VƯỢT TRÊN CẢ CHƯ
THIÊN
Bhikkhu Bodhi
Nguyễn Thường
Tâm dịch
Lời Người Dịch: Phật giáo không
công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và
thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh
ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc
bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết
không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu
dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài
người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất
khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật
tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì
chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến
mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
Cũng
như chúng ta nói “gạo sanh ra cơm”. Nói thế là theo thói quen. Vì phải có đủ
duyên, mới nấu được gạo thành cơm. Nếu không củi, không lửa, không nước, gạo sẽ
không thành cơm được. Hay nếu không đủ củi, không đủ lửa, không đủ nước, gạo
cũng sẽ không thành cơm. Do vậy, không thể nói rằng “gạo sanh ra cơm”. Các pháp
sẽ theo nghiệp dẫn tới, hễ đủ duyên là sanh ra, trưởng dưỡng, biến dị rồi đoạn diệt.
Phật
Tánh còn được dụ như tấm gương tròn sáng của tâm: cảnh hiện ra, biến đổi và rồi
biến mất. Cũng được ví như nước: bọt sóng hiện ra, trôi nổi và rồi tan vỡ về
lại nước. Do vậy, Phật Tánh không sanh ra bất kỳ pháp nào hết, vì trước hết và sau cùng, Phật Tánh vẫn bất động như tánh của gương,
như tánh của nước.
Khái
niệm Phật Tánh có thể hình dung từ một số kinh Pali.
Như trong
Pabhassara Sutta (AN 1.49-52):
"Chư
tăng, chói sáng là tâm này. Và tâm này bị ô nhiễm từ ngoài bám tới. Người không
được học chánh pháp không chứng ngộ được rằng tâm này thực sự hiện hữu, đó là
lý do tại ta nói với chư tăng rằng -- đối với người không được học chánh pháp,
không hề có tăng thượng của tâm." (1)
Hay
như trong Tăng Chi Bộ. Itivuttaka: The Group of Twos.
Đức
Phật nói: "Chư tăng, có một pháp không hề sanh ra, không hề trở thành,
không hề được tạo tác, không hề bị thêu dệt. Nếu không có pháp đó -- bất sanh,
bất biến, bất tác, bất nhiễu -- không thể nào đạt được sự giải thoát ra khỏi cái sanh ra, cái trở
thành, cái được tạo tác, cái bị thêu dệt." (2)
Vấn
đề có thể sáng tỏ hơn qua bài viết “Beyond the Gods” của nhà sư Bhikkhu Bodhi
đăng trên ấn bản giấy của tạp chí Inquiring Mind, Mùa Thu 2013, số đặc biệt chủ
đề “The God Issue,” với nhiều học giả góp bài. Bài này hiện chưa thấy đưa lên
mạng tạp chí này (inquiringmind.com).
Theo
tạp chí này giới thiệu về tác giả: Nhà sư Bhikkhu Bodhi là một vị sư Theravada
từ năm 1971. Là một dịch giả Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh, sư cư ngụ và giảng
dạy ở Chuang Yen tại Carmel, New York. Sư là nhà sáng lập và là Chủ tịch hội từ thiện Buddhist Global
Relief.
Tất
cả các ghi chú trong bản Việt dịch là của dịch giả Nguyễn Thường Tâm để giúp
các độc giả muốn đọc thêm. Chữ Gods (số nhiều, có “s”) trong tựa đề “Beyond the
Gods” là nói về Chư Thiên, các vị ở cõi trời. Chữ God (không có “s”), tùy văn
phạm trong câu, có khi có nghĩa là một vị cõi trời, có khi có nghĩa là Thượng
Đế Sáng Tạo. Bản dịch như sau.
*
Tác
giả Bhikkhu Bodhi và bài viết “Beyond The Gods”
trên
tạp chí Inquiring Mind, số Mùa Thu
2013
Trong
văn học phổ biến về Phật giáo, người ta thường nói rằng Đức Phật không trả lời
các câu hỏi về hiện hữu và bản chất của Thượng Đế, bởi vì Đức Phật đưọc suy diễn
là những câu hỏi này không thể trả lời, hay không dính dáng gì tới việc thăng
tiến cá nhân. Tuy nhiên, trái nghịch với những suy đoán đó, các bài kinh do Đức
Phật thuyết đã một cách tuyệt hảo nêu rõ việc bác bỏ chủ nghĩa nhất thần, bác bỏ lý thuyết rằng vũ trụ được tạo ra và
được cai trị bởi một đấng tối cao.
Trong khi các bài kinh xác định chung với chủ nghĩa nhất thần rằng cần có một
trật tự đạo đức khách quan, các bài kinh xem khái niệm về một Đấng Sáng Tạo toàn
năng và toàn trí là một quan điểm sai lầm, khởi lên từ kiến thức sai lầm.
Đức
Phật bác bỏ nhu cầu một đấng thượng đế sáng tạo, bởi vì trong vũ trụ quan của Đức
Phật, vũ trụ không phải là một tạo vật
có khởi đầu và có chung kết. Từ quan điểm của Đức Phật, chúng sinh đã đi từ
cõi này tới cõi khác qua dòng thời gian không có khởi đầu, chịu tái sanh theo
nghiệp của họ. Tiến trình này diễn ra
một cách tự động, không cần tới một đấng cai trị bên ngoài nào.
Tuy
nhiên, trong khi bác bỏ các đạo nhất thần, vũ trụ dưới quan điểm Phật Giáo bao
gồm nhiều chúng sinh siêu đẳng, có những phẩm chất mà chúng ta gọi là “thần
linh”, hay “chư thiên”. Trên cõi người là cõi chư thiên devas, những chúng sinh có thân ánh sáng, có một mức độ thần lực, vẻ
đẹp và hạnh phúc vượt xa cõi người chúng ta. Cao hơn, là cõi chư thiên brahmas, những siêu thần linh cư ngụ ở
trạng thái thâm sâu hạnh phúc và bình lặng, được tái sanh nơi đây nhờ kết quả
tu thiền khi còn ở cõi người. Thọ mạng của các chúng sinh này vượt xa chúng ta,
từ hàng trăm ngàn năm cho tới hàng ngàn chu kỳ thế giới này. Tuy nhiên, hệt như
tất cả các pháp sanh diệt, ngay cả các
chúng sinh thần linh này cũng vô thường, sẽ chết khi nghiệp của họ đã mãn.
Vị
trí cao nhất trong các thần linh được gọi là Mahabrahma, Đại Phạm Thiên, được vị trí này nhờ các công đức siêu đẳng
có từ các kiếp quá khứ, hầu hết là khi còn mang thân người. Đại Phạm Thiên là một
hình tượng Phật giáo tương đương như Thượng Đế của các tôn giáo nhất thần, nhưng
không phải là đấng sáng tạo toàn năng của vũ trụ. Vì có thọ mạng lâu dài, Đại
Phạm Thiên có khuynh hướng tự xưng là kẻ sáng tạo như thế, nhưng theo Phật giáo
quan, lời tự xưng đó là hư vọng.
Nhiều
bài Kinh Phật có ý lột bỏ hư vọng đó, đôi
khi với tính bi hài chỉ trích. Trong kinh Brahmajala Sutta (DN 1) (3), Đức Phật khảo sát 62 quan điểm về
nguyên khởi và vận mệnh về thế giới, trong đó có niềm tin về một thượng đế sáng
tạo. Theo kinh này, vào lúc khởi đầu một chu kỳ thế giới mới, Đại Phạm Thiên là
chúng sanh đầu tiên tái xuất hiện. Thấy mình đứng một mình, và cảm thấy mình tội
nghiệp vì cô đơn, Đại Phạm Thiên mới khởi tâm, “Phải chi có những chúng sinh khác
tới đây!” Tức khắc, xuyên qua nghiệp đã chín, các chúng sanh khác tái xuất hiện.
Phạm Thiên mới tuyên bố: “Ta là Đấng Cao
Quý, Đấng Sáng Tạo, Đấng Toàn Năng, là Cha của tất cả chúng sanh.”
Tượng
Mahabrahma
Và
rồi các chúng sanh mới tái sanh, thấy rằng Phạm Thiên có trước họ, mới chấp nhận
vị đó là kẻ sáng tạo ra họ. Nhưng Đức Phật, với cái nhìn xuyên vô tận chu kỳ thế
giới, biết rằng Phạm Thiên chỉ đơn giản là một chúng sanh chưa giác ngộ -- thọ
mạng lâu dài, phước lớn, và nhiều quyền lực, nhưng vẫn còn bị kẹt trong vòng
sanh tử.
Đôi
khi Đức Phật đích thân thăm một cõi trời để gỡ ảo vọng cho Phạm Thiên. Trong một
trường hợp như thế ở Trung Bộ Kinh (MN 49) (4), Phạm Thiên tuyên xưng “quan điểm tai hại” rằng cõi của Phạm Thiên
là thường hằng và vĩnh cửu. Biết có chuyện tuyên xưng như thế, Đức Phật mới tới
thăm, phản bác quan điểm Phạm Thiên là đã “chìm đắm vào vô minh” và hàng phục
Phạm Thiên trong cuộc thi về thần thông.
Trong
một trường hợp khác, ở Kinh Tương Ưng (SN 6:5) (5), khi Phạm Thiên khoe khoang về vẻ sáng rực rỡ của cõi vị này, Đức
Phật và bốn đệ tử A La Hán tới thăm, và chiếu ra ánh sáng còn rực rỡ hơn ánh sáng Phạm Thiên. Thần
thông này buộc Phạm Thiên từ bỏ quan điểm là đáng vĩnh hằng.
Kinh
Kevatta Sutta (6) kể về một vị sư, trong
khi ngồi thiền, vị sư này suy nghĩ, “Nơi
nào tứ đại đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?” Sử dụng thần thông, vị sư
bay tới những tầng trời cao để tìm câu trả lời, đều không thấy câu trả lời. Tới
tận cùng, sư này gặp Phạm Thiên, kẻ tự khoe là “Đấng Sáng Tạo, Đấng Tạo Hóa
toàn năng” nhưng Phạm Thiên vẫn tránh né câu hỏi này. Tuy nhiên, nhà sư này nài
nỉ cho tới khi Phạm Thiên phải thú nhận là không biết, và yêu cầu nhà sư về lại
địa cầu để hỏi người duy nhất có thể trả lời, đó là Đức Phật.
Chức
năng sáng thế mà các đạo nhất thần cho
là của Đấng Thượng Đế trở thành dư thừa đối
với Phật giáo, vì nguyên tắc duyên khởi xóa bỏ nhu cầu một đấng sáng tạo. Đức
Phật giaỉ thích rằng “nguyên khởi thế giới” như là chuỗi sáng tạo miên viễn nơi
trong từng khoảnh khắc chúng ta tự thành tựu chính mình, chứ không phải như một
sự kiện xảy ra trong thời gian. Thế giới, sự khai sanh của nó, sự đoạn diệt của
nó và cách dẫn tới đoạn diệt xuất hiện không ở đâu hết, mà là trong “tấm thân 6-feet này với thức và tâm” (AN
4:45) (7). Vì vô minh và tham ái,
chúng at cứ miên viễn sanh vào thế giới này, và nhờ thắng vượt vô minh và tham
ái, chúng ta có thể mang thế giới tới chỗ đoạn diệt.
Đức
Phật nhìn thấy các tôn giáo nhất thần, ít nhất trong các hình thức cực đoan của
các tôn giáo này, như một đối nghịch
tiềm năng với đạo đức. Đức Phật cho rằng nếu Thượng Đế là nguyên nhân mọi
sáng tạo, đấng đó cũng phải chịu trách nhiệm cho mọi hành vi của nhân loại; do
vậy, khi nhân loại giết người, trộm cắp và làm các điều xấu ác khác, trong tội lỗi tận cùng phải quy về Thượng Đế Sáng
Tạo (AN 3:61) (8). Người ta cầu
nguyện Thượng Đế với niềm tin rằng Thượng Đế có thể xóa tội cho họ, và ban tặng
họ đời sống thần linh, nhưng nếu chuyện đó có thể xảy ra, đạo đức sẽ không cần
thiết.
Đức
Phật lý luận rằng nếu có ai làm ác và tin rằng y có thể được cứu rỗi nhờ cầu
nguyện, kẻ đó có thể cũng tin rằng lời cầu nguyện có thể nâng một tảng đá lên từ
đáy hồ và đưa đá này lên mặt đất. Đức Phật nói rằng những ai muốn đời sống ở
cõi trời phải theo con đường dẫn tới cõi trời: tu hạnh bố thí, sống đời đạo đức
và phát triển tâm thức. Những ai sống được như thế sẽ không cần gì tới cả chư thiên và kinh cầu, vì họ sẽ tái sanh vào cõi
trời chắc chắn như dầu đổ ra hồ nước sẽ nổi trên mặt hồ. (SN 42:6) (9).
Để
bác bỏ ý tưởng về một thượng đế sáng tạo, các bản kinh đôi khi sử dụng tới lời
cầu xin thiết tha thay vì lý luận nghiêm túc. Thí dụ, Kinh Tiền Thân Đức Phật, trong
Bhuridatta Jataka (10), đã phản bác
niềm tin vào một đấng thượng đế sáng tạo, kẻ làm đầy thế giới những thảm họa và
đau khổ:
Ai
có mắt cũng thấy những cảnh bệnh hoạn;
Tại
sao Phạm Thiên không làm công chính cho tạo vật của ông?
Nếu
quyền lực toàn năng của Phạm Thiên vô giới hạn,
Tại
sao lại hiếm khi thò tay ra ban ân phước?
Tại
sao tất cả tạo vật của Phạm Thiên phải chịu đau khổ?
Tại
sao Phạm Thiên không ban hạnh phúc cho tất cả?
Một
lý luận mạnh cho niềm tin vào Đấng Sáng Tạo là khát vọng bất tử vượt qua đau khổ
và đau đớn. Phật giáo không hứa hẹn sự bất tử cá nhân trên thiên đàng như mục
tiêu tối hậu, nhưng có hứa một cõi tạm trên các cõi trời xa khỏi đau khổ cõi người;
điều này có thể đạt được nhờ thiền định và hành vi đức hạnh, đặc biệt cộng trú
với Phạm Thiên xuyên qua Tứ Vô Lượng Tâm: từ
bi hỷ xả vô lượng (MN 99) (11). Tuy
nhiên, mục đích tối hậu của Phật giáo không phải là đời sống trên cõi trời, nhưng
là để đạt niết bản, một trạng thái giải thoát cao nhất, vượt ra ngoài vòng sanh
tử. Điều này một lần nữa đòi nỗ lực của người tu phải thực tập Bát Chánh Đạo với
tu học về giới, định và huệ.
Niềm
tin vào Thượng Đế Sáng Tạo một phần thúc đẩy bởi nhu cầu thờ phượng một hữu thể,
kẻ biểu tượng phẩm chất cao nhất mà tâm trí chúng ta có thể hình dung tới. Phật
giáo cũng khẳng định thúc giục đó, như thấy trong các nghi lễ hàng ngày trong các
tự viện và chu kỳ hàng năm của đời sống Phật giáo. Tuy nhiên, Phật giáo không tìm
mục tiêu thờ phượng hình ảnh một thượng đế sáng tạo, nhưng chính là tôn kính Đức
Phật -- hiện thân tối thượng của thanh tịnh, trí tuệ, yêu thương và từ bi. Như
thế, trong khi các bài kinh bác bỏ khái niệm thượng đế sáng tạo, các bản kinh
ca ngợi Đức Phật như là “vị đạo sư của
các cõi trời và người,” như một vị thầy chỉ đường cho ngay cả các vị trời tìm
tới sự giaỉ thoát tối hậu và phước trí vô
cùng.
.
GHI CHÚ CỦA DỊCH GIẢ NGUYỄN THƯỜNG
TÂM:
(1)
Pabhassara Sutta: "Luminous,
monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements. The uninstructed
run-of-the-mill person doesn't discern that as it actually is present, which is
why I tell you that — for the uninstructed run-of-the-mill person — there is no
development of the mind." (link: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an01/an01.049.than.html)
(2) "There is, monks, an unborn —
unbecome — unmade — unfabricated. If there were not that unborn — unbecome —
unmade — unfabricated, there would not be the case that emancipation from the
born — become — made — fabricated would be discerned."
(3) Bản Anh văn: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/dn/dn.01.0.bodh.html
Bản Việt
ngữ, Trường Bộ Kinh - Kinh Phạm Võng: http://thuvienhoasen.org/p15a210/1-kinh-pham-vong-brahmajala-sutta
(4) Bản Anh văn: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.049.than.html
Bản Việt
ngữ, Trung Bộ Kinh 49, Kinh Phạm Thiên cầu thỉnh: http://thuvienhoasen.org/p15a868/49-kinh-pham-thien-cau-thinh-brahmanimantanika-sutta
(5) Bản Anh văn: Apara Ditthi Sutta -- http://tipitaka.wikia.com/wiki/Apara_Ditthi_Sutta
Bản Việt
ngữ: Kinh Tương Ưng, Chương 6 - V. Tà Kiến Khác (S.i.144) -- http://thuvienhoasen.org/p15a614/06-chuong-vi-tuong-ung-pham-thien
(6) Bản Anh văn - http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/dn/dn.11.0.than.html
Bản Việt
ngữ. Kinh Trường Bộ. Kinh Kevaddha (Kiên Cố) - http://thuvienhoasen.org/a220/11-kinh-kevaddha-kien-co-kevaddha-sutta
(7) Bản Anh văn. Rohitassa Sutta - http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an04/an04.045.than.html
Bản Việt
ngữ: Kinh Tăng Chi Bộ, Chương 4 Pháp, (V) (45) Rohitassa (1) - http://thuvienhoasen.org/p15a1235/pham-04-06
(8) Bản Anh văn. Tittha Sutta - http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an03/an03.061.than.html
Bản Việt
ngữ. Kinh Tăng Chi Bộ. Chương Ba Pháp - 61.- Sở y xứ: http://thuvienhoasen.org/p15a1067/pham-05-07
(9) Bản Anh văn. Paccha-bhumika Sutta - http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn42/sn42.006.than.html
Bản Việt
ngữ. Kinh Tương Ưng. VI. Người Đất Phương Tây hay Người Đã Chết (S.iv,311) -- http://thuvienhoasen.org/p15a712/42-chuong-viii-tuong-ung-thon-truong
(10) Bản Anh văn. No. 543.: Bhūridatta-Jātaka
- http://www.wisdomlib.org/buddhism/book/the-jataka-volume-vi/d/doc80724.html
Bản Việt
ngữ. Kinh Tiền Thân Đức Phật. 543. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ BHÙRIDATTA -- http://thuvienhoasen.org/a6654/chuong-xxii-dai-pham-tt
(11) Bản Anh văn. Subha Sutta - http://tipitaka.wikia.com/wiki/Subha_Sutta_%28Majjhima_Nikaya%29
Bản Việt
ngữ. Kinh Trung Bộ 99. Kinh Subha - http://thuvienhoasen.org/a919/99-kinh-subha-subha-sutta
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét