Ngày
nay có những người xưng là đệ tử Phật gia nhưng hám mùi tiền, tham danh lợi, có
cuộc sống đầy đủ tiện nghi không khác chi hàng quyền quý.
Đã
bước chân vào chốn 'Không Môn' chắc hẳn các vị ấy đều biết câu 'vô thường', 'giả tướng'?
Nếu
không dứt được cái tâm vọng tưởng đối với sự vật hiện tượng thì sẽ dẫn đến u
sầu, đau khổ khi mọi việc không được như ý.
Có
sinh tất có diệt, có thành ắt có hoại, có hợp rồi sẽ tan, các vị tu hành có
nghiên cứu kinh điển đều biết rằng vạn vật, từ thân thể cho đến của cải vật
chất, đều là tổng hòa các mối nhân duyên. Đủ duyên sinh thì sẽ tạo, duyên diệt
đến thì sẽ tiêu.
Thành
ra các vị ấy mang tiếng tu hành mà nguyên lý căn bản nhất của nhà Phật cũng
không biết thì chẳng qua chỉ là lợi dụng cửa thiền cho lợi ích riêng mình mà
thôi.
Suy
cho cùng, tu theo Phật pháp là cả quá trình luyện tâm rèn trí - giống như thuần
hóa con trâu dữ. Bước vào cửa Không, từ bi không là chưa đủ mà còn phải có trí
tuệ và dũng khí nữa.
Cần
trí tuệ để nhìn thấu vạn vật và có dũng khí để không bị sức hút của vật chất.
Khi đó mới có thể 'tinh tấn' đi trên con đường Đức Phật đã chỉ sẵn.
Cho
nên cửa Phật thích hợp với những bậc tâm chánh trí sáng, bản lĩnh hơn người và
tự giác buông bỏ để đi tìm sự giải thoát như Đức Vua Trần Nhân Tông hơn là với
những người vì buồn chuyện tình duyên hay vì bất đắc chí mà tìm đến cửa Thiền
để trốn tránh và càng không phải là chỗ cho những người còn ham muốn tiền bạc
tiện nghi và chưa thoát được vòng tục lụy.
Từ
ngàn xưa đến nay kẻ xuất gia thì nhiều nhưng mấy ai tu thành chánh quả?
Đại
đa số chúng ta đều xoay vần trong cuộc sống hàng ngày nên không có cái nhìn
vượt lên vòng sinh tử và càng không đủ sức thoát ra khỏi cuộc sống mình đã gắn
chặt.
Người
phát tâm tu hành thật sự là người hiểu được quy luật 'Sinh, Lão, Bệnh, Tử' của cái bàn cờ cuộc đời mà họ bị ném vào mà
có vũng vẫy cách mấy cũng không thoát ra được.
Có
ai sinh ra muốn mình sẽ già? Nhưng rồi ai cũng sẽ suy nhược đuối sức. Có ai
muốn mình sẽ bệnh? Nhưng rồi có lúc sẽ đau đớn thể xác để rồi sức tàn lực kiệt.
Có ai chịu nổi cảnh sinh ly tử biệt? Nhưng rồi cũng đến lúc phải vĩnh viễn rời
xa những người thương yêu nhất mà không gì có thể níu kéo được!
Những
bậc tu hành nắm rõ những điều này hơn ai hết. Từ đó họ sẽ có tâm thanh thản,
bình an. Họ sẽ chẳng bận lòng có ít hay nhiều fan trên Facebook như vị trụ trì
ở Hải Dương kia hay cũng chẳng quan trọng gì những lời cay nghiệt nếu mình
không làm gì sai.
Và
những người chân tu sẽ có tinh thần lạc quan, bình thản như mặt nước hồ trong
không gợn sóng trước dòng đời biến động, giống như Mãn Giác thiền sư:
Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
Trên đầu việc đi mãi
Trước mắt già đến rồi
Suy giảm niềm
tin?
Nhưng
nói gì thì nói, những vụ tai tiếng liên tục của các vị tăng ni vừa qua đã ít
nhiều ảnh hưởng đến niềm tin vào đạo Phật nói chung trong công chúng.
Tuy
nhiên, Đức Phật đã nói đừng tin lời Ngài mà hãy thực hành. Thực hành hiệu quả
mới tin.
Đức
Phật từng nói khi thành đạo: "Ta là
Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành."
Tức
là Đức Phật cũng chỉ là người bình thường như mọi người nhưng là người đã tìm
ra con đường giải thoát để chỉ dẫn chúng sinh và Ngài tin tưởng ai cũng có thể
làm được như Ngài.
Ngài
không phải bậc quyền năng, và pháp của Ngài, do đó, cũng không dựa trên những
điều huyễn hoặc.
Con
người đến với tôn giáo phần lớn là để tìm chỗ dựa tinh thần, nhưng với việc 'phải thực hành thì mới tin' thì các
Phật tử chỉ có thể dựa vào chính bản thân mình mà thôi.
Và
nếu họ làm theo mà thấy hiệu quả thì dù người khác có làm sao hoặc có nói thế
nào cũng không làm cho họ hết tin được.
Do
Phật giáo không dạy về chữ 'Tin' mà chỉ là phương tiện để giúp con người thoát
khổ nên sức mạnh của Phật giáo nằm ở Pháp chứ không phải số lượng tín đồ. Có
thêm người theo, Đức Phật cũng chẳng mạnh thêm và bớt đi tín đồ cũng không làm
cho Pháp của Ngài yếu đi.
Chính
vì vậy Phật giáo không có các điều luật ràng buộc tín đồ và cũng không có nhu
cầu tổ chức chặt chẽ và không xem việc truyền đạo là yếu tố sống còn.
Dĩ
nhiên với tính chất và tổ chức như vậy thì những ai hướng đến Phật chỉ bằng
niềm tin thì niềm tin đó ít nhiều sẽ bị lung lay trước sự xuống cấp của hàng
tăng chúng. Còn những ai hiểu và thực hành chánh pháp thì chẳng ảnh hưởng gì.
Không còn hưng
thịnh
Ít
nhất Phật giáo Việt Nam ngày nay đã không còn hưng thịnh như xưa.
Được
truyền đầu tiên từ Ấn Độ, Phật giáo thời sơ khởi ở Việt Nam đã phát triển đến
mức có vị cao tăng được nước Đông Ngô thời Tam Quốc bên Trung Quốc mời sang
giảng đạo.
Qua
đường giao lưu văn hóa, Phật giáo thâm nhập vào Việt Nam 'ngọt nhuyễn' và không
xảy ra một cú sốc nào.
Đó
là vì Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập vào văn hóa dân tộc, hòa quyện với tín
ngưỡng bản địa, tập quán thờ cúng ông bà và tục thờ những người có công với
nước.
Tôi
từng thấy nhiều chùa chiền ở miền Bắc ngoài thờ Phật còn ban thờ tiên công,
tiểu đồng, ban cô, ban cậu hay thờ những vị anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi,
Trần Hưng Đạo...
Từ
đó, Phật giáo gắn sâu và quyện chặt vào văn hóa Việt Nam như một phần máu thịt.
Hai
triều đại đỉnh cao trong lịch sử dân tộc là Lý, Trần là cũng là thời kỳ Phật
giáo Việt Nam hưng thịnh nhất.
Lý
Thái Tổ được dưỡng nuôi từ dưới mái chùa; Thiền sư Vạn Hạnh là bậc quốc sư tài
trí vẹn toàn; Trần Thái Tông viết 'Khóa
hư lục'; Trần Nhân Tông sau khi bình giặc lên Yên Tử khai sáng dòng Thiền
Trúc Lâm.
Ông
'Bụt' (tức Buddha) đã đi vào tiềm thức dân gian. Chùa chiền đi vào ca dao tục
ngữ và thậm chí có câu nói trong Kinh Phật như ‘Hằng hà sa số’ (nhiều như số cát sông Hằng) đã trở thành lời ăn
tiếng nói hàng ngày của dân tộc.
Đường hướng
trái nhau
Tuy
nhiên, truyền thống đó của cha ông có thời đã bị tàn phá nhân danh ‘tư tưởng
tiến bộ’.
Có
những vùng ở Bắc Trung Bộ xóa trắng không còn một mái chùa trong khi có những
ngôi chùa ở miền Bắc có hòm công đức nhưng không có nhà sư hoặc có những nhà sư
mà tôi nghi ngờ không biết có thuộc câu Kinh Phật nào không.
Vài
Giáo hội trong thời đại mới ngoài ‘Phật pháp – Dân tộc’ còn có thêm ‘Chủ nghĩa
xã hội’.
Đành
rằng chọn tôn chỉ thế nào là quyền của Giáo hội nhưng không thể đặt cạnh nhau
hai đường hướng trái nhau.
Phật
đâu dạy con người dùng bạo lực đấu tranh tiêu diệt người khác? Và dù giáo lý là
‘Không’ nhưng Phật dạy đừng chấp ‘Không’ và cũng không chấp ‘Có’ vì chỉ khi
thoát ra được sự kiềm hãm của ‘Chấp’ con người mới đến được chân lý. Trong khi
đó, chủ nghĩa xã hội là ‘chuyên chính vô sản’ nên cố chấp lý thuyết của mình là
duy nhất đúng.
Tôi
nhớ từng nghe trên sóng phát thanh ở Việt Nam câu chuyện một 'nhà sư' kể về
việc 'khoác chiến y theo Đảng đi giết
giặc'.
Mặc
dù bảo vệ non sông là nghĩa vụ của mỗi người dân nhưng cách tuyên truyền như
vậy không những phản cảm mà còn ngụ ý rằng cho dù Trời Phật gì cũng không bằng
Đảng.
Điều
lạ lùng là chủ nghĩa Marx-Lenin đả phá tôn giáo nhưng các Đảng Cộng sản trên
thế giới đều có xu hướng thần thánh hóa lãnh tụ để người dân tôn thờ, ướp xác
đưa vào lăng giống như đền thờ và đề cao ‘bản lĩnh chính trị’, kiểu như ‘Đức
tin’, để đảm bảo mọi người luôn tin tưởng tuyệt đối.
Đức tin tôn
giáo
Tuy
nhiên phải hiểu rằng ngoài sự tin tưởng, ‘Đức tin’ trong các tôn giáo còn là
lòng tôn kính đối với Đấng Tối cao. Lòng tôn kính đó là tình cảm hết sức thiêng
liêng đáng được trân trọng.
Và
khi Đức tin đó được hàng tỷ người tin theo, như Công giáo hay Hồi giáo, thì
chứng tỏ nó phù hợp tình cảm con người, thể hiện những gì tốt đẹp ở con người
và đem lại lợi lạc cho họ.
Đó
là chưa kể những Đức tin đó đều hướng con người ta sống hiền lành, lương thiện
nên có khả năng cải biến xã hội.
Để
giữ đạo đức xã hội thì có những cái mà luật pháp không làm được nhưng tôn giáo
lại làm được, chẳng hạn những điều cấm của Hồi giáo rất nghiêm ngặt nhưng tín
đồ vẫn nhất nhất nghe theo.
Cho
nên mới nói sự suy đồi đạo đức của xã hội ngày nay chắc gì không có liên hệ với
việc tôn giáo suy vi sau nhiều năm bị kìm hãm hay tàn phá?
Tôi
từng thấy cảnh bà cụ đầu tóc bạc phơ thành kính quỳ trước giáo đường và tôi tin
rằng khi có niềm tin vào Đấng Tối cao như thế họ sẽ không thể làm điều ác.
Tôi
cũng từng gặp những người Hồi giáo ở Indonesia hiền lành, nhân hậu, sống chan
hòa với các tôn giáo khác.
Và
trong Phật giáo, dù không có ‘Đức Tin’ vào Đấng Toàn năng nào nhưng trong mắt
các Phật tử thì Đức Phật chính là Đấng Tối cao.
Điều
đó cho thấy bản chất con người muôn đời vẫn yếu đuối và họ cần chỗ dựa tinh
thần đến mức nào, nhất là trong những lúc nguy nan, khủng hoảng tinh thần nhất.
Làm chủ niềm tin
Chỗ
dựa đó giúp con người vững vàng trong cuộc sống. Và khi có chỗ dựa, họ có xu
hướng gắn chặt linh hồn vào đó và sẵn sàng sống chết vì nó.
Tuy
nhiên, suy cho cùng, tôn giáo tồn tại trong xã hội loài người chính là để phục
vụ con người.
Cái
nguy ở chỗ khi linh hồn bị chiếm lĩnh thì con người có thể bị sai khiến làm gì
cũng làm ngay cả đó là việc trái với lương tri – giống như những kẻ Hồi giáo
cực đoan giết người vô tội không gớm tay chỉ vì tin rằng đó là ý Thượng Đế.
Cho
nên, điều cần thiết là tín đồ sống theo Đức Tin nhưng đôi khi phải tỉnh táo
biết làm chủ niềm tin của mình.
Về
phần mình, không chỉ là chỗ dựa tinh thần, không chỉ là nguyên tắc đạo đức để
sống tốt, Phật giáo còn là hệ thống triết lý về vũ trụ, nhân sinh mà Đức Phật
đã truyền dạy trong hơn 40 năm thuyết pháp.
Giữa
dòng đời biến động và cuộc sống đầy sức ép, hiểu quy luật vạn vật và thực hành
Phật pháp giúp con người buông xả và hóa giải những năng lượng xấu như giận dữ,
đố kỵ, ích kỷ để đạt cảm giác an lạc như lời Đức Phật dạy: ‘Tâm buồn khổ như con rắn dưới gầm giường’.
Hiểu
Phật pháp cũng giúp con người có cái nhìn rộng lớn hơn về thế giới để hòa hợp
với thế giới, chẳng hạn chữ Hiếu theo đạo Phật là hiếu với cả bảy đời, hiểu chữ
‘chúng sinh’ là tất cả đều có sự sống quý giá hay biết rằng ‘các vật hữu tình’,
kể cả động vật, đều có tình cảm.
Dù
tăng chúng ngày nay có chỗ suy vi, nhưng nhiều người mong rằng đó chỉ là những
mảng tối nhỏ nhoi trên nền trời tươi sáng.
Nguyễn Lễ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét