QUY LUẬT CỦA THÁNG TÁM ĐỊNH MỆNH
Lý Nguyên Diệu
Phật tử phản đối chế độ Ngô Đình Diệm
Tất cả bắt đầu từ ngày 26 tháng 6 năm 1954, khi ông Ngô Đình Diệm
từ Paris trở về Sài Gòn sau 5 năm “từng
lê gót nơi quê người” để “cứu đất
nước và tranh đấu cho tự do” tại … quê người!.
Uy tín của ông ở trong nước là một vị quan thanh liêm, không màng
danh lợi, cương quyết chống thực dân Pháp và Cọng sản. Uy tín của ông ở ngoại
quốc là vua Bảo Đại đã phong cho ông làm Thủ tướng cộng với sự ủng hộ tài lực
và nhân sự của đại cường Mỹ và ủng hộ tinh thần cùng uy tín của toà thánh
Vatican. Thật là đầy đủ “danh chánh ngôn thuận”.
Trong bối cảnh ông Hồ Chí Minh đã nắm quyền ở Hà Nội, thực dân Tây
còn quân đội ở trong Nam, ông Ngô Đình Diệm đã đủ uy tín để được sự ủng hộ của
người dân Việt không chấp nhận thực dân Tây và cộng sản. Hai lực lượng chính
yếu là chính trị và quân đội đã tin tưởng ông đến mức phiá dân sự, chính quyền
của ông có ông Phan Khắc Sửu làm Bộ trưởng, ông Trần Văn Đỗ cầm đầu phái đoàn
họp Hội nghị Genève, ông Trần Văn Hương làm Đô trưởng Sài Gòn …, và phía quân
nhân có sự ủng hộ của các sĩ quan như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Nguyễn Ngọc
Lễ, Đỗ Mậu, Thái Quang Hoàng…
Trong những ngày đầu lãnh đạo lực lượng cơ bản xây dựng chế độ đó,
ông Diệm đã bắt đầu lộ ra dấu hiệu độc tài và yếu kém chính trị khi tổ chức Trưng cầu Dân ý ngày 23/10/1955 để truất
phế vị vua đã giao cho mình quyền Thủ tướng với tỉ số phiếu 98.2% cho mình và
1.1% cho đối thủ Bảo Đại đang ở bên Tây. Hành động phản bội vua Bảo Đại một cách
quá lố bịch đó đã làm cho “danh ông Diệm không còn chánh” và bầu cử gian lận
quá độ đã làm cho “ngôn ông Diệm không còn thuận” nữa.
Vua
Bảo Đại và Thượng Thư Ngô Đình Diệm lúc còn là vua-tôi.
Hình
chân dung vua Bảo Đại bị vất xuống đất sau "Trưng cầu Dân ý" 23/10/1955
Nhưng tuần trăng mật của Tổng thống Diệm với miền Nam Việt Nam vẫn
kéo dài được 6 năm (1955-1960). Đây là thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hoà của Việt Nam
được yên ổn phát triển mà những người viết sử sau nầy thường nhắc đến. Có hai
nguyên nhân chính cho sự “yên ổn” nầy: Cả hai chính quyền ông Hồ và ông Ngô cần
thời gian chấn chỉnh để bắt đầu một cuộc thư hùng đầy núi xương sông máu.
Nguyên nhân thứ hai là chính quyền Mỹ vẫn còn viện trợ tuy chưa ồ ạt nhưng rất
căn bản nên chưa cần phải cân nhắc mức độ ủng hộ.
Cho đến năm 1960, ba biến cố xảy ra báo hiệu sự sụp đổ phải đến
cho chế độ Tổng thống Diệm: (i) Cuối tháng 4 là cuôc họp báo của 18 nhân sĩ và
chính trị gia của miền Nam để công khai trình bày một bản tuyên ngôn yêu cầu
chính phủ ông Diệm cải tổ vì những lý do chính trị độc tài, chính quyền tham
nhũng, quân sự lũng đoạn, kinh tế yếu kém, xã hội băng hoại. Trong số những
người ký tên trên bản tuyên ngôn nầy lại có chính các người cộng sự cũ của ông
Diệm là các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Hương, … (ii) Giữa tháng
11 là cuộc nổi dậy của binh chủng Nhảy Dù, lực lượng thiện chiến nhất của chế
độ ông Diệm. Tuy thất bại nhưng cuộc nổi dậy đã làm thức tỉnh ý thức chính trị
của quân đội, vốn là một tập thể kỷ luật đã ủng hộ ông Diệm từ ngày đầu tiên
khi ông trở lại Sài Gòn. Và (iii), cuối tháng 12, là sự ra đời của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng Miền Nam cho thấy miền Bắc đã nhận thức được chính quyền ông
Diệm đang mất long dân và chỉ sống chủ yếu nhờ quân kinh viện của Mỹ nên họ đủ
mạnh để khởi đầu cuộc chiến thống nhất đất nước.
Nhưng ông Diệm đã không thấy qua ba biến cố đó ông đã mất đi sự
ủng hộ chính trị và quân sự trong miền Nam đồng thời kẻ thù miền Bắc đã sẵn
sàng để tấn công. Vì không thấy nên ông vẫn tiếp tục càng ngày càng lún sâu vào
con đường độc tài và chủ quan của ông bà Nhu ở Sài Gòn, thối nát và tàn bạo của
ông Cẩn ở Huế và cuồng tín và tham ô của ông Thục trên toàn miền Nam cho đến
năm 1963.
Giọt nước làm tràn ly là lệnh cấm treo cờ Phật giáo nhân lễ Phật
Đản ngày 7 tháng 5 ở Huế ngay sau khi cờ Thiên Chúa giáo Vatican (màu vàng và
trắng) bay đầy thành phố Huế như quoấc lễ để đón Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục mừng
Lễ Ngân Khánh (25 năm được Vatican phong Linh mục). Giọt nước nầy đưa đến sự
phẫn nộ trên toàn quốc qua những cuộc biểu tình, đình công bãi thị, sinh viên
học sinh bãi khoá, giáo sư từ chức, các vị sư Phật giáo tự thiêu. Đây là những
biểu lộ của quần chúng còn sâu đậm và toàn diện hơn cả những gì chúng ta đang
thấy ở Syria, Ai Cập, … Từ bà bán hàng ở chợ Đông Ba đến ông Viện trưởng Linh
mục Cao Văn Luận, từ giáo sư Phạm biểu Tâm, khoa trương Y khoa Sài Gòn đến ông
già đạp xích lô ở NhaTrang, từ Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đến người lính Thủy quân
Lục chiến gác biểu tình, … nhưng ông Diệm vẫn không thấy. Hoặc là ông Ngô Đình
Nhu không muốn cho anh của mình thấy. Dù cuộc tự thiêu đầu tháng 6 của Hoà
thượng Thích Quảng Đức và cuộc tự vẫn đầu tháng 7 của nhà văn Nhất Linh đã làm
xúc động trên toàn thế giới, nhưng hai cái chết nầy vẫn không làm rung chuyển
ba người sống trong dinh Gia Long là ông bà Nhu và ông Diệm. Họ không ra khỏi
tháp ngà đó nên đêm 20 rạng ngày 21 tháng 8 họ tổ chức một biến cố đã làm vỡ
toang ly nước đời họ.
Hoà
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 8-5-1963,
Văn
hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam uống thuốc tự vẫn ngày 7-7-1963
để
phản đối chế độ Diệm kỳ thị Phật giáo và đàn áp đối lập chính trị
Tạp chí Hợp Lưu, xuất
bản tại Little Saigon ở miền Nam California, số 88, 89, 90, đã trích đăng lại một
bài viết kể lại biến cố được gọi là “chiến dịch Nước Lũ” đêm 20/8/1963 nầy như
sau:
Khoảng nửa giờ sau khi Thiết Quân luật có hiệu
lực, Nhu cho lệnh tấn công các chùa trên toàn quốc. Tại chùa Xá Lợi Sài Gòn,
nơi đặt bản doanh Ủy ban Tranh đấu Liên Phái, hai đại đội thuộc Liên đoàn 31
Lực Lượng Ðặc Biệt [LLÐB], Ðại đội 16 Bảo An, và Cảnh Sát mặc giả quân phục
đánh chiếm mục tiêu. Hòa thượng Tịnh Khiết, Thượng tọa Tâm Châu, cùng nhiều
tăng sĩ bị bắt giam sau một giờ chống cự. Khoảng 30 tăng sĩ bị thương, và 2
người bị mất tích. Ðích thân Ðại tá Lê Quang Tung, Chỉ huy trưởng LLÐB, và Giám
đốc Cảnh sát CA Ðô thành, Trần Văn Tư [tài liệu Pháp ghi là Cò Túc?], chỉ huy,
dưới sự điều động của Ðính. Do mật báo từ Dinh Ðộc Lập, ký giả ngoại quốc biết
trước tin này và có mặt tại chùa Xá Lợi để chứng kiến cuộc “vét chùa”, và quyết
tâm bảo vệ đạo pháp của các tăng ni. Các chùa Ấn Quang, Chantareansay (Sài Gòn)
đều bị chiếm. Các tăng trụ trì, Thiện Hoa và Lâm Em, bị bắt. ( 168) Ðồng thời,
hai chùa Linh Mụ và Từ Ðàm (Huế), cùng các chùa ở Ðà Nẵng, Nha Trang v.. v… đều
bị chìm trong “nước lũ” bạo lực.
Tại Huế, khoảng 3 giờ đêm, tiếng mõ, tiếng
chuông, tiếng kêu cầu cứu vang lên khắp nơi. Ðồng bào quanh chùa đánh mõ, gõ
thùng thiếc báo nguy. Ðợt tấn công đầu, Cảnh sát bị đẩy lui. Sau đó, Ðỗ Cao Trí
cho lệnh nổ súng. Những giáo sư, sinh viên và học sinh tranh đấu cũng bị bắt
giữ.( 169) Tổng cộng khoảng 1,400 tăng sĩ, bị bắt trên toàn quốc. Chỉ có hai sư
từ chùa Xá Lợi thoát được tới Phái Bộ Kinh Tế [USOM] gần đó xin tị nạn. Qua
ngày 23/8, Trí Quang cũng trốn được vào Toà Ðại sứ Mỹ.
[Trích từ “Mùa Phật Đản
Đẫm Máu” của tác giả Chính Đạo - Tạp chí Hợp Lưu số 88,89,90)]
Tạp chí Bách Khoa của
giới trí thức Việt Nam, do ông Hùynh Văn Lang sáng lập theo huấn thị của ông
Ngô Đình Nhu, số 169 và 170, sau 1963, đã đăng một bài của tác giả Phạm Trọng
Nhân với đề tựa: “Cuốn sổ tay của một
nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi”. Sau đây là một vài
trích đoạn (nhấn mạnh của LND):
■ …“Đầu tháng 8 dương lịch.
Tình thế ngày thêm trầm trọng. Vì vấn đề Phật giáo trước dư luận quốc tế; uy
tín quốc gia xuống quá thấp!
Một vị Bộ trưởng, một
hôm nhận xét:
Nguy quá! Nhiều sinh viên, học sinh bị bắt bớ,
giam cầm … Động đến tôn giáo, đến sinh viên … Chánh phủ không thể đứng vững,
nếu còn tiếp tục như hiện nay. Lịch sử cổ kim chứng tỏ khi chánh quyền đàn áp
tôn giáo, khủng bố thanh niên, ấy là chánh quyền bắt đầu tự diệt …
Sau này, chúng ta được biết có lần ô. Vũ Văn Mẫu
nhân danh là Giáo sư Đại học, đã can thiệp để trả tự do cho một số sinh viên.
Và cấp thẩm quyền khi đó, thản nhiên, bình tĩnh, trả lời: Sinh viên, thanh
niên, làm loạn thì phải bỏ tù. Các trường có đóng cửa một năm cũng chẳng hại gì …”.
■… “Ngày 16-8, lễ độ nhưng
cứng rắn Ô. Trần Văn Chương (thân phụ của bà Ngô Đình Nhu) Đại sứ Việt Nam tại
Mỹ, tường trình vị Nguyên thủ về tình thế nước nhà trước công luận quốc tế. Các
báo Mỹ sau có đăng tải bản phúc trình, đại cương có thể tóm tắt:
“Tôi hân hạnh kính trình Tổng thống tường: dư
luận quốc tế và nhất là ở Mỹ, tin rằng chánh thể do Tổng thống lãnh đạo không
thể mang thắng lợi cho đất nước. Cuộc khủng hoảng Phật giáo vốn dĩ chẳng phải
là nguyên nhân, mà là hậu quả: thật chẳng khác giọt nước làm tràn chiếc ly đã
quá đầy. Vấn đề không thể giải quyết bằng một công trình vá víu hay dối trá.
Cần phải chân thành triệt để từ bỏ chánh thể này đã mất hết hậu thuẫn và tín
nhiệm của quốc dân. Đó là điều mà chính Tổng thống không ngờ và không biết!”
■ …“Tổng thống chỉ có thể
tiếp tục lãnh đạo quốc gia, với điều kiện tất yếu từ bỏ hẳn chánh sách độc tài
chuyên chế, mà trong thực tế, Tổng thống đã ủy quyền cho hai em là NHU và CẨN.
Tổng thống không biết rằng hai người này đã lạm quyền …”
■ …“Quốc dân chán ghét chánh
thể này quá lắm rồi!”
■…“Ba ngày sau, bất thình
lình, trong đêm tối, đoàn Mật vụ chiến đấu tấn công chùa Xá Lợi. Có tiếng súng
nổ, tiếng hò reo, tiếng kêu rên, rồi máu chảy đầu rơi, và một đoàn người ra đi,
không hẹn ngày trở lại! …
Một nhân viên cao cấp
nhà ở gần chùa Xá Lợi, được ông Bộ trưởng Ngoại giao điện thoại cho biết nên
nhờ đó được thưởng thức một màn khẩu trình bất ngờ, bi đát; lời nói nghẹn ngào
hoà với tiếng chuông ngân kêu cứu, tiếng súng nổ hãi hùng … Điện đàm được chùng
15 phút thì dây điện thoại bị cắt.”
■…“Chi tiết vụ tấn công chùa
Xá Lợi không hề được chánh thức công bố. Các nhân viên nội các đã tự truy tầm
tìm hiểu, bằng những phương tiện riêng. Và ai nấy kết luận: “Cộng sản thâm nhập
ngay ngưỡng cửa thủ đô” (như Tổng thống tuyên bố đầu buổi họp hội đồng nội các
sáng sớm ngày 21/8) là điều sai sự thực. Hôm trước (20-8) Hội đồng liên bộ họp
tại Hội trường Diên Hồng từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều, mà nào có ai nghe thấy
ông Bộ trưởng Nội vụ (ông Lâm Lễ Trinh) nói tới vấn đề Cộng sản …”
Cũng trên hai số 169 và 170 của tạp chí Bách Khoa đó, ta đọc được những phản ứng của các quốc gia đồng minh
với Việt Nam sau khi chính quyền ông Diệm tấn công chùa chiền đêm 20 tháng 8
năm 1963 như sau:
■ Ngày 22-8-1963:
- Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu cạo đầu từ chức sau 8 năm làm
Ngoại trưởng.
- Thái Lan: Thủ tướng Sarit Thanarat đòi đưa vấn đề Việt Nam ra
trước Liên Hiệp Quốc.
- Mỹ: Báo Washington Post: “Chính
quyền đã khủng bố, trong khi đáng lẽ phải thuyết phục. Đối với Hoa Kỳ, sự kiện
nêu lên một câu hỏi quan hệ và trầm trọng: cần duyệt lại chánh sách viện trợ.
Viện trợ nhằm mục đích chống Cộng chớ không phải giúp Cộng sản thành công
…”
- Úc: Tổng trưởng Ngoại giao tuyên bố trước Quốc hội: “rất lo ngại về chánh sách kỳ thị và cố chấp
của các nhà đương cuộc Việt Nam.”
- Anh: báo Daily Telegraph (Bảo thủ) viết: “Chánh thể đã tự hạ phẩm đến mức thuộc quyền sở hữu của một gia đình,
khiến những thiện chí qúy hoá nhất cũng bị xuyên tạc.”
■ Ngày 23-8:
- Đại sứ Trần Văn Chương, thân phụ bà Trần Lệ Xuân, từ chức.
“Tin ông Trần Văn Chương từ
chức (Đại sứ) được loan sáng 23-8. Và nhật báo New York World Telegram trong
nhóm Scripps Howard nêu câu hỏi: “Ô. Trần Văn Chương mà còn không thể tiếp tục
cộng tác, thì chúng ta làm sao có thể tiếp tục ủng hộ chánh phủ này đã mất hết
hậu thuẫn của quốc dân?”
- Miến Điện: Báo The Guardian viết: “ … nhà cầm quyền Việt Nam đã lâm tình trạng thác loạn. Hành động qủa là
một lầm lỗi phi thường, ra ngoài trí tưởng tượng của nhân loại.”
- Nhật: Thứ trưởng Ngoại giao, ông Shigenobu Shima hội kiến với
Đại sứ Việt Nam yêu cầu cho biết sự thực về chùa Xá Lợi.”.
- Mỹ: Thượng nghị sĩ Wayne Morse của tiểu bang Oregon tuyên bố: – Mỹ ủng hộ chánh phủ Ngô Đình Diệm chỉ là làm
lợi cho Cộng sản.”
■ Ngày 25-8:
- Đại Hàn: Tướng Chang Chung Son (một nhân viên trong Hội đồng
Quân nhân Cách mạng) đã gay gắt lên án nhà cầm quyền Việt Nam đàn áp Phật
giáo đồ.
- Ấn độ: “Dân tộc Ấn độ lấy
làm công phẫn trước những hành động tàn ác hiển nhiên kia …”
- Phi Luật Tân (đa số dân theo Ki-tô giáo): Báo Manila Chronicle:
“Nếu công cuộc đàn áp Phật giáo không
chấm dứt, lệnh giới nghiêm không bãi bỏ, Phi có thể sẽ là một trong những nước
đầu tiên đoạn giao với Việt Nam.”
■ Ngày 26-8:
- Hội nghị Phật giáo Tích Lan yêu cầu “các đoàn thể Phật giáo toàn quốc treo cờ rũ để tang cho các Phật tử
Việt Nam bỏ mình vì tín ngưỡng.”
■Ngày 27-8:
- Cao Mên đoạn giao với Việt Nam và hợp với Tích Lan đem vấn đề
đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm ra trước Liên Hiệp Quốc.
■ Ngày 28-8:
- Pháp: Chủ tịch “Hội nghị Tranh đấu cho Tự do Văn hoá”, Denis
Rougemont tuyên bố: “Hội nghị phản đối
kịch liệt chánh phủ Việt Nam đã chà đạp những quyền căn bản của người Phật giáo”.
■ Ngày 29-8:
- Trung hoa Dân quốc: “… rất
lo ngại về tình hình tại Việt Nam.”
Cuối cùng là ý kiến của hai nhân vật với uy tín toàn cầu:
■ Ngày 30-8-1963: Thông điệp của Giáo hoàng Paul VI có đoạn: “Chúng tôi có bổn phận nói lên nỗi ưu tư đau
đớn của chúng tôi, đứng trước những diễn biến đáng buồn đang đè nén dân tộc
Việt Nam thân mến. Mối lo ngại của chúng tôi mỗi ngày thêm thâm trầm bi đát.”
■ Ngày 31-8-1963: Ông U Thant, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc gửi thư
cho Tổng thống Diệm có câu: “Thúc dục bởi
những ý niệm nhân đạo mà toàn thể chúng tôi đều tôn trọng, nhân danh là thành
phần của đại gia đình nhân loại, tôi cảm thấy có bổn phận gửi thư nầy tới Ngài,
cùng với lời kêu gọi tha thiết của cá nhân tôi …”
Ngày 12-9-1963: Ông U Thant đã họp báo và tuyên bố như một tiên
đoán: “Tình hình tại Việt Nam mỗi ngày
thêm trầm trọng. Những đức tính cần thiết của dân chủ, ví dụ trách nhiệm thay
đổi chánh phủ theo thủ tục hiến pháp không cần bạo động, và điều động công
quyền với phương pháp thuyết phục không cần võ lực, đối với Việt Nam hiện nay
đều hoàn toàn xa lạ …”
Đức Giáo hoàng Paul 6: “…có bổn phận nói lên nỗi ưu tư đau đớn của chúng tôi
trước
những diễn biến đáng buồn đang đè nén dân tộc Việt Nam thân mến”
Ông Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant: “Những đức tính cần thiết của dân chủ,… theo
thủ tục hiến pháp không cần bạo động… đối với Việt Nam hiện nay đều hoàn toàn
xa lạ …”
KẾT LUẬN
Ngày 1-11-1963, hậu qủa tất yếu mà ông U Thant cảnh báo đã xảy ra
tại Sài Gòn với cuộc cách mạng khởi đầu từ quân đội để lật đổ một chế độ chỉ
trong 2 ngày ngắn gọn với hai anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đi qua
bên kia của “cõi đi về” để trùng phùng với Hoà thượng Thích Quảng Đức và văn
hào Nhất Linh trong cõi vĩnh hằng.
Nhà văn nhà giáo Doãn Quốc Sỹ, đã nói về cái chết của hai ông Diệm
Nhu như sau: “Bảo là người Mỹ đã giết
Diệm. Không! Diệm đã chết trong lòng dân tộc từ lâu. Mỹ chỉ đến lượm xác sống của
y.” [Người Việt Đáng Yêu, (Lời Mở Đầu) Nhà xuất bản Sáng Tạo,
Sài Gòn, 1965. Đăng lại trên Tạp chí Việt Nam Hải Ngoại số 8 ngày 15-9-1977,
San Diego, Hoa Kỳ.]
Từ Louis XVI ở Pháp đến Ngô Đình Diệm ở Việt Nam đến Mubarak ở Ai
Cập, bài học lịch sử lập đi lập lại cho những nhà lãnh đạo quốc gia là gìn giữ
yếu tố LÒNG DÂN. Dù được hay mất Tây, dù được hay mất Mỹ, dù được hay mất Tàu,
dù được hay mất Vatican, … mà mất yếu tố lòng dân là mất tất cả.
Quy luật đó là bà mẹ đẻ ra nguyên tắc dân chủ làm cho nước Mỹ ngày
càng hùng mạnh khi áp dụng hiến pháp một cách trung thực. Những ai đang/sẽ làm
chính trị ở Việt Nam chỉ cần thuộc nguyên tắc “dân vi qúy, xã tắc thứ chi” nầy.
© Lý Nguyên Diệu
(extracted from Internet, Aug.20, 2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét