Lê Mạnh Thát
Tiếng nói của dân tộc ta chắc chắn tồn tại từ
lâu lắm rồi. Nhưng phải tới cuối thời kỳ triều đại Hùng Vương, tức vào khoảng
những thế kỷ trước và sau tây lịch, ta mới có một số thông tin về tiếng nói này
qua bài Việt ca và một số cấu trúc được tìm thấy trong Lục độ tập kinh và Tạp thí dụ
kinh. Đặc biệt hai bản kinh vừa nói có khả năng đã tồn tại như những bản
kinh tiếng Việt đầu tiên mà ta hiện biết, và đã lưu hành vào những thế kỷ đầu
sau tây lịch, tối thiểu cho tới lúc Khương Tăng Hội (? – 280) dịch ra tiếng
Trung Quốc. Vào thời điểm này, tiếng Việt đã phát triển phong phú và đa dạng,
đến nỗi Sĩ Nhiếp (137-226) tương truyền đã viết bộ từ điển Hán Việt đầu tiên
được biết, đó là Chỉ nam phẩm vựng
hai cuốn. Đà phát triển này vẫn tiếp tục tới cuối thế kỷ thứ tư với sự ra đời
các tác phẩm có thể coi như tự điển chữ Việt và cách thức ghi âm chữ Việt biết
dưới tên Tá âm và Tá âm tự của Đạo Cao (370 -450?)1.
Rồi sau đó tiếng Việt như một văn tự vẫn tiếp
tục được sử dụng mạnh mẽ. Dân ta đã dùng tên Bố Cái Đại Vương để gọi cho người
anh hùng Phùng Hưng. Và khi nền độc lập dân tộc được phục hưng, các triều đại
có khả năng đã dùng tiếng Việt để ban bố các mệnh lệnh hành chánh của triều
đình cho dân chúng. Ta có thể mạnh dạn đưa ra giả thiết này nhờ vào một sự cố
giữa hàn lâm phụng chỉ Đinh Củng Viên và hành khiển Lê Tòng Giáo năm 1288, theo
đó có lệ cũ là phải viết và đọc chiếu chỉ của vua bằng hai thứ tiếng, tiếng
Việt và tiếng Hán. Như thế, đến giữa thế kỷ thứ 13, tiếng Việt như một văn tự
đã thực hiện mọi chức năng của nó. Điều bất hạnh là do thiên tai và địch họa,
hàng loạt các tác phẩm viết bằng tiếng nói của dân tộc ta từ những bản kinh đầu
tiên như Lục độ tập kinh và các bản
chiếu chỉ của nhà vua cho đến các tác phẩm văn học như Tiều ẩn quốc ngữ thi tập của Chu Văn An đã bị tán thất.
Bài thơ tiếng Việt tương truyền đầu tiên hiện
biết là bài Giáo trò cho các buổi hát
chèo thường được gắn cho tên tuổi của thiền sư Đạo Hạnh (? -1117). Vì đây là
một bài thơ ngắn chỉ gồm 32 chữ và vấn đề văn bản học vẫn chưa được xác định rõ
ràng, cho nên nhiều nghi vấn đã đặt ra. Chỉ đến thời vua Trần Nhân Tông, với
hai tác phẩm của mình là Cư trần lạc đạo
phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
cùng Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền
Quang (1254 -1334) và Giáo tử phú của
Mạc Đỉnh Chi (1284 -1361), nền văn học tiếng Việt mới có những tác phẩm đầu tiên
hoàn chỉnh của mình còn được bảo tồn đến ngày nay. Vị trí văn học của vua Trần
Nhân Tông do thế đối với dân tộc ta rất là vĩ đại.
Không phải là một ngẫu nhiên của lịch sử mà vinh
dự này thuộc về con người Trần Nhân Tông. Phần trên, ta đã thấy sự nghiệp và
con người vua Trần Nhân Tông, một sự nghiệp văn trị và võ công quá lớn lao, đến
nỗi qua thời gian và sự phá hoại của kẻ thù vẫn không làm phai mờ đi được trong
tâm thức của những người dân Việt. Chính họ đã giữ gìn các tác phẩm văn học ấy
cho ta, trong số hàng trăm hàng ngàn các tác phẩm tiếng Việt khác đã ra đời
cùng thời với chúng, mà bây giờ ta chỉ biết tên, chứ không biết chúng có nội
dung cụ thể là gì. Nói khác đi, công ơn của Trần Nhân tông đối với dân tộc ta
quá sâu đậm, nhờ thế những tác phẩm như Cư
trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca đã được trân trọng và giữ gìn.
Thế nhưng, không phải chỉ vì công ơn và uy tín
cá nhân của vua Trần Nhân Tông, mà hai tác phẩm ấy được trân trọng và giữ gìn.
Hai tác phẩm đó được trân trọng và giữ gìn còn vì giá trị nội tại của bản thân
chúng, đặc biệt là Cư trần lạc đạo phú.
Có thể nói Cư trần lạc đạo phú là một
bản tuyên ngôn của con đường sống đạo, mà Phật giáo Việt Nam đã đề ra và đã chi
phối cuộc sống của hàng triệu triệu người Phật tử Việt Nam thời vua Trần Nhân
Tông và những thế kỷ sau. Nó cũng là một trong số ít tác phẩm Phật giáo Việt
Nam được trích dẫn đích danh như một quyền uy, khi thiền sư Chân Nguyên trình
bày những vấn đề Phật giáo cho vua Lê Chính Hòa vào khoảng những năm 1692 trong
Kiến tính thành Phật lục.1 Vì thế tư tưởng của Cư trần lạc đạo phú đã giúp một phần nào
cho sự tồn tại của nó trong quá trình truyền đạt.
Ít lắm là trong khoảng 300 năm trở lại đây, thế
kỷ nào Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca cũng đều được
in và phổ biến rộng rãi. Bản in xưa nhất chúng ta hiện còn là bản in năm 1745
do sa di ni Diệu Liên vâng lệnh thầy mình in lại và bản gỗ lưu lại chùa Liên
Hoa ở kinh đô Thăng Long. Nó được in kèm chung sau tác phẩm Thiền tông bản hạnh của Chân Nguyên ở
những tờ 47 -57. Trong bản in này có kèm theo Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang và Ngộ đạo nhân duyên kệ của chính Chân Nguyên. Việc in kèm theo như
thế này chứng tỏ văn bản mà ni cô Diệu Liên dùng để in, chắc chắn phải đến từ
một truyền bản của thiền sư Chân Nguyên, nghĩa là từ một truyền bản của nửa
cuối thế kỷ thứ 17. Trước thế kỷ đó, số phận của Cư trần lạc đạo phú thế
nào ta hiện nay chưa có một thông tin nào cả.
Nếu trước thế kỷ thứ 17 ta hiện chưa có thông
tin gì về truyền bản của Cư trần lạc đạo
phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
thì sau thế kỷ thứ 18, tức sau lần in của ni cô Diệu Liên, vấn đề truyền bản
của hai tác phẩm này tương đối rõ ràng. Trong lời dẫn cho lần in năm 1930 của Thiền tông bản hạnh, thiền sư Thanh Hanh
(1840 -1936) cho biết vào năm Gia Long thứ 12 (1814) bản Thiền tông bản hạnh đã được in lại, và cùng với nó chắc chắn phải
có Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Hơn nữa
khi thiết lập bản mục lục các kinh sách Phật giáo lưu hành vào nửa đầu thế kỷ
thứ 19 trong Đạo giáo nguyên lưu
quyển thượng tờ 5a6, An Thiền có ghi tên một tác phẩm gọi là Trần triều thập hội lục. Rõ ràng Thập
hội lục của triều Trần chính là 10 hội của Cư
trần lạc đạo phú.
Trong vòng hơn 300 năm trở lại đây, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca đã được
in nhiều lần.
Điều này chứng tỏ tư tưởng Cư trần lạc đạo vẫn
tiếp tục được học tập và truyền bá dù Phật giáo cũng như đất nước đang chuyển
mình qua một giai đoạn mới. Giá trị lý luận của tư tưởng Cư trần lạc đạo từ đó
vẫn còn có sức hấp dẫn mạnh mẽ, đặc biệt là vào cuối thế kỷ thứ 18 với những
chiến công Ngọc Hồi, Đống Đa oanh liệt của quân và dân Tây Sơn, trong đó nổi
bật những gương mặt Phật tử tự nhận mình là người kế thừa truyền thống Trúc Lâm
như Binh bộ thượng thư Tỉnh Phái Hầu Ngô Thời Nhiệm là thiền sư Hải Lượng,
Hương Lĩnh Bá tiến sĩ Nguyễn Đăng Sở là thiền sư Hải Âu v.v.
Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Nhất và Hội thứ
Mười
Hơn 300 năm qua, Cư trần lạc đạo phú và Đắc
thú lâm tuyền thành đạo ca đã được trân trọng, giữ gìn và học tập như thế,
thì chắc chắn hơn 300 năm trước nó cũng có chung một diễm phúc. Bởi vì nếu
không có diễm phúc ấy, thì qua ngọn lửa đốt sách bạo tàn của giặc Minh xâm lược
trong gần 20 năm chiếm đóng, chúng chắc chắn đã chịu chung một số phận với các
tác phẩm của dân tộc ta thời Lý Trần về trước. Hơn nữa, thời Lê sơ và thời Mạc
là thời kỳ Phật giáo phục hưng mạnh mẽ trong phong trào dân tộc hóa với việc
dịch kinh sách ra tiếng Việt như Đại báo
phụ mẫu ân trọng kinh của thiền sư Viên Thái, việc in lại các tác phẩm sử
học Phật giáo như Nam tông tự pháp đồ
của trạng nguyên Lương Thế Vinh, Thánh
đăng ngữ lục của thiền sư Chân Nguyên, và đặc biệt việc thiết định và cổ
xúy dùng tiếng Việt của thiền sư Pháp Tính trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.
Trong một thời kỳ Phật giáo hoạt động sôi nổi và
mạnh mẽ như vậy, việc học tập và nghiên cứu hai tác phẩm vừa nêu của vua Trần
Nhân Tông chắc chắn đã xảy ra. Điều đáng tiếc là, cho đến lúc này ta vẫn chưa
tìm ra một thông tin nào xác nhận về sự hiện diện của hai tác phẩm ấy trong
giai đoạn đó. Dẫu thế, chúng chắc chắn đã được lưu truyền để đến cuối thế kỷ
thứ 17 Chân Nguyên mới có dịp trích dẫn trong Kiến tính thành Phật của mình. Nói khác đi chúng đã nằm trong dòng
chủ lưu của nền văn học và tư tưởng tiếng Việt. Cho nên, như đã nói, thật là
một vinh dự cho nền văn học tiếng Việt của nước ta đã bắt đầu với ngòi bút của
một anh hùng dân tộc có những chiến công oanh liệt như Trần Nhân Tông và với
những tác phẩm đã có một tác động sâu rộng trên truyền thống dân tộc, chứ không
phải chỉ của Phật giáo, như Cư trần lạc
đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành
đạo ca.
Hai tác phẩm này thuộc loại văn học luận đề.
Chúng là những bản văn chính luận tập trung trình bày một số vấn đề tư tưởng và
lý luận. Chúng đã dùng tiếng Việt như một ngôn ngữ để phát biểu những tư tưởng
trừu tượng tương đối khó nắm bắt một cách khéo léo và dễ hiểu. Từ đó tiếng Việt
đã trở thành một ngôn ngữ đủ khả năng chuyển tải bất cứ nội dung tư tưởng khác
nhau nào và có một vẻ đẹp của riêng nó. Nhờ thế, các tác phẩm ấy không những đã
lôi cuốn được sự chú ý của người đương thời, mà còn có sức hấp dẫn đối với hậu
thế. Tiếng Việt tự bản thân nó đã trở thành một ngôn ngữ văn học. Đây chính là
một trong những cống hiến lớn, mà hai tác phẩm này đã mang lại cho văn học Việt
Nam.
Để có được hai tác phẩm ấy vào cuối thế kỷ thứ
13, tiếng Việt từ bao đời, hơn cả ngàn năm trước, từng là một ngôn ngữ văn học.
Chúng đã kế thừa những thành tựu và tinh hoa của nền văn học trong hơn ngàn năm
đó, nên đến ngày nay mỗi khi đọc lại, chúng ta vẫn cảm thấy chúng gần gũi, đẹp
đẽ và dễ hiểu, khác hẳn với những câu văn ngọng nghịu khó chịu do người ngoại
quốc ghi lại mới chỉ cách ta hơn 300 năm. Thực tế để có được giọng văn lý luận
như đã xuất hiện trong Cư trần lạc đạo
phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca,
tiếng Việt đã trải qua hàng ngàn năm thử thách và sử dụng, chứ không phải đến
thời vua Trần Nhân Tông nó mới bắt đầu được đưa vào sự nghiệp sáng tác của thơ
văn.
Quả vậy, nếu tiếng Việt không tồn tại trong hơn
một ngàn năm đó, đối lập lại với tiếng Hán và trở thành một trong những bức
trường thành chặn đứng mưu đồ Hán hóa do các nhà nườc Trung Quốc trong cùng
thời gian đã ra sức quyết tâm thực hiện, thì dân tộc ta ngày nay cũng không
còn, chứ nói chi đến một nền độc lập nhà nước và một tiếng nói riêng biệt. Do
thế, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là một
kết tụ của những nỗ lực phi thường và đầy gian khổ trong quá trình đấu tranh bi
tráng để bảo vệ dân tộc và giữ vững chủ quyền quốc gia. Giá trị văn học của hai
tác phẩm này từ đó càng nhân lên gấp bội.
Do tính kết tụ vừa nói, không một ngôn ngữ nào
trên thế giới bỗng chốc có thể nhảy lên vũ đài văn học, để trở thành một ngôn
ngữ văn học. Ngay cả những ngôn ngữ lớn có văn bản lâu đời trên thế giới như
tiếng Hán, tiếng Phạn, Hy Lạp v.v. cũng đều trải qua một quá trình kiểu ấy, để
từ những văn bản bói quẻ thô sơ hoặc những bài ca vịnh đơn giản, mà tiến lên
thành những ngôn ngữ văn học nổi tiếng trên thế giới. Tiếng Việt ta cũng thế.
Để có những tác phẩm lý luận có vẻ đẹp văn học như Cư trần lạc đạo phú và Đắc
thú lâm tuyền thành đạo ca, nó cũng đã trải qua một quá trình kết tụ lâu
dài từ bài Việt ca đầu tiên được biết cho đến các mẩu chuyện trong Lục độ tập kinh và Tạp thí dụ kinh, cho đến bài Giáo
trò của thiền sư Đạo Hạnh. Cả quá trình sử dụng thành thạo và nhuần nhuyễn
tiếng nói dân tộc đã tạo cơ hội cho sự ra đời của hai tác phẩm vừa nêu.
Sự xuất hiện của tiếng Việt như một ngôn ngữ văn
học, do thế, là một quá trình đấu tranh gian khổ đầy thử thách và nguy cơ. Qua
quá trình đấu tranh đó, tiếng Việt đã chứng tỏ tính ưu việt của mình, làm tiền
đề cho sự xuất hiện của Cư trần lạc đạo
phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca.
Không qua một quá trình như thế thì không bao giờ có được những tác phẩm kể trên.
Đây là điểm mà những người nghiên cứu văn học Việt Nam từ trước đến nay chưa
bao giờ chú ý tới. Người ta cứ loay hoay đi tìm nguồn gốc chữ Nôm trong mấy bản
văn bia còn lại của thời Lý Trần, rồi cứ đẩy lên đẩy xuống thời điểm ra đời của
thứ chữ này trong khoảng từ thế kỷ thứ 8 cho đến thế kỷ thứ 13. Họ quên rằng để
vào cuối thế kỷ thứ 13 có các tác phẩm như Cư
trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca thì tiếng Việt và chữ Việt phải xuất hiện rất sớm, ít lắm cũng
năm bảy trăm năm trở lên. Đây là một quá trình bắt buộc có tính khách quan đối
với bất cứ ngôn ngữ nào, chứ không phải chỉ riêng tiếng Việt ta. Vì vậy, nghiên
cứu hai tác phẩm này chính là nghiên cứu quá trình kết tụ của nó.
Ngày nay, ta không biết đích xác vua Trần Nhân
Tông đã viết hai tác phẩm ấy vào thời điểm nào. Nhưng chắc chắn là Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, qua nội
dung của chính nó, phải được vua Trần Nhân Tông viết vào thời gian sau khi đã
sống ở núi Yên Tử, tức sau tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299), năm mà ĐVSKTT đã ghi
“Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh”, vì
bài ca này đã nói tới việc :
Yên bề phận khó
Kiếm chốn dưỡng thân
Khuất tĩnh non cao
Náu mình sơn dã
Vượn mừng hủ hỷ
Làm bạn cùng ta
Vắng vẻ ngàn kia
Thân làm hỷ xả…
Đem mình náu tới
Cảnh vắng ngàn kia
Dốc chí tu hành
Giấy sồi bô bả.
Viết như thế này, rất gần với những gì mà Huyền
Quang tả về chùa Vân Yên và cuộc sống của vua Trần Nhân Tông ở đây:
Cảnh tốt hòa lành
Đồ tựa vẽ tranh
Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo
Hèn chi vua Bụt tu hành…
Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng
Vượn bồng con kề cửa nghe kinh
Nương am vắng Bụt hiện từ bi,
gió hiu hiu mây nhè nhẹ
Kề song thưa thầy ngồi thiền định,
trăng vằng vặc núi xanh xanh…
Mặc cà sa, nằm trướng giấy,
màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương.
Quên ngọc thực, bỏ hương giao
cắp nạnh cà một vò, tương một hũ…
Thầy tu trước đã nên Phật quả
Tiểu tu sau còn vị tỳ kheo.
Còn Cư
trần lạc đạo phú, thì thật khó mà xác định vua Trần Nhân Tông đã viết ra
vào lúc nào trong cuộc đời mình.
Có người bảo là nó được viết ra trước lúc vua đi
xuất gia, tức trước năm 1299. Chắc hẳn khi nói thế họ đã dựa vào hai câu mở đầu
của bài phú này:
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
để khẳng định vua Trần Nhân Tông đang còn sống ở
thành Thăng Long, mà lòng vua đã hoàn toàn an nhàn tự tại như sống ở rừng núi.
Nhưng cũng chính trong bài phú đó ở Hội thứ 5 ta đã gặp :
Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng trong quê Hà Hữu
Kinh xem ba biến, ngồi ngơi mái quốc Tân La
Trong đạo nghĩa, khoáng cơ quan,
đà lọt lẫn trường kinh cửa tổ
Lánh thị phi, ghê thanh sắc,
ngại chơi bời dặm liễu đường hoa
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa,
hoặc chằm hoặc xể
Cơm cùng cháo, đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa
Tranh “Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ”
có lẽ do họa sĩ Trung Hoa Trần Giám Như
vẽ vào năm 1363, hiện đang được lưu giữ tại bảo tàng nghệ thuật ở Liêu Ninh (Trung Quốc)
Viết như thế rõ ràng đây không phải là cuộc sống
cung đình thị thành, mà là cuộc sống dân dã rừng núi. Cho nên, thật khó mà dựa
vào nội dung của bài phú này để xác định thời điểm ra đời của nó. Điều chắc
chắn là nó được viết vào lúc vua Trần Nhân Tông đã có ít nhiều quan tâm đến núi
Yên Tử. Ta biết trong Phật giáo đời Trần, Yên Tử có vị thế trung tâm. Thời ông
nội mình là vua Thái Tông đã từng tới đó. Khi còn trẻ vua Nhân Tông cũng đã có
ý định lên sống ở đó. Dẫu sao đi nữa, chủ trương “Cư trần lạc đạo, Trần tục mà
nên” vẫn đóng vai trò mà từ năm 1287, khi Tuệ Trung Trần Quốc Tung đã ấn chứng
cho vua, thì chủ trương đó càng trở nên rõ rệt. Nói cách khác, thời điểm ra đời
của Cư trần lạc đạo phú phải từ sau
năm 1287 trở đi và chắc chắn là sau năm 1288, khi quân thù đã bị quét sạch khỏi
bờ cõi và cả nước đang ra sức lao động để kiến tạo cuộc sống ấm no cho gia đình
và bản thân người dân.
Bộ từ vựng của Cư trần lạc đạo phú gồm cả thảy 1688 hạng từ, kể luôn các tên đầu
đề, tên các hội và bài thơ chữ Hán kết thúc bài phú. Nếu chỉ kể riêng số từ
vựng trong các hội thì nó chỉ gồm 1623 hạng từ, trong đó có những hạng từ Việt
xuất hiện khá nhiều lần như lòng (18
lần), cho (13 lần), chẳng (13 lần), mới (12 lần, hay 11 lần), Bụt
(10 lần).v. v..Và số 1623 hạng từ này nếu chúng ta thiết lập một bản từ gồm
những tên người, tên đất, những từ chuyên môn và những từ phiên âm, chúng ta
còn số hạng từ ít hơn nữa, tức khoảng hơn 1400 từ. Chẳng hạn các từ như Thích Ca, Di Đà, Di Lặc, bát nhã, chiêm bặc,
chiên đàn, bồ đề, bồ tát, đàn việt, ưu đàm, Câu Chi, Diễn Nhã Đạt Đa. Đấy
là những từ phiên âm của tiếng Phạn và chúng ta chỉ có 12 hạng từ thay vì 26
hạng từ khi tách rời chúng ra thành từng hạng từ một. Các từ chuyên môn như bát phong, bát thức, cực lạc,đại thừa, tiểu
thừa, hữu lậu, kim cương, vô lậu, lục căn, lục tặc, tam độc, tam thân, tam
tạng, tam huyền, tam yếu, tam nghiệp, tịnh độ, thái bình, thượng sĩ, trí tuệ,
tri âm, tri thức, tri kiến, tri cơ, trượng phu, trưởng lão, viên giác, vô
thường, vô minh, vô sinh, vô tâm, vô vi cũng thế. Nếu đưa chúng vào những
hạng mục từ, ta chỉ có 32 hạng từ thay vì có đến 64. Các tên đất, tên người như
Yên Tử, Cánh Diều, Hà Hữu, Hùng Nhĩ, Tân
La, Thiên Trúc, Thiếu Lâm, Tào Khê, Thiếu Thất, Lư Lăng, Phá Táo, Thạch Đầu,
Lâm Tế, Bí Ma, Thuyền Tử, Đạo Ngô, Thiều Dương, Triệu Lão, Thiên Cang, Thái
Bạch cũng vậy.
Với số lượng trên dưới 1400 từ này, ta có một bộ
từ vựng tương đối phong phú để nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc ta vào thời vua
Trần Nhân Tông. Và đó là chỉ mới kể số hạng từ có trong Cư trần lạc đạo phú. Nếu gộp luôn số hạng từ của Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, mà số
lượng lên đến 336, trong đó trừ những trùng lặp đã có đến 238 hạng từ.
Gộp chung lại với Cư trần lạc đạo phú, ta sẽ có một bộ từ vựng với gần 2000 từ, tức
cỡ loại từ điển nhỏ, và cho ta một nhận thức tương đối hoàn chỉnh về ngôn ngữ
dân tộc ta vào thời đại Trần Nhân Tông, tức thế kỷ thứ 13, cách chúng ta gần
700 năm.
Đến đây chúng ta cần phân tích sơ bộ hai tác phẩm
viết bằng tiếng Việt của vua Trần Nhân Tông. Nhưng sự nghiệp văn học của nhà
vua không chỉ giới hạn vào các tác phẩm tiếng Việt. Nhà vua còn là tác giả của
30 bài thơ và đoạn thơ, 22 lá thư viết cho vua quan nhà Nguyên cùng hai bài
giảng ở chùa Sùng Nghiêm và viện Kỳ Lân. Trong hai bài giảng này cũng có một số
bài thơ và đoạn thơ dùng để trả lời cho các câu hỏi mà người đối thoại đã đặt
ra, và vẫn chưa được kê vào số lượng thơ và đoạn thơ của vua Trần Nhân Tông.
Nói thế tức cũng muốn nói số lượng tác phẩm vua Trần Nhân Tông còn lại cho
chúng ta ngày nay không phải là ít, dù rằng phần lớn chúng đều được viết bằng
chữ Hán.
Với sự nghiệp thơ văn chữ Hán của vua Trần Nhân
Tông, hầu hết những nhà nghiên cứu từ trước đến nay đều thống nhất coi vua Trần
Nhân Tông là một “tên tuổi lẫy lừng”trong lãnh vực hoạt động sáng tạo này. Thực
tế, đọc các bài thơ chữ Hán do vua Trần Nhân Tông sáng tác, người ta không thể
không cảm nhận những vẻ đẹp khác nhau của đất nước, từ một buổi chiều làng quê
yên tĩnh cạnh nơi ở của hoàng gia tại phủ Thiên Trường ở đồng bằng sông Hồng :
Xóm trước thôn sau tợ khói nhòa
Nửa không nửa có mé chiều sa
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi ruộng xuống sà
(Thôn hậu thôn tiền đạm tợ yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền)
cho đến một ngôi chùa tại Lạng Châu thuộc miền
trung du Bắc bộ :
Chùa cổ đìu hiu thu khói mờ
Thuyền câu chiều quạnh tiếng chuông đưa
Nước quang non lặng bay âu trắng
Gió đứng mây đùa cây đỏ thưa.
(Cổ tự thê lương thu ái ngoại
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ
Thủy minh sơn tĩnh bạch âu quá
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ)
Ngay trong cuộc sống thường nhật, một ánh trăng
ban đêm cùng tiếng rơi tí tách của sương thu trên lá cây trước sân nhà và xa xa
tiếng chày nện vải từ một ngôi làng dệt nào đưa tới đã gợi nên những xao xuyến
trong tâm hồn, cảm thấy vẻ đẹp của một đất nước thanh bình
Đầy sách giường song chếch bóng đèn
Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm
Tiếng chày thức dậy đâu không biết
Hoa mộc trên cành trăng mới lên.
(Bán song đăng ảnh mãn sàng thư
Lộ trích thu đình dạ khí hư
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ)
Nhưng cuộc đời vua Trần Nhân Tông không giống
cuộc đời những ông vua sinh ra, lớn lên, rồi thụ hưởng một đất nước thái bình.
Năm vua ra đời cũng chính là thời điểm vua Trần Thái Tông vừa đánh tan đạo quân
xâm lược thứ nhất của đế chế Nguyên Mông lần đầu tiên tiến công nước ta, dưới
sự chỉ huy của một tên tướng khét tiếng tàn bạo Ngột Lương Hợp Thai
(Uryangqadai). Hơn 20 năm tiếp theo là một cuộc đấu tranh gian khổ về ngoại
giao nhằm vừa bảo vệ chủ quyền đất nước, vừa mang lại nền hòa bình để cho người
dân có cơ hội lao động sinh sống, và đất nước chuẩn bị tiềm lực để chiến đấu và
sẵn sàng chiến đấu.
Kịp đến khi lên ngôi vào tháng 10 năm Mậu Dần
(1278) thì vua Trần Nhân Tông đã phải trực tiếp đối phó với những tên sứ giả “uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều
đình, đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tể phụ”, như Trần Hưng Đạo đã mô tả.
Thế là cả nước phát động một phong trào chuẩn bị diệt giặc cứu nước. Tuy hào
khí Nguyên Phong của cuộc chiến tranh năm Đinh Tỵ (1257) vẫn còn đó, mà nhà vua
cảm thấy khi đến thăm lăng mộ của ông nội mình vào một ngày xuân trước cuộc
chiến tranh 1285.
Hùm gấu nghiêm nghìn cửa
Áo mão bảy phẩm đầy
Lính bạc đầu còn đó
Nguyên Phong mãi kể say
(Tỉ hổ thiên môn túc
Y quan thất phẩm thông
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong)
Và hơn ai hết, bản thân vua Trần Nhân Tông đã
từng cầm quân xông pha trận mạc. Thực tế, ta đã thấy nhà vua đã từng trực tiếp
chỉ huy những trận đánh lớn, sống gần gũi với tướng lĩnh và binh sĩ, nên dễ cảm
thông, thương xót cho những người vợ phải sống lẻ loi, khi người chồng vì nhiệm
vụ phải ra mặt trận ở một nơi xa xôi nào đó của tổ quốc.
Ngủ dậy vén rèm hoa thấy rơi
Hoàng ly không hót giận xuân rồi
Lầu tây vô cớ vầng dương lặn
Bóng ngả về đông hoa lẫn chồi.
(Thụy khởi câu liêm khán trụy hồng
Hoàng ly bất ngữ oán đông phong
Vô đoan lạc nhật tây lâu ngoại
Hoa ảnh chi đầu tận hướng đông)
Ba lần quân dân nhà Trần đập
tan mộng xâm lăng của đế chế Nguyên Mông: Lần thứ nhất năm 1258 do vua Trần
Thái Tông lãnh đạo, lần thứ nhì năm 1285 do vua Trần Nhân Tông lãnh đạo (Trần
Quốc Tuấn viết Hịch Tướng Sĩ và hai
chữ xăm “Sát Thát” xuất hiện trong lần
nầy), và lần thứ ba trong hai năm 1287 và 1288 cũng do vua Trần Nhân Tông với
Tướng chỉ huy toàn bộ quân đội là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. (Theo
Wikipedia)
Chiến tranh vệ quốc chống lại các thế lực xâm
lược lớn mạnh hơn ta rất nhiều lần, còn gợi lên những nỗi buồn như thế, huống
nữa những cuộc chiến tranh để bảo vệ an ninh biên giới do các thế lực nhỏ yếu
hơn ta quấy phá. Trong một bài thơ viết nhân chiến dịch bình định Ai Lao vào
mùa xuân năm Canh Dần (1290), mà vì nghĩa vụ bảo vệ cuộc sống an lành cho nhân
dân và một biên cương ổn định cho tổ quốc, vua Trần Nhân Tông phải cầm quân đi
đánh dẹp. Thế mà vua vẫn tỏ ra không thích thú gì:
Hoa sóng tung lên buồm gấm bay
Dưới mui đầu mệt chẳng buồn quay
Mây chiều Tam Giáp nhạn không đến
Trăng sáng Cửu Than rồng có đây
Lạnh lẽo đường đi cung mộng cũ
Ngổn ngang sầu vướng rượu ly đầy
Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến
Vội vã nam nhi chi lắm vầy.
(Cẩm phàm khinh sấn lãng hoa khai,
Bồng để yêm yêm thủ bất đài.
Tam giáp mộ vân vô nhạn đáo,
Cửu than minh nguyệt hữu long lai.
Thê lương hành sắc thiêm cung mộng,
Liêu loan nhàn sấu đáo tửu bôi.
Hán Vũ phiêu chiêu cùng độc báng,
Nam nhi cấp cấp nhược vi tai.)
Một cuộc chiến tranh do vua chủ trương vì lợi
ích chung như ĐVSKTT 5 tờ 58b5 -59a1 đã ghi: “Vua thân chinh Ai Lao. Triều thần
nói: ‘Giặc Nguyên vừa rút lui, vết thương chưa khỏi sao có thể dấy binh’. Vua
nói: ‘Chỉ có thể vào lúc này mới ra quân được, vì sau khi giặc rút lui thì ba
vùng (Ai Lao, Chiêm Thành và Chân Lạp – LMT) tất cho quân ngựa và của cải ta bị
tan mất, thế không thể tránh khỏi được, sẽ có sự khinh nhờn đối với ta, cho nên
đem đại quân đi để thị uy’. Quần thần đều nói: ‘Vua há không biết dân mệt sao,
mà chỉ vì có việc đáng lo lớn hơn thế nữa’. Đó là thánh nhân lo xa, chẳng phải
bọn thần nghĩ kịp được”.
Việc đem quân đi thị uy đối với Ai Lao, chỉ vì
quyền lợi của đất nước mà vua Trần Nhân Tông phải làm. Và thực tế chỉ chưa tới
4 năm sau khi đã truyền ngôi cho con là Anh Tông và trở thành Thượng hoàng, vua
Trần Nhân Tông còn phải thân chinh Ai Lao một lần nữa, vào tháng 8 năm Giáp Ngọ
(1294) với sự tham gia của các tướng Phạm Ngũ Lão, Trung Thành Vương. Mối đe
dọa của Ai Lao đối với biên cương Đại Việt như thế không phải là không có.
Và việc đánh dẹp Ai Lao như thế là một yêu cầu
của an ninh quốc gia. Thế mà, dù bài thơ vừa trích được làm vào chiến dịch Ai
Lao năm 1290 hay 1294, nó vẫn toát lên một sự chán ghét đối với chiến tranh,
đối với cái mà người thường gọi là “cùng
binh độc vũ”, tức dùng chiến tranh để thỏa mãn những tham vọng cá nhân của
người lãnh đạo.
Trong cuộc đời mình, vua Trần Nhân Tông đã từng
sống qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, nên hơn ai hết đã hiểu thế nào là những
nỗi khổ do chiến tranh đem lại cho phía ta cũng như phía địch. Việc sử dụng
chiến tranh để chống lại chiến tranh chỉ là một biện pháp bất đắc dĩ, khi mọi
biện pháp khác không thể dùng được nữa. Do vậy, tự thâm tâm vua Trần Nhân Tông
không bao giờ tán thành chiến tranh. Và sự không tán thành này xuất phát từ một
cái nhìn về tính chung đồng loại của những con người dù ở chiến tuyến nào đi
nữa, họ cũng đều có xúc cảm, suy nghĩ, nguyện vọng giống nhau. Không ít người
từ hơn 500 năm trở lại đây, đã ca ngợi tính nhân bản và cao thượng của hành
động cởi ngự bào phủ lên thủ cấp của tên tướng giặc Toa Đô, vừa bị quân ta chém
đầu trong trận Tây Kết thứ hai năm 1285, do chính bản thân vua Trần Nhân Tông
trực tiếp chỉ huy.
Từ một sự chán ghét chiến tranh như vậy, vua
Trần Nhân Tông tập trung mọi nỗ lực của mình để xây dựng một nền hòa bình lâu
dài, không chỉ cho đất nước và dân tộc mình, mà còn cho các dân tộc và quốc gia
láng giềng, đặc biệt là đất nước và nhân dân Trung Quốc. Ngay khi khói lửa của
cuộc chiến tranh năm 1288 đang còn vướng vất trên các chiến trường Thăng Long,
Bạch Đằng, lúc tiếp phái bộ Lưu Đình Trực và Lý Tư Diễn, do Hốt Tất Liệt gửi
qua để đòi lại các tướng tá giặc như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Sầm Đoạn do ta bắt
được, vua Nhân Tông đã nói đến
Bụi chiến sông trời rửa sạch trơn.
(Thác khai địa giác giai hòa khí
Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần)
trong bài thơ tiễn đưa phái bộ này, thể hiện ý
chí và nguyện vọng bảo vệ và xây dựng hòa bình của nhân dân Đại Việt và của
chính bản thân nhà vua. Đây là một nội dung đặc biệt của thơ văn vua Trần Nhân
Tông, bộc lộ một sự tha thiết đối với hòa bình. Thật cũng lạ, một con người đã
từng chỉ đạo, trực tiếp tham gia chiến tranh và đã có những chiến thắng oanh
liệt. Vậy mà qua thơ văn vẫn luôn luôn biểu hiện một ước ao nóng bỏng đối với
hòa bình.
Điều này cũng có nghĩa vua Trần Nhân Tông không
bao giờ coi chiến tranh như một nấc thang để bước lên đài danh vọng, để đi tới
bến vinh quang. Suốt cuộc đời, ngay cả sau khi xuất gia, vua cũng luôn lao động
miệt mài cho hòa bình, nhất là một nền hòa bình ở biên cương phía Nam của tổ
quốc tiếp giáp với nước Chiêm Thành.
Trước đây, nhiều người thường cho giai đoạn vua
Trần Nhân Tông xuất gia là giai đoạn nhà vua rút lui khỏi cuộc đời, khỏi xã
hội, “càng tu hành càng xa với thực tế xã
hội, càng xa với ý muốn cứu khổ cứu nạn của Phật tổ”. Thế mà chính trong
giai đoạn xuất gia này của nhà vua, biên cương của Đại Việt đã nối dài trên 200
cây số, và nền hòa bình Việt Chiêm đã duy trì được gần mấy chục năm, làm tiền
đề cho sự nghiệp Nam tiến của dân tộc ngày càng phát triển dồn dập như cơn thủy
triều đang buổi dâng lên của nó. Cũng có người đọc hai câu thơ:
Phải trái lòng theo hoa sớm rơi
Lợi danh tâm lạnh tối mưa thôi
đã không biết đặt chúng vào trong bối cảnh lý
luận của tư tưởng vua Trần Nhân Tông, rồi vội vã bình luận đấy là những “câu
thơ cực kỳ chán đời”, thể hiện “tư tưởng hư vô chủ nghĩa triệt để, bắt nguồn từ
trong triết học Phật giáo… trong chế độ điền trang, sự phú quý cực độ của nhiều
nhà chùa và tất cả sự suy đồi của nó”. Bình luận thế là họ đã quên vua Trần
Nhân Tông là một trong “những tên tuổi lẫy lừng nhất” của những nhà thơ nhà văn
đời Trần.
Và những tên tuổi lẫy lừng nàỵ “đều bộc lộ một
niềm tin, một tinh thần quyết thắng và một ý chí kiên cường qua một loạt vần
thơ bất hủ”. Cho dù những bình luận trên được phát biểu vì mục đích gì, có phần
nào gây nhiễu loạn thông tin hoặc sai lệch quá khứ đi chăng nữa, thì sự nghiệp
vua Trần Nhân Tông, những đóng góp của cá nhân và triều đại nhà vua đối với dân
tộc là không thể phủ nhận, là giai đoạn đáng ghi công, đáng tự hào của lịch sử
dân tộc Việt Nam.
Ta đã thấy trong tư tưởng của vua Trần Nhân Tông
có một cái nhìn về thời gian một chiều, một ngày đã qua là không bao giờ trở
lại, như một bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung đã từng nói tới:
Trăng lặn trời tây khôn bóng lại
Nước trôi đổ biển sóng đâu quây
(Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh
Đông lưu phó hải khởi hồi ba)
Cho nên đối với bản thân
mình cũng như đối với mọi người, thời gian trở nên rất quý báu, cuộc đời con
người quá ngắn ngủi cho một công việc phải làm:
Thời gian dễ trôi qua
Mạng người khôn dừng lại
(Thời quang dung dị quá
Nhân mạng bất định lưu)
Vì thế, sự sống trở nên quý giá. Một ngày đi qua
không bao giờ chúng ta có lại. Chúng ta phải huy động toàn bộ thời gian cho
những việc có ích cho mình cũng như cho người. Ta tưởng tượng dân tộc ta vào
thời đó sống vội vã dồn dập.
Họ sống vội vã dồn dập không phải vì cuộc sống
là một đày ải mà ta cố hưởng lạc để cho xong đời. Họ sống vội vã dồn dập vì
cuộc sống quá quý báu, không thể để nó trôi qua một cách vô vị, phí hoài. Chưa
bao giờ trong lịch sử dân tộc ta thấy ánh lên một sự thôi thúc cho cuộc sống,
cảm thấy nếu mình để mất đi một phút giây là mất đi một phần của sự sống. Họ
hối hả xây dựng, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống và gia đình họ. Cả
một đất nước tràn ngập, chứa chan sự lạc quan yêu đời. Chính vì quá lạc quan
yêu đời mới cảm thấy thời gian dễ mất đi và cuộc sống của chúng ta không bao
giờ trở lại, như vua Trần Nhân Tông thường nhắc nhở:
Đỗ quyên rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua
(Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân)
Lâu nay nhiều người thường cho rằng quan niệm
thời gian của phương Đông là một quan niệm thời gian vòng tròn, thời gian luân
hồi, cứ thịnh suy bĩ thái, rồi thịnh suy bĩ thái kế tục nhau, giống như xuân hạ
thu đông, rồi xuân hạ thu đông. Nhưng họ đâu biết rằng bên cạnh quan niệm thời
gian vòng tròn ấy, còn hiện diện quan niệm thời gian một chiều. Cứ mỗi ngày đi
qua là một ngày vĩnh viễn mất đi không bao giờ trở lại, giống như mặt trăng lặn
về phía tây rồi không bao giờ có mặt trăng thứ hai của nó. Tổ tiên ta từ xưa đã
có một quan niệm thời gian rất gần với quan niệm thời gian của thời hiện đại
chúng ta. Có người đã diễn tả quan niệm thời gian này bằng một hình ảnh rất
sống động. Đó là thời gian giống như chiếc xe. Chiếc xe chỉ có một hướng đi
tới, giống như thời gian một chiều. Nhưng để chiếc xe đi tới được thì phải có 4
chiếc bánh quay tròn bên dưới nó. Cũng vậy, thời gian một chiều đi tới, nhưng
nó đi tới trên những thời gian vòng tròn, tức xuân hạ thu đông, tức thịnh suy
bĩ thái.
Xuất phát từ quan niệm thời gian như vậy, mà
trong chiến tranh đất nước Đại Việt đã làm nên một chiến công Chương Dương, Hàm
Tử, Tây Kết, Bạch Đằng oanh liệt. Và trong thời bình họ đã xây dựng nên một
cuộc sống chỉ mấy năm sau chiến tranh với những cánh đồng lúa trĩu hạt, những
nương dâu xanh ngắt bốn mùa và những chiếc cầu thượng gia hạ kiều, đã làm cho
tên sứ Nguyên Trần Phu phải nể phục. Quân và dân Đại Việt đã sống theo những gì
mà vua Trần Nhân Tông đã đề ra trong Cư trần lạc đạo phú.
Dựng cầu đò, xây chiền tháp,
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu…
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
Dân tộc ta vào thời đại Trần Nhân Tông đã chiến
đấu và xây dựng hăng say như thế, thực tế không phải vì danh vì lợi, vì thị vì
phi, mà chính vì bản thân cuộc sống. Cuộc sống ngắn ngủi mà họ cho là đáng quý,
đáng sống, cho nên người dân Đại Việt cố gắng sống xứng đáng với cuộc sống quý
giá ngắn ngủi của mình. Chính vua Trần Nhân Tông cũng đã nói đến việc “chuộng
công danh, lồng nhân ngãi, thực ấy phàm ngu” trong Cư trần lạc đạo phú. Cho nên ta không ngạc nhiên khi ở tại sơn
phòng vua Trần Nhân Tông đã cảm xúc và viết ra bài thơ:
Phải trái lòng theo hoa sớm rơi
Lợi danh tâm lạnh mưa đêm thôi
Hoa tàn, mưa tạnh, non im ắng
Một tiếng chim kêu xuân hết rồi
(Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận, vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn)
Quên danh, quên lợi, quên thị phi, vua Trần Nhân
Tông vẫn nhớ đến mùa xuân. Và chỉ một tiếng chim hót vào một buổi sáng nào đó,
sau trận mưa đêm làm hoa rụng hết, đã làm vua giật mình, mùa xuân đã qua rồi.
Thời gian trôi đi chóng vánh, mới ngày nào đó năm cũ mới hết, vậy mà mùa xuân
bây giờ đã không còn thấy nữa. Cảm thức thời gian này là một trong những cảm
thức đã chi phối mọi suy nghĩ và hành động của chính bản thân vua Trần Nhân
Tông.
Trong Cư
trần lạc đạo phú vua hằng mong Nửa ngày rồi, tự tại thân tâm
Thế mà công việc cứ dồn dập đổ tới tưởng như
không bao giờ dứt. Ngay cả khi vua đến sống những nơi có vẻ như xa lánh hết mọi
buộc ràng, công việc vẫn theo nhau kéo tới. ĐVSKTT 6 tờ 37a5-9 kể chuyện:
“Nguyễn Quốc Phụ làm nội thư chính chưởng, là cận thần của vua Trần Nhân Tông.
Trong khoảng Hưng Long (1293 -1314), chức hành khiển thiếu người, Thượng hoàng
(tức vua Trần Anh Tông, LMT) chầu vua Nhân Tông ở chùa Sùng Nghiêm. Vua Nhân
Tông bảo Quốc Phụ làm được, Thượng hoàng thưa: ‘Nếu lấy ngôi thứ mà nói thì
được, nhưng chỉ thích uống rượu thôi’, vua Nhân Tông không nói gì. Bèn không
dùng”. Và ta cũng thấy ở trên, trước lúc đi sứ ở Chiêm Thành vào tháng 10 năm
Kỷ Mão (1303) Đoàn Nhữ Hài đến gặp vua Trần Nhân Tông cũng tại chùa Sùng Nghiêm
này.
Một cuộc sống đầy ắp những công việc như thế, rõ
ràng không vì lợi cho bản thân mình, và tất nhiên càng không thể vì danh. Có gì
là lợi, khi bản thân mình thì “mặc cà sa
nằm trướng giấy”, “cà một vò tương
một hũ”, lợi đã không có thì làm gì có danh. Vì danh thường kết với lợi.
Nhưng nói thế không phải để buông xuôi. Chỉ có vấn đề là không đặt chúng thành
mục đích của cuộc sống. Cuộc sống của vua Trần NhânTông và nhân dân Đại Việt
thời đại ấy có một mục đích khác, đó là “tự
tại thân tâm”, là “an nhàn thể tính”.
Nói theo ngôn ngữ hiện đại, đó là một sự theo đuổi hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc
là gì, thì mỗi người phải tự trả lời lấy. Vua Trần Nhân Tông đã xuất gia trên
núi Yên Tử cũng như trong khi cầm quân chiến đấu với giặc thù ở Tây Kết, có thể
vua đã cảm thấy mình tự tại an nhàn. Ai giới hạn mình mà mình không tự tại nếu
không phải là chính mình. Ai ngăn trở mình mà mình không an nhàn nếu không phải
là chính mình. Mình phải cải tạo chính mình và thế giới để tạo cho mình tự tại
và an nhàn.
Đây chính là thông điệp mà thơ văn Trần Nhân
Tông đã gửi đến cho chúng ta hôm nay và bao nhiêu thế hệ trước nữa:
Ai buộc mà đi giải thoát tìm
Không phàm sao phải kiếm thần tiên
Vượn đùa ngựa mỏi người già phải
Như cũ am mây một sập thiền
(Thùy trược cánh tương cầu giải thoát
Bất phàm hà tất mích thần tiên
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão
Y cựu vân trang nhất tháp thiền)
Cuộc đời vua Trần Nhân Tông và thông qua cuộc
đời này, ta thấy nhân dân Đại Việt lúc ấy đã sống vui vẻ trong đất nước mình,
hăng say lao động và chiến đấu để bảo vệ cuộc sống ấy. Họ không tìm một thế
giới khác để thoát ly, một thế giới khác để mơ tưởng tới. Cuộc sống ở đời này
quá ngắn ngủi đối với ho,ợ nên họ cố sống cho hết những giây phút vàng ngọc của
cuộc đời ấy qua từng chi tiết nho nhỏ của nó. Có thể đó là những đĩa bánh cuốn
mà vua Trần Nhân Tông đãi tên sứ giả giặc Trương Lập Đạo vào những ngày vừa mới
quét sạch quân thù ra khỏi đất nước
Xong múa giá chi, thử áo xuân
Hôm nay huống gặp tiết Cỏ xanh
Đầy mâm bánh cuốn như hồng ngọc
Phong tục từ xưa của nước Nam
(Thác chi vũ bãi thí xuân sam
Huống trĩ kim triêu tam nguyệt tam
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bĩnh
Tùng lai phong tục cựu An Nam)
hay chỉ đơn giản đứng tựa lan can lặng lẽ ngắm
nhìn núi xa vào một buổi chiều:
Chim hót nhởn nha hoa liễu dày
Bóng thềm nhà vẽ mây chiều bay
Chuyện đời khách đến thôi không hỏi
Cùng tựa lan can ngắm núi mây
(Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiền mẫn mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cọng ỷ lan can khán thúy vi)
Thơ văn chữ Hán của vua Trần Nhân Tông đúng đã
thể hiện được “một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan
thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ
lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ”,
chứ không phải chỉ chứa đựng những ý tưởng “cực kỳ chán đời” như có người đã
nhận xét. Vị thế văn học của vua Trần Nhân Tông từ đó là rất lớn. Với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, vua Trần
Nhân Tông là người mở đầu một giai đoạn văn học mới của lịch sử văn học Việt
Nam, đó là giai đoạn văn học, mà tiếng Việt là chủ ngữ. Không những thế, với
những vần thơ chữ Hán và những tác phẩm văn xuôi sắc sảo, vua Trần Nhân Tông đã
cống hiến cho ta những cảm thụ mới mẻ về những vấn đề muôn đời của con người như
thời gian và sự sống.
Trên đây, chúng ta mới đề cập đến mảng văn tiếng
Việt và thơ chữ Hán của vua Trần Nhân Tông. Vua còn có một mảng văn chữ Hán mà
cho đến nay chưa được công bố và nghiên cứu chưa đầy đủ. Đó là 22 lá thư vua
Trần Nhân Tông đã viết gửi cho vua quan nhà Nguyên, trong cuộc đấu tranh chính
trị và ngoại giao với chúng để bảo vệ chủ quyền đất nước, và kéo dài thời gian
để củng cố và phát triển lực lượng nhằm đối phó với cuộc chiến tranh do kẻ thù
áp đặt. Trong số những lá thư này, có những lá còn giữ được nguyên vẹn, có
những lá chỉ còn đoạn phiến. Điểm đặc biệt là chúng hầu hết được bảo tồn trong
các tư liệu Trung Quốc, chủ yếu là Nguyên
sử, Thiên Nam hành ký, Trần Cương Trung thi tập và An Nam chí lược. Phía các sử liệu nước ta hình như không bảo lưu
một văn bản nào. Có chăng thì cũng chép lại văn bản từ các tác phẩm vừa nêu.
Đọc những lá thư này, điểm đầu tiên dễ nhận thấy
nhất là quan điểm trước sau như một của vua Trần Nhân Tông:
Quan điểm không chịu đầu hàng giặc, không chấp
nhận đánh mất chủ quyền quốc gia bằng cách thỏa mãn đòi hỏi của Hốt Tất Liệt,
yêu cầu vua phải đích thân vào chầu tại Đại Đô ở Trung Quốc. Hốt Tất Liệt đã
dùng nhiều mánh khóe lý luận khác nhau, từ lời dụ dỗ đường mật về quan tước mà
y hứa ban cho, cho tới những lời đe dọa dùng vũ lực, và trên thực tế y đã hai
lần dùng vũ lực để thực hiện ý đồ của mình, nhưng hoàn toàn thảm bại trước sức
chiến đấu ngoan cường của quân và dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của vua Trần
Nhân Tông. Không những thế, vua Trần Nhân Tông còn vạch trần bộ mặt giả nhân
giả nghĩa của những lý lẽ mà Hốt Tất Liệt đưa ra.
Chẳng hạn, Hốt Tất Liệt khoe khoang rằng y đối
đãi rất nồng hậu với những người chịu đến chầu, coi họ như con cái mà y có
trách nhiệm thương yêu. Những sứ giả do y cử đến, đều nói lòng thương của y bao
la như trời biển phủ khắp mọi nơi. Chúng thường dùng tới câu “Nhất thị đồng
nhân”, tức đem lòng nhân từ ra mà thương yêu khắp hết mọi người như nhau cả.
Trước những luận điệu ấy, vua Trần Nhân Tông vạch ra rằng, nếu Hốt Tất Liệt có
lòng thương như thế, thì tại sao phải bắt vua vào chầu ? Bắt vua vào chầu, lỡ
dọc đường chết phơi xương thì thế nào ?
Điều đó chắc chắn làm tổn thương đến lòng nhân
của hoàng đế thiên triều. Ta sẽ thấy trong các lá thư hai lý luận này thường
được nêu ra để trả lời tại sao vua ta không chịu vào chầu Hốt Tất Liệt.
Vua Trần Nhân Tông hiểu rõ hơn bất cứ ai rằng,
vào chầu tức đầu hàng giặc, tức đem chủ quyền quốc gia mà trao cho giặc. Cho
nên về điểm này nhà vua dứt khoát không có sự nhượng bộ nào. Hốt Tất Liệt tưởng
dùng vài ba lá thư có thể khuất phục được ý chí cương quyết bảo vệ chủ quyền
quốc gia của vua Trần Nhân Tông. Nhưng y đồng thời cũng biết rằng, vài ba lá
thư với lời lẽ dụ dỗ đường mật thế nào đi nữa, cũng không thể khuất phục được ý
chí bảo vệ chủ quyền ấy. Cho nên, bên cạnh những lá thư đó, y đã vung sẵn lưỡi
gươm qua hai lần liên tiếp xua quân tiến đánh nước ta với đám tướng lĩnh dày
dạn kinh nghiệm chiến trường và hàng chục vạn quân binh thuyền bè.
Vậy mà y đã thất bại thảm hại.
Những lá thư viết cho các viên chức nhà Nguyên,
mà chủ yếu là viết cho phái bộ Lương Tăng đến nước ta vào năm 1293, cũng thế.
Đây là những lá thư vừa mềm mỏng, vừa đanh thép, lên án chính sách giả nhân giả
nghĩa vừa nói, vạch trần những âm mưu đen tối nằm đằng sau những lời lẽ có vẻ
quang minh chính đại. Một mặt khác, những lá thư này cho thấy thái độ khinh
thường của triều đình ta đối với những kẻ đại diện cho thiên triều và thử thách
khả năng chịu đựng của chúng. Trong An
Nam tức sự của Trần Cương Trung thi tập 2 tờ 34a3-4, Trần Phu đã kể lại
việc sứ bộ của y ngay khi đến nước ta đã bị triều đình Đại Việt đưa đi theo
những con đường mới phát quang nhằm gây nỗi kinh hoàng cho chúng: “Sứ thần đến
nước ấy, lại không đi theo lối cũ, đều phải đục núi mở đường, trèo vượt quanh
co, ý là muốn tỏ ra xa hiểm”. Chúng biết thế, mà đành phải ngậm miệng đi theo,
không dám đưa ra bất cứ một đòi hỏi nào.
Rồi khi đến Thăng Long, chúng phải qua nhiều lần
đấu tranh, chúng mới được đi vào cửa Dương Minh, tức là cửa chính Nam của kinh
thành, thay vì phải đi vào cửa Vân Hội hay cửa Nhật Tân mà triều đình ta đề
nghị, như Lương Tằng truyện của
Nguyên sử 178 tờ 1b3-6 đã ghi: “Tháng giêng năm Chí Nguyên 30 (1293) đến An
Nam, Nước đó có 3 cửa. Giữa gọi là Dương Minh, trái gọi là Nhật Tân và phải gọi
là Vân Hội. Bồi thần ra đón ngoài thành, sắp do cửa Nhật Tân để đi vào. Tăng
rất giận, nói: ‘Đón chiếu không do cửa giữa, thế là ta làm nhục mệnh vua’. Liền
trở về sứ quán. Thế rồi, mời mở cửa Vân Hội để đi vào. Tăng lại cho là không
thể được. Rồi mới tự cửa Dương Minh đón chiếu vào. Tăng trách Nhật Tôn không tự
mình ra đón chiếu”.
Đây có thể nói là những đòn nắn gân phái bộ
thiên triều. Đòn nắn gân này trước đó vua Trần Nhân Tông đã cho Sài Thung nếm
thử vào năm vua mới lên ngôi (1278), khi vua thiết yến hắn tại hành lang. Hắn
tức giận trở về sứ quán. Đến khi vua ta báo sẽ thết tại điện Tập Hiền thì hắn
mới đến, như An Nam truyện của Nguyên
sử 209, tờ 4a11-12 đã ghi: “Nhật Huyên theo lệ cũ, thết yến ở dưới hành lang.
Bọn Thung không chịu đến dự yến. Khi đã trở về sứ quán, Nhật Huyên sai Phạm
Minh Tự đưa thư tạ lỗi, đổi thết yến đến điện Tập Hiền”.
Phái bộ Trương Lập Đạo đến nước ta vào năm 1291
cũng nếm thử những đòn này, dù sau đó vua Trần Nhân Tông đã tiếp đãi chúng rất
vui vẻ, như chính bản thân Trương Lập Đạo đã ghi nhận trong Trương thượng thư hành lục do tên Việt
gian Lê Thực chép lại trong An Nam chí lược 3 tờ 45-47.
Hai mươi hai lá thư vua Trần Nhân Tông viết cho
vua quan nhà Nguyên, do thế, là một tập văn đáng cho chúng ta đọc để thấy cuộc
đấu tranh ngoại giao và tư tưởng đầy cam go và thử thách giữa ta và kẻ thù.
Chúng thể hiện ý chí sắt đá không chỉ của vua Trần Nhân Tông, mà của cả dân tộc
ta trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, cương quyết không nhượng bộ kẻ thù bất
cứ dưới hình thức nào. Chúng vì vậy, có thể coi như mở đường cho sự ra đời của
loại văn phục vụ trực tiếp sự nghiệp đấu tranh chính trị và quân sự, mà sau này
Nguyễn Trãi nhân danh Lê Lợi đã thực hiện trong Quân trung từ mệnh tập.
Loại văn này có đặc trưng của nó. Lời văn phải
vừa tao nhã mềm dẻo, lại vừa đanh thép sắc bén. Phải có đủ lý lẽ để khuất phục
kẻ thù về mặt tư tưởng, đánh trúng và đánh mạnh vào những tín niệm mà chúng coi
như chân lý bất di bất dịch và tưởng không bao giờ có thể bị bác bỏ. Hốt Tất
Liệt đã vạch ra cho vua Trần Nhân Tông thấy rằng, ở đời làm gì có người không
chết, và trên cõi đất này làm gì có nơi bất tử. Nhưng vua Trần Nhân Tông cũng
vạch cho y thấy rằng vấn đề không phải là chết hay không chết, mà vấn đề nằm ở
chỗ cái chết ấy có lợi hại gì cho ai không.
Cũng như Hốt Tất Liệt tự hào về lòng nhân từ của
y mà bao nhiêu đám quần thần xung quanh ra sức hết lời ca tụng, thì vua Trần
Nhân Tông vạch ra rằng nếu y có một lòng thương như thế thì làm sao phải bắt
vua vào chầu ? Hốt Tất Liệt trả lời vào chầu sẽ được ban thưởng tước vị trọng
hậu. Vua Trần Nhân Tông đáp lại rằng, vua không những muốn được ban thưởng
trọng hậu mà chính mắt mình muốn thấy được quang cảnh Trung Quốc, song chỉ sợ
chết dọc đường thì sự ban thưởng có ích gì nữa. Chết dọc đường thì đối với bản
thân vua Trần Nhân Tông đã không có lợi, mà ngay cả đối với Hốt Tất Liệt cũng
chẳng có lợi gì, thậm chí còn làm tổn thương đến lòng nhân từ bao la của y.
Những lá thư này không chỉ lý luận để khuất phục
kẻ thù, mà còn tố cáo tội ác của chúng đối với nhân dân Đại Việt.
Trong lá thư gửi cho vua Nguyên vào năm 1291 do
Từ Minh Thiện chép lại trong Thiên Nam
hành ký ở Thuyết phu 51 tờ 18b 6-7 vua Trần Nhân Tông đã kể những hành động
tàn bạo cướp của giết người đốt nhà phá chùa của Ô Mã Nhi: “Đến mùa đông năm
Chí Nguyên 24 (1287) lại thấy đại quân thủy bộ cùng tiến, thiêu đốt chùa chiền
khắp nước, đào bới mồ mả tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản
nghiệp trăm họ, các việc tàn ngược không gì là không làm (…). Tham chính Ô Mã
Nhi lâu nắm quân thuyền, riêng ra ngoài biển, bắt hết biên dân vùng biển, lớn
thì giết, nhỏ thì bắt đi, đến nỗi treo trói mổ xẻ, thân một nơi đầu một ngã”.
Đây có thể nói là bản cáo trạng đầu tiên về tội ác chiến tranh do những tên xâm
lược hiếu chiến gây ra, và nhất định chúng phải bị nhân dân ta trừng phạt đích
đáng, mà lá thư năm 1291 gửi cho vua Nguyên đã chỉ ra.
Những lá thư vua Trần Nhân Tông viết cho vua
quan nhà Nguyên, như thế có một vị trí văn học nhất định. Đặc biệt chúng đã đi
đầu, tạo nên thể loại văn học mà sau này Quân
trung từ mệnh
tập đã kế thừa và phát huy
tới đỉnh cao hiệu lực của nó trong sự nghiệp đấu tranh với quân thù. Đây là
loại văn học vừa đánh vừa đàm. Trọng lượng của lời nói trong những lá thư đàm
phán được quyết định bằng những chiến thắng ngoài mặt trận. Nói cách khác, lời
nói phải được yểm trợ và thể hiện bằng những hành động bạo lực. Cho nên, có
những lúc, có những nơi dù lời nói có chính nghĩa, mà không có bạo lực thành
công, đặc biệt trong quan hệ bang giao giữa hai nước, cũng không đạt được mục
tiêu nó nhắm tới, là bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Những lá thư trên do vậy, có một vị trí văn học
hết sức to lớn. Vị trí này cho đến nay vẫn chưa được đánh giá đúng mức, thậm
chí có nơi còn lệnh lạc, đặc biệt là trong các giáo trình văn học sử Việt Nam.
Cho nên chúng tôi nhấn mạnh một lần nữa ở đây để điều chỉnh lại cách đánh giá,
nhằm làm rõ hơn những cống hiến đặc sắc mà vua Trần Nhân Tông đã đóng góp cho
lịch sử văn học dân tộc ta. Đây cũng chính là lý do để cho chúng tôi sưu tập và
công bố toàn bộ các lá thư do vua Trần Nhân Tông gửi cho vua quan nhà Nguyên.
Từ trước tới nay, những lá thư này chưa hề được sưu tập và công bố một cách
trọn vẹn, tối thiểu là trong giới hạn những tư liệu mà ta hiện biết.
Lối văn chữ Hán của những là thư này ít nhiều
chịu ảnh hưởng văn phong tiếng Việt, đặc biệt có một số cấu trúc mà ta đã tìm
thấy trong Lục độ tập kinh. Chẳng hạn
trong lá thư thứ 5, theo cách đánh số của chúng tôi dưới đây, có câu: “Bất năng
thân kiến mạc quan, nhiên trung tâm hân hạnh”. Cấu trúc trung tâm hân hạnh này
là một cấu trúc tương đối đặc biệt. Dạng trung tâm chỉ thấy xuất hiện trong
Kinh Thi, rồi sau đó trong bản dịch Lục
độ tập kinh của Khương Tăng Hội1. Thế mà đến thế kỷ thứ 13,
ngoài lá thư thứ 5 của vua Trần Nhân Tông vừa dẫn, ta còn gặp trong lá thư của
vua Trần Thánh Tông viết gửi cho Hốt Tất Liệt vào tháng giêng năm Chí Nguyên
thứ 12 (1275) chép trong An Nam truyện
của Nguyên sử tờ 3b2-10 với câu “trung tâm hỷ duyệt”. Đây rõ ràng biểu thị ảnh
hưởng của Lục độ tập kinh. Trong thơ
của Tuệ Trung Trần Quốc Tung, ảnh hưởng của kinh này rất rõ qua bài Vật bất năng dung.
Như vậy, thông qua những văn thư ngoại giao ấy
ta còn biết thêm về những ảnh hưởng của kinh điển Phật giáo đối với loại văn
chính luận không chỉ của vua Trần Nhân Tông, mà còn của những nhà thơ, nhà văn
khác của triều Trần. Không chỉ có thế, những hình ảnh vua Trần Nhân Tông dùng
trong văn thơ ngoại giao này bộc lộ ít nhiều quan điểm đánh giá của vua đối với
Hốt Tất Liệt. Trong những lá thư, ta đọc thấy vua tự xưng mình là “bề tôi nhỏ
bé” của Hốt Tất Liệt, nhưng hình ảnh mà vua dùng để có vẻ ca ngợi Hốt Tất Liệt
thì hóa ra đó là một hình ảnh chê bai bóng gió. Ta nhiều lần bắt gặp vua Trần
Nhân Tông nói đến Hốt Tất Liệt như “núi biển bao hàm, dơ bẩn chứa hết” (Văn thư
số 9), hoặc “với lượng càn khôn bao chứa đồ dơ” (Văn thư số 20). Rõ ràng qua
những lần xâm lược nước ta, lòng dạ Hốt Tất Liệt dĩ nhiên toàn bao chứa “đồ dơ”
cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Các văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tông,
do thế, đáng được đọc và nghiên cứu kỹ, để thấy sự sâu sắc và hoành tráng của
một con người đã từng dựng nên một thời đại anh hùng của dân tộc. Đấy là con
người vừa kiên cường bất khuất, vừa mềm dẻo thâm trầm, đầy lòng độ lượng vị tha
nhưng cũng tràn trề ý chí quyết chiến quyết thắng, cương quyết đè bẹp mọi ý đồ
xâm phạm chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Chúng tôi công bố toàn bộ các
văn thư hiện thu thập được với mục đích như thế.
Trích từ TRẦN
NHÂN TÔNG CON NGƯỜI & TÁC PHẨM - LÊ MẠNH THÁT