BÀ MARIA CÓ HIỆN RA TẠI LA VANG KHÔNG?
Lê Xuân Nhuận
Tòa
Thánh Vatican, trong tuần-báo “L'Osservatore Romano”, tiếng nói chính-thức và có thẩm-quyền nhất của Ky-Tô-Giáo
La-Mã, trong số ra ngày 12-19/8/1998, đã thành-thật và thẳng-thắn xác-quyết
rằng: “Tiếc thay, không có một văn-bản tài-liệu nào chứng-minh các
lần Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang” chỉ vì một lý-do đơn-giản: Đức Mẹ không hề hiện ra tại La Vang!
Ðây là trang 3 (và phóng lớn bên tay phải) của Ấn-bản
tiếng Anh của L'Osservatore Romano số 32/33 (hai số gộp môt) tuần-lễ 12/19
August 1998 nhằm vào thời-điểm kỷ-niệm 200 năm Đức Mẹ La Vang vào tháng 8 năm
1998 - Đoạn đóng khung được phóng lớn ghi rằng: “Unfortunately, there is no
written documentation of these apparitions: such documents were perhaps kept in
the Hué church archives, which were destroyed during two local wars: in 1833,
under King Minh Mang, and in 1861 in the reign of King Tuduc. [Tiếc thay,
không có văn-bản tài-liệu nào chứng-minh cho các lần (Đức Me) hiện ra (tại La Vang):
các tài-liệu ấy có lẽ được lưu trong văn-khố của nhà thờ ở
Huế, và đã bị tiêu-hủy trong hai cuộc chiến tại địa-phưong: vào năm 1833 dưới
triều Minh Mạng, và vào năm 1861 dưới triều Tự Đức.]
Hình của Lê Xuân
Nhuận – Ngoài ra, xin xem thêm http://www.miraclehunter.com/marian_apparitions/statements/lavang_statement_01.html
LỜI
GIỚI-THIỆU
Nhân dịp kỷ-niệm “200 Năm Đức-Mẹ
Hiện Ra Tại La-Vang (1798-1998)”, các nhân-vật tên-tuổi Ky-Tô-Giáo Việt-Nam và
ngoại-quốc đã đặc-biệt biên-soạn và tham-khảo những bài tiêu-biểu tổng-lược
sự-tích ấy, để làm tài-liệu căn-bản cho lịch-sử của “biến-cố” nói trên. Chúng
tôi xin trích nêu ra các đoạn chủ-yếu sau đây, để độc-giả khắp nơi thưởng-lãm.
- Ðức Cố LÊ
CHƯƠNG I
NGUỒN GỐC HAI TIẾNG “LA VANG”
A/ TÀI-LIỆU:
Báo “Thằng Mõ” (918 S First St, San
Jose, CA 95110, USA), số 832 ra ngày 28-3-98, có đăng bài “Tinh Thần La Vang”
của Trần Văn Trí. Một trong các tiểu-mục của bài này là “Tên La
Vang”:
Trong
hạt Dinh Cát có một họ đạo tên là Cổ Vưu được thành-lập từ
thế-kỷ 17, nay còn gọi là xứ Trí Bưu. Người dân sống bằng nghề “làm
củi” (chính-yếu là chặt những cây nhỏ dùng để nấu bếp). Theo linh-mục Stanislaô
Nguyễn Văn Ngọc, đặc-điểm trong vùng
là đồng-bào Công Giáo và không-Công-Giáo đoàn-kết mật-thiết với
nhau. Từ thế-kỷ 16, dân đi làm rú, còn gọi là “đi củi”. Họ phá một
sở rẫy giữa rú xanh cách Cổ Vưu độ 7 cây số để trồng khoai sắn và cấy
lúa. Người dân đặt tên vùng đó là La Vang.
Đức
giám-mục Hồ Ngọc Cẩn cho
biết: “Ban đêm, phường La Vang không có sự thinh lặng.
Đêm nào người ta cũng la lối om sòm. Họ đánh mõ, đánh thùng rộn ràng, để
đuổi các thú dữ như heo rừng, voi, cọp từ rú xanh ra phá khoai, sắn, lúa, nên
người ta gọi là phường La Vang.” (Lm Lê Văn Thành: Đức Mẹ La
Vang, 1955, tr. 15-16).
Nhưng
giải-thích sau đây của linh-mục Philipphê Lê Thiện Bá, gốc Cổ Vưu, có cơ-sở hơn: “Trong sổ bộ lập
từ đời nhà Lê, nơi đó, tức sở rẫy của dân Trí Bưu, gọi là phường Lá
Vằng, vì có nhiều cây lá vằng, một thứ cây có hột đen ăn được và lá là vị
thuốc mà phụ-nữ xứ Dinh Cát dùng để uống sau khi sinh đẻ. Về
sau người dân đọc Lá Vằng ra La Vang, và nơi Đức Mẹ hiện ra được
gọi là linh-địa La Vang.” (Lm Stanislaô Nguyễn Văn Ngọc: Linh-Địa
La Vang, tr. 32-34 và Lm Hồng Phúc: Đức Mẹ La Vang, tr. 30-31).
B/ NHẬN-XÉT:
La Vang đã trở thành một
“linh-địa”, và các nhà viết sử, chủ-yếu là các tu-sĩ Ky-Tô-Giáo, không thể không
tìm hiểu và viết về nó, kể cả nguồn gốc của địa-danh này. Nhưng ở đây lại
có hai lời giải-thích khác nhau của các
tu-sĩ: một bên là giám-mục Hồ Ngọc Cẩn do linh-muc Lê
Văn Thành kể lại (“La Vang”); một bên là các linh-mục Lê Thiện Bá,
Nguyễn Văn Ngọc và Hồng Phúc (“Lá Vằng”).
a) Bản-thân
các tài-liệu:
1-
Tài-liệu của Lm Lê Văn Thành được xuất-bản năm 1955 (vào
đầu thời-kỳ chấp-chính của tổng-thống Ky-Tô-Giáo Ngô Đình Diệm, và căn-cứ
vào lời của Gm Hồ Ngọc Cẩn (“La
Vang”).
2-
Tài-liệu của Lm Nguyễn Văn Ngọc được xuất-bản năm 1978 (ba
năm sau khi CSVN đã chiếm Miền Nam) và căn-cứ vào lời của Lm Lê Thiện Bá,
người được xem là gốc Cổ Vưu (“Lá
Vằng”).
3-
Tài-liệu của Lm Hồng Phúc được xuất-bản năm 1997 (sau khi
CSVN đã “đổi mới” và Giáo Hội Ky-Tô-Giáo trong nước (được CSVN
chấp-thuận) đã chuẩn-bị cho đại-hội La Vang sẽ diễn ra vào năm 1998)
(“Lá Vằng”).
b) Thắc-mắc:
1-
Báo “Saigon USA” (345 E Santa Clara St, #108, San Jose, CA 95113, USA), số 97
ra ngày 14-9-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang”, trong đó có đoạn:“... dưới
thời hai Cha Sở: Bonin (Ninh) và Cadière (Cả). Cha này đã
công-tác rất nhiều trong việc kiến-thiết Linh-Địa La Vang lúc ban
đầu” (năm 1903). Đó là vào đầu thế-kỷ 20, gần với sự-tích
Đức Mẹ La-Vang hơn các tác-giả kể trên. Lm Cadière là một
học-giả người Pháp thông-thạo về Việt-Nam (hiểu biết và có thể giải-thích nhiều
điều, kể cả các điển-tích lịch-sử Trung-Hoa và các ẩn-dụ văn-học trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du), là một nhân-vật nổi bật trong Hội Ái-Hữu Cố-Đô Huế
(AAVH=Association des Amis du Vieux Hué) cũng như Trường Viễn-Đông Bác-Cổ của
Pháp. Hơn nữa, ông đã từng là Cha Xứ Cổ-Vưu (Trí-Bưu)coi
cả La Vang. Tại sao Lm Cadière (cha Cả)
không hề nói gì về nguồn gốc hay ý-nghĩa của hai tiếng La Vang?
2-
Giám-mục Hồ Ngọc Cẩn (theo Nguyễn
Lý Tưởng trong “Linh-Địa La Vang”, là một nhà thông-thái, gốc Quảng-Trị là
Tỉnh của La Vang) đã được đồng-bào cả trong lẫn ngoài Ky-Tô-Giáo biết
đến. Sau khi ông Ngô Đình Diệm chấp-chính (1954-1963), chính-quyền
họ Ngô nói chung và giáo-hội Ky-Tô-Giáo Việt-Nam nói riêng đã
nhắm ít nhất là hai chủ-đích: giúp cho tổng-giám-mục Ngô Đình Thục (anh
của ông Diệm) được phong hồng-y bằng cách gia-tăng tín-đồ ; và phát-triển tầm
quan-trọng của La Vang, vì một cảnh-trí Đức Mẹ hiện ra chắc hẳn sẽ làm cho
quốc-gia sở-tại nổi tiếng khắp thế-giới và lôi-cuốn đông-đảo tín-hữu cũng như
du-khách từ xa đến hành-hương. Do đó, lời giải-thích của Gm Hồ Ngọc
Cẩn (La Vang là la-lối om-sòm), hồi đó hẳn là đáng tin-cậy nhất nên Lm Lê
Văn Thành đã trích dẫn và xuất-bản vào năm 1955 (là năm ông Diệm
lên làm tổng-thống sau khi mới làm thủ-tướng có hơn một năm). Hơn nữa, tại sao suốt nhiều năm trời, kể cả
sau khi họ Ngô không còn, không hề có ai, nhất là trong giới tu-sĩ Ky-Tô-Giáo
(thí-dụ giám-mục Lê Hữu Từ) đưa ra một lời giải-thích nào khác hơn?
3-
Thế thì Lm Lê Thiện Bá, được
xem là gốc Cổ Vưu, làm gì, ở đâu, trong lúc lời giải-thích của Gm Hồ
Ngọc Cẩn đã được công-bố từ năm 1955, mà mãi đến năm 1978 (23 năm sau, và 3 năm sau khi CSVN đã chiếm
Miền Nam), mới lên tiếng cãi lại rằng La Vang là Lá Vằng?
4- La Vang hay Lá Vằng thật
ra không thành vấn-đề, mà vấn-đề chính là: Một “tài-liệu” của một
giáo-phẩm cao-cấp Ky-Tô-Giáo (giám-mục Hồ Ngọc Cẩn) xuất-bản năm 1955 (giữa
thế-kỷ 20 tiến-bộ này) mà đã bị một số tu-sĩ cấp dưới (thí-dụ linh-mục Hồng-Phúc),
thuộc cùng giáo-hội, phản-bác, cho là không đúng sự thật; vậy thì làm sao tin được các “tài-liệu” khác của
những người cùng giáo-hội ấy viết ra, từ một thế-kỷ chậm tiến trước đó, lui về
cho đến thế-kỷ 16 xa xưa?
CHƯƠNG II
MỨC-ĐỘ KHẢ-TÍN CỦA LINH-MỤC
HỒNG-PHÚC
A/ TÀI-LIỆU:
Báo “Mẹ Việt-Nam” (67 E Hedding St,
San Jose, CA 95112, USA), số 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Đốt Lò Hương Cũ:
Cụ Ngô-Đình Diệm và La Vang” của Lm Hồng-Phúc.
1)
Lm Hồng-Phúc viết: “Tập sách “Đức Mẹ La-Vang và
Giáo-Hội Việt Nam”... Bản thảo của tập sách bị thất-lạc. Cha
Giuse Lê-Văn-Thành đã thu-thập lại được một ít tài-liệu, nhờ
linh-mục Hồng Phúc ấn-loát gấp 10.000 quyển gởi ra trước kiệu
Đại Hội lần thứ 12, tháng 8-1955. Cuối tháng 7, tôi nhận
được điện-tín của ngài cho biết máy bay không nhận chở ra Huế. Tôi về
viếng Mẹ La-Vang xin Mẹ giúp. Chúng tôi cùng với một cha bạn quen với họ
Ngô, vào xin yết-kiến Tổng-Thống. Văn-phòng Phủ
Tổng-Thống cho biết là Tổng Thống rất bận. Họ nói với
chúng tôi: Đúng 5 giờ, Tổng Thống có thói quen ra thở không-khí
trời vài phút... Tôi nói ngay sự việc và xin Tổng
Thống giúp...”
Ý-kiến: Độc-giả không cần
nhớ lại lịch-sử, vì Lm Hồng-Phúc đã viết trong một đoạn trước của
cùng bài ấy: “Từ khi lên làm Tổng Thống (tháng 10-1955), mỗi
lần có dịp ra Quảng Trị việc đầu tiên là tới La
Vang cầu-khẩn với Đức Mẹ”.
Việc
chuyên-chở sách đạo và đại-hội La Vang xảy ra vào tháng 8-1955,
vào thời-gian ấy ông Ngô Đình Diệm còn là Thủ Tướng của chính-phủ Bảo
Đại (Diệm phải đợi đến ngày 23 tháng 10-1955 (hai tháng sau) mới lật đổ
Bảo Đại để lên làm Tổng Thống), thế mà Lm Hồng Phúc đã gọi ông Diệm là Tổng-Thống thay vì sự thật
là Thủ Tướng.
2)
Lm Hồng-Phúc cũng viết: “Ngày 16-8-1961 Cụ đến kính
viếng Đức Mẹ”. Nhưng ông lại ghi-chú dưới bức ảnh tổng-thống Ngô Đình
Diệm đang bước trên các bực cấp của nhà-thờ La Vang, đăng cạnh đó: “Tổng-Thống
Ngô Đình Diệm trong ngày Đại-Lễ Đức Mẹ La-Vang 15-8-1961”.
Ý-kiến: Tổng-Thống đến dự Đại-Hội
vào ngày lễ chính, thế mà Lm Hồng
Phúc không nhớ chính-xác là vào
ngày nào, và cũng không thấy là mình đã ghi hai ngày khác nhau trong cùng một bài viết.
3)
Trong một đoạn khác, Lm Hồng Phúc viết: “Những lần Cụ đến
Dòng Chúa Cứu-Thế... Ra đi có cận-vệ, quân-cảnh, còi hụ...”.
Ý-kiến: Lm Hồng
Phúc rõ-ràng không nhớ rằng vào thời ấy lực-lượng hộ-tống Thủ-Tướng (sau
đó là Tổng-Thống) Ngô Đình Diệm là Cảnh-Sát, Công-An, và Hiến-Binh, chứ không phải là (vì chưa có) Quân-Cảnh.
B/ NHẬN XÉT:
Linh-mục Hồng-Phúc là một
trong các tác-giả viết về đề-tài La Vang, nhưng ông không có trí nhớ
sáng-suốt. Ông không nhớ được những gì xảy ra lâu hơn, và chỉ chọn nhận những
gì mà ông thích hơn. Thế thì
làm sao mà những bài viết của ông là đúng sự thật và đáng tin-cậy?
Hơn nữa, không phải chỉ có một
mình Lm Hồng Phúc là như thế đó.
CHƯƠNG III
NHỮNG SỰ VIỆC SAU ĐÂY
XẢY RA VÀO THỜI-ĐIỂM NÀO?
I/ Phong-Trào Văn-Thân Yểm-Trợ
Thành-Công Cho Nguyễn-Huệ Lên Ngôi Vua?
A) TÀI-LIỆU:
Báo “L'Osservatore Romano”,
cơ-quan truyền-thông chính-thức của Tòa Thánh Vatican ở La Mã, số ra ngày
12/19-8-98, có đăng bài “Ky-Tô-Hữu Việt-Nam Sùng Kính Đức-Mẹ La-Vang:
Sự-Tích Đức-Mẹ Hiện Đến Với Giáo-Dân Trong Rừng La-Vang Ở Việt-Nam”, trong đó
có đoạn:
Vào cuối thế-kỷ 18, lãnh-thổ Việt
Nam bị chia thành 2 vương-quốc: Đàng Ngoài thuộc quyền chúa
Trịnh đóng đô ở Hà Nội; và Đàng Trong thuộc quyền chúa
Nguyễn đóng đô ở Huế. Các chúa trong Nam muốn đánh ra Bắc nên
nhờ người Pháp giúp đỡ. Nhưng có một nhóm trí-thức, gọi là Văn Thân,
chống lại sự can-thiệp của người Pháp và đã thành-công trong việc giúp
vua Quang Trung lên ngôi. Ông này chiếm được miền Bắc, nhưng
từ-trần sớm, để lại ngai vàng cho con là vua Cảnh-Thịnh, tuổi mới lên
mười...
B) NHẬN XÉT:
Theo “Việt Nam Sử-Lược” của Trần Trọng Kim, Tập II, Chương X
(Tình-Thế Nước Nam Từ Năm Giáp-Tuất Về Sau), thì:
Đoạn
I. Văn-Thân nổi loạn ở Nghệ An. Tháng giêng năm
giáp-tuất (1874), là năm Tự Đức thứ 27, đất Nghệ An có hai
người tú-tài là Trần Tấn và Đặng Như Mai hội-tập cả các
văn-thân trong hạt rồi làm một bài hịch gọi là “Bình Tây, Sát Tả”, đại-lược nói
rằng: “Triều-đình dẫu hòa với Tây mặc lòng, sĩ-phu nước Nam vẫn không
chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho
hết...” Bọn Văn-Thân cả thảy độ non ba nghìn người, kéo nhau đi
đốt phá những làng có đạo...
Và, trong cùng sách, cùng Tập,
Chương XV (Việc Đánh Dẹp Ở Trung-Kỳ Và Bắc-Kỳ):
Đoạn
8. Ông Phan-Đình-Phùng mở đồn-điền ở Vũ Quang, Hà
Tĩnh, rồi cho người đi sang Tàu, sang Tiêm, học đúc súng đúc đạn, để đợi ngày
khởi-sự. Sau ông ấy đứng đầu đảng văn thân để chống-cự với quân
Pháp... (1893-1895)
Thiển-nghĩ vì tin vào các tài-liệu
của các Ky-Tô-Hữu Việt-Nam cung-cấp mà báo “L'Osservatore Romano”, tiếng
nói có thẩm-quyền cao nhất của Ky Tô Giáo, đã để độc-giả thấy rõ là không biết đúng về lịch-sử Việt Nam, nhất
là về những sự việc liên-hệ mà họ kể lại. Chỉ vì vua Cảnh
Thịnh ngược-đãi tín-đồ Ky Tô Giáo, mà hội Văn Thân thì cũng
hành-động như thế, cho nên bài báo ấy đã
kết-hợp cả hai phía lại thành cùng một nhóm, mặc dù hai lực-lượng nói trên
hiện-hữuvào hai thế-kỷ khác nhau. Thật ra, dưới thời các vua Quang
Trung và Cảnh Thịnh, vào cuối thế-kỷ 18, không có Văn Thân.
Nhóm kháng-Pháp này chỉ mới bắt đầu thành-hình sau khi quân Pháp đã chiếm lấy
nhiều phần đất của Việt Nam, dưới thời vua Tự Đức, và sau khi nước Pháp đã
đặt nền đô-hộ trên nước Việt Nam dưới thời vua Thành Thái, vào cuối
thế-kỷ 19.
Sự-kiện lịch-sử mà bị viết
sai như thế thì làm thế nào mà đúng sự thật trong những chuyện
khác, như chuyện Đức Mẹ Hiện Ra Tại La-Vang?
II/ Các Cuộc Bách-Hại
Ky-Tô-Giáo Tại Việt-Nam Thật-Sự Bắt Đầu Xảy Ra Vào Thời-Điểm Nào?
A) TÀI-LIỆU:
1- Theo báo “L'Osservatore
Romano” thì: “Vào tháng 8-1798, triều-thần của
vua Cảnh-Thịnh ra lệnh đàn-áp Thiên Chúa Giáo. Giáo-dân cùng
với gia-đình chạy trốn vào vùng La Vang. Một hôm, Đức Mẹ hiện ra với
họ lần đầu, có bồng Đức Chúa Hài-Đồng trong tay, có hai
thiên-thần vây quanh, hứa sẽ che-chở và cứu-vớt họ. Sau đó còn có
những lần hiện ra tiếp theo...”
2- Vào ngày 19-6-1998,
giáo-hoàng John Paul II có
nói: “Kể từ 1533, nghĩa là từ khi Thiên Chúa Giáo bắt
đầu truyền sang Đông Nam Á-Châu, trừ vài thời-kỳ yên-ổn, Giáo-Hội Việt Nam đã
bị ngược-đãi suốt 3 thế-kỷ...” Nhưng trước đó,
linh-mục Pierro Gheddo, tác-giả “Cây Thập-Tự và Cây Bồ-Đề”, đã viết trong
cuốn sách ấy: “Thí-dụ, tại Bắc-Kỳ, các cuộc trấn-áp
dữ-dội đã bắt đầu vào các năm 1696, 1713, 1721, 1778, v.v...”
B) NHẬN XÉT:
1- Lm Pierro
Gheddo thì viết rằng các sự kỳ-thị trở nên khắc-nghiệt vào năm 1696;
báo “L'Osservatore Romano” của Vatican thì viết rằng tàn-ác nhất là
vào năm 1798 nên Đức Mẹ phải hiện đến để “che chở” các tín-đồ Ky Tô
Giáo tỵ-nạn tại La Vang; và giáo-hoàng John Paul II thì nói rằng
các sự ngược-đãi ấy (dù có một số thời-kỳ lắng yên) đã bắt đầu từ
năm 1533.
Nhưng, để tìm hiểu các cuộc đàn-áp
ấy thật-sự xảy ra vào thời-gian nào (từ 1533 đến 1696), ta hãy
tra-cứu các sách lịch-sử và các tài-liệu khác nữa đã được phổ-biến công-khai.
2- Tác-giả Ky Tô Giáo Nguyễn-Văn-Thông đã viết chi-tiết
cụ-thể về các cuộc giết hại giáo-dân, nhưng chỉ kể năm 1630 là
năm giết đạo gay-gắt đầu tiên. Sử-gia không-Công-Giáo Trần Trọng Kim trong Việt Nam
Sử-Lược, trái lại, đã kể những vụ cấm đạo xảy ra sớm hơn trước đó rất
nhiều:
Năm bính-thân (1596) đời
ông Nguyễn Hoàng có người giáo-sĩ Tây Ban Nha tên là Diego
Adverte vào giảng đạo ở trong Nam trước hết cả. Nhưng lúc
bấy giờ lại có mấy chiếc tàu Tây Ban Nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có ý
quấy-nhiễu gì chăng, bèn đuổi đi... Năm bính-dần (1626) đời vua Lê
Thần Tông, giáo-sĩ là Baldinoti vào giảng đạo ở ngoài Bắc, bị
chúa Trịnh không cho, phải bỏ đi... Năm tân-vị (1631) ở trong Nam,
chúa Thượng là Nguyễn Phúc Lan cấm không cho người Tây vào giảng đạo
ở trong nước... Năm giáp-thìn (1644) chúa Hiền ở Miền Nam bắt giết những
người đi giảng đạo ở Đà Nẵng... Năm quí-mão ở ngoài Bắc chúa
Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo-sĩ và cấm không cho người mình
theo đạo Gia-Tô... Năm bính-tí (1696) đời vua Lê Hi Tông, Trịnh
Cán bắt đốt phá hết cả những sách đạo và nhà đạo ở các nơi và đuổi những
người giảng đạo ra ngoài nước...
3-
Rốt cuộc, ta không tìm thấy
tài-liệu về việc ngược-đãi (dù không gay-gắt) Ky Tô Giáo vào 60 năm
đầu tiên, từ lúc khởi đầu giảng đạo vào năm 1533 cho đến năm
1596 (là năm chúa Nguyễn Hoàng đuổi giáo-sĩ và tàu chiến Tây Ban Nha, mặc
dù không bắt và không gây thiệt-hại gì cho họ cả), chưa kể các thời-kỳ yên-ổn
khác về sau. Thế thì việc giảng đạo Ky Tô tại Việt Nam quả đã không bị trở-ngại suốt sáu thập-niên đầu
tiên. Ai nấy đều biết tại sao sau đó nó đã trở nên cay
đắng. Cho nên, đáng lẽ Vatican không nên tảng lờ về 60
năm êm-thắm đầu tiên, mà lại mập-mờ gán cho Việt Nam là vốn kỳ-thị
tôn-giáo từ đầu.
III/ La-Vang Được Chọn Làm
Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc Từ Bao Giờ?
A) TÀI-LIỆU:
1-
Báo “Mẹ Việt-Nam”, số đặc-biệt 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Linh-Địa La
Vang” của Nguyễn Lý Tưởng, với
đoạn kết-luận như sau: “Hội-Đồng Giám-Mục (Việt Nam) họp
ngày 01-05-1980 đã chấp-thuận chọn La Vang làm
Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc”.
2-
Trong bài báo của Vatican đăng trên “L'Osservatore Romano” kể trên, có
đoạn: “Qua Bức Thư Chung (của Hội-Đồng Giám-Mục Nam Việt-Nam) đề
ngày 8-8-61, La Vang đã được công-nhận là Trung-Tâm Thánh-Mẫu
Toàn-Quốc. Sau ngày 30-4-75, tất cả giám-mục của Việt Nam, họp tại
Hà Nội ngày 1-5-80, đã long-trọng chấp-thuận việc tiếp-tục
chọn La Vang làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc...”
B) NHẬN-XÉT:
“L'Osservatore
Romano” viết đúng hơn Nguyễn Lý
Tưởng, vì khắp Việt Nam chỉ có một La Vang, và La Vang đã
được chọn làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc vào ngày 8-8-61, cho nên các
giám-mục trước kia ở Miền Bắc mà nay họp chung với các ông lâu nay ở Miền Nam
thì chỉ làm có một việc hình-thức là đồng-thuận với một việc đã rồi, mà
trong thâm-tâm họ đã đồng-thuận từ 8-8-61.
Bài
viết của Nguyễn Lý Tưởng rất dài, gồm nhiều chi-tiết, nhiều mặt,
nhưng thiếu chính-xác về điểm nói trên: Hội-Đồng Giám-Mục họp
tại Hà Nội ngày 1-05-80 không phải chấp-thuận chọn La Vang làm
Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc (như thể đây mới là lần đầu tiên) mà là chấp-thuận
việc tiếp-tục chọn La Vang (là một việc đã được chấp-thuận và có
giá-trị thi-hành từ năm 1961 rồi). Có chăng, đây là việc được
(CSVN) chấp-thuận cho chấp-thuận.
IV/ Nhà-Thờ La-Vang Đã Được
Nâng Lên Hàng Vương-Cung Thánh-Đường?
A) TÀI-LIỆU:
Trong
bài “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98,
tác-giả Trần Văn Trí viết: “Đền
thờ Đức-Mẹ La Vang là Vương-Cung Thánh-Đường đã được xức dầu Thánh
ngày 22-8-61 theo sắc-chỉ Tòa Thánh dưới thời Đức Giáo-Hoàng Gioan...”
B) NHẬN-XÉT:
Trong
bài “Ky-Tô-Hữu Việt Nam Sùng Kính Đức-Mẹ La Vang” đăng trên báo “L'Osservatore
Romano” nói trên, có đoạn: “Vào ngày 22-8-61, nhà thờ La Vang đã
được giáo-hoàng John XXIII nâng lên hàng Tiểu-Vương-Cung Thánh-Đường.”
La
Vang chưa phải là một Vương-Cung
Thánh-Đường như Trần Văn Trí viết. Hệ-thống tổ-chức của
Giáo-Hội Ky-Tô-Giáo không cho phép lẫn-lộn giữa giám-mục và tổng-giám-mục,
v.v..., do đó, không thể lẫn-lộn giữa Tiểu
Vương-Cung với Vương-Cung. Sự sai lầm của Trần Văn Trí,
cũng như của các người khác, quả đã góp phần gia-tăng mối nghi-ngờ về sự chính-xác của vấn-đề La Vang.
V/ Người tử-đạo đầu tiên
tại Việt Nam là ai, vào thời-điểm nào?
A) TÀI-LIỆU:
1-
Báo “L'Osservatore Romano” ra ngày 27-6-98 có đăng lời của giáo-hoàng John Paul II: “...
Linh-mục Vincent Liem, thuộc dòng Đa-Minh, đã tử-đạo
vào năm 1773; ông là người tử-đạo đầu tiên trong số 96
người tử-đạo có quốc-tịch Việt Nam...”
2-
Báo “Thằng Mõ”, số 852 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Sự-Kiện La Vang: Trang Sử
Tử-Đạo” của Nguyễn Văn Thông,
trong đó có đoạn:
“Năm 1630,
thời-gian giáo-sĩ Đắc Lộ truyền đạo ở Đàng Ngoài, có Phan
Sinh... không chịu bỏ đạo... bị đao-phủ bổ đầu làm đôi. Phan
Sinh là vị tử-đạo đầu tiên ở Đàng Ngoài và trên toàn cõi
Đại Việt”.
3- (Ghi nhận thêm vào tháng 8 năm 2008): Ngày 25-7-2008, "tại
nhà thờ Mằng Lăng, thuộc giáo-hạt Phú Yên, giám mục giáo
phận Qui-Nhơn Phê RôNguyễn Soạn đã chủ sự thánh lễ đồng tế mừng
sinh nhật trên trời lần thứ 364 năm của á thánh Anrê Phú Yên,
vị chứng nhân tiên khởi của Hội Thánh Việt Nam". Theo
cuốn sách "Người chứng thứ nhất" của Phạm Đình Khiêm, André Phú Yên là "Chứng Nhân Tử
Đạo” đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam"
(http://andrephuyen.org/home.php).
B) NHẬN-XÉT:
Trong
bài viết (đầy những sai lầm) nói trên, trước khi kể đến trường-hợp tử-đạo
của Phan Sinh, Nguyễn Văn
Thông đã viết: “Về các sử-liệu liên-hệ, chúng ta
có khá nhiều để đối-chiếu một số cách trình-bày thiên-vị... với các
sử-liệu như thư viết tay, sổ-sách ghi tên giáo-hữu..., những
bản phúc-trình của từng khu-vực truyền-giáo gởi về Bộ
Truyền-Giáo ở Roma, ở Paris, ở các nhà dòng Tên, dòng
Đa Minh... có chi-nhánh ở Macao, Penang, Nhật, Phi Luật
Tân, Thái Lan... đã bổ-túc cho ta biết những sự-kiện khách-quan và
xác-thực hơn. Dưới đây chỉ là đôi ba nét lấy ra từ trang sử tử-đạo
của Giáo-Hội Công-Giáo Việt Nam...”
Thế
mà, trong lúc báo “L'Osservatore Romano” của Tòa Thánh Vatican đăng lời của
giáo-hoàng John Paul II nói rằng “Lm Vincent
Liem là người Việt Nam đầu tiên tử-đạo vào năm 1773”,
thì Nguyễn Văn Thông lại xác-quyết trên báo “Thằng Mõ” rằng “Phan Sinh là người đầu tiên trên
toàn cõi Việt Nam tử-đạo vào năm 1630”.
Và Phạm Đình Khiêm thì viết rằng vị tử đạo đầu tiên của Giáo Hội Ky
Tô Giáo Việt Nam chính là Anrê Phú Yên.
Cũng
thế, người nào tử-đạo đầu tiên, vào ngày tháng nào, không phải là vấn-đề chính;
mà vấn-đề chính là: “tài-liệu” nào, của tác-giả nào, thuộc gốc-gác nào, là
“thật-sự” chính-xác; và khi mà đã
có nhiều trái nghịch với nhau như thế, thì liệu những điều nói ra, viết
ra, như đã trích trên, có đáng được sự tin-cậy của mọi người hay không?
CHƯƠNG IV
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA-VANG NHƯ THẾ
NÀO?
A/ TÀI-LIỆU:
1)
Báo “L'Osservatore Romano” của Vatican, ra ngày 12-8-98, có đăng bài “Sự-Tích Đức-Mẹ
Hiện Ra Tại Rừng La-Vang Ở Việt-Nam” trong đó có đoạn:
“...
Cùng với gia-đình, các Ky Tô Hữu vào trốn trong rừng La Vang, cách xa nhà
họ chừng 60 cây số. Họ họp hằng ngày dưới một cây lớn và đọc
kinh lần chuỗi vinh-danh Đức Mẹ. Một hôm, Đức Mẹ với hai thiên-thần
vây quanh và bồng Chúa Hài-Đồng trong tay, hiện ra với họ lần đầu tiên, hứa
sẽ bảo-vệ và an-ủi họ. Sau đó, còn có những lần hiện ra tiếp theo...”
2)
Báo “Églises d'Asie” (EDA), số 270 ra ngày 1-9-98, có đăng bài “Ky Tô Hữu
Hành-Hương Tại La-Vang”, trong đó có đoạn:
...
Việc hành-hương tại La Vang bắt nguồn từ cuối thế-kỷ 18. Năm 1798,
dưới triều Tây Sơn, vua Cảnh Thịnh đã ban-hành một cuộc đàn-áp rất
khắc-nghiệt khiến cho giáo-dân phải chạy trốn vào trong một thung-lũng,
tập-trung cầu-nguyện ở một khoảng đất trống lẻ-loi giữa rừng dày đặc nằm về
hướng Tây của Tỉnh Quảng-Trị. Họ họp nhau quanh một bức tượng
Đức Mẹ đặt trên cành của một cây đa lớn, xin đước đấng mà họ gọi là “Mẹ” an-ủi
và ban cho sức mạnh. Vào cuối thế-kỷ 19, một nhà thờ được dựng lên
chỗ đó...
3)
Báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, có đăng bài “Tinh-Thần La Vang” của Trần Văn Trí, trong đó có đoạn:
...
Lm Ng. V. Ngọc kể: “Trong lúc lánh nạn tại đây, ban đêm họ họp nhau
cầu-nguyện và lần chuỗi. Bỗng nhiên họ thấy một bà đẹp-đẽ mặc áo choàng
hiện ra gần một cây đa đại-thụ, mà họ nhận biết ngay là
Đức Mẹ, có bồng Chúa Hài-Đồng, hai bên có hai thiên-thần cầm đèn
chầu...
4)
Báo “Mẹ Việt-Nam” số 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang” của Nguyễn
Lý Tưởng, trong đó có đoạn:
... Tương-truyền Đức
Mẹ đã hiện ra tại gốc cây đa cổ-thụ. Dân làm rừng thường đến đó van-vái, về
sau họ nghe nói có một Bà linh thiêng hiện ra tại đây nên họ
đã đắp một cái nền dưới gốc cây đa, gọi là nền vọng, và rào chung quanh.
5)
Báo “Saigon USA”, số 97 ra ngày 14-9-98, có đăng bài “Linh-Địa La Vang” trong
đó có đoạn:
... Cây
đa đại-thụ: Theo cổ-truyền ngày xưa Đức Mẹ đã hiện ra gần
gốc nó, nay không còn tăm dạng gì...
...
LM Giuse Nguyễn Xuân Cảnh (Kim Long) đã ở Phó tại Cổ Vưu dưới
thời hai Cha Sở: Bonin (Ninh) và Cadière (Cả)...
...
Đến sau Cha Cadière (Cả) đã sắm một bàn kiệu...
B/ NHẬN XÉT:
1)
Báo “L'Osservatore Romano” là cơ-quan chính-thức của Vatican, có uy-tín và
khả-tín nhất, trên tất cả, đã đơn-giản kể lại việc Đức Mẹ hiện ra lần đầu như
thế nào trước giáo-dân tại La Vang: bài báo không nói cụ-thể xuất-hiện ở vị-trí nào so với cây đa đại-thu, và
cũng không đề-cập đến áo choàng cùng với đèn chầu.
2)
Thư tin song-ngữ “Églises d'Asie” của các Hội Truyền-Giáo Ngoại-Quốc tại Paris,
chuyên về Á Châu, cũng có tầm-vóc quốc-tế, đã không đề-cập đến việc “Đức Mẹ xuất-hiện” mà chỉ mô-tả cảnh tín-đồ Ky Tô Giáo hội họp để
cầu-nguyện ở đó, với “bức tượng” của Đức Mẹ, và nói rõ là tượng ấy được
đặt trên cành cây -- những chi-tiết không thấy có trong các “tài-liệu”
khác. Không có Chúa Hải-Đồng
và hai thiên-thần, là những chi-tiết được xem là quan-trọng nhất trong lần
hiện ra đầu tiên.
3) Trần
Văn Trí trên báo “Thằng Mõ”, căn-cứ vào Lm Nguyễn Văn Ngọc, thì
xác-nhận rằng Đức Mẹ hiện ra lần đầu (“bỗng nhiên họ thấy”) không phải trên cành, mà là gần (bên
cạnh) cây đa.
4) Nguyễn
Lý Tưởng trên báo “Mẹ Việt-Nam” thì khẳng-định rằng dân La Vang đã
tụ họp ở đó để cầu nguyện trước khi họ nghe nói rằng xưa
kia có một Bà Linh-Thiêng xuất-hiện ở đó, và do nghe nói như thế họ mới đắp cái “nền vọng” dưới gốc cây đa.
Ngoài ra, bài viết không đề-cập đến
Chúa Hài-Đồng và hai thiên-thần, là những chi-tiết tiêu-biểu hầu như
không-thể-thiếu cho sự-tích này.
5)
Báo “Saigon USA” thì đề-quyết rằng Đức Mẹ hiện ra gần gốc cây đa. Bài viết rất dài, tỷ-mỷ, nhưng lại không đả-động gì đến Chúa Hài-Đồng và hai
thiên-thần, mà đáng lẽ phải được kể ra, nếu có, vì đó là những điểm chính
quan-trọng hơn mọi nét tả linh-tinh khác.
C/ Ý-KIẾN:
1)
Theo báo “Églises d'Asie” thì (kể từ đời Cảnh Thịnh) mãi cho đến cuối
thế-kỷ 19 mới có một nhà thờ được dựng lên. Nhưng theo Nguyễn
Lý Tưởng trong “Linh-Địa La Vang” trên báo “Mẹ Việt-Nam” số 102 thì ngay từ
“khoảng đầu đời Minh Mạng (1820-1840= đầu thế-kỷ 19) ba làng
đồng-thuận nhường chỗ đó lại cho bên Công Giáo... và cha xứ đã cho
sửa-sang nơi đó thành một nhà thờ bằng tranh. Đây là ngôi nhà thờ
đầu tiên tại La Vang.”
2)
Các tác-giả viết về “sự xuất-hiện của Đức-Mẹ tại La Vang”, vì muốn tô vẽ
thêm cho sự-tích tăng phần khả-tín mà lại chỉ
căn-cứ vào cổ-truyền, lời đồn (nghe nói), đồng-thời dựa vào ấn-tượng
và tưởng-tượng cá-nhân, một chiều, cho nên thiếu cơ-sở trung-thực,
khiến mâu-thuẫn nhau, làm cho người đọc thấy sựbịa-đặt rõ-ràng.
3)
Khi mà chính sự hiểu biết của giám-mục tên tuổi Hồ Ngọc Cẩn còn bị cấp
dưới là linh-mục Lê Thiện Bá (cả hai đều có gốc-gác Quảng Trị)
bác bỏ, và cứ như thế, thì làm sao
mà người đọc có thể tin được các tác-giả khác trong cùng đề-tài, khi mà chính
họ không hề đích-thân trực-tiếp tiếp-cận với các sự-việc hoặc bằng-chứng
chính-xác về sự-việc lúc đang xảy ra của sự-tích “lịch-sử” này?
4)
Tóm lại, ngay chính báo “L'Osservatore Romano” cũng đã đưa ra kết-luận, liền
sau đoạn viết về sự xuất-hiện của Đức Mẹ tại La Vang: “Tiếc thay, hiện nay không
có một tài-liệu viết nào viết về những lần Đức Mẹ hiện ra: những tài-liệu ấy có
lẽ được lưu-trữ ở Huế và đã bị tiêu-hủy trong hai cuộc chiến địa-phương,
năm 1833 dưới thời Minh Mạng, và năm 1861 dưới thời Tự Đức”* (hơn
một thế-kỷ trước khi có lễ “kỷ-niệm 200 năm” này, là cơ-hội tốt để
các tác-giả kể trên tha-hồ đặt điều, phịa chuyện).
*CHÚ-THÍCH
1:
Nguyễn
Lý Tưởng trong bài “Linh-Địa La Vang” trên báo “Mẹ Việt-Nam” đã viết: “Lm
Stanilas Nguyễn Văn Ngọc đã trích dẫn một đoạn trong bức thư của Lm Lôrensô
Lâu, ở vùng Dinh Cát (Quảng Trị) đề ngày 17-2-1691 gởi về Roma”.
Như thế rõ-ràng là các báo-cáo từ vùng Dinh Cát (gồm có La Vang) đã
được gởi về thấu tận Roma từ hơn một
thế-kỷ (1691-1798) trước khi có
vụ gọi là “Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La Vang.
Và Trần Văn Trí trong bài “Tinh-Thần La Vang” trên báo “Thằng Mõ”
cũng đã viết: “Vài Nét Lịch-Sử Về La-Vang: 1717-1739: xảy ra một số xáo trộn
màTòa Thánh phải trực-tiếp can-thiệp...” Đây cũng là một bằng-chứng
nữa rằng Roma đã theo dõi sít-sao tình-hình cộng-đồng Ky Tô Giáo tại La
Vang hơn năm thập-niên (1739-1798) trước vụ gọi là Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La-Vang.
Theo-dõi nắm vững tình-hình La Vang sít-sao từng chi-tiết suốt hơn cả một
thế-kỷ từ trước như thế, mà rồi vẫn
không ghi-nhận được một chữ nào về biến-cố trọng-đại có tầm-vóc quốc-tế là
vụ "Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang", một chuyện động trời, động đất đối
với giáo-hội ấy. Tất-nhiên, ai nấy đều thấy: sở-dĩ hiện nay không
có tài-liệu viết về vụ này lưu-trữ tại Vatican, chỉ vì một lý-do quá đơn-giản: Đức
Mẹ Không Hề Hiện Ra Tại La Vang.
*CHÚ-THÍCH
2:
Nguyễn
Lý Tưởng còn viết: “Năm 1886 Đức Giám-Mục Caspar ở Huế mới
quyết-định xây nhà thờ bằng gạch... phải mất 15 năm mới hoàn-thành. Đại-Hội
Đức-Mẹ La Vang lần thứ I và khánh-thành nhà thờ vào các ngày 6, 7 và 8
tháng 8 năm 1901.”
Vậy thì trong suốt thời-kỳ 15 năm này (từ 1886 đến 1901), hơn 88
năm sau vụ gọi là “Hiện Ra” vào năm 1798 (1798-1886), và ít nhất là
25 năm sau lần “tài-liệu bị tiêu-hủy dưới thời Tự Đức” vào năm 1861
(1861-1886), tại sao không có người
nào tìm ra được một tài-liệu nào khả-tín, nếu có, về sự xuất-hiện của Đức Mẹ
tại La Vang?
*
* *
Vấn-đề
bây giờ là: những chi-tiết mới được thêm-thắt trong các bài viết dẫn
trên, nếu không được làm sáng tỏ, thì hẳn là sẽ bị sử-dụng như là “tài-liệu
căn-bản”, “bằng-chứng lịch-sử” để tiếp-tục lưu-truyền Sự Giả (nghịch với
Sự Thật) cho các thế-hệ con cháu của chúng ta trong tương-lai.
CHƯƠNG V
CÓ AI TẬN MẮT TRÔNG THẤY
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA-VANG?
I/ "NGÔI CHÙA THÀNH NHÀ
CHÚA" TRONG HOÀN-CẢNH NÀO?
A) TÀI-LIỆU:
Trong
bài “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98,
tác-giả Trần Văn Trí viết:
Vào
đầu thế-kỷ 19, tiếng đồn về Đức Bà linh thiêng lan rộng khắp
nơi. Trong những năm đầu 1820-1840, các người Công Giáo thuộc
các làng Ba Trừ,Cổ Thành và Thạch Hãn có chung nhau
xây một ngôi chùa ngay tại nơi Đức Mẹ hiện ra, gọi là chùa Ba
Làng. Nhưng sau đó họ bàn tính lại với nhau và đồng
thuận rằng Đức Bà hiện ra là “bên giáo”, nên họ đã nhường ngôi
chùa lại cho bên Công Giáo và các gia-đình Công Giáo tu sửa “ngôi chùa thành nhà
Chúa” (Lm Hồng Phúc: Đức Mẹ La-Vang, tr. 35).
B) NHẬN XÉT:
1-
Ta hãy tìm hiểu xem “ngôi chùa đã trở thành nhà Chúa” trong tình-hình
nào. Báo “Thằng Mõ”, số 852 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Sự-Kiện La
Vang: Trang Sử Tử-Đạo” của tác-giả Nguyễn Văn Thông, trong đó có đoạn:
Giám-mục Tabert ghi
lại rằng, giáo-hội Miền Nam, khi vua Minh Mạng ra chỉ-dụ cấm
đạo, đã có hàng trăm giáo-hữu bị bắt giam tù, bị tra-tấn và bị án lưu-đày hoặc
xử-tử...
a.
Trong năm 1832, Chỉ-huy-trưởng đoàn quân hộ-vệ cho vua Minh Mạng là Tống
Viết Bường cùng với những sĩ-quan và binh-sĩ cấp dưới bị bó-buộc ký giấy
xuất-giáo. Ông Bường và 12 người không chịu ký. Họ bị
truyền phải mang gông và đánh đòn... Đầu roi chì quất xuống xé thịt văng
ra... Trước cực-hình dã-man ấy, sáu binh-sĩ không chịu nổi... Ông Bường và
sáu người khác chịu tù ngục và tra-tấn cho tới cùng rồi bị mang đi chém đầu vào
tối ngày 23-10-1833 ở Thợ Đúc, Huế (Bùi Đức Sinh: Giáo-Hội
Công Giáo ở VN, tập III, trg 46-47).
b.
Ngày 8-9-1835, giáo-sĩ Marchand bị bắt tại Gia Định, bị đóng cũi
như một con vật mang về Huế cùng với Lê Văn Viên 7 tuổi, con của Lê
Văn Khôi... Giáo-sĩ bị khép tội cùng với Lê Văn Khôi làm loạn
chống lại triều-đình Minh Mạng... Lí-hình liền lấy kìm trong lò lửa
kẹp mạnh vào hông giáo-sĩ, thịt cháy xèo bốc khói... Ngài và ba người bị
khép tội đồng-lõa cùng với em Viên phải án lăng-trì. Họ bị lột
hết quần áo, bị trói vào cáng điệu đến pháp-trường ở nhà thờ họ Thợ
Đúc... Lí-hình lấy kìm kẹp từng miếng thịt lôi ra cho một lí-hình khác
cầm dao phay cắt miếng thịt ấy. Chúng bắt đầu bằng việc cắt dương-vật của
người tử-tội trước, rồi đến hai miếng thịt vú, hai miếng bả vai, cắt hai tay,
hai bên đùi rồi hai bắp vế... cho đến khi còn lại bộ xương dính những sợi
thịt đỏ lòm. Sau đó lí-hình chặt đầu vị giáo-sĩ... tháo giây trói cho xác
ngã sấp xuống đất, lấy búa chặt thành bốn khúc theo bề ngang rồi bổ mỗi khúc
làm đôi theo bề dọc... Đầu của giáo-sĩ Marchand được mang đi
các tỉnh treo ở chợ, sau đó bỏ vào cối mà xay (Phan Phát Huờn: Louvet: La
Cochinchine Religieuse, QII, trg. 92) và nhiều, nhiều vụ khác.
2- Thời-kỳ 1820-1840 mà tác-giả Trần Văn Trí kể trên,
rơi đúng vào chính triều-đại Minh Mạng, giai-đoạn bách-hại Ky Tô Giáo khắc-nghiệt như
thế. Và sử-gia Trần Trọng Kim đã viết trong “Việt Nam Sử-Lược”:
“Lúc bấy giờ không phải là một mình vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần
nhiều những quan-lại cũng đều một ý cả cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt
thêm.” Lê Văn Khôi và đồng-đảng hùng mạnh đến
độ chiếm được 6 tỉnh Miệt Trong chỉ trong một tháng, vàcố-thủ thành Gia-Định suốt
3 năm trời, ở tận miền Nam xa vời; thế mà Minh Mạng cũng
đã dẹp tan và trừng-trị được, khủng-khiếp như trên. Vậy thì một nhóm
giáo-dân Ky Tô Giáo tay không, ẩn trốn cách kinh-đô và ảnh-hưởng
của nhà vua chỉ trong 60 cây số (Huế - Quảng-Trị), làm sao
không bị phát-hiện*1, mà còn công-khai tu sửa ngôi chùa thành nhà Chúa, trong
khi các cuộc giết đạo vẫn còn tiếp-diễn thêm 40-60
năm nữa (cho đến khi Pháp đến, vào thập-niên 1880)?
*CHÚ-THÍCH
1a:
Lưu
ý: “Tiếng đồn về Đức Bà linh thiêng lan rộng khắp nơi”,
và dân La Vang (gồm cả người không-Công-Giáo) thì
sống bằng nghề đốn củi đem bán cho cả các làng (không Công Giáo) bên
ngoài La Vang.
*CHÚ-THÍCH
1b:
Giám-mục Tabert viết
về các sự việc xảy ra trong khoảng 1820-1840 trong một nước Việt Nam
đã được thống-nhất từ hơn hai mươi năm trước (Gia Long lên
ngôi từ năm 1802) mà vẫn mô-tả đó là Miền Nam (lúc còn sông
Gianh của thời Trịnh Nguyễn phân-tranh). Tabert lại còn không
nhớ địa-danh Phường Đúc mà gọi nó là Thợ Đúc. Làm sao tin
được bài viết của Gm này?
3-
Nếu Đức Mẹ thực-sự hiện ra tại La Vang năm 1798, tại sao
giáo-dân phải đợi cho đến 22-42 năm sau (1820-1840) mới
nghe tiếng đồn, mới xây ngôi chùa, rồi sau mới bàn với
nhau rằng Bà linh-thiêng*2 hiện ra là “bên*3 giáo”? Hơn
nữa, chính họ là “dân Ky Tô Giáo từ 3 làng Ba Trừ, Cổ
Thành và Thạch Hãn” đã xây ngôi chùa ấy, tại
sao họ không nói hẳn ra (đại-khái: "đến nay thì chúng ta đã có
thể chính-thức công-nhận nó là nhà Chúa, vì Bà hiện ra đích-thực là Đức Mẹ
Maria"), và báo cho bên không-Công-Giáo biết như thế"), chứ
cần gì phải chờ về sau mới bàn (giữa dân
Công Giáo) với nhau rằng Bà ấy là của "bên Công
Giáo"? Tóm lại, tất cả chỉ thuần-túy là tin đồn, và
không có ai tận mắt trông thấy Đức Mẹ hiện ra ở La Vang!
*CHÚ-THÍCH
2: Bên Phật-Giáo cũng có một Bà: Đức Phật Bà Quán-Thế-Âm.
*CHÚ-THÍCH
3: Từ-ngữ “bên” cho thấy là có ít nhất 2 bên liên-can trong hiện-vụ, và
cách dùng chữ lương-thiện như thế chứng-tỏ là bên không-Công-Giáo
trước đó cũng đã có nhìn-nhận ngôi chùa là của bên Phật-Giáo rồi.
II/ TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO NGƯỜI
TA BẮT ÐẦU NGHE NÓI ÐẾN VIỆC ÐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG?
A) TÀI-LIỆU:
Trong
bài “Linh-Địa La Vang” đăng trên báo “Mẹ Việt-Nam”, số 102 ra ngày 15-8-98,
tác-giả Nguyễn Lý Tưởng viết:
1-
Năm 1797, nhân khi thủy-quân của Nguyễn Ánh tiến ra tận cửa bể
Tư Dung (cửa Tư Hiền) thuộc tỉnh Thừa Thiên, thì Lê Văn Lợi, một vị
quan của Tây Sơn đã đề-nghị vua ra lệnh bắt hết người Công Giáo và các
linh-mục, lấy lý-do dân theo đạo ủng-hộ Nguyễn Phúc Ánh... Vua Cảnh-Thịnh đã
ra mật-lệnh cho các địa-phương hẹn đến tháng 5-1798 sẽ bắt và giết tất cả
giáo-dân cũng như linh-mục, không để sót người nào... Đức giám-mục Jean
De Labartelle lúc đó đang trốn tránh ở làng Di Luân (Quảng
Trị)... Tin đó được loan truyền ra trong giới
Công Giáo và dân theo đạo ở các làng Trí Bưu, Thạch Hãn,
Hạnh Hoa bèn chạy vào miền núi La Vang để ẩn
núp. Và chính trong thời-gian đó Đức Mẹ đã hiện ra với họ.
2- Tương-truyền Đức
Mẹ đã hiện ra tại gốc cây đạ cổ-thụ. Dân làm nghề rừng thường đến đó
van vái, về sau họ nghe nói có một Bà
linh thiêng hiện ra tại đây nên họ đã đắp một cái nền dưới gốc cây đa gọi
là nền vọng và rào chung quanh. Khoảng đầu đời Minh Mạng, 1820,
dân ba làng Thạch Hãn, Ba Trừ vàCổ Thành chung nhau làm một ngôi
miếu nơi đó, về sau họ nghe nói ngày
xưa có một Bà bên đạo hiện ra ở chỗ đó nên cả ba làng đồng thuận nhường chỗ
đó lại cho dân bên đạo Công Giáo. Giáo-dân thời đó đã đem việc này trình
cho vị linh-mục ở xứ Trí Bưu (Cổ Vưu) và cha xứ*4 đã cho sửa-sang nơi
đó thành một nhà thờ bằng tranh. Đây là ngôi nhà thờ đầu
tiên tại La Vang.
3-
Vua Đồng-Khánh lên ngôi (1885, vào cuối thế-kỷ 19), chủ-trương tìm
kiếm hòa-bình... Cũng trong thời-điểm này, cha xứ Trí Bưu (Cổ
Vưu) đã hỏi những giáo-hữu lớn tuổi trong giáo-xứ khi đến
giờ lâm-chung, chịu phép giải tội và xức dầu thánh*5, rằng: “Con phải
thề nói sự thật, con có nghe cha mẹ, ông bà trước kia
nói gì về sự-tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang không?” Tất cả những người
đó đều trả lời: “Có” và “chuyện xảy ra đã gần 100 năm rồi.”
Đức Mẹ đã hiện ra trước đó khoảng 100 năm. Bằng-chứng là năm 1886 (88
năm, sau năm 1798) Đức Cha Caspar (Lộc) ở Huế đã quyết-định xây đền
thờ kính Đức Mẹ hiện ra, theo cha mẹ, ông bà kể lại, cách nay cả trăm năm,
(tức là vào cuối thế-kỷ 18, dưới thời Tây Sơn).
B) NHẬN XÉT:
1- Pigneau vừa
là giám-mục (cao-cấp trong giới truyền-giáo của đạo bị cấm) vừa là người
Pháp (ngoại-quốc cướp nước), lại giúp kẻ thù là Nguyễn Phúc Ánh và
lãnh-đạo các tín-đồ tại địa-phương; thế mà vua Cảnh-Thịnh lại nhắm
vào các giáo-dân (là người chạy theo) trước cả các kẻ cầm đầu? Ngoài ra,
giám-mụcJean De Labartelle có mặt tại làng Di Luân, Quảng-Trị,
tỉnh của La Vang, thế mà không hề viết gì làm chứng về vụ gọi là Đức
Mẹ hiện ra ngay vào lúc đó (1798) tại La Vang trong vùng hoạt-động
của mình.
2-
Lạ-lùng hơn nữa là ngay chính các giáo-dân từ 3 làng Trí Bưu (vâng, Trí
Bưu tức Cổ Vưu), Hạnh Hoa và Thạch Hãn, là những tín-đồ
Ky Tô Giáo đã chạy đến tị-nạn tại La Vang và được kể là đã
thấy Đức Mẹ hiện ra hứa che chở họ ngay chính vào lúc Đức
Mẹ hiện ra (năm 1798), thì lại không lập, dù chỉ là một cái bàn, để
thờ Đức Mẹ; mà phải chờ đến hơn hai mươi năm về sau (1820-1840)
để các cư-dân thuộc nhiều tín-ngưỡng khác nhau của 2 làng khác, Ba Trừ và Cổ
Thành, đến đó cùng với làng Thạch Hãn của La Vang đứng ra làm
một ngôi chùa đặt tên là Chùa Ba Làng (dù cho
có bài viết là ngôi miếu), để thờ một Bà mà họ thấy là không phải Đức
Bà của Ky Tô Giáo (cho đến về sau khi họ nghe nói rằng
đó là Đức Mẹ họ mới "nhường lại" cho bên Công Giáo).
*CHÚ-THÍCH
4: Có đáng tin không: dưới triều Minh Mạng, khi sự cấm đạo ngày càng gắt-gao,
hằng trăm giáo-dân đã bị bắt, giết (kể cả giáo-sĩMarchand ở tít từ trong
Gia Định), mà vẫn còn có một cha xứ hiện-diện bên ngoài vùng ẩn-nấp La
Vang, để các tín-đồ từ trong đó ra tiếp-xúc và báo-cáo tình-hình?
*CHÚ-THÍCH
5: Có đáng tin không: khi có cha xứ Trí Bưu (gồm cả La
Vang, là nơi ẩn-trú của giáo-dân từ 3 làng nói trên và từ nhiều vùng khác nữa,
thí-dụ “cách đó 60 cây số” nghĩa là từ Huế) mà cha xứ ấy không nghe
biết gì về tin đồn truyền ra từ 1798 cho đến hơn hai
thập-niên về sau (1820-1840) mới nghevề việc có Bà
linh-thiêng hiện ra cách đó chỉ 4 cây số, và dân đến báo là đã
“đồng thuận nhường chỗ đó lại cho bên Công Giáo”?
3-
Giám-mục Caspar là người quyết-định xây đền thờ kính Đức Mẹ vào năm 1886 (sau
khi thực-dân Pháp đã đô-hộ Việt-Nam từ 1884), tức là ông đã hoàn-toàn tự-do
trong tình-hình mới (giáo-dân Ky Tô Giáo vươn lên), nghiên-cứu kỹ-càng về
biến-cố này; thế mà ông cũng không hề lưu lại một bút-tích nào (dù là báo-cáo
chính-thức gửi về Tòa Thánh hay là nhật-ký cá-nhân, thư riêng) về vụ Đức Mẹ
hiện ra tại La Vang: phải chăng vì ông cũng thấy vụ đó là không đáng tin?
4- Người đọc thấy ngay là cha xứ Trí Bưu đã lợi-dụng giờ
phút lâm-chung của người già-cả, muốn “hồn
được lên thiên-đường”, mà sợ không được cha xứ cho lên, nên bắt họ
phải thề*6 là có nghe ông bà cha me trước kia kể lại, chuyện
đã xưa gần trăm năm... Chỉ cần có một tiếng “Có!” giản-dị, không cần
chi-tiết gì cả. Tại sao việc này không được thực-hiện trước năm 1885, khi
mà trước đó giáo-dân La Vang đã có thể công-khai biến nhà chùa thành nhà Chúa
(1820-1840), suốt 40-60 năm qua? Và tại sao cha xứ không hỏi các giáo-dân
mạnh-khỏe trẻ-trung? Chắc-chắn lý-do là vì “sáng-kiến” này mới
được nảy-sinh vào năm 1885 (Đồng-Khánh lên ngôi), họ tính là không
còn ai đủ già để biết và để cãi lại sự việc cho là xảy ra đã gần trăm
năm.
*CHÚ-THÍCH
6: Cha xứ bắt thề như thế là để căn-cứ vào đó mà lập
hồ-sơ về chuyện hiện ra, và sở-dĩ thế là vì từ 1798 đến 1885 (Đồng
Khánh thân-Pháp lên ngôi) ròng-rã 87 năm, không hề có một
hồ-sơ tài-liệu nào cả về chuyện Đức Mẹ Hiện Ra, dù cho sau này người ta nói là
hiện ra vào năm 1798, nhường ngôi chùa lại cho bên Công Giáo vào khoảng
1820-1840. Và tại sao lại không có một tài-liệu nào, khi mà ít nhất
là một bức thư của linh-mục Lôrensô Lâu về việc viếng thăm Cổ
Vưu (Trí Bưu) đã được gửi về La Mã từ thời 1691 (hơn một
trăm năm về trước), và khi mà Tòa Thánh Vatican đã có thể
trực-tiếp giải-quyết chuyện nội-bộ La Vang từ thời 1717-1739
(hơn nừa thế-kỷ về trước)?
Xin
thưa: là vì thật ra không hề có việc Đức Mẹ (của Ky Tô Giáo) hiện ra tại
La Vang.
Về vấn-đề này, tôi đã có đọc được một tài-liệu từ trước năm
1975. Sau khi cộng-sản kiểm-soát Miền Nam, một chiến-dịch gọi là “bài-trừ
văn-hóa-phẩm nô-dịch và đồi-trụy” đã được phát-động, và tôi mất hết tủ
sách của mình.
Vào đầu năm 1998, nhất là sau khi Giáo-Hoàng John Paul II vào ngày 19-6-1998 công-khai
nhìn-nhận tầm quan-trọng của “Đức Mẹ La Vang” và tỏ ý muốn tái-thiết
nhà thờ La Vang để kỷ-niệm 200 năm ngày “Đức Mẹ” hiện ra lần đầu
tiên, tôi đã phổ-biến một bài-viết trên một số diễn-đàn liên-mạng, tôi nhớ
trong đó có diễn-đàn tiếng Anh vnforum@vnforum.org của Tiến-Sĩ Trần
Đình Hoành, để bác-bỏ câu trả lời “Có” của các tín-đồ già đang
hấp-hối khi Cha Xứ Trí Bưu hỏi là có nghe nói gì về sự hiện ra của “Đức
Mẹ” hay không, rồi Cha Xứ căn-cứ vào đó mà báo-cáo về các lần hiện
ra.
Sau
đó hai tháng, chính Giáo-Hoàng John Paul II, trên tờ “L'Observatore
Romano” ra ngày 12-8-1998 đã thành-thực và thẳng-thắn xác-quyết
rằng: Tiếc thay, hiện nay tại Tòa Thánh không có một văn-kiện nào về các lần “Đức
Mẹ” hiện ra ở La Vang. (Phải mất một thời-gian sau tờ báo ấy mới tới
tay độc-giả Việt-Nam.)
Ngẫu-nhiên, vì quá hăng say trong việc góp phần tích-cực của mình vào ngày
đại-lễ Kỷ-Niêm 200 Năm, một nhân-vật Ky-Tô-Giáo liên-hệ là Ông Nguyễn Lý
Tưởng vào ngày 15-8-1998 đã cho đăng báo bài-viết trích trên: “cha
xứ Trí Bưu (Cổ Vưu) đã hỏi những giáo-hữu lớn tuổi trong
giáo-xứ khi đến giờ lâm-chung, chịu phép giải tội và xức dầu thánh rằng:
“Con phải thề nói sự thật, con có nghe cha
mẹ, ông bà trước kia nói gì về sự-tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang không?”
Tất cả những người đó đều trả lời: “Có” và “chuyện xảy ra đã gần 100 năm
rồi.” Đức Mẹ đã hiện ra trước đó khoảng 100 năm.”
Vì sợ không được Cha Xứ cho lên Thiên Đàng, các “chứng-nhân”
sắp lìa đời ấy đã phải trả lời là “Có” nghe nói về các lần “Đức Mẹ” hiện ra, cả
trăm năm trước, rất lâu trước lúc chính họ được sinh ra đời (chứ họ không
đích-thân thấy). Điều đó giải-thích lý-do tại sao Tòa Thánh Vatican phủ-nhận
các lần “Đức Mẹ” hiện ra tại La Vang.
Tuy thế, họ
vẫn chống-chế cho rằng các tài-liệu ấy có lẽ đã bị tiêu-hủy dưới thời Minh
Mạng, Tự Đức*7: Họ giả-vờ coi như không có ai có thể gửi gì ra
khỏi xứ Huế và nước Việt Nam trong suốt 42 năm trường (từ
1798, đến 1840 là năm Minh Mạng qua đời); họ đã quên mất
thời-gian 18 năm (1802-1819) dưới thời Gia Long, mà vì
mang ơn người Pháp nên vua không nặng vấn-đề cấm đạo; hơn nữa, họ đã tảng-lờ
tình-trạng người Pháp đô-hộ Việt Nam hơn 60 năm(1884-1945) và
coi như các phần-tử thực-dân Ky Tô Giáo này không biết phụng-vụ Đức Mẹ
ngay tại thuộc-địa của mình, nhất là sau khi đã có những vụ hiện ra
tại Lourdes ở Pháp năm 1858 và tại Fatima ở Bồ Đào Nha năm 1917!
5-
Ta cũng gặp được một óc tưởng-tượng khác người: Trong khi các bài viết
khác nói rằng mãi đến 1820-1840 giáo-dân Ky Tô Giáo tại La Vang mới
nghe tiếng đồn về việc Đức Mẹ hiện ra ngày xưa, thì tác-giả Trần
Văn Trí trong bài “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ" số 832
lại viết: “Bỗng nhiên (trong năm 1798) họ thấy một bà đẹp-đẽ
mặc áo choàng hiện ra gần một cây đa đại-thụ, mà họ nhận biết ngay là
Đức Mẹ.”
Những
“nhân-chứng” ấy nhận biết ngay tại chỗ vào năm 1798 rằng
đó chính là Đức Mẹ, thế mà giáo-dân phải đợi cho đến 22-42
năm sau (1820-1840)mới nghe tiếng đồn, mới xây
ngôi chùa, mà cũng chưa bàn là Bà linh-thiêng thuộc về
"bên ta"; và trong lúc đó (1798) chính giám-mục Jean De
Labartelle có mặt tại tỉnh địa-phương, thế mà không có một
chứng-tích nào, tài-liệu viết nào của ông về sự-kiện ấy được lưu hồ-sơ. Chỉ
nội một chi-tiết đó đã đủ để vô-hiệu-hóa tất cả các chi-tiết khác về vụ hiện
ra.
Cũng
như trong các bài viết khác, tất cả chỉ là nghe nói, tiếng đồn,
tương-truyền, và mỗi lần lại mỗi khác nhau và mâu-thuẫn nhau.
6-
Ta lại có thêm một nguồn ngoại-sử qúy-báu, không phải là về Đức Mẹ mà là về Cây
Đa: linh-mục Pierro Gheddo viết về sự-tích Đức Mẹ hiện ra tại La
Vang cũng như các sự ngược-đãi Ky Tô Giáo tại Việt Nam, đã đặt nhan đề cho
sách của mình là “The Cross and the Bo-Tree” (Cây Thập-Giá và Cây Bồ-Đề).
Lm Pierro
Gheddo quả đã thực-tế gọi hẳn cây đại-thụ là cây bồ-đề thay
vì cây đa. Cây Bồ Đề thông-thường là cây của nhà chùa, của Đức Phật; và
lẽ tất-nhiên Đức Mẹ Maria của Ky Tô Giáo không bao giờ muốn đến
gần, nói gì dùng nó làm điểm tiếp-cận để xuất-hiện trước
tín-đồ của mình!
Dù
sao, cây đa ở đây hẳn thuộc về bên không-Công-Giáo, dù là hồi đó hay
là bây giờ; và dân La Vang đến đó cầu-nguyện là dân đa-tín, tin thờ
nhiều thần (kể cả ma quỷ, là những hình bóng chập-chờn thỉnh-thoảng hiện ra nơi
các cây đa), rất lâu trước khi có dân Ky Tô Giáo đến đó
tị-nạn rồi sau mới nghe tiếng đồnvề Bà
linh-thiêng...
7-
Tác-giả Trần Văn Trí trong “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng
Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, viết: “Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam trong
phiên họp ngày 13-4-61 đã cho đền thờ Đức-Mẹ La Vang làm Đền Thờ
Toàn-Quốc Dâng Kính Trái Tim Vô-Nhiễm Đức Mẹ và nhận Linh-Địa La Vang làm
Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc.” Báo “L'Osservatore Romano” của Vatican ra
ngày 12/19-8-98 thì viết rằng : “Trong bức thư chung ngày 8-8-61 của
các giám-mục Việt Nam, La Vang được chọn làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc.”
Vậy là ngày 13-4-61 hay ngày 8-8-61?).
*CHÚ-THÍCH 7: Họ nói là các bút-tích về vụ Đức Me hiện ra có lẽ đã
được giữ trong hồ-sơ của nhà thờ Huế và bị thiêu-hủy trong hai cuộc
chiến địa-phương: vào năm 1833 dưới thời Minh Mạng, và vào năm 1861 dưới
thời Tự Đức. Thật ra, trong năm 1833 có việc triều-đình
dẹp loạn Nông Văn Vân ở Lạng-Sơn & Cao-Bằng ngoài Bắc,
và loạn Lê Văn Khôi ở Gia-Định trong Nam; và
trong năm 1861 có quân Pháp và I Pha Nho đến đánh Quảng-Nam, xúi
Tạ Văn Phụng ra Bắc dấy binh ở Quảng-Yên; nhưng trong các
thời-điểm ấy ở kinh-đô Huế thì vẫn bình yên: làm sao mà hồ-sơ
nhà thờ ở Huế bị thiêu-hủy được. Huống nữa, hồ-sơ vụ này không
phải chỉ có ở Huế mà thôi.
Chính
tác-giả Nguyễn Văn Thông đã viết: “Về các sử-liệu
liên-hệ, chúng ta có khá nhiều để đối-chiếu... với các sử-liệu như thư
viết tay, sổ-sách ghi tên giáo-hữu..., những bản phúc-trình của từng
khu-vực truyền-giáo gởi về Bộ Truyền-Giáo ở Roma, ở Paris,
ở các nhà dòng Tên, dòng Đa Minh... có chi-nhánh ởMacao, Penang, Nhật, Phi
Luật Tân, Thái Lan..."
Và,
như tác-giả Nguyễn Lý Tưởng đã viết: “Lm Stanilas Nguyễn
Văn Ngọc đã trích dẫn một đoạn trong bức thư của Lm Lôrensô Lâu, về
việc viếng thămCổ Vưu (Trí Bưu) ở vùng Dinh Cát (Quảng Trị) đề
ngày 17-2-1691 gởi về Roma”: Như thế rõ-ràng là các
báo-cáo từ vùng Dinh Cát (gồm có La Vang) đã được gởi về thấu
tận Roma từ hơn một thế-kỷ (1691-1798) trước khi có
vụ gọi là “Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La Vang. Lại nữa, tác-giả Trần Văn Trí cũng
đã viết: “Vài Nét Lịch-Sử Về La-Vang: 1717-1739: xảy ra một số
xáo trộn mà Tòa Thánh phải trực-tiếp can-thiệp...”: Như thế
hiển-nhiên là, lần này nữa, Tòa Thánh đã nắm vững tình-hình La Vang từ hơn
nửa thế-kỷ (1739-1798) trước vụ "hiện ra".
Do đó, tài-liệu viết về sự xuất-hiện của Đức Mẹ tại La Vang, nếu
có, thì phải đã có tại Tòa Thánh Vatican ngót một
thế-kỷ rưỡí, trước cuộc chiến đầu tiên trong 2 cuộc chiến 1833 và 1861 mà
báo L'Osservatore Romano của Tòa Thánh đổ lỗi là có lẽ đã
tiêu-hủy hết hồ-sơ liên-quan.
8-
Tóm lại, người đọc có thể kết-luận rằng: trong ngót một
thế-kỷ rưỡi sau vụ gọi là Đức Mẹ hiện ra (từ 1798 đến 1945), cả thực-dân
Pháp lẫn các chức-sắc Ky Tô Giáo thuộc nhiều quốc-tịch khác nhau đã
rất lương-thiện, vì họ không hề chính-thức công-nhận (bằng
lời nói, chữ viết lưu lại) mà chỉ chiều theo tương truyền trong
giới giáo-dân địa-phương mà thôi về sự "hiện ra" của Đức Mẹ
tại La Vang, bởi lẽ chuyện đó là vô căn-cứ, không
có người nào tận mắt trông thấy Đức Mẹ hiện ra. Và chỉ đến khi giáo-dân Ngô Đình
Diệm lên làm thủ-tướng, rồi tổng-thống, của Việt Nam Cộng-Hòa (1954-1963) thì
chuyện hiện ra mới được làm to lớn lên (nhưng nay thì
chính Tòa Thánh Vatican đã phủ-nhận rồi - xin xem Phần VIII).
Rõ-ràng
lập-trường của Vatican trong vụ nhà thờ La Vang là
chỉ dựa vào báo-cáo và đề-nghị của các thừa-sai tại địa-phương, mà
giai-đoạn này thì họ chịu hoàn-toàn
ảnh-hưởng của Tổng-thống Ngô Đình Diệm và Tổng Giám-Mục Ngô
Đình Thục của Miền Nam Việt-Nam.
CHƯƠNG VI
LINH-MỤC TRẦN HỮU THANH &
TỔNG-GIÁM-MỤC NGUYỄN VĂN THUẬN
NÓI GÌ VỀ VỤ NÀY?
I/ TIỀN-ÐỀ
Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La-Vang Vào Lúc
Nào, Trong Hoàn-cảnh Nào?
A) TÀI-LIỆU:
1-
Theo L'Osservatore Romano, “tháng 8-1798, triều-thần của vua Cảnh-Thịnh (Tây-Sơn) ra lệnh
đàn-áp Ky Tô Giáo. Giáo-dân cùng với gia-đình chạy trốn vào rừng La
Vang... Một hôm, Đức Mẹ hiện ra.”
2-
Theo Nguyễn Lý Tưởng, “vua Cảnh-Thịnh đã ra mật-lệnh cho các
địa-phương hẹn đến tháng 5-1798
sẽ bắt và giết tất cả giáo-dân cũng như linh-mục, không để sót người
nào... Dân theo đạo ở các làng Trí Bưu, Thạch Hãn, Hạnh
Hoa bèn chạy vào miền núi vùng La Vang để ẩn núp. Chính
trong thời-gian đó, Đức Mẹ đã hiện ra với họ.”
3-
Theo Trần Văn Trí, “năm 1798,
đời Cảnh-Thịnh, giáo-dân phải trốn tránh vì những lệnh bắt giáo-sĩ,
thu ảnh-tượng, rỡ nhà thờ, đàn áp giáo-dân... là năm Đức Mẹ hiện ra ở La
Vang.”
B) NHẬN XÉT:
Không
kể một số chi-tiết khác nhau, ta hãy căn-cứ vào bài thuyết-giảng của
tổng-giám-mục Nguyễn Văn Thuận tại Anaheim Convention Center (Nam
California) hôm 22-2-98 “mỗi lần Đức Mẹ hiện ra nơi nào là để báo trước một biến-cố sắp-sửa xảy đến
cho nhân-loại” để hiểu ý của ông rằng: ĐỨC-MẸ HIỆN RA
TẠI LA-VANG VÀO THÁNG 8-1798 DƯỚI TRIỀU VUA CẢNH-THỊNH LÀ
LÚC GIÁO-DÂN VIỆT NAM SẮP (CHƯA) BỊ ĐÀN-ÁP KHỐC-LIỆT.
Đó là Chính-Đề.
II/ PHẢN-ÐỀ:
Quan-Điểm Của Linh-Mục Trần Hữu
Thanh
Báo
“Mẹ Việt-Nam”, số 102 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Thử Xác-Định Thời-Điểm
Và Hoàn-Cảnh Sự Việc Đức Mẹ Hiện Ra Ở La Vang” của linh-mục Trần Hữu
Thanh, trong đó có đoạn:
Ba
anh em Tây Sơn biết rõ Đức Giám-Mục Pigneau ủng-hộ Nguyễn Phúc
Ánh, hại mình; và các thừa-sai, linh-mục bản-quốc đều ngả về phía Nguyễn
Phúc Ánh; nhưng chắc-chắn là vì chính-trị cao, không muốn gây thêm thù, và giữ
tình đoàn-kết quốc-dân, họ không ngược-đãi các thừa-sai, trái lại còn ban cho
nhiều ân-huệ (CGDT, tr. 18,19) và để người Công-Giáo tự-do.
Mặc
dù có kể ra hai vụ cấm đạo, nhưng Lm Trần Hữu Thanh khẳng-định rằng
các anh em Tây Sơn nói chung, vua Cảnh-Thịnh nói riêng, và đặc-biệt
là cuộc bắt-bớ đạo vào năm 1798, thật ra không
có quá ác như nhiều người nghĩ. Bài viết của Trần Hữu
Thanh chú-trọng nghiên-cứu phân-tích thời-điểm và hoàn-cảnh của việc Đức
Mẹ Hiện Ra Tại La Vang.
I/ THỜI-ĐIỂM:
A) TÀI-LIỆU:
Lm Trần
Hữu Thanh viết: “Việc bố ráp ở Huế xảy ra ngày 7-8-1798.
Sắc-chỉ bắt đạo được ban-hành 10 ngày sau, là vào ngày
17-8-1798. Cơn bách-hại kéo dài độ một tháng, là từ
khoảng 17-8-1798 đến 17-9-1798.”
B) NHẬN XÉT:
Dù
đã bắt đầu viết rằng “Đức Mẹ hiện ra ngày tháng năm nào? Không
sử-sách nào ghi chép rõ!” linh-mục Trần Hữu Thanh vẫn
kết-luận: “Như thế ta có thể xác-định việc Đức Mẹ hiện ra tại La
Vang là vào khoảng 17-8 đến 17-9-1798. Ta không thể xác-định
chính-xác hơn ngày giờ Đức Mẹ hiện ra, nhưng xác-định được tháng năm và
khung-cảnh Đức Mẹ hiện ra...”
Thế
là linh-mục Thanh (mặc dù "không sử sách nào ghi chép
rõ") đã xác-định được cả thời-điểm Đức Mẹ hiện ra (trong lúc các
nhân-vật khác không xác-định được).
II/ HOÀN-CẢNH:
A) TÀI-LIỆU:
1-
Về La Vang dưới thời chúa Trịnh (1774-1786),
linh-mục Trần Hữu Thanh viết:
Theo
các thừa-sai viết lại, các quan cao-cấp chúa Trịnh gởi vào là người Công Giáo,
ít ra là thân-Công-Giáo, nên suốt thời-gian này không có việc bắt
đạo (CGĐT tr. 0 và tr. 62). Chỉ có một sắc-chỉ cấm đạo ngày
3-12-1778. Nguyên-nhân có thể do các thanh-tra Đàng Ngoài khiển-trách các
quan-chức quá dung-dưỡng người Công Giáo. Và cũng có thể vì sự việc một
tàu nước Anh đã vào buôn bán ở Cửa Hàn, đã bắn phá các pháo-đài của quân-đội,
nên chính-quyền tức giận đã ra lệnh cấm đạo. Vì người thời đó đồng-hóa
mọi người Âu Châu với Công Giáo. Cả hai nguyên-do cấm đạo đều
hời-hợt, chỉ hạn-chế trong vùng vịnh Đà Nẵng, nơi xảy ra sự việc quân
Anh bắn phá vùng quanh thị-xã Huế, và chỉ qua-loa trong vài
ngày (CGĐT tr. 63). Ngày 8-1-1779, một năm sau, cũng có một chỉ-thỉ
cấm đạo nữa. Nhưng người ta không áp-dụng các hình phạt của chỉ-thị,
nên các giáo-hữu vẫn sinh-hoạt như thường (sđd 64).
Như
thế thì hai cuộc bách-hại trên không có
ảnh-hưởng đến tỉnh Quảng Trị (Tỉnh của La Vang).
2-
Về cuộc bắt đạo chủ-chốt tại La Vang năm 1798,
Lm Thanh viết:
Ngày
7-8-1798 giữa trưa, 4 toán lính đột-nhập vào 4 họ đạo ở
thành-phố Huế. Tại họ Phường Đúc đã bắt được
linh-mục Emmanuel Nguyễn Văn Triệu là linh-mục hoạt-động ở Đàng
Ngoài về quê thăm mẹ (bị bắt trong cuộc bố ráp 7-8-1798, bị hành-quyết
ngày 17-9-1798), và: Mười ngày sau cuộc bố ráp đó, vua Cảnh-Thịnh đã
ban-hành một sắc-chỉ truyền phá hủy tất cả các nhà thờ, tất cả các nhà ở của
các linh-mục và bắt tất cả những ai có thể bắt được. Cuộc bách-hại này
xảy ra dữ-dội. Phản-ứng của Cảnh Thịnh là phản-ứng của con
người dẫy chết, và binh-sĩ của ông cũng thấy mình tận-số nên hung-hăng đốt-phá
cướp-bóc chém-giết.
Và:
Chắc việc
tàn-sát bắt-bớ rất hung-bạo. Nhưng phải là cơn bắt
đạo đột-ngột và ngắn ngày. Vì đột-ngột nên người ta chỉ lo
sao tránh mặt quan, chứ chưa phải tìm nơi định-cư tuyệt-đối an-toàn.
Vì Cổ-Vưu chỉ xa La Vang độ 4 cây số, nghĩa là chỉ vào
sâu trong rừng độ 3 cây số... Và cơn bắt đạo ngắn ngủi.
Vì các sự việc kể lại chỉ xảy ra trong vài ba tuần, một
tháng. Không thấy nói người Công Giáo chuyển vào sâu, đi nơi
khác, hay là cố-định cuộc sống, mà như sau đó là trở về lại
cố-hương.
B) NHẬN XÉT:
1-
Về chính-quyền họ Trịnh ở Dinh
Cát thời-gian 1774-1786, Trần Văn Trí đã “ghi lại
những nét chính yếu góp nhặt từ các tài-liệu đã được phổ-biến về Đức Mẹ
La-Vang” và đã viết trong bài “Tinh-Thần La Vang” đăng
trên báo “Thằng Mõ” số 832 như sau:
Đại-tướng Ngô
Cầu được bổ vào cai-trị từ Bình Trị Thiên vào Nam.
Từ 1778-79, nhiều giáo-dân bị giết, ruộng đất bị chiếm đoạt, tài-sản
bị tịch-thu...
Trần
Văn Trí thì dựa vào các tài-liệu "đã được phổ-biến" mà viết rằng
có nhiều giáo-dân trong hạt Dinh Cát (Quảng-Trị), bị
giết, trong lúc linh-mục Trần Hữu Thanh thì dựa vào các thừa-sai mà
viết rằng trong suốt thời-gian họ Trịnh chiếm đóng (gồm cả Quảng Trị)
không có việc bắt đạo.
2-
Về cuộc bách-hại của vua Cảnh Thịnh, Nguyễn Lý Tưởng viết: “Năm
1797, dưới triều vua Cảnh Thịnh, nhân khi thủy-quân của Nguyễn Phúc
Ánh ra tận cửa bể Tư Dung (Tư Hiền) của tỉnh Thừa Thiên, một vị quan
đề-nghị bắt hết người Công Giáo và các linh-mục.
Vua Cảnh-Thịnh im lặng không trả lời nhưng sau đó đã ra mật-lệnh hẹn
đến tháng 5-1798 sẽ bắt và giết tất cả giáo-dân cũng như linh-mục không để
sót người nào.”
Trần
Văn Trí viết: “Cảnh Thịnh bắt được một lá thư
của Nguyễn Ánh gửi cho Đức Cha Gioan Labartelle, nên nghi-ngờ
Công Giáo thông-đồng với kẻ thù của mình. Ngày 7-8-1798, vua ra lệnh
tấn-công mấy họ đạo ở Phú Xuân và cả vùng Cổ Vưu, Quảng
Trị. Cha Emmanuel Triệu đã ra nạp mình với quân Tây Sơn và bị
tử-hình ngày 17-9-1798.”
Như
thế tức là biến-cố 1798 đã được vua Cảnh Thịnh dự tính trước từ
năm 1797, nhất là sau khi (theo Trần Văn Trí) “bắt được bức
thư của Nguyễn Phúc Ánh gửi giám-mục De Labartelle” và
(theo chính Lm Thanh) “Nguyễn Phúc Ánh đem quân ra
đánh Qui Nhơn và còn ra tận Đà Nẵng, có
giám-mục Pigneau và hoàng-tử Cảnh tháp-tùng (theo Nguyễn
Lý Tưởng: thủy-quân của Ánh đã ra tận cửa bể Tư Hiền của
tỉnh Thừa Thiên), chính vì thế nên Cảnh Thịnh và triều-đình
Huế phản-ứng mạnh.”
Trong
lúc đó, theo linh-mục Trần Hữu Thanh thì: “Ta hãy
đối-chiếu với lịch-sử, Miền Trung nói chung
và Thừa-Thiên+Quảng-Trị nói riêng, trong khoảngtừ 1750 đến
1800 là trên dưới 100 năm đối với thời sau
1885 để nhận ra cơn cấm đạo nào có những tính-cách nói trên (nghiêm-ngặt, ác-liệt,
việc tàn-sát bắt-bớ rất hung-bạo).”
Vì
chỉ chọn khoảng từ 1750 đến 1800, mà ông tính là trên dưới 100 năm,
Lm Thanh đã kể ra vài vụ cấm đạo khác để chứng-minh rằng vụ
17-8-1798(trước thời Hàm-Nghi 1884) là “chắc rất hung-bạo”,
nghĩa là “đến nỗi Đức Mẹ phải
hiện đến với giáo-dân để an-ủi họ.”
Đây
là sự tự mâu-thuẫn lớn
nhất của linh-mục Trần Hữu Thanh, ngoài sư mâu-thuẫn với các
tác-giả khác.
a.
Đã viết “một cơn bắt đạo nghiêm-ngặt”, “chắc việc tàn-sát bắt-bớ rất
hung bạo”, “cơn bách-hại này xảy ra dữ-dội”, thế mà linh-mục Thanh lại
viết: “Nhưng phải là cơn bắt đạo đột-ngột và ngắn ngày.” Nguyễn
Lý Tưởng viết: “Quan thượng-thư Hồ Công Diệu đã báo tin
đó cho Đức Giám-Mục Jean De Labartelle lúc đó đang trốn tránh ở
làng Di Luân (Loan), xa Huế chừng 90 cây số. Tin đó được
loan truyền ra trong giới Công Giáo và dân theo đạo ở các làng... bèn chạy
vào miền núi vùng La Vang để ẩn núp.”
Thế
thì “đột-ngột” chỗ nào?
b.
Còn về “ngắn ngày” thì Lm Thanh viết: “cơn
bắt đạo ngắn-ngủi, các sự việc kể lại chỉ xảy ra trong vài ba tuần, một
tháng. Không thấy nói người Công Giáo chuyển vào sâu, đi nơi khác, hay là
cố-định cuộc sống, mà như sau đó là trở về lại cố-hương,” và
giải-thích: “dân-chúng miền Trung vẫn trung-thành với các chúa Nguyễn,
và cho Tây Sơn là loạn-quân, nên họ không sốt-sắng gì với lệnh bắt đạo
này. Chúng ta lại thấy các người lương-dân giao-tiếp với người Công Giáo
tị-nạn cách bình-thường, không dọa-nạt hay dò-xét để tố-cáo họ, bắt họ nộp cho
quan để lấy thưởng.”
Vậy
thì có gì là tính-cách “nghiêm-ngặt, hung-bạo, dữ-dội” của
biến-cố này?
Linh-mục Trần
Hữu Thanh, vì muốn chứng-tỏ là Ky Tô Giáo tốt đẹp, được lòng đồng-bào bên
lương, triều-đình Cảnh-Thịnh phi-nghĩa nên không được dân tuân
theo... nên đã làm phai loãng mất
hoàn-cảnh và ý-nghĩa thích-đáng của việc "Đức Mẹ hiện ra".
*
Trở
lại với câu nói của giáo-hoàng John Paul II, rằng Ky Tô Giáo đã bị
bách-hại trong suốt 300 năm truyền-giáo tại Việt Nam, ta hãy làm cùng một việc
với linh-mục Trần Hữu Thanh, là “thử xác-định thời-điểm và
hoàn-cảnh” của mỗi sự-việc để nhận ra cơn bắt đạo nào trong 300
năm ấy là thật-sự ngặt-nghèo.
Theo Nguyễn
Văn Thông trong bài “Sự-Kiện La Vang: Trang Sử Tử-Đạo” thì: “Vua Hàm-Nghi (1884-1885)
khai-sinh phong-trào Cần Vương. Trong cả giáo-phận Tây Đàng
Ngoài có 3 linh-mục, 25 chủng-sinh và thầy-giảng, và hàng trăm bổn-đạo bị
giết, 107 họ đạo bị phá hủy. Tại Nghệ-An... đã có khoảng 4.500
bổn-đạo bị giết và 300 họ đạo bị phá hủy. Ở Bình-Chính, chúng đã đốt
phá 59 họ đạo, giết khoảng 600 người. Ở Thanh-Hóa, có đến độ 100 họ đạo
bị tàn-phá. Ở Hà-Tĩnh có đến 6.000 giáo-dân chết vì giặc.
Ở Quảng-Ngãi, Cần-Vương giết 3 thừa-sai, đốt-phá 100 họ đạo, giết hơn
6.000 giáo-dân. Ở Bình-Định cũng 3 thừa-sai bị giết, 150 họ đạo
bị đốt phá. Giáo-phận Qui Nhơn có 24.298 giáo-dân, bị Cần-Vương
tàn-sát chỉ còn lại khoảng 20.000 người. Làng Dương-Lộc bị
tàn-sát tập-thể, khoảng 4 linh-mục, 50 nữ-tu, và khoảng 2.500 giáo-dân...”
Như
thế, so với những thời-điểm và hoàn-cảnh này thì La Vang (1798) đâu đã
thấm gì? Vậy là La Vang chưa phải là vụ bức-hại giáo-dân khốc-liệt nhất
tại Việt-Nam: ĐỨC-MẸ ĐÃ KHÔNG HIỆN RA (NẾU
CÓ) ĐỂ AN-ỦI, CHE-CHỞ GIÁO-DÂN LÚC ĐÓ MÀ LÀ ĐỂ BÁO TRƯỚC NHỮNG HOÀN-CẢNH BI-THIẾT HƠN, SẼ XẢY SAU VỤ LA-VANG
Đó là Phản-Đề (theo
Linh-Mục Trần Hữu Thanh): CƠN BẮT ĐẠO TẠI LA-VANG NĂM 1798 CHỈ LÀ MỘT CUỘC
BỐ RÁP NGẮN-NGỦI, GIÁO-DÂN SAU ĐÓ AN-TOÀN TRỞ VỀ LẠI CỐ-HƯƠNG
III/ TỔNG-HỢP-ÐỀ:
Tin ai bây giờ?
Linh-mục Trần
Hữu Thanh là một nhân-vật Ky-Tô-Giáo quan-trọng nổi bật từ
thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa của Miền Nam. Ông được xem là
"ngôn-sứ" của “chủ-nghĩa nhân-vị” vốn là xương sống của đời sống
chính-trị và ý-thức-hệ của cố tổng-thống Ngô Đình Diệm. Ông
là Giám-Đốc Trường "Nhân-Vị", nơi mà các viên-chức cao-cấp dưới
thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa đều phải đến học.
Ðối với đa-số giáo-dân dưới thời Ðệ-Nhị Cộng-Hòa, ông là linh-hồn của
phong-trào và các nỗ-lực nhằm lật đổ tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu, nên lời
ông nói và bài ông viết có trọng-lượng hơn các giáo-sĩ khác.
Ngoài ra, sau quốc-nạn 30-4-1975, tổng-giám-mục (sau này là hồng-y) Nguyễn
Văn Thuận được xem như là cái phao tôn-giáo và chính-trị cho một số đông
người đắm tàu.
Theo lời ông giảng thì Ðức Mẹ "hiện ra" tại La
Vang (1798) không phải là để an-ủi hay che-chở cho các giáo-dân ngay
trong thời-điểm ấy, vì cuộc bắt đạo đã bắt đầu rồi, họ đã chạy trốn vào La Vang
rồi, và họ đã van vái hằng ngày một thời-gian rồi, rồi Bà linh-thiêng mới hiện
ra (tham-chiếu "L'Osservatore Romano" ngày 12-8-1998, Trần
Văn Trí trên "Thằng Mõ" ngày 28-3-1998, Nguyễn Lý
Tưởng trên "Mẹ Việt-Nam" ngày 15-8-1998, v.v...), mà là
để báo trước một biến-cố (hẳn là phong-trào
Cần-Vương) sắp-sửa xảy đến cho nhân-loại (giáo-dân
Việt-Nam), bắt đầu từ khi vua Hàm-Nghi lên ngôi (1884-1885),
tức sẽ xảy đến trong hơn 86 năm về sau.
Xin
để tùy mỗi người tự rút ra từ đó một Tổng-Hợp-Đề.
CHƯƠNG VII
TẢN-MẠN NGOÀI LỀ
LỜI NÓI ĐẦU:
Qua
6 Phần trên, chúng tôi chỉ trích-dẫn các đoạn chủ-yếu trong những bài viết
tiêu-biểu của các nhân-vật tên-tuổi Ky-Tô-Giáo, Việt-Nam lẫn ngoại-quốc.
Chính các tu-sĩ, trí-thức, và văn-nghệ-sĩ Ky-Tô-Giáo viết ra, chứ không phải do
chúng tôi viết ra. Chúng tôi chỉ gom góp lại, trích nêu những đoạn
quan-trọng và nổi bật nhất, đối-chiếu với nhau, để mọi người có một nhận-định
chung, hầu tìm ra Sự Thật.
Chính
họ cho thấy:
● Tại sao giáo-dân các làng Thạch
Hãn, Ba Trừ và Cổ Thành, sau khi cư-dân La Vang đã
cùng nhau van vái Bà Linh-Thiêng bên gốc cây đa ròng-rã hơn 20
năm (1798-1820) lại đã cùng nhau xây chùa, còn gọi là chùa Ba Làng (dù
gọi là miếu thì cũng không phải là đền thờ Ky Tô Giáo) ngay tại La
Vang, là nơi mà họ (và cha mẹ họ) đã đến tị-nạn Cảnh Thịnh bắt đạo,
và là nơi mà Đức Mẹ sau đó mới được đồn là đã hiện ra để an-ủi
che-chở họ trong cơn giáo-nạn ấy?
● Tại sao Đức Mẹ được
đồn là đã hiện ra từ năm 1798, mà mãi đến năm 1885, tức 87 năm sau, các cụ
sắp chết mới bị bắt phải thề là đã có nghe lời
đồn như thế (có nghe mới được lên
thiên-đàng) để họ buộc lòng phải trả lời là “có”?
● Tại sao, trong lúc các
vụ hiện ra, tại Lourdes ở Pháp năm 1858 và tại Fatima ở
Bồ-Đào-Nha năm 1917, đã được Tòa Thánh công-nhận trong vòng từ
4 năm đến 13 năm thôi, thì tiếng trả lời "Có" ấy đã được
ghi vào hồ-sơ rồi, mà Tòa Thánh Vatican phải đợi đến năm 1961 (hơn 160 năm,
sau năm cho là có sự "hiện ra"; ngót 140 năm, sau năm giáo-dân
nghe đồn về vụ "hiện ra"; gần 80 năm, sau năm các cụ sắp chết bị
bắt phải thề là có nghe lời đồn), nhất là sau khi anh em Ngô Đình Diệm+Ngô Đình Thục đã
nắm trọn chính-quyền và giáo-quyền tại Việt Nam rồi, mới xức dầu
thánh và nâng La Vang lên hàng tiểu-vương-cung thánh-đường?
● Tại sao các giám-mục tại
Việt-Nam (nếu chỉ biết lo việc đạo; nếu thật “công chính”, không làm công-cụ
cho các thế-lực chính-trị), mặc dù đã được thoải-mái hoạt-động từ ngày thực-dân
Pháp đến đô-hộ Việt-Nam vào năm 1884 (tức 77 năm trước đó),
mà cũng phải đợi
đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1961) mới nhận nó là Trung-Tâm
Thánh-Mẫu Toàn-Quốc?
Câu
trả lời đã được Tòa Thánh Vatican đưa ra, qua tuần-báo L'OSSERVATORE
ROMANO, là tiếng nói chính-thức và có thẩm-quyền nhất của Giáo-Hoàng và
giáo-triều Ky-Tô-Giáo La Mã (xin xem Phần VIII):
Hiện
nay không có tài-liệu viết nào lưu-trữ về các lần Đức Mẹ hiện ra tại La Vang.
Thế
thì tại sao Tòa Thánh lại nâng nhà thờ La Vang lên hàng
Tiểu-Vưong-Cung Thánh-Đường?
Một trong các điều răn của Đức Chúa Trời là không được làm chứng
dối. Phải chăng Đức Giáo Hoàng cũng đồng lõa với các nhân-vật kia để làm
chứng dối (tức chống Chúa=anti-Christ)?
Trong lúc chờ-đợi Đức Giáo-Hoàng John Paul II lên tiếng, như Ngài
đã từng nhìn-nhận những sai-lầm khác của Giáo-Hội trong quá-khứ, chúng tôi xin
trích đăng thêm vài ý-kiến ngoài lề để rộng đường dư-luận:
I/ Ai Có Thẩm-Quyền
Chỉ-Định Vị-Trí Cho Đức Mẹ Trên Thiên-Đường?
Báo
“Chính-Nghĩa” (554 S 9th St., San Jose, CA 95112, USA), số 439 ra ngày 12-9-98,
có đăng bài “Đức Mẹ La Vang Được Tôn Vinh Giữa Lòng Giáo-Hội Hoa Kỳ” của
linh-mục Trần Quý Thiện và tiến-sĩ Trần An Bài, trong đó có
đoạn:
Phần
thánh-ca trong đại-lễ này do một ca đoàn tổng-hợp... đặt dưới sự điều-khiển của
Linh-Mục Dao Kim và Sơ Mỹ-Hằng... Và Người Nữ đã được
Thiên Chúa cất nhắc lên ngôi vị vô cùng sang trọng như một Hoàng
Hậu. Đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, Người đã hiện ra tại La
Vang thuộc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam, cách đây 200 năm. Lm Dao
Kim đã phổ nhạc vào bài Thánh Vịnh số 45 “Hoàng Hậu Đứng Bên
Hữu Đức Vua...
Cứ
theo Thánh-Kinh thì trên thiên-đình có rất nhiều ngôi vua:
Trước hết, về vua: theo các Sách, như Jeremiah (10:10), Zechariah (14:9), 1
Timothy (1:17), Revelation (19:16), v.v..., thì Đức Giê-Hô-Va là
Đức Chúa Cha, là vua chính.
Về ngôi: theo
Sách Acts (2:34), thì có Đức Jesus
Christ là Đức Chúa Con ngồi bên hữu của Đức Chúa Cha; theo
Sách Revelation (3:21), thì có Đức Thánh-Linh cùng ngồi
với Đức Chúa Cha trên ngôi của Ngài. Trong lúc đó, theo sách Matthew (19:28)
thì Đức Jesus đã nói với tiên-tri Peter: “các ngươi
là kẻ đã theo ta, cũng sẽ ngồi trên 12
ngôi...”; theo sách Revelation (4:2,3,4) thì tiên-tri John đã
thấy có 24 trưởng lão mặc áo trắng và đội mũ triều-thiên vàng ngồi trên 24 ngôi xung quanh ngôi
của Đức Chúa Trời; và cũng theo Sách Revelation (3:21) thì Đức Thánh
Linh có nói rằng “Kẻ nào thắng (ý nói thắng Satan), ta sẽ cho ngồi với ta trên ngôi, như chính ta đã
thắng và ngồi với Cha ta trên ngôi của Ngài”.
Về
vị-thế khi ngự trên ngôi: theo các Sách Psalms (29:10; 110:1), Mathew (19:28),
Acts (2:34), Revelations (3:21; 4:2,3,4) thì Đức Chúa Con ngồi, Đức Thánh
Linh ngồi, 12 sứ-đồ ngồi, 24 trưởng lão ngồi, và bất
cứ kẻ nào thắng kẻ thù của Chúa cũng sẽ ngồi (trên
ngôi của Chúa, xung quanh ngôi của Chúa).
Tôi không
dám có ý-kiến về việc Đức Mẹ lên Thiên Đình, mà lại đứng (chứ
không được ngồi) bên hữu của Đức Giê-Su con mình!
II/ Giáo-Hoàng John Paul II
Đã Nói Gì Về Đức Mẹ Maria?
Đây
là một đoạn trích trong báo “The WatchTower” (Tháp Canh) của Giáo-Hội
“Jehovah's Witnesses” (25 Columbia Heights, Brooklyn, NY 11201-2483, USA), số
phát-hành ngày 1-8-98:
Theo
tờ báo của Tòa Vatican L'Osservatore Romano, giáo-lý Công-Giáo về Sự
Thăng-Thiên phát-biểu: “Đức Trinh-Nữ Vô-Nhiễm Nguyên-Tội, được gìn giữ
khỏi mọi dấu vết của tội-lỗi nguyên-thủy, được mang vào sự vinh-hiển trên
trời với cả xác lẫn hồn, khi đời sống của bà trên đất chấm dứt.” Báo này
nói rằng giáo-lý này đã khiến một số nhà thần-học Công Giáo cho rằng Ma-Ri “không
chết và được mang ngay vào sự vinh-hiển trên trời từ đời sống trên đất.”
Gần
đây, Giáo Hoàng Gioan Phao-Lồ II có quan-điểm khác về vấn-đề
này. Trong buổi Tổng Tiếp-Kiến tại Tòa Vatican vào ngày
25-6-1997, ông nói: “Tân Ước không nói gì về hoàn-cảnh khi Ma-Ri chết.
Sự-kiện này khiến ta cho rằng đó là cái chết tự-nhiên, không có chi-tiết
nào đặc-biệt đáng đề-cập... Những ý-kiến cho rằng bà không chết vì
nguyên-nhân tự-nhiên dường như vô căn-cứ.”
Lời
phát-biểu của Giáo-Hoàng Gioan Phao-Lồ để lộ một khiếm-khuyết
nghiêm-trọng trong giáo-điều về sự Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nếu mẹ
của Chúa Giê-Su“được gìn giữ khỏi mọi dấu vết của tội-lỗi nguyên-thủy”,
thì sao Ma-Ri lại chết vì “các nguyên-nhân tự-nhiên”, là hậu-quả
của tội-lỗi A Đam truyền lại? (Rô-Ma 5:12). Sở-dĩ có vấn-đề thần-học
nan-giải này là vì Giáo-Hội Công Giáo có quan-điểm lệch-lạc về mẹ của Chúa
Giê-Su. Thảo nào mà đã có sự chia-rẽ và rối-rắm trong Giáo-Hội Công
Giáo về vấn-đề trên.
Tuy
mô-tả Ma-Ri là một người khiêm-nhường, trung-thành và ngoan-đạo, Kinh
Thánh không nâng cao các đức-tính này lên hàng “vô-nhiễm nguyên-tội”
(Lu-Ca 1:38; Công-Vụ Các Sứ-Đồ 1:13, 14).
Kinh
Thánh chỉ nói: “Mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh-hiển
của Đức Chúa Trời” (Rô-Ma 3:23). Vâng, Ma-Ri thừa-kế tội-lỗi và
sự bất-toàn như mọi người khác trong nhân-loại, và không có mảy-may
bằng-chứng nào cho thấy Ma-Ri chết vì bất-cứ nguyên-nhân nào khác
ngoài nguyên-nhân tự-nhiên (xác còn dưới đất). (So-sánh 1 Giăng 1:8-10).
California, Hoa-Kỳ, Mùa Thu 1998
Đức cố LÊ
Chú Thích: Xin mời quý vị xem tiếp Chương VIII là
phần cuối, giới thiệu bài báo kết-luận về vấn-đề Đức Mẹ La Vang đăng
trên tuần-báo L'Osservatore Romanocủa Giáo-Hoàng và giáo-triều Vatican
tại http://lexuannhuan.tripod.com/Vatican.html
Nguồn: