa lòng quê
hương!
Trong mấy năm trường, chúng
tôi đã sống bên ngoài dân tộc, bên lề lịch sử. Cho nên đêm mồng 9/3/1945,
khi tiếng súng của quân đội Nhật hoàng đì đùng báo hiệu sự cáo chung của nền đô
hộ Pháp, chúng tôi chẳng hiểu mô tê gì.
Vài ngày sau, học sinh trường Khải Định, Đồng Khánh biểu
tình mừng độc lập: Việt Nam Độc Lập! “Việt
Nam” đã lạ tai rồi, “Độc Lập”
nghe còn quái đản hơn.
Ngày biểu tình, chúng tôi tò mò đi xem, nhìn thiên hạ vác
biểu ngữ reo hò “Việt Nam! Việt Nam!” mà chẳng
thấy vui mừng chi, chỉ nghe ấm ức và bực bội và cảm thấy mình bơ vơ, lạc loài giữa đám đông. Tôi còn
nhớ một đứa trong bọn tôi đã nói lớn “Độc lập là cái cóc gì?” Câu hỏi xấc xược,
ngô nghê này diễn đạt cái tâm trạng chung của chúng tôi lúc ấy. Quả tình chúng
tôi không hiểu...
■Tôn Giáo Và Dân Tộc (từ trang 65) – Đánh
giá quá trình truyền đạo Công giáo của Vatican tại Á châu.
... Lẽ dĩ nhiên, cứu cánh tối hậu
này là mở mang nước Chúa, nhưng sự “mở
mang nước Chúa” đôi khi đi ngược lại
quyền lợi một số dân tộc. Chẳng hạn từ thời Phục hưng cho tới những năm gần
đây, chính sách của Vatican trên căn bản vẫn là cấu kết với những cường quốc
Tây phương theo gót những đoàn quân viễn chinh để giảng đạo, và trong các nước
thuộc địa, biến các giáo hội bản xứ
thành những rường cột của chế độ thực dân.
Thứ đến, Phật giáo đã được truyền
bá như một tôn giáo thuần túy, không pha lẫn với một trào lưu chính trị nào,
cũng không có một tổ chức quốc tế rõ rệt nên đã không gây nên những hiểu lầm
đáng tiếc như Công giáo.
Trong giáo hội Công giáo thì trái
lại, khuynh hướng đóng kín và tự mãn hiện diện ngay trên bình diện tập thể và
giáo hội tự ý thức mình như một dân tộc
được Thiên Chúa chọn lựa giao phó cho sứ mạng cứu rỗi nhân loại. Giáo hội
là con đường độc nhất đưa tới Thiên Chúa: “Ngoài
Giáo hội không thể có sự cứu rỗi” (Hors de l’Eglise, Point de Salut). Từ
khi giáo hội thành Quốc giáo dưới triều đại Constantin và nắm được những thế
lực lớn lao thì “cây gươm tinh thần” của thánh Phao Lồ đã luôn luôn bị cám dỗ,
đã biến thành cây gươm thép thật sự. Giáo
hội đã không ngần ngại dùng đến thế lực để tiêu diệt các tôn giáo khác, đập
phá các đền thờ “tà thần”, đốt sách vở ngoại đạo và đốt luôn những người bị xem
là “lạc đạo” nếu không chịu sửa sai. Trong xã hội loài người, giáo hội không bao giờ chịu công nhận cho
các tôn giáo khác hoặc cho những người không Công giáo cái quyền ăn nói ngang
hàng với mình bởi cái lý do giản dị là chỉ giáo hội mới có sự thật, mới có
quyền ăn nói. Đức Giáo Hoàng Gregoire XVI đã gọi “tự do báo chí” là “tự do tai hại nhất, đáng ghét nhất, kinh tởm
nhất” mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá
khắp mọi nơi.
Tôi nghĩ rằng chính sự bất khoan
dung đó (và nhiều lý do khác) đã khiến cho Giáo
hội va chạm một cách nặng nề với các dân tộc Á Đông và đã không mỹ mãn
trong việc rao giảng tin mừng trong vùng này. Sau bốn thế kỷ giảng đạo với
những phương tiện hùng hậu, những hy sinh lớn lao, phải nhận rằng số người Á
Đông theo đạo Công giáo thật là ít ỏi ngoại trừ tại xứ Phi Luật Tân. (Đó là chỉ
mới nhìn đến số lượng. Nếu nhìn đến phẩm lượng “qualité” thì có lẽ kết quả còn
khiêm tốn hơn nữa: chưa có một Giáo hội Á Đông nào sản xuất được một vị thánh,
và trình độ đạo đức trung bình của người Thiên Chúa giáo Á Đông không có gì gọi
là “cao” hơn những người không Thiên Chúa giáo). Lý do căn bản của kết quả
khiêm tốn ấy phải chăng là vì người Á Đông
khi theo Đạo đã phải ly cách cộng đồng Dân Tộc. Chính vì Giáo Hội đã xem
các nền văn hóa Á Đông là vô giá trị, sai lầm, tội lỗi do đó gần như bắt buộc
người Á Đông phải lựa chọn giữa dân tộc và giáo hội.
Sưu tầm của Kevin Trần
3/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét