MỘT CÁCH
TIẾP CẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CỖ SỬ VIỆT NAM
Trương
Thái Du
Lịch
sử Việt Nam từ thời Mê Linh liệt nữ trở về trước luôn là sự khơi gợi
khám phá và thách thức cho bản thân tôi. Bằng những con đường không chiêu thức
của một kẻ viễn kiến ngôi đền sử học, tôi đã tự tìm hiểu khoảng thời gian kia
bằng dăm bài viết, có tham khảo một số sách vở và thư tịch cổ
Việt Nam cũng như Trung Quốc. Khi hệ thống những bài viết này [1]
hoàn thành, cũng là lúc nhận thức của tôi về thời bán sử
Việt Nam bước qua một trang mới. Những nhầm lẫn và mâu thuẫn lộ liễu
sẽ được thanh lọc, mạch sử đơn lẻ được tổng hợp lại để thành trang viết mới dài
hơi hơn, cụ thể hơn. Tóm tắt nghiên cứu:
a)
Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái
niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ
đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn
gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến
Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần
là Tượng Quận, Giao Chỉ thời Tây Hán là bắc bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán,
Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ. Đóng khung
bởi kiến thức thiên văn Tần – Hán, Nhật Nam nghĩa
là vùng đất phía nam mặt trời, là bán cầu nam, Cửu Chân là Chân Trời, Xích Đạo. Có thể người Trung Quốc không lầm,
hơn ai hết họ hiểu Giao Chỉ là gì nhưng nhiều sử gia đã cố ý tung hỏa mù và
diễn dịch sai lạc ý nghĩa của từ Giao Chỉ. Đây là phương diện học thuật trong
tổng thể âm mưu thực dân của đế quốc Hán.
b)
Nhà nước Văn Lang sơ khai của người
Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm
Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở
xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước
sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên
Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây
Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc.
Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông
Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN. Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu
dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm
thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai.
Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù
trưởng, tộc trưởng mà thôi. Trong ngôn ngữ của Tư Mã Thiên, Tây Vu (vùng đất
phía tây Nam Việt) chính là Tây Âu Lạc sau khi đã bị Triệu Đà thôn tính, nó
không phải Tây Vu (vùng đất phía tây đồng bằng sông Hồng) thời Mã Viện. Thời
Hán Vũ Đế, Tây Âu Lạc trở thành quận Hợp Phố. Chữ Tây trong Tây Âu Lạc, Tây Âu và Tây Vu ngày nay vẫn còn hiện diện
trong tên gọi Quảng Tây, một tỉnh Trung Quốc giáp biên giới phía bắc Việt Nam.
Người Lạc Việt ở Hợp Phố xưa hôm nay
có thể là người Tráng. Truyền thống xem trống đồng là bảo vật linh thiêng của
Lạc Việt vẫn được người Tráng lưu giữ. Ở nhiều ngữ cảnh, chữ Tráng đồng nghĩa với
chữ Hùng trong từ Hùng Vương.
c)
Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc
Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở
thành Âu Lạc. Do đó Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam
Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa
là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng
bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc
(Quảng Tây) chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người
cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ.
Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và “mưu mô”
của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu
vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.
d)
Chiếu theo bản chất của danh xưng “Vua Hùng” thì Bà Trưng Trắc chính là vị Vua Hùng đầu tiên và cũng là cuối cùng
của vùng đồng bằng sông Hồng. Tiếng trống đồng ở một sắc thái và tiết tấu nào
đó sẽ là lời hiệu triệu nhân dân của Vua Hùng và Lạc Hầu, Lạc Tướng. Để bẻ gãy
mầm mống các cuộc phản kháng của kẻ bị trị, Mã Viện đã càn quét và tịch thu rất
nhiều trống đồng sau khi sát hại Hai Bà Trưng. Hậu quả là người Việt Nam đã bị
tước mất trống đồng trong sinh hoạt văn hóa - xã hội hàng ngàn năm qua.
A.
Giao Chỉ, Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam là gì?
1. Nam Giao, một trạm quan trắc
thiên văn cổ xưa
Trong
Thượng Thư, quyển sử cổ nhất của Trung Hoa tương truyền do Khổng Tử san định,
chương Ngu thư, mục Nghiêu điển đã có từ Nam Giao: “Thân mệnh Hy Thúc trạch Nam Giao, bình trật nam ngoa, kính trí. Nhật
vĩnh, tinh Hỏa, dĩ chính trọng hạ. Quyết dân nhân, điểu thú hy cách”. Nghĩa
là: “(Vua Nghiêu) sai Hy Thúc đến Nam Giao, quan sát mặt trời di chuyển về
phương nam, ghi ngày Hạ chí. Lúc ngày dài nhất, sao Hỏa đầu hôm ở đỉnh đầu sẽ
là ngày trọng Hạ (giữa mùa Hạ). Dân ăn mặc quần áo mỏng, chim thú thay lông”.
Nam Giao nằm trong hệ thống địa danh gồm: Dương Cốc (phía đông), Muội Cốc (phía
tây), Sóc Phương (phía bắc), Nam Giao (phía nam). Từ 4 nơi này, các vị quan mà
vua Nghiêu phái đến sẽ quan sát qui luật chuyển động của mặt trời, mặt trăng và
các vì sao rồi tổng hợp các qui luật ấy thành lịch phù hợp với sự vận hành của
thiên nhiên nhằm áp dụng thẳng vào đời sống nhân dân. Bốn địa danh trên chính
là bốn trạm quan trắc thiên văn cổ xưa của loài người.
Khảo
cổ hiện đại ở Trung Quốc vẫn chưa thể xác định kinh đô Nghiêu – Thuấn ở đâu, dù
vẫn biết nó không nằm ngoài trung lưu Hoàng Hà (thuộc ba tỉnh Thiểm Tây,
Hà Nam, Sơn Tây). Bốn trạm thiên văn sẽ nằm về bốn hướng mà kinh đô Nghiêu
– Thuấn là trung tâm. Trong một bài toán thiên văn, sai số đo đạc (ắt phải có)
càng ít ảnh hưởng đến kết quả nếu khoảng cách các trạm càng xa nhau. Tuy nhiên
khi các trạm quá xa thì mối liên hệ giữa các trạm lại gặp nhiều trở ngại. Theo
tôi, khoảng cách giữa hai trạm Đông – Tây hoặc Nam – Bắc sẽ cỡ 10
kinh – vĩ độ là tối đa. Một vĩ độ trên mặt đất dài hơn 111 km. Do đó Nam Giao
không thể xa hơn kinh đô Nghiêu – Thuấn 500 km, và lại càng không thể vượt khỏi
dòng Trường Giang rộng lớn hung dữ phía nam.
Tôi xin trình bày ở đây một bài toán thiên văn đơn giản nhất để làm minh họa:
Bằng các phép đo mặt trời cực kỳ thô sơ người ta có thể suy ra vĩ độ tại một vị
trí bất kỳ trên trái đất. Biết vĩ độ hai điểm nào đó sẽ tính ra khoảng cách gần
đúng giữa 2 điểm ấy theo đường chim bay.
Xác
định vĩ độ của Hà Nội: Chọn một trong 4 ngày Xuân phân, Hạ chí, Thu phân hoặc
Đông chí. Dựng một cây cột thẳng vuông góc với mặt đất. Giữa trưa, khi bóng cột
đổ dài đúng hướng Bắc – Nam ta đánh dấu đầu bóng cột trên mặt đất. Dễ
dàng tính được góc kẹp giữa cột và cạnh huyền của tam giác vuông tạo bởi cột,
bóng cột và cạnh huyền (là cạnh ảo). Vĩ độ V của Hà Nội sẽ là:
a.
Với ngày Xuân phân và Thu phân: V = Giá trị góc kẹp
b.
Với ngày Đông chí: V = Giá trị góc kẹp – 23 độ 27 phút.
c.
Với ngày Hạ chí: V = 23 độ 27 phút – Giá trị góc kẹp
Dù
tìm V ở ngày nào, nó luôn bằng 21 độ. Với cách làm tương tự, ta tính ra vĩ độ
Sài Gòn là 10 độ 30 phút. Khoảng cách theo đường chim bay Hà Nội và Sài Gòn là:
D = (21 độ - 10 độ 30 phút)x 111km = 1.165,5 km. Ở trường hợp Hà Nội và Sài
Gòn, chênh lệch kinh độ nhỏ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả gần đúng. Khi
kinh độ chênh lệch lớn người ta phải dùng thêm vài bài toán phụ trợ khác nữa.
Cũng
với cây cột thô sơ như thế, người ta có thể tính được một cách khá chính xác số
ngày trong 1 năm: đó là chu kỳ bóng cột bằng nhau trên cùng một góc nhất định.
Không riêng gì ở Trung Quốc, rất nhiều nền văn minh của nhân loại tại Bắc Bán
Cầu đã phát minh ra chiếc đồng hồ đo thời gian đầu tiên chỉ bằng một cây cột.
Khi dựng cột thẳng đứng trên mặt đất, độ dài bóng cột và góc của nó so với
phương bắc – nam luôn biến thiên theo thời gian. Vậy thì biết hai yếu tố bóng
và góc sẽ suy ra thời điểm trong ngày. Đặc biệt bóng cột sẽ luôn đi từ trái
sang phải trong một cung tròn nhỏ hơn 180 độ tùy thuộc vào vĩ độ của người quan
sát. Điều này giải thích tại sao các thế hệ đồng hồ phức tạp hơn xưa nay phần
lớn có kim quay từ trái sang phải ở cung 180 độ phía trên. Chiếc kim đồng hồ
cũng chính là sự tái tạo hình ảnh xa xưa của bóng cây cột thiên văn thô sơ hôm
nào.
Tóm
lại Nam Giao chính là một địa danh. Sau này kiến thức thiên văn của con người
sâu sắc hơn, các dụng cụ quan trắc tinh tường hơn thì không cần thiết đi quá xa
để đo đạc. Đài Nam Giao có thể dựng ở ngay kinh đô vương quốc. Vua dễ dàng cúng
mặt trời trên đài, lần hồi Đài Nam Giao đã biến thành Đàn Nam Giao cho nghi
thức tế trời. Vai trò trạm thiên văn của Nam Giao bị che khuất bởi hành vi tín
ngưỡng. Hơn nữa chỉ cần một máy đo cao độ thiên thể, cùng với việc tra các bảng
tính sẵn trong sách vở, mọi bài toán thiên văn phức tạp nhất đều có thể tính
ra.
2. Địa danh Nam Giao góp phần sinh ra
khái niệm Giao Chỉ
Nam
Giao sẽ đẻ ra khái niệm Giao Chỉ. Thật vậy, Giao Chỉ với chữ Chỉ có bộ phụ mang
nghĩa là vùng đất, khu vực. Giao Chỉ là vùng đất tiếp giáp, vùng biên cương
vương triều ở về phía nam của địa danh Nam Giao. Chữ Chỉ ngoài bộ phụ, còn có
một chữ Chỉ nữa đồng âm nhưng bộ Túc (bàn chân). Sự nhầm lẫn giữa hai chữ Chỉ
này góp phần khiến cho nhiều sử gia từ Đông Hán trở về sau có rất nhiều cách
giải nghĩa Giao Chỉ. Trần Thư, một bộ sử do Diêu Tư Liêm viết năm 636 đã lần
đầu tiên ghi thêm một chữ Chỉ nữa với bộ Thổ (đất) trong từ Giao Chỉ. Cổ văn
Trung Hoa có qui tắc “đồng âm thông giả”, tức những chữ đồng âm đều có thể mượn
và sử dụng lẫn lộn. Khi tìm nghĩa một chữ phải vận dụng ngữ cảnh đang xét chứ
không thể máy móc giữ nghĩa chết của chữ ấy trong những tài liệu khác ít liên
hệ.
Thượng
Thư cũng là quyển sách đầu tiên nói đến Giao Chỉ, phần Đại truyện ghi: “Phía
nam Giao Chỉ có Việt Thường quốc, đời Thành Vương (1063 TCN - 1026 TCN) họ qua
3 lần phiên dịch đến giao hảo và hiến tặng chim Trĩ”. Thượng thư còn được giải
thích là sách trời. Đây chính là lý lẽ của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà thời Lý:
Nam quốc
sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên
định phận tại thiên thư
Như hà
nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng
hành khan thủ bại hư
Người
Việt không còn lưu được quyển sử nào vào thời Lý, song chỉ qua bài thơ trên
cũng thấy rõ quan niệm họ cho rằng mình là hậu duệ của Việt Thường quốc phía
nam Giao Chỉ. Bởi Giao Chỉ không hề được Thượng thư xem là một quốc gia. Chắc
chắn Lý Thường Kiệt hiểu Giao Chỉ đơn giản là một khái niệm nên mới cho lưu
truyền bài thơ đó nhằm khích lệ tinh thần vệ quốc của quân dân. Và trước đó,
ông đã dụng binh như một bước thăm dò khả năng thu lại những phần đất Lạc Việt
cũ đã bị Trung Quốc thôn tính. Thế kỷ 18 Quang Trung Nguyễn Huệ cũng mang tâm
tư ấy. Thế kỷ 19 vua Gia Long toan đổi tên nước thành Nam Việt nhưng chẳng
thành, để rồi cháu ông là Tự Đức ngậm ngùi trong Khâm Định Việt sử: “Thế mới
biết việc thu hồi đất đai đã mất, từ đời trước đã là việc khó, chứ không những
ngày nay mà thôi. Thật đáng thương tiếc”. Dưới đây tôi sẽ dẫn chứng minh Lạc là
Nước, là quốc gia. Như thế Lạc Việt chính là Việt Thường quốc.
Từ
Nghiêu – Thuấn đến đầu triều Chu lãnh thổ Trung Quốc chưa bao giờ
vượt qua dòng Trường Giang. Thiên Vũ Cống của Thượng Thư nhắc đến cương vực
vương quốc gồm cả bờ nam Trường Giang, nhưng nhiều nhà nghiên cứu tin rằng nội
dung của Vũ Cống bị điều chỉnh rất nhiều và thậm chí có thể được viết vào thời
Chiến Quốc chứ không thể xa hơn. Do đó không cần vị trí chính xác của Nam Giao
vẫn biết được khái niệm Giao Chỉ mô tả vùng đất tiếp giáp Nam Giao, nằm bên bờ
bắc trung lưu Trường Giang. Giả dụ có địa danh Giao Chỉ, từ Đông Chu trở đi,
việc nước Sở hình thành và bành trướng về phương nam ắt phải xuyên qua Giao Chỉ
và địa danh Giao Chỉ phải được nhắc đến không dưới một lần trong rất nhiều sách
sử có nói về nước Sở.
Chuỗi
luận này sẽ đưa ra một câu hỏi hết sức bất ngờ: Phải chăng đất Sở, mảnh đất mà
Chu Thành Vương phong cho Dục Hùng chính là một phần của vùng Giao Chỉ thời
ấy?. Đoạn đầu An Nam Chí Lược, Lê Tắc dẫn quyển Hán Quan Nghi của Ứng Thiện
chép rằng trước tiên Trung Quốc mở mang từ Sóc (phương bắc) rồi tiến sang phương
nam lấy làm Cơ Chỉ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên cũng viết Giao Chỉ là Cơ
Chỉ (cơ sở) mà Hán Vũ Đế mở mang cho con cháu (sẽ dẫn kỹ lưỡng ở bên dưới). Cơ
Chỉ đồng nghĩa với Cơ Sở. Chữ Sở trong từ Cơ Sở chỉ khác tên nước Sở ở bộ Thạch
nằm bên trái. Theo qui tắc “đồng âm thông giả” thì đất Sở mà Thành Vương phong
cho Dục Hùng chính là Cơ Sở của nhà Chu, là Cơ Chỉ của nhà Chu và là một phần
Giao Chỉ (vùng đất phía nam đang khai phá) của vương triều Chu. Dục Hùng đến
Đan Dương lập quốc, nơi đó hôm nay nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc tỉnh Hồ
Bắc, Trung Quốc.
Tại
Nam man truyện trong Hậu Hán Thư, sau khi nhắc đến ghi chép về Việt Thường quốc
ở Thượng Thư đại truyện, Phạm Việp nói tiếp: “Nhà Chu suy, đến lúc Sở xưng bá
thì Bách Việt triều cống Sở”. Lôgic ở đây là Việt Thường quốc nằm trong Bách
Việt. Nước Sở còn được gọi là nước Kinh. Người Sở có dòng máu Việt. Từ ngày
Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng tiếm đoạt vương hiệu, Trung Quốc luôn coi nước
Sở là man di. Không còn trong vòng cương tỏa của triều đình
Đông Chu nữa, nước Sở bành trướng ra mãi và có thời làm chủ các chư
hầu phương đông. Đó là lý do khái niệm Giao Chỉ bị mất tích trong một thời gian
rất dài. Và đó cũng là lý do sử sách Trung Quốc khuyết đi những mô tả chi tiết
về Việt Thường quốc và nhiều vùng khác thuộc Bách Việt từ Xuân Thu đến cuối
Chiến Quốc. Sử nước Sở, sử của man di không đáng gọi là chính sử để truyền bá
nên hầu hết đã bị nhà Tần đốt hoặc thất truyền.
Sử
Ký, chương Triệu Thế Gia, nhân việc năm 307 TCN Triệu Linh Vương cải đổi trang
phục giống người Hồ để cưỡi ngựa và xây dựng lực lượng kỵ binh, viết: “Sách Dư
Địa Chí nói thời Chu Giao Chỉ là Lạc Việt, thời Tần là Tây Âu, họ vẽ mình, cắt
tóc ngắn để tránh giao long. Tây Âu Lạc ở về phía tây Phiên Ngô (tức Phiên
Ngung). Nam Việt và Âu Lạc có rất nhiều họ (chữ Hán là thiên tính: hàng ngàn
họ, khác với bách tính của người Trung Quốc là hàng trăm họ). Sách Thế Bản cũng
viết người Việt nhiều họ, có cùng tổ tiên với người Sở”. Dư Địa Chí và Thế Bản
là hai quyển sách đời sau chú giải Sử Ký gốc. Như vậy xung quanh thời điển 307
TCN (nửa cuối thời Chiến Quốc) trong vùng Giao Chỉ phía nam nước Sở có nhóm
người Lạc Việt cùng tổ tiên với người Sở.
Khi
Tần diệt Sở, nước Sở bị gộp vào Trung Nguyên, khái niệm Giao Chỉ không thấy
xuất hiện. Sử Ký, Nam Việt úy Đà liệt truyện, viết: Năm 214 TCN quân Tần cướp
Dương Việt đặt 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Quế Lâm và Nam Hải khá rõ
ràng, duy Tượng Quận đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực mà hai ngàn năm nay
người ta chưa rõ nó ở đâu. Cũng vì nhà Tần quá ngắn ngủi, chiến tranh sau đó
làm sách vở tiêu tán gần hết. AnNam chí lược của Lê Tắc bảo: “Nhà Tần lấy
Giao Chỉ làm Tượng Quận”.
Một
khi khái niệm Giao Chỉ bị xếp lại, hẳn nhiên phải có một khái niệm khác thay
thế. Phải chăng đó là Tượng? Để mô tả thứ nào đó trừu tượng người ta hay dùng
phép tượng trưng. Giai thoại “Thầy bói mù xem voi” đã mượn con voi nhằm nói về
sự trừu tượng. Nghĩa của chữ Tượng rõ nhất trong môn cờ tướng, người Trung Hoa
đã sáng tạo ra Tượng Kỳ chậm nhất là vào thời Chiến Quốc, khi chiến xa còn được
coi như “ông kẹ” của chiến trường. Trò giải trí siêu đẳng này hình tượng hóa
một trận đánh thời cổ đại vào 64 ô vuông chia đôi bởi một dòng sông. Bàn cờ có
hai quân Tượng. Đây không phải loài voi như nhiều người lầm tưởng. Quân Tượng không
bao giờ qua sông. Nó biểu trưng cho những yếu tố trừu tượng có ảnh hưởng nhất
định đến toàn cuộc như công tác tâm lý chiến, dân vận, ý chí của con người,
tinh thần xả thân hy sinh… Bình Nguyên Lộc trong quyển “Nguồn gốc Mã Lai của
dân tộc Việt Nam” cho biết sách Lễ Ký, chương Vương Chế ghi nhận thời Hạ,
Thương, Chu, người Trung Hoa gọi phương nam là Tượng. Triều Chu đã đặt chức
quan “Tượng tư” có nhiệm vụ trông nom việc bang giao với các man di phương nam.
Tượng
quận có thể hiểu là một vùng đất phương nam tạm để đó, chưa đến lúc xâm lăng,
chưa có dịp “khai phá” và “khai thác” theo đúng ngôn ngữ Xuân Thu – Chiến Quốc.
Tượng Quận là tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần và
nó tương đương với Giao Chỉ của nhàChu. Giao Chỉ của Tần Thủy Hoàng là Tượng
Quận, tiếp theo Tượng Quận là Nhật Nam sẽ hoàn toàn hợp lý với tư duy
ngôn ngữ trong giới hạn kiến thức địa lý xưa kia.
Nhật Nam nghĩa
là phía nam mặt trời. Sử ký viết: “Đất đai (nước Tần)… phía nam đến miền cửa
nhà quay mặt về hướng bắc”. Cũng như từ Giao Chỉ, Nhật Nam ban đầu
chỉ là khái niệm và có liên quan đến thiên văn. Phần lớn đất nước Trung Quốc ở
trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút, ngang qua thành phố Quảng Châu), do đó
mặt trời với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông nam và lặn phương tây nam.
Rõ nhất trong ngày Đông Chí đêm dài ngày ngắn, mặt trời lẩn quẩn hẳn về phía
nam. Vì vậy khi tế trời (cúng mặt trời) thiên tử - con trời phải quay mặt về
phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời Tần, người Trung Quốc đã biết trái đất hình
tròn và tự quay quanh trục của nó. Họ tính được quĩ đạo mặt trời (hoàng đạo) và
suy luận rằng đi về phía nam đến một nơi nào đó, muốn nhìn thấy mặt trời, muốn
hưởng sự ấm áp của ánh nắng, con người phải làm nhà quay mặt về hướng bắc.
Tư
Mã Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực người
Trung Quốc chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam. Theo đúng nghĩa thì
Nhật Nam xa lắm, vượt qua xích đạo và Nam Chí Tuyến, ở tận các đảo phía nam
Indonesia, Papua New Guinea và Úc Châu hôm nay.
3. Sự lẫn lộn giữa khái niệm và địa
danh
Nhà
Tần bỏ khái niệm Giao Chỉ và dùng từ Tượng Quận. Nhà Hán nối tiếp nhà Tần, và
cũng như trường hợp nước Sở trước kia, Nam Việt của Triệu Đà đã chặn cương thổ
vương quốc Hán ở phía nam 93 năm. Nam Việt bị diệt, sự lẫn lộn trong việc dùng
từ Giao Chỉ vừa là địa danh, vừa là khái niệm bắt đầu diễn ra. Điều này thể
hiện khi họ đặt tên khu vực mới chiếm được năm 111 TCN.
Hán
Thư của Ban Cố viết: “Nam Việt dĩ bình toại dĩ kỳ địa vi Đạm Nhĩ Chu Nhai Nam
Hải Thương Ngô Uất Lâm Hợp Phố Giao Chỉ Cửu Chân Nhật Namcửu quận”. Tức
là: “Bình được Nam Việt chia làm 9 quận…”. Chu Nhai, Đạm Nhĩ thuộc đảo
Hải Nam. Nam Hải, Thương Ngô thuộc Quảng Đông. Uất Lâm và phần lớn Hợp Phố
thuộc Quảng Tây. Theo tôi Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm,
thứ khái niệm thuần thiên văn nói lên tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ
nghĩa bành trướng của nhà Hán.
Người
Trung Quốc dùng khái niệm Giao Chỉ để gọi chung cho 9 quận mới. Giao Chỉ bộ là
tên gọi nửa khái niệm, nửa địa danh. Quan trông coi Giao Chỉ Bộ chỉ được đặt ra
năm 106 TCN, đó là Thứ Sử Thạch Đái. Nếu các quận Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam là địa danh thì bắt buộc phải có Thái Thú trấn nhậm. Điều
này chỉ xảy ra hơn 100 năm sau, vào đầu công nguyên với Tích Quang và Nhâm
Diên. Hán Thư cũng nghi nhận năm 48 TCN, theo lời tấu của Giả Quyên Chi, Hán
Chiêu Đế đã bỏ quận Chu Nhai vì Hán quan nơi ấy thường bị dân bản địa chống
đối, nổi dậy giết hại. Trường hợp Thái Thú Tôn Hạnh cuối thời Hán Vũ Đế là ví
dụ điển hình. Giả sử quận Giao Chỉ dân cư đông đúc, văn minh, từng có nước Âu
Lạc, có thủ đô của nhà nước sơ khai Văn Lang thì thật quá khó hiểu. Tại sao
nhân dân nơi ấy “ôn hòa” sống với ngoại bang là những ông quan ảo, chịu bị bóc
lột hàng trăm năm đến tận thời Mê Linh liệt nữ!?
Đến
lúc này dù Giao Chỉ nằm trong cụm Giao Chỉ Bộ hay Giao Chỉ Quận, nó vẫn là nơi
liên giao phía nam nhà Hán với phương nam. Như vậy trải qua nhiều trăm năm bành
trướng về phương nam của người Trung Quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển theo
bước chân các đoàn quân đế quốc. Phải chăng đó là lý do để chữ Chỉ tồn tại thêm
một dạng viết có bộ túc?
Rắc
rối xuất hiện ở chỗ tại sao lại có Cửu Chân chen giữa Nhật Nam (khu vực mà
người Hán chưa biết, chỉ đoán mò) và quận Giao Chỉ. Theo tôi Cửu Chân nghĩa là
nơi ở của mặt Trời, đại khái là Xích Đạo vậy. Cửu là số chín, số chín tượng
trưng cho Trời thì khỏi phải bàn cãi. Chữ Chân chắc chắn là gốc, giống như “quy
chân” là trở về gốc. Chân cũng có thể mang nghĩa là Trọng, như từ Trọng Hạ
(giữa mùa hạ) đã dẫn trong sách Thượng Thư ở trên. Dịch Cửu Chân qua tiếng Việt
hiện đại thì ý nghĩa sẽ sáng tỏ không ngờ: Chân Trời!
Khái
niệm Giao Chỉ, với chữ Giao đã đi song song cùng chữ Nam và nam tiến
hàng ngàn năm, đến đây đã đứng lại. Người Hán tưởng rằng họ đã đến được Xích
Đạo (Cửu Chân), cũng chẳng sai nhiều vì giữa trưa từ ngày Xuân Phân đến Thu
Phân, mặt trời gần như luôn ở trên đỉnh đầu cư dân vùng Thanh Hóa Việt Nam.
Việc họ đoán bên kia chân trời (Cửu Chân) mặt trời chếch về phía bắc là hợp lý.
Những người Trung Quốc đến vùng biển đông thám thính hoặc giao thương xem ra
khó có thể mang theo một chuyên gia thiên văn của triều đình (chỉ quen với thư
phòng giữa kinh đô Hán). Dù sao ngữ nghĩa mới của từ Cửu Chân và Nhật Nam vẫn
chỉ là khái niệm, thứ khái niệm sinh ra do ngành thiên văn học ngày càng chính
xác hơn, thứ khái niệm cần phải có sau khi khái niệm Giao Chỉ đã hết tác dụng,
đã biến thành nửa khái niệm, nửa địa danh.
Thiên
văn học của người Trung Quốc thời đó cần thêm nhiều dữ kiện thực tế để xác tín
lý thuyết. Mà muốn có thực tế thì phải đợi, và quả là họ đã đợi hàng trăm năm
đến ngày Mã Viện nam chinh. Khoảng trống ấy đã vô tình làm tan loãng tất cả ý
nghĩa thiên văn trong tên gọi Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, để rồi chúng mãi
mãi mất đi tính khái niệm và đường hoàng trở thành địa danh trên bản đồ đại
Hán.
Cột
đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Đồ Di cũng chính là đài quan
trắc thiên văn. Cựu Đường Thư (của Lưu Hủ hoàn thành khoảng năm 924 đến 946)
viết về vấn đề này rõ nhất trong thiên Địa Lý chí thứ 4: “Mã Viện đi qua
Nhật Nam, qua Lâm Ấp, đến biên giới Tượng Lâm và Tây Đồ Di dựng hai cột
đồng ghi công tích toàn thịnh của nhà Hán. Có vài chục người không thể về Hán
(!?) bèn lưu lại dưới chân trụ đồng, đến thời Tùy đã thành hơn 300 nhà. Người
Nam Man gọi họ là Mã Lưu Nhân”.
Có
hai khả năng: Một là Lưu Hủ thực sự không biết mục đích Mã Viện dựng cột đồng
là để đo cao độ mặt trời, lập bảng thiên văn và tính khoảng cách từ Tượng Lâm
về kinh đô Hán. Hai là Lưu Hủ biết nhưng tuân thủ triệt để nguyên tắc bảo mật
các bí quyết khoa học của triều đình Trung Hoa, viết chỉ để cho người biết đọc.
Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải
tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải
vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn.
Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số
liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng
dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không
phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua
ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”
của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là
thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
4. Hàng ngàn năm sa lầy của sử học
Việt Nam và Trung Hoa
Thiết
nghĩ không nên kể ra đây hàng lô hàng lốc những suy diễn của các sử gia Trung
Hoa và Việt Nam về ý nghĩa sai lạc của các từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam từ
thời Đông Hán đến hôm nay. Ai đó từng nói chân lý không bao giờ thuộc về đám
đông ở trường hợp này rất đáng tham khảo. Tôi sẽ nêu nguyên nhân của tất cả các
suy diễn ngây thơ ấy.
Sử
Ký (hoàn thành khoảng thập kỷ 90, TK 1 TCN) không kể tên 9 quận phía nam nhà
Hán mà Lộ Bác Đức lấy được năm 111 TCN. Có thể Tư Mã Thiên chưa theo kịp các
diễn biến thời sự. Chín cái tên ấy chỉ xuất hiện trong Hán Thư, một quyển sử
ghi chép chuyện xảy ra từ năm 206 TCN đến năm 6 SCN của Ban Cố (sinh năm 32 –
mất năm 92). Đến Hậu Hán Thư của Phạm Việp (398 – 455), chép sự việc từ năm 25
đến 190, thì bắt đầu có những giải thích không căn cứ về địa danh Giao Chỉ.
Trung
Quốc từ Ân – Thương vốn đã có chức quan Thái sử ghi chép các sự kiện diễn ra từ
quá khứ đến hiện tại. Ta thấy thời của Tư Mã Thiên và Ban Cố, chức Thái sử vẫn
kiêm thêm việc nghiên cứu thiên văn, lịch pháp. Chẳng hạn Tư Mã Thiên đã cùng
Hồ Toại sửa lịch cũ thành Hán lịch. Sử Ký và Hán Thư luôn có những chương viết
về thiên văn rành mạch và kê cứu rất nhiều hiện tượng thiên văn dọc năm tháng như
Thiên Thạch (Tần Thủy Hoàng bản kỷ), điểm đen trên mặt trời (Ngũ hành chí, Hán
Thư). Do đó việc các sử quan góp ý với vua cách đặt địa danh và khái niệm trên
cơ sở hệ thống thiên văn học là hoàn toàn dễ hiểu. Họ chưa có tư liệu thực tế
về Giao Chỉ, Cửu Chân, NhậtNam thì đành vọng đoán bằng thiên văn.
Cũng
từ Tư Mã Thiên và Ban Cố trở về sau thiên văn học Trung Quốc phát triển rất
nhanh chóng. Ví như Đổng Trọng Thư tra trong giáp cốt văn mà tính được ngày rằm
tháng hai năm Võ Đinh thứ 29 có nguyệt thực. Con người hiện đại lần theo dương
lịch thì đúng là ngày 23 tháng 11 năm 1311 TCN có nguyệt thực thật. Kỷ Tây Hán,
các nhà thiên văn chuyên nghiệp Trung Quốc cũng đã tính được chu kỳ sao Hỏa là
584,4 ngày, so với phương pháp thiên văn vũ trụ hiện đại là 583,921 ngày, sai
số nhỏ đến nỗi không thể tưởng tượng! Hồn Nghi, một dụng cụ quan trắc thiên văn
khá chính xác đã được chế tạo vào thời Hán Vũ Đế, nó thể hiện đầy đủ thiên kinh
tuyến, quỹ đạo mặt trời và thiên xích đạo. Đến Trương Hoành (78 – 139), thiên văn
cổ đại Trung Quốc đã lên đến đỉnh cao nhân loại. Họ Trương chế ra Hồn Thiên
Nghi biểu diễn sự vận hành của thiên thể, có vòng hoàng đạo và thiên xích đạo
tạo thành 1 góc 24 độ trong khi thực tế nó là 23 độ 27 phút (đây chính là số
hiệu chỉnh vĩ độ Hà Nội trong bài toán thiên văn tôi đã đưa ra ở mục 1).
Do
sự phức tạp và đồ sộ của những kiến thức thiên văn mới, Thái sử không còn đủ
sức kiêm công việc quan trắc bầu trời nữa. Tôi đoán thiên văn đã tách ra thành
một ngành riêng. Phạm Việp (398 – 455) tác giả Hậu Hán Thư có lẽ ít am hiểu
thiên văn nên ông ta không rõ ngôn ngữ của các sử gia như Tư Mã Thiên, Ban Cố.
Chính Phạm Việp đã mở ra phong trào suy diễn các khái niệm và địa danh để lớp
lớp các nhà sử học Việt – Trung sau này “tận tín thư” đi theo. Trong Nam man
truyện, Hậu Hán Thư, Phạm Việp viết: “Lễ ký xưng nam phương viết man điêu đề
giao chỉ. Kỳ tục nam nữ đồng xuyên nhi dục, cố viết giao chỉ”. Tạm dịch: “Sách
Lễ ký bảo người phương nam là man (di). Họ xăm trán, giao chân. Tục của họ là
trai gái có thể tắm chung một khúc sông nên gọi là Giao Chỉ”. Cách giải thích
của Phạm Việp vừa đầy suy diễn vừa cũ kỹ, ông ta chỉ biên tập lời Giả Quyên Chi
ghi ở Hán Thư mà thôi: “Lạc Việt chi nhân phụ tử đồng xuyên chi dục (người Lạc
Việt cha con thường tắm chung trên một khúc sông)”. Trong tinh thần Nho Giáo
Trung Hoa, Phạm Việp chẳng hiểu làm sao mà cha con Lạc Việt có thể hòa đồng như
vậy, ông ta bèn thay bằng trai gái cho dễ chấp nhận. Dù sao vi phạm luật
“Nam nữ thụ thụ bất thân” còn nhẹ hơn xâm hại Ngũ Luân!
Nếu
nói mọi người đều lầm hết sẽ rất tùy tiện. Thỉnh thoảng trong các sách ra đời
sau Hậu Hán Thư vẫn thấy từ Giao Chỉ được dùng như một khái niệm, trong ngữ
nghĩa khởi thủy của nó, dù thời điểm ấy Giao Chỉ hiển nhiên đã là địa danh cố
định. Lịch Đạo Nguyên viết trong Thủy Kinh Chú (hoàn thành năm 515): “…thời hựu
kiến Sóc Phương minh dĩ thủy khai bắc thùy toại tịch Giao Chỉ vu nam vị tử tôn
cơ chỉ dã”, tức: “Vua (Hán Vũ Đế) vừa khai phá biên thùy Sóc Phương phía bắc,
vừa mở Giao Chỉ phương nam làm nền móng cho con cháu”. Người đọc tinh ý sẽ thấy
ngay cặp khái niệm bắc – nam song đối Sóc Phương và Giao Chỉ, nó không khác cặp
Sóc Phương và Nam Giao đã dẫn trong Thượng Thư là mấy.
Có
thể có một cách giải thích khác cho vấn đề này. Người Trung Quốc không lầm, họ
cố ý tung hỏa mù và diễn dịch sai lạc ý nghĩa của từ Giao Chỉ. Đây là phương
diện học thuật trong tổng thể âm mưu thực dân của đế quốc Hán. Ngay cả ngôn ngữ
họ cũng không chừa, bằng chứng là họ dùng chữ Việt bộ Tẩu cho quốc danh nước
Việt, còn tộc danh của người Quảng Đông lại là chữ Việt bộ Mễ dù người bản địa
cổ xưa ở Lưỡng Quảng và Việt Nam đều là người Lạc Việt. Chính sách phân hóa,
chia nhỏ các dân tộc thuộc địa để trị luôn là con bài thâm hiểm của tất cả các
đế quốc từ Á sang Âu, xuyên suốt xưa nay. Trong bối cảnh ấy mới thấy tầm vóc
những cá nhân kiệt xuất của dân tộc Việt Nam như Lý Thường Kiệt,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh… Trái lại, ngành sử học Việt Nam nên có những
việc làm cần thiết tự xét lại mình.
B.
Cội nguồn dân tộc Việt Nam
1. Lý thuyết địa đàng Phi châu và
những cuộc di dân
Lý
thuyết địa đàng Phi châu cho rằng loài người tiến hóa từ giống khỉ tại châu
Phi. Những cuộc di cư sau này đã đưa con người đến khắp nơi trên mặt đất. Tôi
xin dùng công trình nghiên cứu di truyền của Spencer Wells làm nền tảng cho bài
viết này. [2] Mặc dù còn rất nhiều ý kiến của các nhà nhân chủng học thế giới
không đồng tình với Wells, nhưng nói chung họ chỉ thắc mắc ở thời điểm di cư.
Tôi sẽ dùng cách khảo nghiệm duy lý với văn hóa, khảo cổ và lịch sử để cọ sát với
lý thuyết di truyền của Wells, hầu mong đưa ra một giả thuyết tham khảo.
Với
kết luận của Spencer Wells, tôi tính ra: Cuộc di dân đầu tiên từ Phi châu diễn
ra cách nay 60 ngàn năm. Đoàn người đi dọc vùng đồng bằng ven biển Nam Á, đến
Đông Nam Á. Tại đây một nền văn minh đồ đá đã được hình thành. Từ 9 đến 12 ngàn
năm trước, kiến tạo địa chất ở vành đai lửa Indonesia với sóng thần, đất sụt đã
nhấn chìm trung tâm văn minh Tiền Đông Nam Á. Những cư dân còn sót lại sau thảm
họa đã chia làm hai nhánh, nhánh thứ nhất đến châu Úc, nhánh thứ hai rẽ lên
phía bắc, rồi dừng lại khá lâu bên bờ nam Trường Giang. Có thể trước đó văn
minh Tiền Đông Nam Á cũng có những làn sóng khai phá đất mới ở hai phía bắc và
nam nhưng thưa thớt và chậm chạp vì cuối kỷ băng hà càng xa xích đạo khí hậu
càng lạnh. Cuộc di dân thứ hai cũng từ Phi châu cách nay 45 ngàn năm. Họ đến
Trung Đông, từ Trung Đông hai phân nhóm đã hình thành tiến vào Ấn Độ và vùng
tây bắc Trung Hoa. Cuộc di dân thứ ba (không sử dụng trong bài viết này) diễn
ra cách nay 40 ngàn năm, đoàn người đến Trung Á và sau đó tràn qua châu Âu.
Tại
sao họ ra đi? Tất cả các nền văn minh sơ khai đều thờ mặt trời. Những chữ viết
đầu tiên của nhân loại ở khắp nơi tương đồng một cách đáng ngạc nhiên ở chữ
“mặt trời”: một vòng tròn có chấm chính giữa. Thần mặt trời ở Ai Cập là Ra, tại
Lưỡng Hà là Samat, ở Nhật là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu đại thần, Thái
dương thần nữ). Vua của người Trung Quốc và cả người Inca tận châu Mỹ đều tin
mình là con trời hoặc con của thần mặt trời. Hình ảnh mặt trời trên trống đồng
Đông Sơn thì thật ấn tượng. Về góc độ khoa học, mặt trời là nguồn sống của trái
đất, là năng lượng cho tiến hóa. Đi về phía đông, di cư về phương đông chính là
đến gần hơn với mẹ mặt trời. Và thật không có hình ảnh nào đẹp đẽ bằng: loài
người đã đi theo ánh sáng mặt trời để phủ kín trái đất.
Tại
sao cuộc di cư đầu tiên của người Tiền Đông Nam Á dừng lại bên dòng Trường
Giang mà không phải xa hơn về phía bắc? Trường Giang hung dữ và quá rộng lớn,
đã phần nào cản bước đoàn di dân. Thêm nữa, theo ngành thủy văn, Trường Giang
dưới tác động của lực coriolis, bờ bắc lở trong khi bờ nam bồi lắng. Cư dân
nông nghiệp có xu hướng chọn vùng phù sa màu mỡ định cư lâu dài. [3] Họ chỉ
tiến qua bờ bắc khi đối mặt với nạn nhân mãn, hoặc dưới các nguyên cớ khác.
Phân
nhánh của đoàn di dân thứ hai tiến vào trung lưu Hoàng Hà bằng hành lang Cam
Túc, xây dựng nền văn minh tạm gọi là Hoa Hạ. Ba di chỉ đồ đá có mối liên hệ rõ
ràng tạo thành tam giác trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ: Đại Địa Loan (hơn
8000 năm) nằm ở mạn phải dòng Thanh Thủy, Tần An, Cam Túc; Bán Pha (khoảng 6
ngàn năm) thuộc Tây An, Thiểm Tây; và Giả Hồ (cũng hơn 8000 năm) tại Hà Nam.
Bán Pha và Giả Hồ đều về phía bờ nam Hoàng Hà. Ngoài ra trên bờ bắc Hoàng Hà
tại làng Đào Tự, Tương Viên, Sơn Tây người ta vừa đào được 1 tường thành dài
130m, 4500 tuổi. [4] Nó cho thấy hướng phát triển ban đầu của văn minh Hoa Hạ.
Di vật của Hoa Hạ chứng tỏ nó không dính dáng gì đến con người của bờ nam
Trường Giang, vào thời điểm đó. Kiểu hạn canh trong sản xuất nông nghiệp và
quần cư tại các khu đô thị sơ khai cũng là đặc điểm riêng biệt của văn minh Hoa
Hạ. Như vậy nền văn minh Hoa Hạ hình thành quốc gia Hạ sơ khai, khoảng năm 2200
TCN phần nào đã sáng tỏ. Các nhà khảo cổ cũng tin rằng lúc này chế độ mẫu hệ
của văn minh Hoa Hạ dần dần được thay bằng phụ hệ. Những truyền thuyết truyền
hiền, rồi truyền ngôi cho em và cuối cùng là cho con trai trưởng của dân tộc
Trung Hoa ẩn chứa quá trình biến chuyển kia. Ngay cả việc Ngu Thuấn là con rể
của Đường Nghiêu và đã được Đường Nghiêu cho thừa tự ngai vàng cũng thấp thoáng
nội dung mẫu hệ.
2. Sự hình thành và phân rã văn minh
Thần Nông
Thời
điểm dừng lại bên dòng Trường Giang, đoàn di dân Tiền Đông Nam Á đã tạo nên một
không gian văn hóa và chủng tộc gần gũi khá rộng lớn: phía nam là đồng bằng
sông Cả, sông Mã (Việt Nam hôm nay), phía tây cận cao nguyên Tây Tạng, phía
đông giáp biển Thái Bình Dương. Tôi tạm gọi đây là văn minh Thần Nông.
Tôi
đã cân nhắc hai tên gọi khác cho văn minh Thần Nông là văn minh Trường Giang và
văn minh Dương Tử. Đây là cách đặt tên phổ biến trong sử học. Chẳng hạn chúng
ta có văn minh Lưỡng Hà, văn minh Hoàng Hà. Tuy nhiên cái tên văn minh Thần
Nông hữu lý nhất mặc dù nó có thể gây ra những tranh cãi về gốc Việt hay Hoa của
từ Thần Nông. Xin hãy hiểu Thần Nông là những nhà thủy nông giỏi giang như thần
thánh. Nói đến nền văn minh Thần Nông thì không gì hay hơn là nói về những con
người bình dị nhưng vĩ đại của các đồng bằng chuyên canh lúa nước. Văn minh bao
giờ cũng thuộc về cộng đồng người xây dựng lên nó bằng mồ hôi, nước mắt và cả
máu xương suốt chiều dài đằng đẵng của lịch sử.
Thổ
nhưỡng và khí hậu tổng thể của khu vực quy định một số đặc điểm của nền văn
minh này: sinh sống bằng nghề nông mà chủ yếu là trồng lúa nước, thuần hóa trâu
bò làm sức kéo; nghiên cứu thiên văn lịch pháp phục vụ mùa màng, làm thủy lợi;
dùng cây cỏ chữa bệnh và khai sinh Đông Y; sử dụng thành thạo ghe thuyền, đánh
cá, khai thác thủy sản; họ ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình, cắt tóc ngắn, cài nút
áo bên trái…
Văn
minh Thần Nông phát triển đều đặn, có nhiều thành tựu nhưng lưu cữu hai khuyết
điểm rất lớn: không tạo ra được chữ viết (hay ít ra là thứ ký tự phổ thông,
tiện dụng); do đời sống tự cung tự cấp gắn chặt với lao động trên ruộng lúa
nước nên bảo thủ, dẫn đến mất cơ hội đột phá chấm dứt chế độ mẫu hệ. Hệ quả là
nền văn minh Thần Nông tồn tại rất lâu ở dạng thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ
lạc có giới hạn, chậm vươn đến hình thức nhà nước sơ khai.
Sau
một thời gian phát triển tại chỗ, những con người của văn minh Thần Nông đủ sức
vượt dòng Trường Giang. Họ tiến lên phía bắc, giao tiếp với văn minh Hoa Hạ
cũng đang trên đường xuôi về phương nam. Xin hiểu sự giao tiếp này bao gồm cả
những tranh chấp, và không thể không có xung đột. Thần thoại Trung Quốc kể
chuyện Hoàng Đế đánh nhau với Suy Vưu (con cháu Thần Nông) nói lên điều đó.
Văn
minh Hoa Hạ và văn minh Thần Nông tiếp xúc nhau ở khoảng giữa hai lưu vực Hoàng
Hà và Trường Giang, đã góp phần tạo nên một nền văn minh bắt đầu có hiến sử là
văn minh Trung Nguyên – Hoa Hạ (Trung Hoa). Văn minh Hoa Hạ sẵn có phần bổ
khuyết khuyết điểm của văn minh Thần Nông. Nó hấp thụ tất cả tinh túy của văn
minh Thần Nông để lớn mạnh vượt bậc, rồi quay ra chèn ép chính thân sinh Thần
Nông của mình. Song nó cũng thu nhận hình ảnh Thần Nông vào hệ thống huyền
thoại Tam Hoàng, Ngũ Đế mô tả thời khởi thủy của mình. [5] Cái tên Trung Quốc
bắt đầu sinh ra từ đây. Nguyên thủy, nó mang nghĩa quốc gia ở giữa thiên hạ vì
kiến thức đương thời chỉ mới biết hai nền văn minh, hai chủng tộc lớn là Thần
Nông và Hoa Hạ. Chỉ một phần đất đai của văn minh Thần Nông hòa nhập với văn
minh Hoa Hạ. Phần lớn còn lại vì trải trên địa bàn quá rộng, rải rác suốt bờ
Trường Giang, đặc biệt là phía nam Trường Giang, vẫn tách biệt, đây chính là
vùng Bách Việt, như cách gọi của người Trung Hoa sau này.
Thành
công rực rỡ nhất của cuộc liên giao Thần Nông và Hoa Hạ biểu hiện ở nhà nước Sở
đông đúc, rộng lớn, giàu có và tiến bộ, từng làm bá chủ chư hầu đe dọa vương
triều Thần Chu (chỉ còn là hình thức sau khi nước Sở ra đời). Sở cũng là nước
kế cuối trong lục quốc bị Tần thôn tính sau này, bằng rất nhiều binh lực và
xương máu, dù Sở giáp ranh với Tần. Tuy vậy, chưa đầy 13 năm sau khi mất nước,
một vị anh hùng có tiền nhân đời đời làm tướng nước Sở là Hạng Vũ, đã đứng lên
lấy danh nghĩa phục Sở tiêu diệt nhà Tần, chia đất cho thiên hạ và tự xưng là
Tây Sở Bá Vương. Năm 202 TCN Hạng Vũ bại vong trước Lưu Bang. Cao Tổ nhà Hán
cũng là người nước Sở. Lịch sử bi hùng của nước Sở tồn tại hơn 500 năm đã vĩnh
viễn khép lại.
Lịch
sử nước Sở bắt đầu bằng việc Thành Vương phong tước Tử của
nhà Chu cho Mị Dục Hùng, [6] ở vùng biên viễn phía nam vương
quốc Chu. Dục Hùng vốn từng lập công với nhà Chu. Đến đời Hùng Thông,
hậu duệ của Dục Hùng (khoảng đầu thời Đông Chu, dưới ngai Hoàn Vương năm 719
đến 697 TCN), nước Sở đã tiêu diệt và sáp nhập rất nhiều lân bang và bành
trướng đến vùng Trường Giang. Dù không được Hoàn Vương chấp nhận, Hùng Thông
vẫn tự xưng là Sở Vũ Vương và làm chủ các nước chư hầu ở phương đông. Hùng
Thông mất, con là Hùng Si nối ngôi cùng các vương triều tiếp theo mở rộng nước
Sở xa dần về hướng đông nam, vượt qua dòng Trường Giang hùng vĩ.
3. Nhà nước sơ khai Văn Lang
Những
biến cố lịch sử diễn ra trên mảnh đất ViệtNam tương đối rõ ràng từ thời Mê
Linh liệt nữ trở về sau. Sách sử xưa nhất do chính người Việt viết còn lưu
truyền đến ngày nay chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 14. Tuy nhiên có một
truyền thuyết được nhắc đi nhắc lại là thủy tổ Kinh Dương Vương là cháu 4 đời
của Thần Nông, Kinh Dương Vương lấy Long nữ Động Đình Hồ sinh ra Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân cưới Âu Cơ và đẻ 100 trứng, nở trăm con. Cuộc chia ly êm dịu diễn
ra sau đó: Âu Cơ đem 50 người con lên rừng, Lạc Long Quân dẫn số còn lại xuống
biển. Nước Văn Lang do Hùng Vương, người con cả của Lạc Long Quân và Âu Cơ dựng
lên, đóng đô ở Phong Châu, vùng trung du tương đối bằng phẳng thuộc đồng bằng
sông Hồng.
Rõ
ràng đã có một cuộc di cư nằm ẩn trong chính truyền thuyết trên. Khoảng cách
giữa Động Đình Hồ và Phong Châu là gần 1000 km theo đường chim bay. Sâu hơn
nữa, tham khảo Bình Nguyên Lộc, tôi nghĩ có lẽ truyền thuyết 100 trứng kia nói
về cuộc chia tách đại chủng tộc Thần Nông làm hai nhánh lớn: Tây Âu và Lạc Việt.
Người Tây Âu đi về vùng núi non phía tây, và ít nhiều thay đổi tập quán sinh
sống truyền thống của nền văn minh Thần Nông. Người Lạc Việt ở lại hoặc tản về
phương đông và lưu giữ gần đủ đặc điểm cũ. Bản thân Tây Âu và Lạc Việt vẫn tiếp
tục phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ nữa. Con số 100 trứng, đáng ngạc nhiên, trùng
khớp với tên Bách Việt mà người Trung Hoa đặt ra, để gọi những nhóm dân bờ nam
trung và hạ lưu Trường Giang. Đây rõ ràng là dấu vết giao lưu văn hóa Thần Nông
và Hoa Hạ, bởi Kinh Thi có câu “Tắc bách tư nam” (chúc có hàng trăm con trai),
vậy một trăm hay bách nghĩa là nhiều.
Nếu
đồng ý với không gian truyện cổ tích là Kinh Dương Vương sinh Lạc Long Quân ở
Ngũ Lĩnh (rặng núi phía nam Động Đình Hồ) thì sẽ giải mã được “giặc Ân” trong
một truyện cổ tích khác là “Thánh Gióng”. Thật vậy, Ân – Thương mất nước bởi
dân Chu năm 1066 TCN, việc họ nam tiến trước hoặc lưu vong sau thời điểm 1066
TCN và đụng độ với Lạc Việt là hoàn toàn có cơ sở. Khảo cổ học đã xác định
tương đối chính xác kinh đô Ân – Thương nằm giữa tỉnh Hà Nam hiện
đại, cách Động Đình Hồ chỉ vài trăm cây số theo đường chim bay. Rất có thể liên
minh thị tộc mẫu hệ Văn Lang, hạt nhân của Thần Nông và Lạc Việt, hình thành ở
khu vực từ rặng núi Ngũ Lĩnh đến bờ nam Trường Giang mà trung tâm là Động Đình
Hồ, sau khi nhà nước Ân – Thương ra đời (khoảng năm 1700 TCN). [7] Tôi tạm tính
một đời vua Hùng trung bình 25 năm, chuyện Thánh Gióng xảy ra năm 1066 TCN, suy
ra Hùng vương thứ 18 lên ngôi năm 741 TCN. Con số 741 TCN rất thuyết phục, vì
nó xê dịch không nhiều với năm tháng nước Sở hình thành và bành trướng về phía
nam. Đại Việt sử ký toàn thư ghi năm thứ nhất họ Hồng Bàng là năm Nhâm Tuất
2879 TCN. Theo chuỗi luận của tôi đưa ra thì kỷ nguyên Văn Lang bắt đầu cũng từ
năm Nhâm Tuất nhưng là Nhâm Tuất 1199 TCN.
Văn
minh Trung Hoa phát triển xuống, những con người bất khuất nhất không chịu đánh
mất bản sắc và lề thói để hòa nhập với văn minh Trung Hoa đã ra đi. Kẻ ở lại
cùng người mới xây dựng nên nước Sở. Là cư dân sinh sống bằng ruộng lúa nước,
sử dụng thành thạo thuyền bè nên cuộc di cư hình thành hai cách lên đường chính
là bộ hành và hải hành, họ chia thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ túa về ba phương
Tây – Đông – Nam hoặc xuôi Trường Giang ra biển. Mục đích đầu tiên của họ là
tìm kiếm một vùng đồng bằng sông nước khác lập nghiệp. Những con người giỏi
giang nhất luôn đi xa nhất, tìm được mảnh đất ưng ý nhất, và cuối cùng họ đã
đến miền bắc Việt Nam ngày nay. Hiện thực thế kỷ 21 chứng minh điều
đó, hậu duệ của đoàn người lưu vong kia lập nên Việt Nam, quốc gia duy
nhất trong Bách Việt không bị Hán hóa và thâu nhập đất đai và con người vào nền
văn minh Trung Hoa. Đường di cư trên bộ trải dài từ Động Đình Hồ, qua đồng bằng
hẹp Tây Giang, Quảng Tây để đến đồng bằng sông Hồng. Có không ít cư dân Văn
Lang đã trụ lại bên dòng Tây Giang này. Họ cũng lập nên phiên bản nhà nước sơ
khai như Văn Lang Động Đình Hồ với thủ lĩnh là Vua Hùng, tôi tạm gọi là Văn
Lang Tây Giang.
Đồng
bằng sông Hồng lúc ấy cũng có thể đã có người sinh sống, nhưng chắc chắn dân cư
rất thưa thớt, đầm lầy nhiều, rừng nhiệt đới rậm rạp, mùa mưa thì ngập lụt tràn
lan. Vì lẽ đó vùng định cư trung tâm được chọn là miền trung du Phong Châu cao
ráo. Mang trọn bản sắc Văn Lang ra đi, những con người bất khuất, yêu chuộng
hòa bình và tự do vẫn gọi quê mới là Văn Lang, lãnh tụ của họ xưng là Vua Hùng,
danh chính ngôn thuận tiếp nối Vua Hùng của nước Văn Lang ở Động Đình Hồ. Hành
trình tìm kiếm Phong Châu còn ít nhiều đọng lại trong truyện Sơn Tinh – Thủy
Tinh, ở đời vua Hùng thứ 18.
Các
di chỉ khảo cổ đã khai mở ở Việt Nam không thể bác được giả thuyết di cư này:
Phùng Nguyên niên đại 3500 năm (chưa có đồ đồng), Đồng Đậu niên đại trên 3000
năm (đồ đồng rất ít và nhỏ như mũi tên, rìu), Gò Mun vào cỡ thế kỷ 8 TCN, Đông
Sơn thế kỷ thứ 7 TCN. Đặc biệt, mọi di chỉ đều nằm trên các khu đồi cao ráo,
càng củng cố dự đoán về thổ nhưỡng đã nói.
Niên
đại xa nhất của trống đồng tìm được ở ViệtNam và Trung Quốc cũng rất gần
nhau: khoảng TK 7 đến TK 8 TCN. [8] Địa bàn chính đào được trống đồng rất rộng
lớn, nó bao gồm bắc Việt Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây, Quảng
Đông. Ba nơi nhiều trống đồng nhất là Đông Sơn (Thanh Hoá, Việt Nam), Vạn
Gia Bá (Vân Nam) và Khu tự trị dân tộc Tráng (Quảng Tây). Đáng ngạc nhiên
là kiểu trống đồng đẹp nhất cũng là kiểu xưa nhất. Giả thuyết của tôi lý giải
được điều này: trên đỉnh cao của mình, nhà nước Văn Lang sơ khai ở Động Đình
Hồ, vừa bị văn minh Trung Hoa chèn ép, vừa không vượt lên chế độ phụ hệ được,
đã phân hóa thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ trôi giạt khắp nơi. Kỹ nghệ đúc đồng
tuyệt diệu của họ lan về các hướng theo đoàn di dân. Và thật đáng tiếc, từ đây
nền văn minh khu biệt của từng đoàn người lưu vong lần hồi thoái trào, trống
đồng ngày càng thô hơn.
Một
điều rất lạ là trung lưu sông Hồng và dòng Tây Giang khá giống nhau. Tây Giang
trước khi ra biển thì chảy qua thành phố Quảng Châu với tên Châu Giang. Thủy
Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên có viết về Diệp Du Hà với thượng nguồn thuộc tỉnh
Vân Nam, chảy vào Giao Chỉ (Bộ hay Quận?) tụ thành 3 nhánh rồi xuôi hướng đông.
Thật khó đoán định Diệp Du Hà là sông Hồng hay Tây Giang. Có thể đây cũng là
một nguyên nhân khiến cho Văn Lang Phong Châu và Văn Lang Tây Giang ngoài yếu
tố chủng tộc tương đồng, còn giống nhau ở mô tả địa lý trong sử sách và văn
ngôn truyền khẩu.
Văn
Lang Phong Châu ở góc độ nào đó, là bước lùi so với Văn Lang Động Đình Hồ. Con
người Văn Lang mất quá nhiều thứ trên đường đến châu thổ Hồng Hà. Ràng buộc
giữa các thị tộc ngày càng lỏng lẻo, dân ít, địa bàn cư trú dàn trải, lũ lụt
chia cắt, dần dần thủ lĩnh tối cao mất hết quyền lực, trở thành biểu trưng tinh
thần đơn thuần. Hình ảnh vua Hùng trong thực tế cuộc sống tự động biến mất,
nhưng nó mãi mãi lưu truyền giữa tâm thức con người Văn Lang để hoài nhớ về một
thời hoàng kim bất diệt.
4. Việt Thường Quốc, Lạc Việt, Âu
Lạc, Âu Cơ, Lạc Long Quân
a.
Việt
Mở
đầu Việt sử tiêu án (1775), Ngô Thì Sĩ viết: “Xét theo thiên Vũ Cống, nước Việt
ở về phía nam đất Dương Châu. Theo sách Thiên Quan (quan sát bầu trời) từ sao
Bắc Đẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là tinh kỷ. Kể về
sao thì ở về ngôi Sửu, cùng một phận dã tinh truyện với nước Ngô. Cõi nam là
Việt môn, có rất nhiều nước như Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt cho nên gọi là Bách
Việt”.
Theo
bản đồ thiên văn quốc tế hiện nay thì vùng Bách Việt này nằm trong khu vực giới
hạn bởi thiên kinh tuyến 105 và 120 độ đông, thiên vĩ tuyến 20 đến 32 độ bắc.
Ngôi Sửu và tinh kỷ bảy độ từ Khiên Ngưu (tức ngôi Anpha
chòm Aquila – Thiên ưng, tên riêng là Altair) tới Chức nữ (tức ngôi
Vega của chòm Lyra – Thiên Cầm) hoàn toàn thuộc vùng này. Nguyễn Duy Hinh trong
quyển “Văn Minh Lạc Việt” ghi nhận thiên Luật lịch chí của Hán Thư 4 lần ghi
tên một ngôi sao là Việt. Tôi tìm trên bản Hán Thư ở mạng Quốc Học của Trung
Quốc thì không thấy, nên tạm nêu ra để dò hỏi thêm.
Trong
chiều hướng thiên văn khởi đi từ đài quan sát Nam Giao tại Kinh Thư, đến Hán
Thư và sách Thiên Quan mà Ngô Thì Sĩ đã dẫn, tôi xin đề nghị một cách hiểu mới
của từ Việt: Từ “Việt” (bộ tẩu) đã có sẵn trong vốn ngữ vựng của người Hoa Hạ,
đến đời Thương nó cũng đã được dùng trên các mảnh giáp cốt. Trong ngành thiên
văn, “Việt” được các nhà quan sát dùng để chỉ khu vực phía nam Giao Chỉ và đặt
tên cho một chòm sao xa xôi. Dùng thiên văn đoán định các vùng đất mà con người
chưa có điều kiện thâm nhập là cách làm có hệ thống của văn minh Hoa Hạ - Trung
Nguyên. Trường hợp từ Cửu Chân và Nhật Nam ở trên là sự liên tục của
hệ thống ấy. Ở góc độ dân gian hoặc không thuần chuyên môn của ngành hẹp thiên
văn, huyền bí hóa các tác nghiệp này, người ta thường xem sao để xét thịnh suy
một vùng đất hoặc con người, sao sáng được ví với vượng khí, đản sinh ..v.v..
và ngược lại là khí suy, chết chóc... Năm tháng qua đi, người Hoa Hạ dần dần
nâng sự hiểu biết của mình về vùng đất phía nam xa lạ bằng những cuộc thám hiểm
rồi tranh chấp, xâm lấn đất đai. “Việt” được khoác thêm nghĩa “vượt qua dòng
Trường Giang”. Đến đây người Hoa nhận thấy vùng đất này có rất nhiều nhóm dân
tộc trong một diện mạo văn hóa rất chung như xăm mình, cắt tóc. Họ bèn khai
sinh ra thuật ngữ Bách Việt để mô tả. Sau này, các nhà ngôn ngữ học tiếp tục đi
xa hơn nữa bằng cách tạo ra chữ “Việt” mới bộ mễ (lúa gạo) nhằm cụ thể hóa rằng
cộng đồng người phương nam có nền kinh tế trồng trọt mùa vụ với lúa nước là cây
lương thực chính.
b.
Âu, Lạc, Tây Âu, Lạc Việt và Âu Cơ – Lạc Long Quân
Truyền
thuyết Kinh Dương vương có thể giải mã đất tổ của dòng Lạc Việt. Kinh và Dương
là tên vùng đất hai bên bờ trung lưu Trường Giang được mô tả trong thiên Vũ
Cống của Kinh Thư, trung tâm ngày nay của nó là hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam,
Trung Quốc.
Âm
Âu là âm thuần Việt. Dùng Hán tự ký âm ta có hai chữ chính: Âu bộ ngõa và Âu bộ
nữ. Nguyễn Duy Hinh (sách đã dẫn) nhận định: “Trong thuyết văn có chữ Âu.
“Âu tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh Ân Lâu phản”. Nghĩa là: Âu là chiếc chậu
nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu, đọc Ân Lâu phản (tức Âu). Chú ý chữ mà ngày nay
đọc Khu lại đồng âm với Âu, điều đó chứng tỏ ngữ âm đã thay đổi. Chữ Âu viết bộ
Ngõa chỉ đồ gốm, không hề chỉ ý người”.
Chữ
Âu 甌 ghép
bởi chữ Khu 區 (Khang
Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa 瓦 là ngói. Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm
Khu. Ta có mối tương quan giữa các âm như sau:
U
= nhô lên = đồi, núi ~ vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ)
Vú
em = dưỡng mẫu
U
= mẹ
Bu
= mẹ già
Khu
(đất) ~ u = mẹ.
Cho
nên có thể âm Âu = Khu = U = Mẹ = Đất = Núi = Non
Như
vậy nghĩa của Âu Cơ chính là “Bà mẹ cao quý”, “Hoàng mẫu”. Người
Việt Nam hay nói “Mẹ Âu Cơ” là thừa chữ mẹ vì Âu đã là mẹ. Phải chăng
đây là dấu vết đứt đoạn văn hóa? Chữ Cơ hoàn toàn là chữ Hán đã được thêm vào,
ý chỉ người phụ nữ bề trên hoặc trong hoàng gia như các tên gọi nổi tiếng trong
lịch sử Trung Quốc: Ngu cơ, Hạ cơ, Triệu cơ (mẹ Tần Thủy Hoàng)…
Về
chữ Lạc, tác giả xin không nhắc lại các công trình nghiên cứu cũ đã khẳng định
nghĩa gốc của từ Lạc chính là nước mà hai tác giả Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc
đi tiên phong từ năm 1971. Do đó Lạc Long Quân mang nghĩa là “Ông vua rồng của
nước, của quốc gia”, “Hoàng phụ”. Đến đây Kinh Dương Vương sẽ là gì nếu không
phải “Hoàng tổ, người chủ đầu tiên của châu Kinh, châu Dương”. Kinh
ở đây là Kinh Man (nước Sở) và Dương là Dương Việt, Dương Châu (phía nam Ngũ
Lĩnh, Động Đình Hồ).
Theo
tôi, khía cạnh tiêu biểu của truyền thuyết Âu Cơ, Lạc Long Quân là một công
trình mật mã hóa quan niệm rất xưa về quốc gia của người Lạc Việt cổ. Họ gọi
nơi mình sinh sống là Đất Nước. Đất hoặc Nước cũng có thể đứng một mình mà vẫn
hàm ý là Đất Nước. Với công thức Đất = Núi = Non đã nêu, dễ hiểu là Đất Nước
cũng bằng Núi Nước và bằng Non Nước. Ngôn ngữ Việt Nam vẫn duy trì quan niệm
này cho đến ngày nay. Cặp từ Non Nước, Đất Nước trong tiếng Việt đồng nghĩa và
hơn nữa chúng có cùng điểm xuất phát. Sử Ký và Hán Thư đã đường hoàng ghi nhận
điều này bằng cách ký âm Việt ngữ trên Hán tự: Âu Lạc = đất nước, Tây Âu Lạc =
Tây Âu = vùng đất phía tây Phiên Ngung. Riêng từ Lạc Việt thì được hình thành
từ hai từ tố Lạc (gốc Việt) và Việt (gốc Hán chỉ các tộc người vùng Trường
Giang).
Khi
đi vào sự liên hệ phức tạp của các chữ, các âm này chúng ta không thể không
nhận ra sự liên hệ văn hóa chằng chịt giữa Việt và Hán. Sự hòa trộn mãnh liệt
hai nền văn minh Hoa Hạ và Thần Nông trên dưới 3000 năm qua đã để lại những mối
tương giao cực kỳ rối rắm và không dễ phân định. Chẳng hạn từ Kim Âu mà Trần
Thánh Tông và Hồ Quý Ly đã dùng. Nếu theo chiều Hán thì nó là cái chậu, cái âu
bằng vàng. Ở chiều Việt nó sẽ mang nghĩa đất vàng, núi vàng. Đặt giả thuyết
người Hán đã vay mượn nghĩa đất vàng, núi vàng này để thành Kim Âu chỉ sự vững
bền muôn thuở thì hoàn toàn hữu lý tuy phải tìm thêm cứ liệu.
c.
Việt Thường Quốc
Việt
Thường Quốc xuất hiện lần đầu trong Thượng Thư: Phía nam Giao Chỉ có Việt
Thường Quốc. Như đã tiền luận Giao Chỉ đầu thời Chu là vùng Đan Dương
(hiện thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Phía nam Giao Chỉ tức là bờ nam Trường Giang,
là Động Đình Hồ là đất tổ của người Lạc Việt. Người Lạc Việt gọi tổ quốc, gọi
mảnh đất mình sống là Đất Nước, hoặc Nước. Người Trung Nguyên dùng Hán tự ký âm
Đất Nước thành Âu Lạc hay dịch nghĩa Nước là Quốc. Việt Quốc có thể hiểu là
Nước Việt, là Lạc Việt. Vậy thì Việt Thường Quốc có liên quan đến Lạc Việt hay
không sẽ nằm trong ngữ nghĩa của từ “Thường”.
Sử
cũ của người Việt rất bất nhất: An Nam chí lược của Lê Tắc (1335) xem Việt
Thường thuộc Cửu Chân, tức Thanh Hóa ngày nay. Đại Việt sử lược (1388) xếp Việt
Thường trong 15 bộ lạc xưa của Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư (1697)
coi chữ Việt trong Việt Thường là cội rễ của tên gọi Đại Việt sau này, Giao Chỉ
cũng như Việt Thường đều thuộc Bách Việt, Châu Dương. Việt sử tiêu án của Ngô
Thì Sĩ (1775) cho rằng Việt Thường là 1 trong 15 bộ của Văn Lang và diễn giải
nước Việt khi đến giao hảo với nhà Chu tự xưng là Việt Thường. Khâm Định Việt
sử (TK 19) định vị Việt Thường thuộc Thuận Hóa, miền trung Việt Nam, cũng là 1
trong 15 bộ của nước Văn Lang.
Ai
cũng biết "thường" thuộc bộ y mang nghĩa sơ khai là cái
"quần". Cho nên tôi đoan nghi chữ "thường" mà cổ văn Trung
Hoa gán thêm cho người Việt chính là tấm "khố" đặc trưng của văn minh
Lạc Việt, của người Văn Lang (như mô tả trong truyện Chử Đồng Tử chẳng hạn) và
hiện nay nó vẫn minh diện trên trống đồng. Trong chiều hướng này, "Việt
Thường Quốc" là Nước Việt (Lạc Việt), nơi có những con người mặc khố và ở
trần. Tục đóng khố ở trần của người Lạc Việt xưa cũng được nhắc đến trong Sử
Ký, quyển 113 Nam Việt Uý Đà Liệt Truyện: “Kỳ Tây Âu Lạc lõa quốc diệc xưng
vương”. Hán Thư (quyển 109) biên tập lại Sử Ký làm rõ hơn: “ Tây hữu Tây Âu kỳ
chúng bán nuy nam diện xưng vương”. Chữ “Lõa” của Tư Mã Thiên đã được Ban Cố diễn
giải là “Bán nuy”, tức “khỏa thân nửa người hay ở trần”. Ngoài ra với nguyên
tắc "đồng âm thông giả", "thường" có thể là bình thường,
nhỏ, bé... (như trong từ thường dân). Do đó "Việt Thường Quốc" cũng
có thể là Nước Việt nhỏ, nước bình thường, kẻ ở chiếu dưới so với nhà Chu.
Xin hiểu đây là kiểu mà sử sách Trung Hoa hay dùng để chỉ các nước phi Hán một
cách tự cao tự đại. Hiển nhiên trong trường hợp này "thường quốc"
khác hẳn "thuộc quốc", nó chứng tỏ sự độc lập không thể khác được từ
buổi bình minh lịch sử của Lạc Việt.
5. Giải cấu truyền thuyết An Dương
Vương
Gần
đây, việc khám phá di chỉ Tam Tinh Đôi [9] cách Thành Đô (Tứ Xuyên) 40km đã hé
mở một nước Thục cổ đại có lịch sử từ năm 3000 TCN. Văn minh Thục phát triển
rực rỡ, đã hình thành lối quần cư đô thị bề thế hơn cả đỉnh cao triều đại
Thương – Ân. Họ là dân tộc đầu tiên của nhân loại biết sử dụng gạch chưa nung
để xây nhà cửa, thành quách. Theo nhiều nhật báo Trung Quốc mới đây, vết tích
tường thành cũ niên đại trên 3000 năm ở Tam Tinh Đôi lớn hơn cổ thành thời
Thương tại đất Ân rất nhiều. Phải chăng Thục là nhánh “lên ngàn” của văn minh
Thần Nông (tức Tây Âu, anh em với Lạc Việt) hoặc một nhánh của đoàn di dân Tiền
Đông Nam Á? Sử ký, phần “Truyện Trương Nghi” kể rằng Tần Huệ Vương đã nghe lời Tư
Mã Thác đánh Thục, truất phế Thục Vương làm chức Hầu. Như vậy hoàn toàn có khả
năng Thục Hầu và một bộ phận nhân dân Thục muốn tránh nhà Tần bạo ngược đã lên
đường lưu vong. Đoàn người đi về phương Nam tạo nên cộng đồng Khương, sau này
bị nhà Hán lấn tiếp, họ theo dòng Cửu Long đến vùng đất Campuchia ngày nay và
góp phần xây dựng nên nền văn minh Khơ Me kiêu hùng. Đoàn người đi về hướng
đông nam vượt dòng Trường Giang đến Quí Châu và tây bắc Quảng Tây. Việc họ
thành lập một quốc gia mới là rất khả dĩ.
Á
Đông cổ xưa chỉ có hai cộng đồng Hán và Thục sử dụng thành quách ở những vùng
đất bằng phẳng như Trung Nguyên, Tứ Xuyên. Ngay cả Triệu Đà cũng không nghe nói
đã xây thành trì vững chắc tại Phiên Ngung, một phần cũng vì Phiên Ngung đồi
núi lô nhô. Chi tiết mô tả trong trận đánh giữa Phục Ba và Kiến Đức – Lữ Gia
tại Sử Ký là xác chứng: quân của Kiến Đức – Lữ Gia bỏ thành ra hàng rất nhiều,
họ nhận ấn Hán quan rồi lại quay vào thành để chiêu dụ người khác. Xét ra thành
của Triệu Đà chẳng qua là những chiến lũy đơn giản, lấy địa thế mà lập vậy. Năm
đó người Hán chỉ mới đến Phiên Ngung, công nghệ để xây thành Cổ Loa của An
Dương Vương tại đồng bằng Tây Giang có gốc Thục Tứ Xuyên là hợp lý.
Sự
kiện An Dương Vương là con vua Thục đến đây có thể đã sáng tỏ. Nước Thục (Quí
Châu – Quảng Tây) giáp giới với Văn Lang Tây Giang. Vua Thục cho người qua hỏi
con gái Hùng Vương Tây Giang làm vợ nhưng bị từ chối. Đời sau, một trong những
con trai vua Thục tấn công Hùng Vương, chiếm toàn bộ đất đai của Văn Lang Tây
Giang rồi thành lập nước Tây Âu Lạc. Thành Cổ Loa 9 vòng cao ráo và vững chãi
trong truyền thuyết có khả năng ở đồng bằng Tây Giang chứ không thể nằm ở đồng
bằng sông Hồng được. Khảo cổ hiện đại Việt Nam đã không tìm ra những di vật cần
thiết tại di chỉ Cổ Loa Đông Anh để xác chứng đó là Cổ Loa của An Dương Vương
là dễ hiểu. Chương “Nam Việt Úy Đà liệt truyện” của Sử Ký chép về nước Tây Âu
Lạc này rất rõ, nhiều sử gia không liên hệ được sử liệu đã mạnh dạn nghĩ Tư Mã
Thiên viết nhầm Âu Lạc thành Tây Âu Lạc! Sử Ký không chỉ 1 lần khẳng định về
nước Tây Âu Lạc và người Âu Lạc. Thái Sử Công nói về chiến tranh biên giới giữa
Nam Việt và Mân Việt: “Âu Lạc tương công Nam Việt động dao, Hán binh lâm cảnh
Anh Tề nhập triều”, phải hiểu là “Người Âu Lạc (ở Nam Việt) đánh nhau (với Mân
Việt) làm nước Nam Việt dao động, quân nhà Hán phải can thiệp, (mang ơn nhà Hán
nên) thái tử Anh Tề vào triều đình (làm con tin)”. Chương Triệu Thế Gia được
đời sau bổ chú: “Sách Dư Địa Chí nói thời Chu Giao Chỉ là Lạc Việt, thời Tần là
Tây Âu, họ vẽ mình, cắt tóc ngắn để tránh giao long. Tây Âu Lạc ở về phía tây
Phiên Ngô (tức Phiên Ngung). Nam Việt và Âu Lạc có rất nhiều họ (chữ Hán là
thiên tính: hàng ngàn họ, khác với bách tính của người Trung Quốc là hàng trăm
họ). Sách Thế Bản cũng viết người Việt nhiều họ, có cùng tổ tiên với người Sở”.
Chiếu theo chuỗi luận xuyên suốt ở bài khảo cứu này thì không khó nhận ra Lạc
Việt là một vùng đất rất rộng lớn bao gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông đổ
về phương nam.
Sau
khi gồm thâu lục quốc nhất thống Trung Nguyên, năm 214 TCN Tần Thủy Hoàng sai
Đồ Thư đem 50 vạn quân và dân ô hợp vượt Ngũ Lĩnh, đánh Bách Việt chiếm lấy
vùng đất phía đông nam nước Tần rồi lập ra các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng.
Nước Tây Âu Lạc của Thục Phán nằm trong Tượng Quận. Văn Lang Phong Châu phía
nam Tây Âu Lạc hoàn toàn không dính dáng đến cuộc chiến kia. Tượng là một quận
ảo, không cần thiết tìm hiểu Văn Lang Phong Châu có thuộc Tượng Quận hay không.
Nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đã vào rừng kháng chiến và kết quả là
đã giết được Đồ Thư.
Sách
sử Việt Nam và Trung Quốc đều ghi nhận sơ sài Triệu Đà người huyện
Chân Định (nay thuộc Hà Bắc, TQ). Không ai xét sâu hơn Chân Định vốn là đất
Triệu thời chiến quốc. Sử Việt chép theo sử Trung Quốc, còn sử Trung Quốc tuân
thủ tư tưởng đại nhất thống của triết học Tiên Tần (khởi đi từ Khổng Tử, với
nguyên ủy “Tôn Chu nhương Di, nội chư Hạ nhi ngoại Di địch”) nên xóa hẳn các
tên gọi của Tam Tấn. Tần Đại Đế áp dụng thành công tinh hoa nhân đạo của triết
học Tiên Tần, đã chấm dứt vĩnh viễn cảnh chiến quốc nồi da xáo thịt. Tần Thủy
Hoàng ra đời tại kinh đô Hàm Đan nước Triệu. Mẹ Triệu Cơ của ông, được Sử Ký
ghi nhận là con nhà tai mắt tại đấy. Khi cha ông theo Lã Bất Vi trốn về Tần, mẹ
con Tần Thủy Hoàng phải ẩn mình trong dân chúng Triệu và chịu nhiều cảnh cơ
cực. Sau khi Trung Nguyên nhất thống, người Triệu lại phải họa đi xây Trường
Thành, họ căm tức vua Tần nên bịa chuyện dè bỉu Tần Thủy Hoàng là con hoang của
Triệu Cơ và Lã Bất Vi. Dân gian còn đem cả nàng Mạnh Khương gần hai trăm năm
trước từ nước Tề đến khóc bên Trường Thành để trù úm đại công nghiệp của vua
Tần. [10] Sẵn ác cảm cũ, vua Tần bắt rất nhiều con dân cứng đầu cứng cổ ở Triệu
xung vào đạo quân viễn chinh của Đồ Thư. Triệu Đà ở trong số đó. Sau này cháu
Triệu Đà là Minh Vương Anh Tề làm con tin ở Trường An cũng thành thân cùng một
người con gái nước Triệu (Sử Ký viết là người huyện Hàm Đan). Bà ta chính là Cù
hậu, do làm nội ứng cho nhà Hán chiếm Nam Việt, nên đã bị thừa tướng Lữ Gia
giết. Những người Triệu bị đày tập trung tại quận Nam Hải thời đó đã quần cư và
tạo thành nhóm dân tộc nhỏ mang tên Triều Châu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông
Trung Quốc hôm nay.
Năm
208 TCN Triệu Đà thành lập nước Nam Việt. Hán Cao Tổ bình định xong Trung
Nguyên không còn sức giải quyết Nam Việt, nên năm 196 TCN đành phong Triệu Đà
làm Nam Việt Vương, và dặn Nam Việt phải hòa hợp với Bách Việt. Khi Cao hậu
tiếm quyền, Trường Sa Vương cấm vận kinh tế Nam Việt hòng làm Nam Việt suy yếu
để dễ bề xâm lăng. Triệu Đà lập tức đem quân đánh Trường Sa, cắt đứt đường
thông thương với nhà Hán và chốt giữ các nơi hiểm yếu. Cao Hậu sai Lâm Hi Hầu
hỏi tội Triệu Đà, chiến cuộc biên cương giằng co hơn một năm rồi nhà Hán bãi
binh vì đám tang Cao Hậu.
Rảnh
tay với Hán, Triệu Đà dùng tiền của đút lót quý tộc Tây Âu Lạc và Mân Việt để
hai nước này chịu lệ thuộc. Sự kiện Trọng Thủy kết hôn với Mỵ Châu chắc chắn
ghi nhận thỏa hiệp dễ dãi của những người lãnh đạo Tây Âu Lạc trước âm mưu của
Triệu Đà. Trận chiến đánh vào lòng người toàn thắng, năm 179 TCN Triệu Đà tấn
công và sát nhập Tây Âu Lạc vào Nam Việt. Từ đó Nam Việt rất rộng lớn, Triệu Đà
đường hoàng tự xưng Nam Việt Vũ Đế, đi xe mui lụa vàng như vua Hán. Triệu Đà
người Hoa Bắc chỉ quen đánh nhau trên bộ, cho nên không thể tồn tại khả năng
ông ta đã tấn công An Dương Vương tại đồng bằng sông Hồng. Mãi đến đầu công
nguyên đường bộ khai thông Hoa Nam và Bắc Việt vẫn rất khó đi nên đoàn quân của
Mã Viện mới phải dùng thuyền.
Một
bộ phận nhân dân Tây Âu Lạc, những con người bất khuất từng giết Đồ Thư, đã đem
tàn quân và bầu đàn thê tử chạy đến châu thổ Hồng Hà. Tôi nghĩ có một nhánh nhỏ
người Tây Âu Lạc ra đi bằng thuyền đã ghé vào bờ biển trung bộ ViệtNam. Họ trở
thành hạt nhân của nền văn minh Chàm bắt đầu khởi sắc từ thế kỷ thứ 2 sau công
nguyên. Những liên hệ Thục – Khơ Me – Chàm trong bài viết này chỉ thuần lý
thuyết, trên cơ sở nghiên cứu văn bản và hình ảnh, nhưng tôi tin đô thị sơ khai
Cổ Loa, cách dùng gạch không nung của người Khơ Me và người Chàm chắc chắn có
dấu ấn văn minh Thục cổ đại.
Người
Tây Âu Lạc và người Lạc Việt ở Văn Lang Phong Châu rất gần gũi về chủng tộc và
có thể họ vẫn còn hiểu ngôn ngữ của nhau sau gần 150 năm xa cách ( tạm tính từ
năm 316 TCN Thục Vương bị Tần truất phế, đến năm 179 TCN năm Triệu Đà thôn tính
Tây Âu Lạc). Nhóm dân Tây Âu Lạc mất nước nhanh chóng hòa hợp cùng nhân dân bản
xứ trên mảnh đất bắc Việt và gọi nơi đây là Âu Lạc. Họ nối các gò đất, đồi nhỏ
thành đê bao ngăn thủy triều và nước lụt tại Cổ Loa, Đông Anh và quần cư trong
ấy. Đến năm 43, Mã Viện củng cố hai vòng ngoài và xây thêm vòng thành nhỏ thứ
ba ở giữa để tạo nên Kiển Thành. Độ cao của dấu vết tường thành Cổ Loa Đông Anh
xấp xỉ cao độ các con đê hai bờ sông Hồng, sông Đuống xung quanh, xác tín giả
thiết Cổ Loa là đê hơn là thành lũy.
Nhân
dân Âu Lạc ở đồng bằng sông Hồng lúc đó đã thoát nạn xâm lăng của Triệu Đà và
yên ổn sinh sống, làm ăn. Họ hấp thu tất cả bản sắc Tây Âu Lạc và những câu
chuyện truyền miệng về Vua Hùng Văn Lang Tây Giang, về “Thục Vương tử” tên
Phán, về thành Cổ Loa, về Nỏ Thần cùng Mị Châu và Trọng Thủy. Chính sự tương
đồng như nhất của hai phiên bản Văn Lang Phong Châu và Văn Lang Tây Giang là
chất keo kết dính con người và lịch sử Việt Nam cổ đại thành một khối
tưởng như không có mối nối.
Chữ
Tây trong Tây Âu Lạc, Tây Âu và Tây Vu ngày nay vẫn còn hiện diện trong tên gọi
Quảng Tây, một tỉnh Trung Quốc giáp biên giới phía bắc Việt Nam. Người Tây Âu
Lạc không di cư xuống đồng bằng sông Hồng hiện tại đã trở thành một nhóm dân
tộc thiểu số lớn nhất ở Hoa Nam và Trung Quốc. Đó là người Tráng cư
trú rải rác ở Vân Nam, Quảng Đông và tập trung chủ yếu tại khu tự trị Tráng
Quảng Tây với thủ phủ là thành phố Nam Ninh, cách Hà Nội chưa đầy 400 km. Theo
số liệu thống kê dân số năm 2000, dân tộc Tráng có trên 16 triệu 178 ngàn người.
Nói chung người Tráng mang bản sắc rất riêng so với dân tộc Hán ở HoaNam. Họ
vẫn sử dụng trống đồng trong các lễ hội đầy màu sắc. Họ cũng có hệ thống chữ
viết hình thành giống cơ sở chữ Nôm Việt Nam. Nơi lưu giữ truyền thống
chính yếu của dân tộc Tráng là tổ chức làng xã với câu nói bất hủ: “Thà bán
ruộng đồng của cha ông để lại còn hơn bán đi ngôn ngữ riêng của cả dân tộc”. Ký
ức dân gian của họ vẫn còn nguyên câu chuyện hoàng tử ở rể với bảo kiếm và nỏ
thần về cơ bản rất giống chuyện Mị Châu – Trọng Thủy của Việt Nam. Trong
nhiều ngữ cảnh chữ Tráng đồng nghĩa với chữ Hùng trong từ Hùng Vương, chúng
cũng có thể ghép lại thành một từ hoàn hảo hơn là “Hùng Tráng”.[11]
Năm
111 TCN Nam Việt bị Lộ Bác Đức xóa tên khỏi bản đồ. Nhà Hán cho người sang thuyết
phục nhân dân Tây Âu Lạc theo mình, với chính sách rất thâm độc là để quí tộc
Tây Âu Lạc (những kẻ đã bị Triệu Đà mua chuộc) tiếp tục quản lý những vùng đất
của họ. Sử Ký viết: “Hoàng Đồng từng là tả tướng Âu Lạc. Ông ta chém Tây Vu
vương để theo nhà Hán và được phong làm Hạ Lệ Hầu năm 110 TCN”. Theo tôi Tây Vu
không phải địa danh mà chỉ là khái niệm vùng đất chư hầu phía tây với gốc tọa
độ là kinh đô Phiên Ngung của vua Nam Việt. Rất dễ hiểu Tây Vu chính là Tây Âu
Lạc sau khi bị Triệu Đà thôn tính. Các sử gia sử dụng Tây Vu như một địa danh
đã vô tình xem Tây Vu ở Tây Âu Lạc cũng là Tây Vu ở Âu Lạc thời Mã Viện (tức
vùng đất phía tây đồng bằng sông Hồng). Chi tiết này rất quan trọng, nó làm cho
người ta tưởng Tây Âu Lạc (Quảng Tây) và Âu Lạc (Bắc Việt Nam) là một. Hậu
Hán Thư, Mã Viện liệt truyện viết: “Viện tấu ngôn Tây Vu huyện hộ hữu tam vạn
nhị thiên, viễn giới khứ đình thiên dư lý, thỉnh phân vị Phong Khê, Vọng Hải
nhị huyện, hứa chi. Viện sở quá triếp vi quận huyện trị thành quách, xuyên cừ
quán khái, dĩ lợi kỳ dân”. Nghĩa là: “Mã Viện tâu rằng vùng đất phía tây của
huyện đặt sở trị (có thể là Long Biên của Tô Định hoặc Mê Linh) có ba vạn hai
ngàn hộ, từ biên giới xa đến sở trị hơn ngàn dặm, xin chia thành hai huyện
Phong Khê, Vọng Hải, (vua) đồng ý. Viện nhân đó liền lập quận huyện sửa thành
quách, khơi thông kênh rạch tưới tiêu, làm lợi cho dân chúng”. Trong câu Hán
văn, chữ “huyện” nằm sau “Tây Vu” với chữ “đình” trong cụm “viễn giới khứ đình”
có sự liên hệ ngữ cảnh. Sơ ý một li bỏ qua ngữ cảnh ấy đã khiến thành Cổ Loa
truyền thuyết của An Dương Vương đi trên dưới 300 km từ Quảng Tây đến Đông Anh
Hà Nội! Cho dù từ Tây Vu của Mã Viện có là tên huyện thật đi nữa, thì đến đây
vẫn phải phân biệt Tây Vu của Phiên Ngung không thuộc đồng bằng sông Hồng.
Năm
110 TCN nhà Hán phong tước cho Hoàng Đồng. Sau đó Thạch Đái được cử sang làm
Thứ sử Giao Chỉ bộ, phủ trị ở Quảng Tín, quận Thương Ngô. Với sự giúp sức của
Hoàng Đồng, Thạch Đái ủy lạo và hợp thức hóa danh vị Lạc Hầu, Lạc Tướng bằng ấn
đồng đeo cổ. Chắc chắn mục đích tối thượng của Thạch Đái là âm thầm chia rẽ các
liên minh của quí tộc Tây Âu Lạc, không cho Lạc Hầu, Lạc Tướng có cơ hội đoàn
kết xây dựng nhà nước chống xâm lăng.
Trong
hệ thống hành chính Hán, nước Tây Âu Lạc trở thành quận Hợp Phố. Tôi cả quyết
điều này vì trong 9 quận của Giao Chỉ Bộ thì Chu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải
Nam, Nam Hải tức Phiên Ngung và Uất Lâm tức Quế Lâm thuộc nam Quảng Đông và bắc
Quảng Tây; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam chỉ là khái niệm về các vùng đất phương
nam; còn lại Thương Ngô và Hợp Phố để suy xét. Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt
truyệt viết: “Thương Ngô Vương Triệu Quang là người cùng họ với Việt Vương,
nghe quân nhà Hán đến, cùng quan huyện lệnh Kê Dương của Việt tên là Định tự
quyết định đi theo nhà Hán; quan giám quận Quế Lâm của Nam Việt là Cư Ông dụ
dân Âu Lạc đi theo nhà Hán”. Rõ ràng cái tên Thương Ngô đã có trước năm 111
TCN. Chúng ta chỉ còn mỗi chọn lựa là nhà Hán đã lấy đất Tây Âu Lạc làm quận
Hợp Phố.
Đồng
bằng sông Hồng giờ đây được người Hán gọi là quận Giao Chỉ, một quận ảo, một
vùng đất nằm trong hệ thống khái niệm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nền chính
trị xã hội Âu Lạc chưa đủ chín để thống nhất các khu tự trị riêng biệt của tù
trưởng, tộc trưởng thành quốc gia, song với kinh nghiệm xương máu ở Tây Âu Lạc,
người Âu Lạc chắc cũng có những quan hệ mềm dẻo với các quận lân cận của nhà
Hán. Người Thục gốc Tây Âu Lạc mang theo văn minh đô thị đến Cổ Loa Đông Anh
dần dần tự đồng hóa mình với cư dân bản xứ. Đặt giả định Âu Lạc là một nhà nước
hoàn thiện, con người Âu Lạc có ý thức sâu sắc về quốc gia và từng bị Triệu Đà
thôn tính bằng quân sự (như quan niệm của sử sách Việt – Trung lâu nay), ta sẽ
thấy diễn biến lịch sử ôn hòa từ năm 111 TCN đến năm 34 tại đồng bằng sông Hồng
là không bình thường.
Thực
ra những địa danh, nhân danh của khu vực phía nam Trường Giang ghi trong cổ sử
Trung Quốc như Sử Ký, Hán Thư, Hậu Hán Thư rất tương đối và khập khiễng. Sử gia
phải dùng Hán tự ký âm địa phương ngôn nên khá khó khăn, hậu quả là đôi khi họ
bỏ qua phương ngôn để dùng chữ Hán thuần khái niệm mô tả tên đất, tên người.
Cái tên Tây Âu Lạc là một ví dụ. Âu Lạc mang nghĩa đất nước, tổ quốc, nhưng khi
đi vào Hán sử Tây Âu Lạc trở thành tên nước. Tuy vậy ngày nay chúng ta không
thể biết An Dương Vương gọi tổ quốc, gọi “Âu Lạc” của mình là gì nên không thể
dẹp bỏ cụm từ Tây Âu Lạc kia.
C.
Tiếng trống đồng Mê Linh
1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu
quyền?
Rất
nhiều sử gia đã đồng tình rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi.
Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà còn sát cánh bên phu nhân của
mình trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mã Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy
vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào thì Thủy Kinh
Chú bỏ lửng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang.
Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mã Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu
báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán
Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu hỏi: Tại sao sử
gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông Thi?
Ý
kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi viết
sử phải “giết” ông Thi, vì nếu ông còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược
lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ hình như theo
chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều,
nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ
Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên
v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt còn ẩn chứa
hàm ý sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy.
Trưng
Trắc và Trưng Nhị đã tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh,
với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ mình là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng
vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà
Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về
lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “Hận người tham bạo, thù chồng
chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa”. Chuỗi luận thật tròn trịa, dễ ru ngủ người
đời. Thật sự nó đã ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm.
Quả
tình ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất “môn đăng
hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân được gia
chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông
bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở
rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc
phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê
Linh. Do đó ta thấy vai trò của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy
hơi khác thường.
Đến
đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ
sang Mê Linh. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến
thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc.
Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị
là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị còn có thể thừa kế cả anh rể mình
nữa, điều này hoàn toàn không có gì xa lạ với nhiều bộ tộc còn chậm tiến trên
thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ
Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. Hình ảnh truyền
thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ
cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một “thái tử” trong cơn nguy cấp. Có thể
tham khảo thêm bộ sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ (năm 233 – 297): “Ở hai huyện
Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu Chân, anh chết thì
em trai lấy chị dâu”.
Tôi
dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông
Hồng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu
hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế
độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đình mang họ mẹ, chỉ các con gái
mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền thì đi xa hơn, quyền hành gia đình và xã
hội nằm tất ở nữ giới, lãnh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ
lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội
dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử và cổ tích
Việt Nam, mặc dù nó đã bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài
bản và công phu.
Lướt
qua một vài truyện cổ tích như Tiên Dung – Chử Đồng Tử (đời vua Hùng thứ 3),
Trương Chi – Mỵ Nương, Ngưu Lang – Chức Nữ, không thể không nhận ra các nữ nhân
“lý tưởng” đều là công chúa, con vua, con trời, giàu có; trong khi đó nam nhân
lại rất nghèo. Nó ngược lại với truyện cổ tích của nhiều nền văn minh khác ở
chế độ phụ hệ, thường lý tưởng hóa người nam trong khi vai nữ nghèo và luôn
thuộc về tầng lớp bình dân.
Rõ
nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm “Mẹ - Đất
(núi)” và “Cha – Nước”. Trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: “Long
Quân nói: Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên
đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng
giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rõ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ
không phải Âm. Minh chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm,
dương khí cực thịnh) hay còn gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là
ngày giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng nào
đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao: “Công cha
như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cặp “Mẹ - Đất
(núi)” và “Cha – Nước” trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đã bị chế độ phụ hệ
hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành “Mẹ - Nước” và “Cha – Núi (đất)”. Bản
thân yếu tố “Thái sơn” rặt Tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của sự thay đổi
ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của bộ phận sinh
dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách tình cờ lưỡng nghi (hào dương
và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm
Thành. Tuy nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ thì rõ ràng giống cái
lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nhìn mà thôi.
2. Một cách lý giải toàn cảnh
Năm
111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của họ
Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang tính
khái niệm theo cách của nhà Tần (nó tương đương với Giao Chỉ của nhàChu) bắt
đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu
Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên
tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.
Sau
hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương nam đã chiếm được và đặt
quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công
nguyên nhà Tây Hán bắt đầu dòm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và
Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ
là Tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là
lãnh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa “thông giao” đến đất mới thăm
dò, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích
Quang còn dang dở thì Trung Nguyên hỗn loạn vì Vương Mãng cướp ngôi.
Năm
23 Lưu Tú dẹp được Vương Mãng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn
trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để
nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân.
Những chính sách mị dân mà Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ còn
lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc hình thức khá ngây thơ. Đến tận
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim gần đây vẫn còn viết: “Người ấy
(Tích Quang) hết lòng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân
trong quận có nhiều người kính phục”. Và “Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm
Diên, làm đền thờ.”
Năm
34, có lẽ do chủ quan khi nhận định tình hình sau hai cuộc thám sát, Hán triều
cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân
hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy
bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân,
chứ không thể mãi mãi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô
Định đã tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán luật
vào đời sống nhân dân sở tại. Không còn những hành động khoan hòa vờ vĩnh kiểu
Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đã bị xâm hại nghiêm trọng. Trưng
Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức
ép thực dân nhiều nhất đã đứng lên hiệu triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết
đánh đuổi thù chung.
Hai
Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng tình hưởng ứng khắp
nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra trò nào để sử sách hoặc dân
gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở
trên là hợp lý. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh
đấm gì được.
Cuộc
hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là
tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới
xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh.
Mùa
xuân năm 42 Mã Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh
nghiệm lọc lõi của một tên tướng phong kiến, Mã Viện kiên nhẫn đóng quân tại
Lãng Bạc và nghe ngóng tình hình. Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất
bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba Vì). Mã Viện tiếp tục truy
kích và tháng giêng năm 43 đã bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu
được vài tháng nữa mới tan rã. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng
là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quý Mão, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng
bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một
là Mã Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí
ra trình diện. Hai là Mã Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi nhân dân thuần phục
nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc một điều Hai Bà
Trưng đã không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ mình.
Sự
kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mã Viện dẫn đến một liên tưởng hơi ngoài
lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số của Mã Viện nhưng chỉ riêng cánh
tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính.
Vậy ít nhất Mã Viện phải thống lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh
với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mã Viện đã giết hại cả ngàn quân của Hai
Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lãng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà
Trưng cũng tròm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mã Viện. Với lực lượng
bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự nằm tại đồng bằng sông
Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết của tác giả bài này), thì tại
sao Hai Bà Trưng không củng cố thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài
thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay,
không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có
hơn 2 năm để chuẩn bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An
Dương Vương và Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi
chứng phủ nhận.
Xin
tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể
có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên bình diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục
cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc
mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô hình xã hội
tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phân công lại lao động, đưa
con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đã phải đương
đầu với Mã Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lõi của
Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân
biệt trình độ nhận thức.
Đền
thờ Hai Bà Trưng tại Mê Linh, Vĩnh Phúc, ngoại thành Hà Nội
3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa
Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử
trảm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu
Chân (Thanh Hóa). Mã Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 thì hoàn thành
cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất
khuất không nhỏ đã lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lý
và là chi tiết quan trọng, vì trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông
Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những
con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo
đường bộ, rồi hòa lẫn vào những bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ
Việt Nam ngày nay. Họ đã góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành
sau này.
Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc
mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia:
1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở
đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số
của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán
đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo
Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác
trên một diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri
Sembilan dịch nghĩa là “Nước (số) chín”. Chữ “nước” ở đây đồng nghĩa với chữ
“Nagar - nước, xứ sở” của người Chiêm Thành và chữ “Lạc – nác, nước” của
người Lạc Việt xưa. Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng
64 km.
Nền văn hóa của hai cộng đồng này
mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền
thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ
chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng
đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak
Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em
gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa
Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết
bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc,
Trưng Nhị [12].
Về đời sống, nam giới có trách
nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới
chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái mình và những đứa cháu.
Nữ giới lập gia đình thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đã lập gia
đình luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đình, thậm chí
họ còn ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là
những nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn
hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đình đi tìm tương
lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các
ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đã vài thế kỷ. Tuy nhiên
truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đã hòa hợp một cách đáng ngạc nhiên.
Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại
trong những cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn
hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du
lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính
đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch
người Minangkabau đã không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và
đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền.
Kiến trúc truyền thống Minangkabau
cũng khiến không ít người suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những
ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi
nhà sàn hình thuyền, một mặt lại giống mái cong của đình chùa Việt Nam [13]”.
Xin hãy tham khảo một giai thoại
Minangkabau [14]: Ngày xưa có một mối bất hòa giữa người Minangkabau và người
Java, thay vì giải quyết bất hòa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần
thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng
lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java
rất tin tưởng con trâu của mình sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đã thắng
mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc
một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ mình. Lập
tức nó rúc vào bụng trâu để tìm vú. Con trâu kềnh càng đã bị chết vì dao đâm
thủng bụng. Và người Minangkabau đã chiến thắng. Cũng theo giai thoại này
Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu.
Bất kỳ người Việt nào cũng tìm
thấy ở câu chuyện trên một thứ gì đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng
bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với
truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị
nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và lòng yêu chuộng hòa bình, hòa hợp, lấy
trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và tôi chợt hiểu,
linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do
Việt Namtổ chức, tức Seagame 2003, đã được chọn bằng tâm thức văn hóa,
lịch sử.
Phải chăng người Minangkabau
ở Indonesia vàMalaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà
Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc,
Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm phụ
nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần.
4. Bà Trưng Trắc chính là vua Hùng?
Xưa từ Hùng ý chỉ thủ lĩnh một
vùng. Tùy Thư (thế kỷ VII), thiên Địa Lý Chí Hạ còn ghi “Người man (tức người
Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng”. Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa
phận trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xã ngày nay. Chữ “Làng” có thể
xuất phát từ chữ “Lang” trong “Quan Lang”, người Mường gần đây vẫn còn Quan
Lang. Vậy có thể hiểu “Hùng” là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên minh thị
tộc mẫu hệ sẽ hình thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn
là lãnh tụ của nhà nước sơ khai ấy.
Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ
tộc Lạc Việt cổ từ Động Đình Hồ vẫn còn gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia,
nó thể hiện trong truyền thuyết xung đột giữa “Thục vương tử” và Vua Hùng.
Tuy vậy trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của
An Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức bình định Nam Việt), những nhóm người
đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đã không thể bảo tồn hình thái xã hội
Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại
ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với kinh tế hái lượm, săn
bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương
trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là tình hình dân số của các bộ tộc Lạc
Việt ở đồng bằng sông Hồng đã được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc
của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng đã liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau
đánh đuổi Hán quan, xưng vương. Như vậy hoàn toàn có thể xem Trưng Trắc chính
là vị Vua Hùng đầu tiên của mảnh đất tiền Việt Nam.
Ở xã hội Lạc Việt cổ, trống đồng
là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến
tranh thì trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ
họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là
câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mã Viện với quốc bảo trống đồng. Thật
vậy, Mã Viện nam chinh đã phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái
lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi
giết hại vợ chồng bà Trưng, Mã Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống
đồng nhằm bẽ gãy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước.
Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, còn hiện tượng Mã Viện nấu đồng
đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác
định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn
lòa xòa che mắt sự thật lịch sử.
Tôi đã gặp rất nhiều người
Việt Nam không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc
cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lý. Họ bảo
không như người Tráng tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những
thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng
sông Hồng năm 179 TCN) vẫn còn sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt
Nam chỉ đào được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mã
Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đã phải đành đoạn
chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu mình mãi mãi trân trọng và giữ
gìn nó
Cùng với việc hủy hoại trống đồng
và làm tan rã hình thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mã Viện
đại diện cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị
là Làng, Xã. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người
Việt Nam đã luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng.
Từ “Làng Nước” sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu
nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn
mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có quốc
gia rồi, thì làng xã lại trở về thế đối lập một cách tương đối với các chính
sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung hòa lợi ích nhà
nước và làng xã, mỗi làng đã được chính quyền chọn ra một vị thần được ưa
chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy mâu thuẫn đã được giải
quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng là thánh linh (hoặc một
con người có thật đã được thánh hóa), được ông vua của cả nước hợp thức hóa
bằng một văn kiện.
5. Kết luận
Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một
thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Động Đình Hồ, từ châu Kinh, châu Dương
bên bờ Trường Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được hình thành.
Đến Trưng Trắc thì sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn
đã tận mà thủy thì mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp
nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngã.
Máu lưu vong trước nghịch cảnh
chính trị của tiên tổ người Việt Nam đã hơn một lần bùng phát, già
ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền,
một nhánh họ Lý đã chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân
tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú.
1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa
khắp năm châu. Ai đó đã có lần so sánh người Việt Nam với dân Do
Thái ở góc độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào.
Tự đặt mình vào bối cảnh năm 40
sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy hình ảnh sáo mòn Hai Bà Trưng “phất cờ khởi
nghĩa” có vẻ không hợp lý. Nên chăng hãy hình dung những hồi trống đồng liên
hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền hòa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc
này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lãnh đạo
của Vua Hùng – Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm
lược.
Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở
bán khai trên đất mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng
hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để
học hỏi, tự hoàn thiện mình. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng
mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng
Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lý Nam Đế cùng các phụ triều
trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không
thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ
nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tròn bắc thuộc
là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh
Việt Nam hình thành trong gian khó và thử thách đã lớn mạnh vượt
bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế
được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp
Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền
khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xã hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự
đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tròm trèm 80 năm mà
thôi.
Nếu không kể đến An Nam Chí Lược
(1335) của một kẻ bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên còn lưu lại đến ngày
này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa
chấm bút lông vào nước lã để viết về ông Thi. Thậm chí họ còn sơ ý nhầm tên
chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời,
Bà Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu
khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ sách
Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và
không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô hình chung đã tô son trát
phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là “vi nhân hữu đảm dũng”.
Kết quả là người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người
đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của bà.
Mảnh đất hình chữ S có tên
Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là
tuyên bố rõ ràng nhất về vai trò lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lý
thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần
bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Hùng đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất
Việt Nam, người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt
Nam.
Trương Thái Du
|