Thứ Năm, 19 tháng 3, 2015


HỒI KÝ McNAMARA
(IN RETROSPECT)

Danh Đức dịch
(Tiêu Đề của MỘT THẾ GIỚI)



Kỳ 4 - Khi hiểu Nam VN, tôi biết mình đã đánh giá sai Ngô Đình Diệm

Theo McNamara, Ngô Đình Diệm là vị tổng thống độc đoán
chuyên quyền, đa nghi, giấu diếm và tự cô lập với dân chúng

Chỉ trong vòng vài tuần lễ sau đó, rõ ràng là rối rắm tại Nam Việt Nam tăng nhanh hơn là chúng tôi dự kiến, góp phần vào những rối rắm ở Lào. Vào tháng 3 năm 1962, Tổng thống Kennedy thành lập một ủy ban đặc nhiệm gồm các thứ trưởng đứng đầu bởi Ros Gilpatric (Thứ trưởng Quốc phòng) nhằm thăm dò những khả năng diễn biến hành động theo một cách khác, đồng thời đưa ra những khuyến cáo.
Báo cáo của ủy ban này, được đệ trình hôm 8.5, đề xuất một sự gia tăng đáng kể số nhân viên quân sự Mỹ tại Nam Việt Nam, từ con số vài trăm người lên đến mấy ngàn người. Tổng thống Kennedy cắt giảm kế hoạch này một cách đáng kể, chỉ cho phép tăng có 100 cố vấn và 400 binh sĩ thuộc lực lượng đặc biệt có nhiệm vụ huấn luyện các kỹ thuật chống nổi dậy cho binh sĩ Nam Việt Nam.

Thế nhưng vào lúc ấy, tình hình tại Lào xấu đi. Vào tháng 8, trong một buổi họp ở tòa Bạch Ốc, Ngoại trưởng Dean Rusk khuyến cáo cứ tiếp tục đàm phán ngoại giao song vẫn chuẩn bị sẵn sàng tiến hành hành động quân sự để bảo vệ Đông Dương theo một kế hoạch do Khối Liên phòng Đông Nam Á (SEATO) soạn thảo.
Kế hoạch này kêu gọi gởi khoảng 30.000 quân, cung cấp bởi các nước ký tên tham gia khối liên phòng này (SEATO), gồm Anh, Pháp và Mỹ. Song Anh và Pháp lại tỏ rõ là không có dự tính gởi quân.
Tôi bảo với Tổng thống rằng, trước khi quyết định gởi quân đến Đông Dương, cần cân nhắc vấn đề nước Lào so với các vấn đề khác của thế giới. Đặc biệt là vấn đề Berlin, mà theo tôi, khủng hoảng đã gia tăng đến nỗi chúng tôi phải đang tính toán việc gởi sang châu Âu 6 sư đoàn (khoảng 90.000 quân chiến đấu).
Tổng thống quyết rằng chúng tôi không nên dính dự đến kế hoạch của SEATO mà không quan tâm đến những gì khác có thể xảy ra trên thế giới – Ngoại trưởng Dean Rusk đồng ý với kết luận này.

Đến mùa thu năm 1961, Tổng thống Kennedy quyết định cử Maxwell Taylor và Walt Rostow của Hội đồng An ninh quốc gia sang Nam Việt Nam để đánh giá tình hình rồi sau đó đề xuất xem phải làm gì. Trong báo cáo của họ, Maxwell Taylor và Walt Rostow đề nghị tăng hậu thuẫn cho Nam Việt Nam bằng cách gởi thêm cố vấn, thiết bị, và cả một số binh sĩ chiến đấu nữa.
Ngày 11.11 năm đó, sau khi suy nghĩ và thảo luận sâu hơn, Ngoại trưởng Dean Rusk và tôi cùng đệ trình lên Tổng thống một báo cáo chung chống lại việc gởi quân chiến đấu theo cách thức mà Maxwell Taylor và Walt Rostow khuyến cáo.
Chúng tôi nhấn mạnh rằng nước Mỹ đang đứng trước một tình thế tiến thoái lưỡng nan: Nếu Nam Việt Nam đủ cố gắng, sẽ không cần đến binh sĩ chiến đấu của Mỹ; còn nếu như không có được những cố gắng như vậy, binh sĩ Mỹ sẽ không tài nào hoàn thành được sứ mạng của mình giữa một dân tộc dửng dưng, thậm chí thù địch.

Trong những tháng đầu tiên năm 1962 đó, do lẽ chúng tôi đang còn tiếp tục sắp xếp lại Bộ Quốc phòng, Việt Nam chưa phải là vấn đề lớn nhất. Song, không như nhiều vấn đề mà mà tôi ủy nhiệm cho Thứ trưởng Quốc phòng Ros Gilpatric giải quyết, tôi ngày càng nắm vấn đề Việt Nam như thể đó là trách nhiệm cá nhân của tôi. Điều đó hoàn toàn đúng: Việt Nam là nơi duy nhất mà người Mỹ đang ở trong một cuộc chiến tranh nhức nhối đang đâm chồi, cho dù với tư cách cố vấn. Tôi cảm thấy trách nhiệm với cuộc chiến này rất nặng nề, và tôi đế hết tâm trí vào đấy với hết khả năng của tôi sao cho hiệu quả nhất. Đó là lý do tại sao mà cuối cùng người ra gọi đó là cuộc chiến tranh của McNamara.
Trong năm 1962, càng dấn sâu tiếp xúc với Nam Việt Nam, tôi càng đi đến chỗ hiểu biết nhà lãnh đạo Nam Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm. Diệm và những người chung quanh ông ta cùng cơ cấu chính trị mà ông ta xây dựng thiếu hẳn sự gắn bó với dân chúng Nam Việt Nam; ông không hề phát triển những quan hệ với họ. Chúng tôi đã đánh giá sai điều này. Ông ta tỏ ra độc đoán chuyên quyền, đa nghi, giấu diếm và tự cô lập với dân chúng.

Dẫu cho chúng tôi có nhìn thấy những hạn chế như thế, nhiều người trong chúng tôi vẫn chấp nhận cách đánh giá cố hữu về Diệm, cụ thể là tờ Newsweek năm 1959 gọi ông là “một trong những nhà lãnh đạo có khả năng nhất của Á châu tự do”. Cùng với nhiều người khác, lúc tôi nghĩ rằng viễn tượng tìm được ai khá hơn Diệm quả thật là may, trừ phi gặp vận đỏ.

Chẳng có ai trong chúng tôi tự mãn với những thông tin nhận được từ Việt Nam. Tất nhiên chúng tôi tự hỏi nhận được những báo cáo căn cứ trên sự thật về các chiến dịch quân sự và chúng tôi đọc ngấu nghiến nguồn báo cáo phân tích tường thuật của tòa đại sứ của chúng tôi tại Sài Gòn.
Thế nhưng chúng tôi sớm quyết định cần phải có những buổi họp giữa các viên chức cao cấp Mỹ tại Sài Gòn và Washington có liên quan đến các vấn đề này. Bởi thế, từ cuối năm 1961, tôi thường bay đến Hawaii và Nam Việt Nam. Các chuyến đi Hawaii và Nam Việt Nam cho phép tôi và các cộng sự viên của tôi nghe trực tiếp từ rất đông đồng nghiệp Mỹ và Nam Việt Nam. Chúng tôi luôn bổ sung cho những buổi họp đó bằng những sự tham khảo với các nhà quan sát độc lập.
Tháng 3.1962, trong một buổi họp ở Washington, tôi tuyên bố: “Thắng lợi trong cuộc chiến chống du kích ít nhất cũng sẽ tùy thuộc vào các hành động chính trị và chương trình kinh tế hơn là nơi các kế hoạch quân sự".


Kỳ 5 - Lạc quan sai lầm từ những bản báo cáo gian dối


Những bản báo cáo màu hồng từ các chiến trường
đã đem đến cho McNamara những lạc quan sai lệch

Trên cơ sở những gì chúng tôi được biết từ tất cả những nguồn tin đó, Ngoại trưởng Dean Rusk và tôi cùng các cộng sự thường gửi đến Quốc hội và báo chí nhiều bản phúc trình. Liệu các bản phúc trình này có chính xác hay không? Nhất định chúng phải chính xác. Song, sau này mới vỡ lẽ ra rằng các bản phúc trình về tình hình quân sự đó, kể cả của tôi, đều quá lạc quan. Một vài mẫu báo cáo tiêu biểu về các chiến dịch quân sự của Mỹ như sau:

5/2/1962: “Các hoạt động mà chính phủ Nam Việt Nam (NVN) tiến hành chống lại hiểm họa lật đổ và xâm lược tại nước này đang bắt đầu có hiệu quả…Việc phối hợp những hoạt động do họ tự ý tiến hành và các hoạt động được yêu cầu từ phía chúng ta, theo ý tôi, đang dẫn đến một sự cải thiện tình hình, tuy rằng còn quá sớm để dự báo một kết quả có thể có”.
23/7/1962: “Sự hỗ trợ quân sự cho Việt Nam đang có kết quả. NVN đang tấn công những Việt Cộng (VC) nổi dậy ngay nơi hiểm yếu nhất một cách thường xuyên hơn…Các dấu hiệu này đầy khích lệ và chúng ta tìm cách duy trì sao cho duy trì được cái đà thắng lợi này”.
9/10/1962: “Tôi nghĩ rằng còn quá sớm để nói rằng dòng nước đã đổi chiều hoặc để dự báo về một kết quả chung cuộc, nhưng trong năm qua đã có những tiến bộ lớn lao…

Chúng tôi hể hả với tiến bộ được báo cáo cho chúng tôi. Cho dù có được đo lường bằng tỉ lệ thương tổn của quân đội NVN so với của lực lượng Cộng sản, hoặc bằng những biện pháp đo lường nào khác, thì tiến bộ đều đã hiển hiện.
Tại sao những nhận xét của tôi về tình hình chính trị ở NVN lại sát thực tế trong khi, nếu nhìn lại, các nhận định về tiến bộ quân sự lại quá đỗi lạc quan như vậy?

Các báo cáo quân sự phản ánh bức tranh trình bày bởi các chỉ huy quân sự của chúng tôi tại các cuộc họp ở Hawaii và NVN. Tại mỗi cuộc họp đó, tôi đều gặp tướng Paul D.Harkins của phái bộ cố vấn quân sự Mỹ tại VN (COMUSMACV).
Tướng Harkins và các thuộc quyền của ông báo cáo rằng quân đội NVN đang đẩy lui VC và đang kiểm soát nông thôn. Thí dụ như hôm 23/7/1962, tại Honolulu, Harkins bảo tôi rằng: “Không còn hồ nghi gì nữa, chúng ta đang đứng về phía thắng lợi. Nếu tiếp tục các chương trình của chúng ta, sẽ hy vọng thấy VC giảm hoạt động”.
Lúc đó và ngay bây giờ tôi không tin rằng ông ta và các sĩ quan khác đã cố ý lừa dối tôi. Điều đó đi ngược với sự đào tạo và truyền thống của họ. Vả lại, tôi còn có thể sử dụng các nguồn tin khác để kiểm tra chéo những gì họ báo cáo với tôi – như CIA, Bộ ngoại giao, báo chí.

Các lý do dẫn đến sự lạc quan sai lầm của họ nằm ở nơi khác. Giờ đây đã rõ rằng họ đã nhận được những thông tin sai lạc từ phía NVN, vốn có khuynh hướng báo cáo những gì mà họ cho rằng là người Mỹ thích nghe. Giám đốc CIA John McCone đã từng viết sau này:
Tin tức cung cấp cho chúng ta từ MACV và tòa đại sứ về những hoạt động của VC tại một số tỉnh cũng như về tình thế tương đối khá của chính phủ NVN so với VC đều sai lạc cả, do lẽ các sĩ quan trên chiến trường đã bị các tỉnh và quận trưởng của NVN hoàn toàn báo cáo sai…Những người này cảm thấy họ bị buộc phải “nặn ra” những con số thống kê sao cho chính phủ trung ương tán thưởng phê chuẩn”.
Như nhiều người khác, trong một chừng mực nào đó, các sĩ quan Mỹ cũng dễ dãi với cách suy nghĩ ảo này.Vả lại, cũng như tôi, họ đều hiểu sai bản chất của cuộc xung đột. Họ nhìn thấy trước tiên cuộc xung đột này như là một chiến dịch quân sự trong khi thực ra lại là một cuộc đấu tranh vì tinh thần dân tộc rất phức tạp.

Việc theo dõi các thành quả tiến bộ tại Việt Nam đã được điều khiển rất tồi tệ. Cả các chỉ huy quân sự và tôi cùng nhận trách nhiệm về sự thất bại (trong công việc) này. Do không biết làm sao đánh giá các kết quả trong một cuộc chiến tranh không có chiến tuyến, các quân nhân đã cố đo lường thành quả với những biện pháp định lượng như số thương vong của quân địch (sau này sẽ trở thành việc đếm xác thật bỉ ổi), số vũ khí tịch thu được, số tù binh bị bắt, số phi vụ cất cánh vân vân và vân vân.
Sau này chúng tôi mới hiểu ra rằng đa số các sự đo đếm đó đã bị dối trá hoặc là sai lạc. Tôi đã nhiều lần nhắc nhở công khai giới quân nhân nên kiềm chế bớt lạc quan về những tiến bộ trong cuộc chiến, song những nhắc nhở đó đã không đủ.
Vào giữa năm 1962, mục tiêu rõ rệt và nhiều lần đã được công bố của chính phủ Kennedy là huấn luyện quân đội NVN. Đối với tôi, điều đó hàm ngụ việc phải ấn định một thời hạn cho công tác huấn luyện này…

Có hai phe trong chính phủ.Cả hai đều cho rằng nhiệm vụ của chúng ta là huấn luyện NVN tự bảo vệ lấy mình. Song một phe thì nghĩ rằng chúng ta nên ở lại cho đến khi nào NVN có được khả năng đó, bất cần có kéo dài bao lâu chăng nữa. Phe kia nghĩ rằng nên giới hạn công tác huấn luyện trong một giai đoạn nhất định nào đó và sau đó ra đi.
Nếu NVN không học được cách tự vệ lấy thân, thì điều đó có nghĩa là họ không thể huấn luyện được. Vấn đề cứ chập chờn và chẳng bao giờ được thảo luận hay giải quyết trọn vẹn. Điều này đã tác động lớn lên một quyết định của Tổng thống hôm 2/10/1963.
Vào khoảng thời gian đó, một cuộc khủng hoảng chính trị và tôn giáo nổ ra tại NVN.


Kỳ 6 – Diệm, Nhu và bức điện nghiệt ngã trong mùa thu 1963

 

Anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu bị giết hại từ một bức điện
không được bất cứ ai có trách nhiệm về VN ở Tòa Bạch ốc thông qua

Xung đột giữa tín đồ Phật giáo và Chính phủ Nam Việt Nam âm ỉ suốt mùa hè. Đột nhiên, ngày 21.8, chính quyền ra tay đàn áp…Với sự đồng ý của Diệm, Nhu ra lệnh chỉ một đơn vị tinh nhuệ tấn công vào các chùa chiền vào lúc sáng sớm...
Khi các báo cáo về sự bạo lực này đổ tuôn đến Washington hôm 24.8, nhiều viên chức coi đó như là một cơ hội để tiến đến chống lại chế độ Diệm. Người khởi sự việc này là Roger Hilsman Jr., vừa thế chỗ Averell Harriman ở ghế Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách các vấn đề Viễn Đông…
…Trong tuần lễ đó, các nhân vật then chốt có quyền quyết định về vấn đề Việt Nam – Tổng thống Kennedy, Ngoại trưởng Dean Rusk, Cố vấn an ninh McGeorge Bundy, Giám đốc CIA John McCone và tôi – đều đi khỏi Washington, nghỉ ngơi một chút.

Dù rằng tôi vẫn thường đi vắng như thế và rằng vẫn sử dụng điện thoại bất cứ tôi đang ở đâu, tôi vẫn ủy nhiệm toàn quyền cho phụ tá của tôi là Ros Gilpatrick. Hilsman bắt đầu hành động bằng cách thảo ra một bức điện gửi cho Đại sứ Henry Cabot Lodge mới vừa chân ướt chân ráo đến Sài Gòn…
“Đại sứ và các cộng sự tại Nam Việt Nam nên khẩn cấp xem xét đến mọi khả năng thay giới lãnh đạo và soạn kế hoạch chi tiết về cách thức tiến hành thay thế Diệm khi cần thiết.
Averell Harriman vừa giữ chức Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách các vấn đề chính trị chuẩn y bức điện này sau khi Hilsman soạn xong bức điện, Michael Forrestal (trong Hội đồng An ninh quốc gia, lúc đó đang trực ở tòa Bạch Ốc) ngay lập tức gửi bức điện cho Tổng thống Kennedy lúc đó đang ở Hyannis Port, khẳng định rằng: “Đã thông qua các Thứ trưởng Ngoại giao (George Ball) và Thứ trưởng Quốc phòng”.

Những người hậu thuẫn cho bức điện này nhất quyết gửi cho được bức điện ngay trong ngày. Họ đến sân gôn tìm gặp Thứ trưởng Ngoại giao George Ball và nhờ gọi cho Tổng thống. George Ball làm theo. Tổng thống bảo sẽ đồng ý nếu như các cố vấn cao cấp của ông cũng nhất trí.


Roger Hilsman - tác giả bức điện không rõ ràng
đã dẫn đến cái chết thảm cho gia đình họ Ngô.

George Ball gọi điện ngay cho Ngoại trưởng Dean Rusk ở Washington bảo rằng Tổng thống đã đồng ý, Dean Rusk đồng ý dẫu rằng không hăng hái chút nào. Trong khi đó Averell Harriman lo tranh thủ CIA thông qua [bức điện]. Giám đốc CIA John McCone vắng mặt, nên Averell Harriman bàn với Phó giám đốc kế hoạch là Richard Helms. Dẫu không đồng tình, song cũng như Ngoại trưởng Rusk, cuối cùng Helms siêu lòng vì lẽ Tổng thống đã đồng ý rồi.
Forrestal, trong lúc đó gọi cho Phụ tá ngoại trưởng Ros Gilpatrick và lại bịa câu chuyện đó: Tổng thống và Ngoại trưởng đã xem bức điện và đã đồng ý rồi. Dẫu không đồng ý với giải pháp thay thế Diệm, song với quá trình xin ý kiến đồng ý suốt từ đầu kiểu đó, Ros Gilpatrick cũng phải chấp thuận. Ông băn khoăn về tính vội vã của bức điện, đến nỗi đến thứ bảy đó, ông gởi một bản sao bức điện cho cố vấn quân sự của Tổng thống là Max Taylor cho dù lúc đó bức điện đã được gửi đi rồi.

Bức điện của Hilsman khiến cho Max Taylor bàng hoàng, nhất là cách thức mà bức điện đó được thông qua và gửi đi. Tổng thống sau đó sẽ sớm hối tiếc vì bức điện đó. Bob Kennedy sau này, trong một cuộc phỏng vấn, nhắc lại rằng người anh Tổng thống của ông đã nhận rằng đó là một sai lầm. Bob Kennedy phát biểu: “Trong thực tế, chỉ có Harriman, Hilsman (cả hai đều là Thứ trưởng Ngoại giao) và Mike Forrestal tại tòa Bạch Ốc là đã nhất trí với bức điện đó, và họ đã là những người mạnh mẽ ủng hộ một cuộc đảo chánh ở Sài Gòn”.
Chúng tôi thảy đều biết rằng thỉnh thoảng Hilsman vẫn vượt ra ngoài khuôn khổ hệ thống nhằm làm tăng cơ may thắng thế cho quan điểm của anh ta. Lỗi là ở nơi những ai không kềm anh ta nổi và cũng là do chính bản thân anh ta.

Cái chết của anh em Ngô Đình Diệm (theo wikipedia)
Ngày 2 tháng 11 năm 1963, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm và cố vấn, em trai mình, Ngô Đình Nhu bị bắt giữ sau khi quân đội VN Cộng Hòa tiến hành đảo chính thành công.
Cuộc đảo chính này diễn ra sau khi quân đội đã bao vây Dinh Gia Long ở Sài Gòn và đã thành công sau một ngày. Tuy nhiên, khi những người thực hiện cuộc đảo chính vào dinh thì hai anh em họ Ngô đã chạy thoát đến nơi trú ẩn ở Nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn.
Trước đó, anh em họ Ngô đã giữ liên lạc với quân nổi dậy bằng cách dùng một đường kết nối trực tiếp từ nơi trú ẩn đến dinh, khiến cho quân nổi dậy tưởng nhầm rằng anh em họ vẫn còn trong dinh Gia Long.
Anh em họ đồng ý đầu hàng quân đảo chính, những người đã hứa cho anh em họ Ngô lưu vong an toàn. Sau khi bị quân đảo chính bắt giữ, anh em Ngô Đình Diệm đã bị các sỹ quan của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bắn chết ở phía sau một xe thiết giáp trên đường quay về Sở chỉ huy quân đội ở căn cứ không quân Tân Sơn Nhất.
Xác hai anh em cho thấy có nhiều vết đâm và vết đạn súng lục. Không có cuộc điều tra chính thức nào được tiến hành về vụ giết hại này, nhưng người ta đổ tội cho đại úy Nguyễn Văn Nhung, một vệ sỹ của tướng Dương Văn Minh - lãnh đạo cuộc đảo chính.
Các đồng nghiệp của Dương Văn Minh trong hội đồng quân sự cũng như các quan chức Mỹ đều đồng ý chung rằng Dương Văn Minh là người ra lệnh hành quyết anh em họ Ngô, họ đưa ra các động cơ anh em họ Ngô đã khiến Minh bối rối vì đã thoát khỏi Dinh Tổng thống nên phải bị giết để triệt tiêu khả năng họ có thể quay lại tham chính. Ban đầu các tướng đã cố che đậy câu chuyện bằng nhiều giả thiết tự sát nhưng khi các bức ảnh xác chết của hai anh em họ Ngô lộ ra ngoài thì câu chuyện mới bị vạch trần.


Kỳ 7: McNamara bối rối trong lần đầu gặp Ngô Đình Diệm


Tổng thống Mỹ J.F.Kennedy và Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm

 “Kennedy cực kỳ nhạy cảm với báo chí truyền thông”. Đó là một trong những khác biệt của ông với những vị tiền nhiệm. Ông trọng nể sự thông minh và kiến thức của họ đồng thời nghĩ rằng có thể cậy trông nơi báo chí. Ông cũng muốn tạo ảnh hưởng nơi họ vì lẽ ông hiểu và nhìn nhận tầm quan trọng của họ trong xã hội. Ông thường gần gũi với các nhà báo…

Một sáng thứ hai, Ngoại trưởng Dean Rusk và tôi có hẹn với Tổng thống lúc 9 giờ…Như thường lệ, tôi đến văn phòng lúc 7 giờ, giở qua ấn bản Newsweek chưa phát hành trên bàn giấy của tôi, và tôi đã phát hoảng khi phát hiện trong đó có một bài viết chứa một tin bị rò rỉ thật tệ lậu không thể ngờ nổi.
Giờ đây tôi không còn nhớ đó là tin gì nữa, song vẫn nhớ là chỉ có một dúm người trong chính phủ - gồm Tổng thống, Ngoại trưởng Dean Rusk, tôi và hai hay ba thuộc cấp khác được biết về tin cực kỳ cơ mật này. Tôi vội vã kiểm tra các cộng sự viên của tôi và được rõ rằng chẳng ai để rò rỉ tin đó.

Khi tôi đến phòng họp nội các lúc 9 giờ, Ngoại trưởng Dean Rusk đã có mặt ở đó rồi. Tôi nói: “Trời đất ơi. Dean này, ông có biết việc gì xảy ra không?”  Ông ta trả lời: “Bob này, tôi đã kiểm tra các nhân viên của tôi rồi và chẳng có ai đã rò rỉ tin đó cả.”
Đúng lúc đó thì Tổng thống bước vào. Ông bảo: “Tệ thật. Ông Dean ạ. Tôi đặt ông giữ bộ (ngoại giao) vậy mà tôi đã thấy gì? Một vụ rò rỉ tồi tệ nhất của một Chính phủ Mỹ trong bao nhiêu năm qua.” Ngoại trưởng Dean trả lời: “Đúng thế, thưa Tổng thống, Bob và tôi mới vừa bàn về việc đó. Sáng nay chúng tôi đều đã kiểm tra trong mỗi bộ của chúng tôi và phát hiện cùng một điều là chẳng ai trong mỗi bộ của chúng tôi đã để rò rỉ”.
Tổng thống mất kiên nhẫn nói: “Tôi không tin. Tôi đặt ông vào ghế đó là để đưa kỷ cương vào trong bộ (ngoại giao).” Ngoại trưởng Dean bình tĩnh trả lời: “Thưa Tổng thống, sáng nay, khi xem xét vụ này, tôi được biết rằng Ben Bradley rời Newport đêm thứ năm, trước khi báo Newsweek được đưa đi in vào thứ sáu.” (Ben Bradley là trưởng văn phòng Newsweek tại Washington và cũng là bạn thân của Tổng thống Kennedy, và Newport là quê vợ của ông, nơi vợ chồng ông đi nghỉ cuối tuần đó, chú thích của McNamara).

Bất cứ một tổng thống nào trừ ông Kennedy, (trong trường hợp đó), cũng đã “quạt” nặng ông Dean Rusk rồi. Thay vì thế, ông chỉ nói: “Lạy Chúa tôi! Ông đang nói gì đấy?Tôi đã để rò rỉ ư?”
Các tổng kết của báo chí về những vụ đột kích vào chùa chiền là đề tài đầu tiên mà Tổng thống đề cập đến trong một buổi họp ở tòa Bạch Ốc ngày 26.8, cuộc họp đầu tiên sau khi bức điện (của Hilsman) được gửi đi. Ông nói ông nghĩ rằng dẫu Diệm và Nhu có ít nhiều đáng ghét, họ vẫn đang được việc đối với chúng ta. Thành ra, chúng ta không thể tiến đến loại trừ họ chỉ vì áp lực của báo chí.

Ngày 2.9, truyền hình CBS đánh dấu việc họ tăng chương trình tin buổi tối từ 15 phút lên 30 phút bằng việc chỉ định Walter Cronkite phỏng vấn Tổng thống Kennedy, Cronkite nói: “Thưa Tổng thống, cuộc chiến tranh thực sự duy nhất mà chúng ta đang đeo đuổi trong lúc này dĩ nhiên là cuộc chiến VN. Và chúng ta gặp khó khăn hiển nhiên ở đó.”
Tổng thống trả lời: “Tôi không nghĩ rằng có thể chiến thắng ở đó trừ phi chính phủ NVN cố gắng hơn nữa để giành được sự ủng hộ của dân chúng. Họ là những kẻ phải hoặc thắng hoặc bại. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là giúp đỡ họ, và chúng ta tỏ rõ điều đó; thế nhưng tôi không đồng ý với những ai nói rằng chúng ta nên rút ra. Rút như thế sẽ là một sai lầm lớn lao.”
 “Cuối cùng thì ngày 29.9, Max (tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự tổng thống) và tôi đến dinh Gia Long trên đường Công Lý [đúng ra là đường Gia Long], chỉ cách tòa đại sứ Mỹ có vài dãy phố, để gặp Diệm trong 3 giờ, sau đó là bữa chiêu đãi tối. Đại sứ Lodge và tướng Harkins tháp tùng chúng tôi. Nhu tránh mặt.

Bằng một thứ tiếng Pháp đều đều và buồn ngủ, thuốc lá hút liên tục, Diệm độc thoại trong suốt 2 tiếng rưỡi về tính sáng suốt trong các chính sách của ông ta và về những tiến bộ trong chiến tranh, và thường xuyên nhổm dậy chỉ trỏ bản đồ để minh họa. Sự tự tin thanh thản của ông ta làm tôi bối rối.
Cuối cùng, khi sự độc thoại này tạm dừng, tôi lên tiếng. Tôi bảo Diệm rằng Mỹ thật sự muốn giúp đỡ NVN đánh bại VC. Tôi nhấn mạnh rằng đây hoàn toàn là một cuộc chiến tranh của người Việt và rằng tất cả những gì nước Mỹ có thể làm là giúp đỡ.
Trong khi vừa đồng ý với ông ta rằng đã có những tiến bộ quân sự vừa kể, tôi thẳng thắn và mạnh mẽ truyền đạt những quan tâm của nước Mỹ đối với tình hình chính trị bất ổn của NVN. Tôi nhấn mạnh rằng tình trạng rối rắm đó và sự đàn áp mà NVN đã gây nên, làm phương hại đến nỗ lực chiến tranh và sự ủng hộ của Mỹ. Thành ra, phải chấm dứt đàn áp và giải quyết sự bất ổn.
Diệm thẳng thừng bác bỏ mọi lý lẽ khẳng định của tôi.

Tôi cũng thúc ép ông ta về vấn đề bà Nhu, bảo rằng một phần không nhỏ những khó khăn của chính phủ NVN với dư luận quần chúng Mỹ là do những tuyên bố thiếu khôn ngoan và đáng tiếc của bà ta.
Những liếc mắt và điệu bộ của ông ta cho thấy rằng, đây là lần đầu tiên mà ông ta chịu hiểu ý tôi, song ông ta vẫn đứng lên bào chữa cho bà Nhu.
Tướng Maxwell Taylor tóm lược những quan điểm của tôi. Ông nhấn mạnh đến nhu cầu phải đáp ứng nỗi băn khoăn rộng rãi và chính đáng tại Mỹ về những biến cố gần đây ở NVN…Song Diệm không trả lời.

 

 

Kỳ 8: Đề nghị thay Diệm-Nhu vì "cần chế độ do quân đội nắm quyền"



Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị McNamara đề nghị phải thay vì Mỹ
đang cần một chính quyền do quân đội chỉ huy để đáp ứng xu thế thời cuộc

Bay trở về Washington sau chuyển công du Nam Việt Nam, McNamara với sự trợ giúp của Phụ tá William P.Bundy, tướng Max đã thảo báo cáo gửi lên Tổng thống, nhận định rõ chính quyền của tổng thống Diệm đang đi theo chiều hướng độc tài và đề đạt thay đổi lãnh đạo.

Những trích đoạn dưới đây có thể tóm tắt các kết luận và khuyến cáo của chúng tôi, tỏ rõ sự tin tưởng rằng một sự thay đổi chính phủ nào không bị đe dọa bởi tham vọng thiết lập một nhà nước độc tài của Ngô Đình Nhu…nhất định sẽ tốt hơn là chính phủ hiện tại.

Kết luận:
● Chiến dịch quân sự đã và đang tiếp tục đạt tiến bộ.
● Có những căng thằng chính trị ở Sài Gòn (và có thể ở một vài nơi khác tại NVN), nơi mà chính phủ ông Diệm-Nhu đang ngày càng trở nên thất nhân tâm.
● Các hành động đàn áp hơn nữa của các ông Diệm-Nhu có thể sẽ làm thay đổi chiều hướng quân sự thuận lợi hiện nay. Mặt khác, quay trở lại với các biện pháp kiểm soát và cai trị ôn hòa hơn, sẽ có thể làm dịu đi một cách đáng kể cuộc khủng hoảng chính trị.
● Không chắc rằng những sức ép của Mỹ sẽ đẩy anh em Diệm-Nhu đến chỗ tiết chế ôn hòa. Ngược lại càng ép, họ càng bướng bỉnh. Song nếu không có những sức ép, có thể họ sẽ tiếp tục hành xử như đã qua.
● Viễn tưởng thay đổi chế độ để rồi cải thiện được tình hình chỉ là năm ăn năm thua. Thoạt tiên, chỉ một chế độ có quyền uy mạnh mẽ mới có thể đoàn kết được chính phủ và duy trì trật tự. Căn cứ trên vai trò tối thượng của giới quân nhân tại VN ngày nay, có thể vai trò này sẽ được đáp ứng bởi một sĩ quan quân đội lên nắm quyền qua một quá trình chọn lọc sau những tranh giành của phe quân nhân. Một chế độ quân sự độc tài như thế, có thể, trong giai đoạn phấn chấn đầu tiên sau khi các ông Diệm-Nhu ra đi, sẽ có khả năng tiếp tục công việc trấn áp nạn  tham ô của bộ máy công quyền VN đã có thời trước trào Diệm, và quan tâm đến các vấn đề quân sự hơn là các vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị, kèm theo một khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa bài ngoại ờ một mức độ nào đó.

Kiến nghị:
Chúng tôi kiến nghị rằng:
● Tướng Harkins xem xét lại vụ Ngô Đình Diệm, những cải tổ quân sự cần thiết cho việc kết thúc chiến dịch quân sự ở miền Bắc và miền Trung vào cuối năm 1964, và tại vùng đồng bằng sông Cửu Long vào cuối năm 1965.
● Thiết lập từ một chương trình huấn luyện người NVN sao cho có thể đảm nhận từ cuối năm 1965 các công tác hiện do nhân viên quân sự Mỹ đảm trách. Từ đó sẽ có thể đa số nhân viên Mỹ vào thời điểm đó.
● (Nhờ đó) Bộ Quốc phòng có thể công bố trong một tương lai rất gần các kế hoạch chuẩn bị rút 1.000 nhân viên quân sự Mỹ vào cuối năm này.
● Để tỏ rõ cho Diệm biết chúng ta không tán thành chương trình chính trị của ông ta, chúng ta:
- Ngưng hậu thuẫn tài chánh một cách đáng kể cho các chương trình phát triển của ông ta.
Duy trì các quan hệ thuần túy “nghiêm chỉnh” hiện tại với các nhân vật lãnh đạo cao cấp của chánh phủ NVN.
- Theo dõi tình hình chặt chẽ để nắm rõ tổng thống Diệm đi những bước nhằm giảm thiểu các biện pháp đàn áp cải thiện các nỗ lực quân sự.
- Chúng ta cũng sẽ thừa nhận rằng trong 1 đến 4 tháng tới, chúng ta có thể sẽ quyết định có những hành động quyết liệt hơn.
- Chúng ta sẽ không khởi xướng bất cứ điều gì có thể khuyến khích tich cực một sự thay đổi trong chính phủ.
Trong bàn phúc trình này chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh chúng tôi không tin rằng hành động tổ chức một cuộc chính biến sẽ được tiến hành vào thời điểm đó.

Chúng tôi đến Washington sớm ngày 2.10. Sau đó trong buổi sáng, tướng Max và tôi đến tòa Bạch Ốc báo cáo với Tổng thống trong vòng một giờ về chuyến đi của chúng tôi. Đề tài chánh là khuyến cáo rút 1.000 cố vấn của chúng tôi. Tôi nói: “Thưa Tổng thống, chúng ta phải có được một cách nào đó để rút khỏi khu vực đó, và chúng ta phải cho đất nước chúng ta biết điều đó”.

Tối đó Tổng thống Kennedy triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia để thảo luận về bản phúc trình của chúng tôi. Mọi người đều đồng ý rằng đây là cuộc chiến tranh của NVN và rằng chúng tôi chỉ giúp NVN trong tư cách cố vấn mà thôi.

Mặc dầu mọi thành viên đều đã đồng ý với ngôn từ của bản phúc trình, song khi tiếp tục thảo luận trở lại, mọi người lại tranh cãi về khuyến cáo của chúng tôi, theo đó Bộ Quốc phòng loan báo kế hoạch rút lực lượng quân sự Mỹ vào cuối năm 1965.
Một phe thì tin tưởng rằng đã có những tiến bộ quân sự và rằng công tác huấn luyện đã tiến bộ đến mức chúng tôi có thể bắt đầu rút đi. Phe thứ nhì không nhìn thấy rằng cuộc chiến tranh đã tiến triển đến thế và cũng không nhìn thấy NVN chứng tỏ đã tiến bộ trong huấn luyện. Một phe thứ ba – đại diện cho quan điểm của đa số - thì cho rằng có thể huấn luyện NVN được nhưng lại tin rằng công tác huấn luyện đã không đủ dài hơi để đạt đến kết quả và do đó, cần tiếp tục ở các mức độ như hiện nay.
Sau chừng đó thảo luận, Tổng thống phê chuẩn những kiến nghị của chúng tôi về việc rút 1.000 người vào tháng 12.1963…Loan báo này được tùy viên báo chí Pierre Salinger đưa ra sau buổi họp…Chúng tôi đã viết: “Vào lúc này, sẽ không khởi xướng một điều gì nhằm khuyến khích một cách tích cực sự thay đổi trong chánh phủ NVN. Chính sách của chúng ta sẽ là tìm cách khẩn cấp xác định và thiết lập những tiếp xúc với một nhóm lãnh đạo thay thế nếu như và vào lúc mà điều đó xảy ra”.
Tổng thống ra lệnh chuyển những chỉ thị này đến Sài Gòn qua đường dây CIA. 

 

Kỳ 9 - Tranh cãi trong Nhà Trắng trước ngày đảo chính Diệm-Nhu



Maxwell Taylor, tổng thống Kennedy và McNamara
trước ngày đảo chính tổng thống Ngô Đình Diệm

Chỉ vài tuần sau quyết định của Tổng thống rằng: “Mỹ sẽ không khởi xướng một điều gì khuyến khích tích cực một sự thay đổi chánh phủ NVN”, trong một bức điện gửi Max, cố vấn an ninh, ngày 25.10, đại sứ Lodge cố thuyết phục rằng chúng ta không thể ngăn cản một cuộc đảo chánh, bởi lẽ âm mưu của các tướng NVN nay đã quá đà rồi”. 
Max trả lời thay cho Tổng thống rằng có ngăn cản đảo chánh như thế mới giữ được quyền xem xét lại kế hoạch đảo chánh của các tướng tá Nam VN và qua đó ngăn trở được bất cứ một mưu đồ nào không có nhiều cơ may thành công.

Trong một cuộc họp với Tổng thống 4 ngày sau đó, tôi đặt câu hỏi trong số các viên chức của chúng ta tại Sài Gòn đứng đầu việc lên kế hoạch đảo chánh đồng thời tôi cũng nhận xét rằng tướng Harkins (tư lệnh lực lượng Mỹ tại NVN) chắc đã không được biết những gì mà tòa đại sứ và CIA đang làm.
Bobby (em trai Tổng thống), nhìn nhận rằng đã không đọc tất cả mọi bức điện, nói rằng tình hình hiện tại quả là không có ý nghĩa gì đối với ông ta. Bobby cho rằng ủng hộ một cuộc đảo chánh đồng nghĩa với việc đặt tương lai NVN – và còn cả của Đông Nam Á – vào trong tay một ai đó mà lai lịch cũng như ý đồ như thế nào vẫn còn là một ẩn số đối với chúng ta.
Max cũng nhất trí nói rằng một đảo chánh thành công sẽ còn cản trở những nỗ lực chiến tranh bởi lẽ một chánh phủ mới, không có kinh nghiệm gì, sẽ còn phải học tập về cuộc chiến đó…
Trong cuộc họp lúc 6 giờ chiều, Tổng thống, vốn không hề cảm nghĩ như đại sứ Lodge rằng một cuộc đảo chánh sẽ chắc thành công hoặc phấn khởi chủ trương đảo chánh chống Diệm, nhận ra rằng các tướng tá NVN sẽ phải chứng tỏ rằng họ có thể sẽ thành công nhanh gọn.

Sau buổi họp, cố vấn an ninh Max gửi cho Lodge một bức điện mang nội dung trên và chỉ thị cho Lodge tiết lộ với tướng Harkins những kế hoạch đảo chánh của các tướng NVN và tìm hiểu xem ông ta cùng trưởng chi nhánh CIA đánh giá những việc gì cần làm.
Sau khi đọc xong các bức điện (trao đổi về kế hoạch đảo chánh), tướng Harkins gửi ngay cho tướng Max ở Washington một bức điện giận dữ. Ông ta than phiền về việc Lodge giấu nhẹm ông ta về cuộc đảo chánh đang được dự liệu, và nêu ý kiến phản đối ý đồ đảo chánh. Tướng Harkins đề nghị “đừng vội vã thay ngựa giữa dòng mà nên có những hành động thuyết phục sao cho ngựa sẽ thay đổi đường chạy và phương pháp hành động”.

Lodge thất kinh trước ý nghĩ có một cố gắng cản trở nào đó của Bộ đối với cuộc đảo chánh, trả lời lại với cùng một giọng bực tức và khích bác “Đừng nghĩ rằng chúng ta có uy quyền để dời lại hoặc cản trở một cuộc đảo chánh”. Tôi nghiêm chỉnh hỏi lại rằng liệu các tướng tá NVN sẽ có khả năng tiến hành một cuộc đảo chánh một khi họ nghĩ rằng Mỹ chống lại điều đó.
Cố vấn an ninh Max có vẻ như chia sẻ quan điểm của tôi. Sau đó trong ngày, ông ta gửi cho Lodge một bức điện: “Chúng tôi không chấp nhận một chánh sách của Mỹ dựa trên cơ sở rằng chúng ta không có quyền dời lại hoặc can ngăn một cuộc đảo chánh… Chúng tôi nghĩ rằng…ông nên hành động và thuyết phục các người cầm đầu đảo chánh nên ngưng hoặc dời lại bất cứ hành động nào mà không cho thấy có nhiều triển vọng thành công”.

Dự trù rằng Lodge sẽ rời Sài Gòn về Washington để tham khảo vào ngày 1.11. Chỉ trước khi lên máy bay, Lodge mới cùng với Đô đốc Felt (tư lệnh hạm đội thứ 7) chào xã giao Diệm. Trước đó tổng thống Diệm có gởi văn thư ngỏ ý muốn Lodge ở lại thêm 15 phút sau khi Đô đốc Felt đã ra đi. Lodge làm đúng như lời Diệm nhắn. Lát sau, Lodge gởi điện cho Washington:
Khi tôi đứng dậy ra đi, Diệm nói: làm ơn thưa lại với Tổng thống Kennedy rằng tôi là một đồng minh tốt và chân thành, rằng giờ đây tôi muốn thẳng thắn giải quyết các vấn đề hơn là đợi đến khi chúng tôi mất tất cả rồi mới bàn luận. Hãy thưa với Tổng thống Kennedy rằng tôi nghiêm chỉnh nghe các đề nghị của Tổng thống và muốn thực hiện những đề nghị đó song phải cho tôi đủ thời giờ”.
Lodge thêm vào bức điện đó nhận xét sau: “Trong thực tế, Diệm muốn nói: hãy bảo chúng tôi quý ngài muốn gì và chúng tôi sẽ làm theo. Tôi hy vọng sẽ bàn bạc việc này tại Washington”. Bức điện được chuyển đi qua kênh thông tin bình thường và cuối cùng đến Bộ Ngoại giao lúc 9 giờ 18 phút sáng (giờ Washington) ngày 1.11, đến tòa Bạch Ốc lúc 9 giờ 37 phút sáng. Lúc đó đã quá muộn rồi vì cuộc đảo chánh đã bắt đầu.

9 giờ 30 phút sáng 2.11, chúng tôi gặp lại Tổng thống để tiếp tục bàn luận về những sự kiện ở Sài Gòn. Khi buổi họp bắt đầu vẫn chưa rõ gì về số phận của Diệm, Nhu. Giữa buổi họp, Mike Forrestal (một thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia) chạy bổ vào phòng họp với một bức điện ngắn từ phòng tình huống (Situation Room). Chi nhánh CIA tại Sài Gòn báo cáo rằng các đồng nghiệp NVN của họ báo tin cho biết hai anh em Diệm, Nhu đã tự tử “trên đường đến Bộ Tổng tham mưu”.
Thật ra, sau khi ngỏ ý muốn đầu hàng, Diệm và Nhu đã đợi trong một ngôi nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn …Tướng Minh, sau này trở thành tổng thống, phái hai xe jeep và một thiết vận xa, … tay bị trói ghì sau lưng. Khi đoàn xe đến Bộ Tổng tham mưu và cửa xe được mở, Diệm và Nhu đã chết rồi. Cả hai đều bị bắn, riêng Nhu còn bị đâm nhiều lần. Có người kể rằng tướng Đôn, một trong những người cầm đầu đảo chánh có hỏi Minh: “Tại sao các ông ấy lại chết?”
Minh trả lời: “Thế đã sao nào?”

Vài tháng sau, Minh nói với một người Mỹ: “Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác. Họ phải giết chết”. Một chính khách dân sự, Trần Văn Hương, từng chỉ trích Diệm, và từng bị tống giam vì chống đối chế độ Diệm nói: “Các tướng tá chóp bu đã quyết định ám sát Diệm và em ông ta vì họ sợ chết. Họ thừa biết rằng họ vừa bất tài vừa vô đạo đức lại không có chút hậu thuẫn chánh trị nào, nên họ muốn đề phòng một màn trở lại ngoạn mục của tổng thống và ông Nhu nếu như hai người này vẫn còn sống”.
Khi Tổng thống Kennedy nhận được tin, mặt ông trắng bệch ra.Tôi chưa nhìn thấy ông xúc động đến thế. Những cái chết này “làm ông rúng động hẳn”, sau này Forrestal thuật lại: “Ông áy náy như thể đó là một vấn đề đạo đức tôn giáo…làm rúng động niềm tin vào cái kiểu cố vấn mà ông đang có được về vấn đề NVN. Arthur Schlesinger, Jr., ghi nhận rằng Tổng thống thật ủ dột và rúng động, dường như còn thối chí hơn bao giờ hết kể từ vụ Vịnh Con Heo”.

Cái chết của Diệm đã không kết thúc những dị biệt sâu sắc trong nội bộ chính phủ Mỹ về vấn đề Việt Nam. Trong một báo cáo của Lodge, có thể xem là tuyệt tác về mặt sai sự thật và quá trớn, đề ngày 4.11, các dị biệt đó xuất hiện bằng những lời lẽ như sau: “Có một số khác biệt giữa chúng tôi và quý vị trong cách đánh giá ý nghĩa và lợi ích của cuộc đảo chánh. Dưới mắt chúng tôi điều đó như sau:
a/  Đối với bất cứ ai đã từng hoạt động quân sự và chính trị, cuộc đảo chánh này có vẻ như là một thành công đáng kể về cả hai mặt quân sự và chính trị.
b/  Các chuyên viên đã từng chống lại cuộc đảo chánh này và đã từng tuyên bố “sẽ chiến thắng cùng với Diệm” giờ đây nói rằng cuộc đảo chánh này có ý nghĩa là chiến tranh sẽ được rút ngắn một cách đáng kể”.
Và Lodge đi đến kết luận là ông ta cũng tin tưởng rằng cuộc đảo chánh sẽ rút ngắn chiến tranh đồng thời đẩy nhanh thời điểm hồi hương của quân đội Mỹ. Tướng Max và tôi thì bi quan. Trước khi đảo chánh xảy ra, chúng tôi đã chẳng hy vọng gì lắm rằng một chính phủ mạnh và hữu hiệu thay thế ông Diệm sẽ nổi lên sau đảo chánh, chúng tôi cũng chẳng thấy một chính phủ như vậy thực sự thành hình.

Nhằm tìm hiểu sự thật, Tổng thống yêu cầu tôi chủ trì một cuộc họp tất cả những ai liên quan tại Honolulu ngày 20.11. Đó là cuộc họp cuối cùng của chúng tôi về Việt Nam trước khi chúng tôi họp với Lyndon Johson bắt đầu cầm quyền tổng thống 4 ngày sau đó. Lần cuối mà Tổng thống Kennedy có những nhận xét trước công chúng về vấn đề Việt Nam là tại cuộc họp báo ngày 14.11, khi ông tự đặt ra câu hỏi “Liệu chúng ta có đang bỏ cuộc tại NVN?” và tự trả lời: “Chương trình quan trọng nhất, tất nhiên là nền an ninh quốc gia của chúng ta, nhưng tôi không muốn Mỹ phải đưa quân đến đó”.
Trước cũng như sau cuộc phỏng vấn này, điểm then chốt trong các nhận xét của Tổng thống Kennedy, trước công chúng hay riêng tư, vẫn là: cuối cùng thì NVN phải tự gánh vác cuộc chiến tranh, Mỹ không thể làm điều đó cho họ được.


Kỳ 10 - “Nếu không bị ám sát, J.F Kennedy đã rút quân khỏi Việt Nam”

 

Tổng thống J.F.Kennedy ngay trước khi bị mưu sát

Chiều thứ sáu 22/11/1963, trong khi TT Kennedy đi dự một buổi nói chuyện đã hẹn trước tại Dallas, trong phòng họp kế cận văn phòng của tôi tại Ngũ giác đài, tôi tiếp các đồng liêu cao cấp là Mac Bundy cố vấn an ninh quốc gia, Kerrnit Gordon của cơ quan ngân sách, và cố vấn khoa học Jerome Wiesner.

Chúng tôi cùng duyệt lại ngân sách quốc phòng mà tòa Bạch Ốc dự định đệ trình Quốc hội vào tháng 1 tới. Giữa buổi họp, vào khoảng 2 giờ trưa, thư ký của tôi báo rằng tôi có một cú điện thoại riêng khẩn cấp. Rời phòng họp tôi quay về văn phòng. Đó là Bobby Kennedy.
Bobby nói với tôi một cách ngắn gọn và bình tĩnh rằng Tổng thống đã bị bắn. Tôi choáng váng, chậm rãi trở lại phòng họp và, với một giọng cố trấn tĩnh, thông báo tin này cho cả nhóm. Thật kỳ lạ là chúng tôi đã không giải tán buổi họp. Chúng tôi bị “sốc” đến nỗi không biết làm gì nữa, chỉ biết kết thúc buổi họp cho nhanh.
Bobby lại gọi điện một lần thứ nhì sau đó khoảng 45 phút cho biết Tổng thống đã chết. Cuộc họp được dời lại ngay trong nước mắt và thinh lặng điếng người. Tôi vội gặp ngay các chỉ huy liên quân. Chúng tôi nhất trí rằng lực lượng quân sự Mỹ trên toàn thế giới sẽ được đặt ngay trong tình trạng báo động. Vài phút sau, Bobby gọi lại cho tôi, yêu cầu tướng Max và tôi lát nữa cùng theo ông đến căn cứ không quân Andrews đón chiếc máy bay đưa thi hài anh trai ông về lại Washington.

Vào lúc đó, đang có bất đồng ý kiến về địa điểm an táng Tổng thống. Một vài ý kiến cho rằng phải là quê nhà của ông tại Massachussets. Tôi phát biểu rằng ông đã không hề là Tổng thống của bang Massachussets mà là của cả 50 bang thuộc Hiệp chủng quốc, và như thế thi hài ông phải an nghỉ tại thủ đô cả nước. Tôi tìm kiếm một địa điểm thích hợp nhất. Bắt đầu với nghĩa trang quốc gia Arlington do Bộ Quốc phòng quản lý và tôi ngừng lại ở một địa điểm ngay dưới lâu đài Custis-Lee. Từ vị trí này có thể đưa mắt nhìn qua cây Cầu Tưởng Niệm và nhìn thấy đài tưởng niệm Lincoln ở phía xa, ngay cả dưới trời mưa. Tôi nói thầm: “Chỗ này đây”.
Lát sau, người ta đưa một nhân viên an ninh đã từng theo bảo vệ Tổng thống đến thăm nghĩa trang Arlington này vài tuần trước đó. Khi tôi nói cho anh ta biết về địa điểm mà tôi đã chọn được, anh ta gật gù kể lại: “Hôm Tổng thống đến đây tham quan, Tổng thống đã dừng lại ở địa điểm đó, nhìn ngắm về phía các đền đài nọ, và tôi nghe Tổng thống bảo rằng đây là cảnh đẹp nhất ở Washington này”.

Quyết định đồng ý chung cuộc đến từ bà Jackie Kennedy, sau khi đã cùng tôi đi xem địa điểm này vào cuối buổi chiều. Trời vẫn mưa một cách buồn bã khi chúng tôi lội trong cái biển mộ phần. Đến nơi tôi đã chọn trước, Jackie đồng ý ngay theo phản xạ. Bà cũng đã được chôn ở địa điểm này vào năm 1994.

“John F.Kennedy có thể sẽ làm gì về vấn đề VN nếu như ông còn sống? Trong hơn 30 năm qua tôi đã được hỏi câu hỏi này không biết bao nhiêu lần và tôi đều đã từ chối trả lời vì hai lý do: Tổng thống chưa từng nói với tôi ông dự định sẽ làm gì trong tương lai. Vả lại, những suy nghĩ, mà ông có thể có từ trước khi Diệm chết, có lẽ cũng đã thay đổi do lẽ những tác động của sự kiện này trên các luồng vận động chính trị ở Nam VN ngày càng hiển hiện hơn.
Ngoài ra, cũng chẳng có lợi lộc gì cho đất nước chúng ta, nếu như tôi hoặc ai khác giải đoán như thế này, giải đoán như thế nọ về việc một Tổng thống đã quá cố có lẽ đã làm những gì?”

Nhưng ngày nay, tôi cảm thấy khác hẳn. Sau khi đã xem lại tư liệu thật chi tiết, lại nhờ khoảng cách thời gian thuận lợi cho việc nhìn nhận vấn đề, tôi nghĩ rằng rất có thể Tổng thống Kennedy, nếu như còn sống, đã đưa chúng ta ra khỏi VN. Có lẽ ông đã kết luận rằng phía NVN không đủ khả năng tự bảo vệ và rằng sự yếu kém về chính trị của Sài Gòn  khiến cho việc bù đắp những hạn chế đó của lực lượng NVN bằng việc gửi quân chiến đấu của Mỹ qua với qui mô lớn, quả là không khôn ngoan.
Tôi tin là ông cũng sẽ đi đến kết luận này ngay cả trong trường hợp, mà tôi nghĩ rằng ông có thể đã làm dù ông lý luận rằng NVN và rồi cuối cùng là Đông Nam Á sẽ rơi vào chủ nghĩa Cộng sản. Có thể ông sẽ nhìn thấy tổn thất đó lớn hơn là bây giờ chúng ta thấy nhưng có thể ông sẽ chấp nhận tổn thất đó. Kennedy có lẽ đã nhất trí rằng rút quân sẽ dẫn đến sự sụp đổ của các con bài đô-mi-nô, thế nhưng nếu có ở lại cũng dẫn đến cùng một hậu quả cuối cùng mà lại còn đòi hỏi một giá máu khủng khiếp.

Thành ra, tôi có thể kết luận rằng John Kennedy ắt hẳn đã rút khỏi VN thay vì dấn sâu hơn nữa. Giờ đây, tôi phát biểu nhận xét này vì lẽ, dưới ánh sáng của nhận xét đó, tôi phải giải thích tại sao và bằng cách nào mà chúng ta – kể cả Lyndon Johnson, người tiếp tục vai trò quyết định chính sách sau khi Tổng thống Kennedy qua đời – đã lại đưa ra những quyết định dẫn đến việc triển khai ở VN đến nửa triệu binh sĩ chiến đấu Mỹ. Tại sao chúng ta đã làm vậy và bài học có thể rút ra được từ những hành động của chúng ta là gì?


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét