Chính vào những giai đoạn xáo
trộn biến động như hiện nay, con người phân vân trước cuộc sống bao nhiêu
thì nhu cầu xét lại từ gốc rễ nguồn căn làm cơ sở cho hành vi ứng xử của
mình,của xã hội lại càng bức thiết bấy nhiêu. Phật giáo là một trong số
không nhiều lắm truyền thống cơ bản cho nhiều nền văn hóa của một bộ phận
rộng lớn nhân loại. Trong thời điểm mà những vấn đề văn hóa đang vấn nạn
toàn thể loài người, vào chính lúc dân tộc Việt Nam ta bước vào một giai
đoạn quyết định cho vận mạng của mình, xét lại một yếu tố căn bản trong
truyền thống dân tộc như Phật giáo trước thách thức của thời đại là một
việc không thể tránh né được. Bài này phác họa nét trội của cuộc khủng
hoảng văn hóa thời đại, xét vài điểm đặc trưng làm cho giáo lý nhà Phật
thích ứng với nhu cầu của ngày nay. Và cuối cùng nêu lên vài điều căn bản
để xây dựng một nền văn hóa cho hiện đại.
I. Thời đại con người trơ vơ thân phận làm
người
Một nét thời đại là các hệ tri thức xưa nay vững lòng
tin rằng mình nắm phần chân lý, con người đời này truyền lại đời khác,
bám vào đấy, an tâm mà sống với mình, với người, với vật, bị lung lay đến
tận gốc rễ, nếu không là hoàn toàn sụp đổ.
Khởi điểm không phải mới gần đây. Những dấu hiệu đầu
tiên xuất hiện từ thời đại Phục hưng, thế kỷ thứ XV, XVI, đưa dần tới sự
hình thành của khoa học, của tư duy ngày nay.
Ta thường cho rằng là phát minh này hay phát minh nọ
làm cho khoa học mâu thuẫn với các hệ tôn giáo, tư tưởng cổ truyền. Không
hẳn như vậy. Vì lẽ rằng không một phát minh khoa học nào có khả năng giải
đáp các câu hỏi căn bản tôn giáo nêu lên, mà ngược lại tín ngưỡng có thể
tiếp thu bất cứ phát minh khoa học nào vào hệ tư tưởng của mình không mấy
khó khăn lắm.
Sự xung khắc cơ bản thật ra nằm trong tinh thần nghi
ngờ có hệ thống, không tin theo một thuyết nào nếu nó chưa trải qua thẩm
định của thực nghiệm. Trong tinh thần này không có một giáo lý nào, một
hệ tư tưởng nào nắm chân lý vĩnh hằng. Mà chỉ có những giả thuyết luôn
luôn phải chuyển biến cho phủ hợp theo những dữ kiện do chính nó sản xuát
ra. Tính chân thực của giả thuyết không dựa vào những gì nó phát hiện
được mà tùy theo vấn đề nó có “vận hành” trong quy trình hay không.
Suốt nhiều thế kỷ, xã hội không ngừng chuyển biến đến
gốc rễ, các vấn đề thời đại không ngớt nổi lên, vấn nạn tri thức con
người. Riêng một cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XIX cũng đủ thay đổi
hoàn toàn bộ mặt toàn cầu. Và đảo lộn cả nhận thức. Truyền thống bao lâu
tin rằng chính là tri thức, đạo lý soi sáng và điều khiển hoạt động của
con người, nay bị lung lay trước hiện thực chẳng giản đơn một chiều theo
lối nhìn đó: Tư duy và đạo lý hướng dẫn hoạt động của con người thật,
nhưng ngược lại hoạt động sản xuất chính là một nhân tố quy định tư duy,
đạo lý trong xã hội loài người.
Từ địa vị đứng ở tầm cao siêu mà hướng dẫn, đạo lý rơi
xuống ngang tầm với con người, giữa xã hội. Các giá trị Chân, Thiện, Mỹ
không còn được quy định do uy tín của một chân lý bên ngoài, một cá nhân
vĩ đại nào, mà thực ra là bởi xã hội, như một tổng thể trong nhu cầu vận
động không ngừng chuyển biến của nó.
Dù muốn dù không, con người buộc phải tìm quy tắc
hướng dẫn đời sống của mình không đâu ngoài cộng đồng con người, ngoài xã
hội.
Nhà tư tưởng lớn thế kỷ XIX, Hegel, quay lại nhìn lịch
sử như một dòng tiến hóa. Ý nghĩa của sự tiến triển, của vận động lịch sử
sẽ biểu lộ nơi điểm tận cùng của lịch sử. Marx tin rằng đấu tranh giai
cấp là động cơ của dòng lịch sử ấy và đây cũng là một phát triển căn bản
của mình tìm ra. Con người làm ra lịch sử, có khả năng gia tốc lịch sử
bằng cách tác động theo chiều hướng của động cơ. Cách nhìn của Marx là
một yếu tố gây niềm hy vọng lớn cho một phần nhân loại: lịch sử có ý
nghĩa và sẽ tất nhiên đi đến điểm tận cùng của nó. Hành động trong hướng
đi của lịch sử là hành động vô cùng ý nghĩa của con người ý thức được sự
thật lịch sử.
Rồi, trong vòng mấy thập kỷ giữa thế kỷ hai mươi, con
người bừng mắt phát hiện ra rằng mình có khả năng phát động những quy
trình tác động gần như không giới hạn vào thế giới tự nhiên: con người
làm chủ được nguyên tử lực là trong tay có nănglực thừa sức làm nổ tung
quả địa cầu. Và vào thế giới con người: một thế lực có thể áp đặt những
tiền đề giả tạo dối trá vô nhân, miễn là thế lực ấy biết hành động một
cách liên tục và gắn bó có hệ thống với những tiền đề đã định, thì rồi
cũng tạo thành hiện thực những mẫu xã hội kiểu hệ thống toàn trị nazi hay
các hệ ít nhiều toàn trị khác.
Uy lực tác động của con người vào thế giới loài người,
vào thế giới thiên nhiên chưa bao giờ đạt mức độ khủng khiếp như hiện
nay.
Trong khi đó, khoa học càng ngày hiểu thiên nhiên sâu
sắc lại càng ý thức rõ rệt rằng giải đáp mình đem lại chỉ là đáp từ cho
những câu hỏi của con người đặt ra và tùy thuộc vào cách đặt câu hỏi. Đi
tìm hiểu thiên nhiên – không phải là mình mà cũng chẳng phải do mình tạo
ra – rốt cuộc con người gặp lại những cấu trúc, những mô hình do mình tạo
nên, nghĩa là gặp lại chính mình. Và cũng bắt đầu thấy ra giới hạn của
tính tất định trong khoa học. Như đã chứng minh trong khoa dự đoán khí
tượng: con bướm vỗ cánh ở Bắc Kinh hôm nay, có thể gây giông tố ở Nữu Ước
tháng sau. Sự kiện lịch sử những năm gần đây lại càng cho thấm thía thêm
rằng tính tất định lịch sử thật ra chẳng nghiêm ngặt gì hơn chuyện nắng
mưa. Tất định lịch sử không còn, tự do của cá nhân bỗng nới rộng ra thêm.
Mỗi người có thể tự nhủ rằng cánh bướm mình vỗ lên có khả năng lái lịch
sử chệch qua hướng khác. Nhưng khi ấy chợt nổi lên, không giải đáp, câu
hỏi ý nghĩa hướng đi lịch sử là gì?
Dù muốn dù không, một lúc nào đó trong đời sống, con
người thời đại cũng bị thực tại xô đẩy, buộc quay về đối diện với thân
phận làm người của mình. Và lúc ấy rùng mình nhận ra rằng, về căn bản,
cung cách ứng xử của mình chẳng mấy khác người thời trung cổ. Bạo tàn man
rợ khác nào khi xưa. Những sự kiện này xảy ra như ở Bosnie ngày nay buộc
ta phải suy nghĩ.
Chỉ có điều khác là con người thời đại nắm trong tay
những phương tiện sinh sát sánh tay Thượng đế. Đem vào sử dụng lại có
phương pháp tổ chức, máy móc lạnh lùng, nhưng vô cùng hữu hiệu của thời
đại công nghiệp. Người thời đại vẫn nhỏ bé chẳng khác con người trung cổ,
khi khắc khoải tự vấn trước mênh mang cuộc sống. Nhưng quay đi quay lại
chỉ mình với mình. Không nơi nương tựa, thiếu đuốc soi đường mà người
trung cổ sẵn có chỉ việc tuân theo.
II. Con đường Như Lai
1. Một giáo lý nhân bản, một quan điểm “động”trong
nhận định.
Đức Phật còn có danh hiệu Như Lai, nghĩa là sự việc
như sau thì thấy y như vậy, không bị lăng kính ảo tưởng làm méo mó. Đối
tượng của Như Lai dạy không ai khác là con người, trần trụi với thân phận
làm người.
Người ấy không khỏi có lúc trầm ngâm trước dòng sông,
nước luân lưu chảy: mọi việc biến chuyển không ngừng thì chủ thể nào có
khác chi, cũng không ngừng biến đổi. Trầm ngâm giây phút trước dòng sông
đã chẳng là một biến chuyển nơi chủ thể rồi hay sao.
Nói rộng ra, quan hệ con người chủ thể với thế giới
khách thểlà một quan hệ động, trong đó khách chủ đều động. Không hề có
một chủ thể tĩnh trước khách thể biến động. Điều đó thuật ngữ nhà Phật
gọi là “vô ngã”, “vạn pháp vô ngã” mọi sự đều vô ngã. Và dùng thuật ngữ
“không” để chỉ bản tính không ngừng biến chuyển của sự vật, “vạn pháp
giai không”. Đem nghĩa thông thường của từ “không” gán cho thuật ngữ đồng
âm làm sai lạc ý nghĩa quan điểm nhà Phật. Hiện thực luôn luôn biến động,
nhưng nào phải vì vậy mà hư không!
Phật giáo quan niệm sự vật không biến chuyển do ngẫu
nhiên. Nó có nguyên nhân và điều kiện. Hạt là “nhân”, gieo xuống đất, gặp
đủ điều kiện nhiệt độ, ẩm ướt sẽ nẩy mầm thành cây. Thuật ngữ gọi đó là
“nhân duyên”.
2. Một giáo lý hành động , nơi đây và ngay bây giờ
Chủ thể, khách thể liên hệ nhân duyên với nhau, chằng
chịt rối rắm chẳng khác mớ bòng bong. Trong môi trường dao động như nước
chảy dòng sông, chủ thể ngồi im hay cử động cũng đều tác động vào môi
trường, nghĩa là đã hành động. Đặc điểm của hành động là chủ thể và quyết
định, nghĩa là có phần tự do làm chủ được khởi điểm. Nhưng khi đã phát
động rồi, hành động tác động vào môi trường, phản hồi lại chủ thể ra sao
là những việc phần lớn vượt ngoài ý chí. Con người trong giây phút hiện
thực là một điểm động, là hệ quả của hành động bản thân, của tác động môi
trường bao quanh, của các thế hệ sinh trước. Ngược lại, với hành động do
mình khởi xướng , cá nhân ấy cũng tác động vào thế giới này, vào thế hệ
mai sau…Thuật ngữ “nghiệp” của nhà Phật dùng để chỉ tác động vào hệ quả
của hành động. Con người cá nhân tạo ra “biệt nghiệp” riêng của chính
mình, nhưng cũng tác động vào và chịu ảnh hưởng “cộng nghiệp” chung của
cả xã hội. Khái niệm “nghiệp “đặt vai trò và vị trí của mỗi cá nhân trong
vũ trụ, trong dòng tiến hóa của sinh vật, trong nhân loại hôm nay, ngày
nay và mai sau. Qua hành động mà không ai tránh né được, cái “nghiệp”ràng
buộc nhân duyên mỗi cá nhân với toàn thể loài người, toàn thể sinh vật.
Mối liên đới đó, hệ giáo lý Bắc tông khai triển ra khái niệm “Bồ tát
nguyện”-còn sinh vật trôi nổi trong vòng khổ đau thì Bồ tát nguyện theo
nâng đỡ. Vì nghĩ cho cùng, liên đới nhân duyên ràng buộc với nhau, làm
sao cho quan niệm một mình chốn thảnh thơi được.
Quan niệm quan hệ trong cuộc sống đã không ngừng biến
đổi lại ràng buộc với nhau do hành động của các tác nhân, giáo lý nhà
Phật có thể là gì khác ngoài một giáo lý cho hành động, trong cuộc sống
nơi đây và ngay bây giờ. Và chính nhờ căn cứ vào hành động, vào “nghiệp”,
đạo Phật mới đưa con người từ chỗ tối tăm trật vuột mò mẩm nắm bắt ảo
ảnh, thuật ngữ gọi là “vô minh”, đến trí huệ hòa hợp hồn nhiên chủ thể với
khách thể được. Cho rằng đạo Phật yếm thế, trốn đời là lầm to. Vì hành
động là tất yếu trong quan hệ không ngừng biến động giữa con người với
thế giới xung quanh.
Vấn đề đặt ra là chủ thể với khách thể có thích ứng
hài hòa với nhau hay không.
3. Một con đường giải phóng trí tuệ soi sáng hành động.
Bản tính động chất chứa tiềm năng làm cho quan hệ chủ
và khách khó ăn khớp, hài hòa với nhau. Nhà thơ Xuân Diệu than:
Yêu là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc đã được yêu
Cho thì nhiều mà chẳng nhận bao nhiêu
Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết…
Yêu nhau thắm thiết, niềm vui lớn. Nhưng chính vì yêu
mà cho, nhận cả hai người yêu nhau không bao giờ được hoàn toàn vừa lòng.
Nhà Phật không phủ nhận niềm vui của cuộc sống, chỉ nhắc nhở rằng bên cái
vui, trong quan hệ chủ thể với khách thể luôn luôn có những điều làm cho
mình không được thỏa mãn. Thuật ngữ nhà Phật gọi những khổ đau, những
tiềm lực làm cho con người bất mãn trong cuộc sống là “khổ”. Chỉ là một
nhận định duy thực.
Nhận định thế, để khẳng định ngay rằng có con đường
vượt “khổ”, đem lại an lành. Con đường bỏ rơi ảo tưởng, sự vật ra sao thì
nhìn thấy như vậy, hài hòa quan hệ chủ thể và khách thể trong biến động
không ngừng của nó. Đó chính là “đạo” mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã bản
thân thể nghiệm. Và cũng khẳng định rằng đã là người, thì không phân biệt
trai gái, sang hèn, màu da sắc tộc, bất cứ ai cũng đều tiềm tàng hạt
giống Phật (Phật tính), con người trọn vẹn thể hiện ở “đạo”ấy.
Phật chỉ nhắn nhủ mỗi người chúng ta chính mình thể
nghiệm. Không một ai có thể làm thay mình được, Đức Phật cũng chỉ là
người chỉ đường.
Mỗi cá nhân là một trường hợp duy nhất, con đường cũng
phải thích nghi với tính duy nhất của mỗi người. Nhà Phật có hằng hà
phương tiện.
Nguyên tác chung, chúng ta gặp ngay trong câu Phật tử
thường chúc nhau được “thân tâm an lạc”. Phương pháp nhà Phật chú trọng
cả thể xác lẫn tâm thần, đến tác động qua lại vòng tròn của chúng. Thân
yên lặng thì lòng cũng yên, tâm yên tĩnh thì thân thêm thư giãn thoải
mái. Cứ thế mà thân tâm liên tục ảnh hưởng lẫn nhau đưa đến trạng thái
tĩnh lặng, thuận lợi để quán xét, ý thức tinh tường những gì đang xảy ra
trong mình, xung quanh mình. Chính sự ý thức rõ rệt những gì gò bó trong
thân xác, những thể thức dục vọng nổi lên rồi tan đi trong thân tâm là cơ
sở để chủ động thư giãn toàn thân, để cho dục vọng không bị đè nén mà
nhạt thưa dần. Lửa lụi tàn vì củi không còn. Cứ như thế mà các nhân tố
tạo thiên kiến, thành kiến rơi rụng. Mâu thuẫn tan dần, tự do nội tâm
phát triển. Thân và tâm ung dung tự tại sẵn sàng tập trung vào hiện tượng
bên trong, bên ngoài để tiếp nhận và phản ứng hồn nhiên, thích nghi ,
không lệch lạc, thái quá hay bất cập.
Khi ảo tưởng hoàn toàn rơi rụng hết, sự việc như thế
nào thì nhận thức như thế, chủ thể và khách thể hòa hợp thích ứng với
nhau. Một trạng thái siêu việt các cặp đối lập ta-người, chủ-khách, tri
thức-hành động, thiện-ác, luân hồi-niết bàn…thời gian trong đó là hiện
tại, vĩnh hằng.
Đó là ý nghĩa lời Long Thọ Bồ tát khẳng định “Niết bàn là luân hồi, luân hồi là Niết
bàn” (Nagarjuna, Madhya-karika, XXV,19). Đó là lý do nhà Nho thấm
nhuần tinh thần Thiền tông Vương Dương Minh (1472-1529) xướng thuyết “Tri
hành hợp nhất”.
Chỉ có bậc Toàn giác mới hợp nhất được tri và hành,
siêu việt được đối lập biết và làm. Nhưng cuộc sống luôn luôn đặt chúng
ta trước một chọn lựa để hành động. Thế nào cho phải, đó là vấn đề. Giáo
lý nhà Phật đề nghị các phương thức giúp ta sáng suốt nhận thức và hành
động. Mấy câu kinh Pháp Cú mà rất nhiều người thuộc nằm lòng nhắc nhở
điều ấy:
Chư
ác mạc tác
Chúng
thiện phụng hành
Thanh
tịnh kỳ ý
Thị
chư Phật giáo.
(Không
làm điều ác
Làm
mọi việc lành
Thanh
tịnh tâm ý
Ấy
lời chư Phật).
Phân biệt phải, quấy, đạo Phật không đặt nơi một uy
quyền ngoài con người. Lúc chọn lựa hành động bao giờ chẳng chỉ có mình
với mình. Cái “lương tri” của tâm ý thanh tịnh trong sáng là đảm bảo duy
nhất cho tính đúng đắn của chọn lựa ấy. Tất cả giáo lý nhà Phật, lý
thuyết, và thực hành chỉ nhằm dạy cho người hành đạo đang lặn
ngụp trong bất cứ điều kiện nào, tâm ý vẫn tĩnh lặng trong sáng.
Con người thời đại đã đạt tri thức vô cùng cao xa,
nhưng lương tri không tương xứng. Đào tạo một lương tri khác là tiềm năng
quý báu mà giáo lý nhà Phật có khả năng góp vào công cuộc xây dựng nền
văn hóa một thời đại khắc khoải đi tìm lương tri cho chính mình. Với cái
vốn tích lũy trên hai mươi thế kỷ tri thức lý thuyết và thực hành của
mình.
Phương pháp hành đạo ngày
nay là những gì? Để cho con người tất bật của thời đại thể hiện được tinh
thần Như Lai: sự việc ra sao, thấy y như vậy, hồn nhiên mà thích nghi…
III. Chí khí ngất trời xanh
1.Xác định chức năng
Sức sống một giáo lý tùy thuộc những người đang sống
và thể hiện nó. Phật giáo phát huy được tiềm năng của mình khi nào những
người đang sống lời Phật dạy xác định chức năng xã hội của giáo lý mình
thể hiện.
Trên căn bản, giáo lý nhà Phật không có gì đối chọi
với tinh thần khoa học. Nhưng Phật giáo không phải là khoa học. Chức năng
khác, cách chứng thực cũng khác. Sự thực khoa học chứng qua thực nghiệm.
Hoàn toàn khác từ tinh thần, lý thuyết, đến thực hiện với thể nghiệm
“đạo”. Sự thực thể nghiệm là một sự thực chủ quan, bản chất khác với sự
thực khoa học.
Khoa học thay đổi bộ mặt toàn cầu. Tuy nhiên, trong
hiện trạng ngày nay khoa học không thể và cũng không có tham vọng đề nghị
một cái nhìn tổng hợp toàn diện cuộc sống.
Giáo lý nhà Phật đề nghị một nhận thức tổng thể cuộc
sống, là một triết học. Chình vì không phải khoa học mà Phật giáo làm
được cái việc ngoài chức năng của khoa học: đem lại ý nghĩa cho hoạt động
thường ngày, cho cuộc sống mỗi con người.
Có triết lý của mình, nhưng khác với các hệ triết lý
khác nhà Phật còn một kho kinh nghiệm phong phú về phương thức, kỹ thuật
sử dụng những động tác thân xác đơn giản, hô hấp đi, đứng, ngồi, nằm…để
thể hiện triết lý của mình trong thân xác, trong cuộc sống hàng ngày,
trong mỗi con người. Đề nghị một hành trình thể hiện chứ không phải là
một duy nhất là một hệ tư tưởng thuần lý, một bộ phận giáo lý nhà Phật có
những nét hấp dẫn đối với tinh thần thời đại.
Là một tôn giáo, có đầy đủ nghi lễ, nhưng người Phật
tử không phải đặt lòng tin vào một uy lực cao siêu nào ngoài con người
ngoài bản thân mình.
Có biết mình,biết nguời, cộng đồng Phật tử mới thoát
khỏi mặc cảm tự ti và tự tôn, không haotổn tâm thân năng lực vào những
cuộc tranh biện sân si , xác định vị trí và chức năng của giáo lý nhà
Phật so với khoa học, với các hệ triết học, các tôn giáo khác. Khi ấy mới
an nhiên đem tinh thần Như Lai thể hiện ra trong nếp sống hàng
ngày, trong muôn mặt của cuộc sống. Và góp phần vào công cuộc chuyển hóa
nền văn hóa thời đại.
2. Sống thời đại
Muốn được vậy phải đau cái đau thời đại, khó cái khó
thời đại, dằn vật các vấn đề thời đại. Tóm lại phải sống thời đại.
Truyền thống hai mươi lăm thế kỷ của đạo Phật là một
ốc đảo để ẩn náu, an tâm cho những ai mệt mỏi, khiếp sợ trước các chấn
động của một thời đại đang oằn oại chuyển tiếp. Cái nguy lớn nhất của
Phật giáo chính là đó: mặt quay về quá khứ, day lưng với thời đại, mãn
nguyện với việc làm nơi ẩn náu cho những người trốn sống thời đại.
Nay chính là lúc cần chí khí ngất trời xanh của những
người đem đạo vào đời trong những thời điểm khác thường. Khi tinh thần
Phật thấm nhuần vào Trung Quốc, sản sinh Thiền tông, các tổ như ngài Lâm
Tế (? – 867) nói đạo bằng câu chữ hàng ngày của người nông dân cho người
của thời đại bừng mắt nhận ra đây là tinh thần của Như Lai. Khi văn hóa
đất Việt hưng khởi với một dân tộc độc lập, đời Lý, Thiền sư Quảng Nghiêm
(1121-1190) nhắn nhủ “Nam nhi tự hữu xung thiên khí” (Làm trai chí khí
xông trời thẳm)
Đời Trần, ta gặp phải thần thái thanh thoát ấy nơi Tuệ
Trung Thượng Sĩ Trần Tung (1230-1291), thầy của Tổ sáng lập ra phái thiền
Việt Nam trúc lâm, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308)…Trong
một bữa tiệc của thái hậu mà cũng là em ruột Thượng sĩ thiết đãi. Tuệ Trung
gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt, thành Phật sao được?”. Thượng sĩ
cười đáp: “Phật là Phật, anh là
anh, anh chả cần làm Phật, Phật chả cần làm anh”
Thời Phật, thời Tổ, thời Lý-Trần đã qua, và không bao
giờ trở lại, thời đại là của bây giờ. Tinh thần Đức Phật chỉ có giá trị
qua cọ xát với thực tại. Có lăn vào giải quyết những vấn đề cụ thể đang
đặt ra cho con người, mới nảy ra cái nhìn “Như Lai” sự việc hôm nay. Mới
bật ra lời lẽ đi vào con tim người đang đặt ra cho con người, mới xảy ra
cái nhìn “Như Lai” sự việc hôm nay. Mới bật ra lời lẽ đi vào con tim
người đang mò mẫm tìm đường. Phải thông giáo lý nhà Phật, đã đành. Công
trình xuất bản Kinh tạng Pali dịch qua tiếng Việt của Hòa thượng Minh
Châu, dự án dịch và xuất bản hệ Tam tạng Sanskrit của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam là một bước tiến cho ai ai cũng có thể tiếp cận những tư liệu
gốc một cách trực tiếp.
Nhưng, có soi qua gương mặt người mới nhận rõ ra gương
mặt mình, có đem tư tưởng nhiều ít sáo mòn của mình đọ với các
luồng tư tưởng hiện hành mới sáng lên sức sống của tư tưởng Phật, nơi đây
và ngay bây giờ. Công cuộc còn bỏ ngỏ.
Thời nào củng phải thích nghi phương pháp tu dưỡng cho
thời đại mình. Không biết tự bao giờ Phật tử Việt Nam chào nhau bằng câu “A Di Đà Phật”, Chỉ biết chắc chắn
rằng chẳng phải do ngẫu nhiên. Có gì khắc khoải cho con người bằng khi
phải đối mặt với thân phận làm người. Cái ý phải tin vào sức mình, không
ai, kể cả Đức Phật có thể làm thay cho được tiềm tàng trong lời Phật dạy,
nhưng cũng ý đó bắt con người phải đối diện với chính mình. Tịnh Độ tông
khéo léo tránh né điều khó tả này bằng thuyết “tha lực”, nhờ sức người
khác, nhờ Phật A Di Đà dẫn vào đất lành.
Phương tiện phần nào dễ dãi ấy có còn thích nghi với
tinh thần nghi ngờ thành hệ thống của người ngày nay hay chăng? Dù muốn
dù không, vấn đề phương cách “hành đạo” cho con người hiện đại cũng đặt
ra.
Những phương tiện hay nhất thường tìm thấy được ngay
trong đời sống hàng ngày, trong nghề nghiệp. Người võ sĩ Nhật Samourai,
kè kè lưỡi kiếm, theo nghề chém giết. Phật giáo nhập sâu vào văn hóa thì
người Samourai học và thể hiện Thiền không đâu ngoài đường kiếm. Khi
người võ sĩ đã thấm nhuần tinh thần Thiền, người ấy vào giữa lằn đao, mưa
đạn với cái an nhiên của kẻ siêu việt cái sống và cái chết với lưỡi kiếm
uy lực như sấm sét.
Phương pháp hành đạo ngày nay là những gì? Để cho con
người tất bật của thời đại thể hiện được tinh thần Như Lai: sự việc ra
sao, thấy y như vậy, hồn nhiên mà thích nghi!
Những tầm nhìn thanh thoát các vấn đề thời đại đang
đặt ra, một nghệ thuật sống an lành đi vào muôn mặt của cuộc sống thường
ngày, những phương pháp tu dưỡng thích nghi với mọi lớp người trong xã
hội hiện đại, đó là thách thức mà thực tại đặt ra cho trí tuệ cộng đồng
Phật tử. Giải đáp chính là phần Phật giáo góp vào nền văn hóa thời đại.
Bùi Mộng Hùng
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét