Minh xác: “Làm Sáng Tỏ” hay “Xuyên tạc, Bịa đặt?”
VỀ MỘT TRƯỜNG HỢP TRỘM
CẮP CÔNG TRÌNH
TIM ÓC CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU
Chính Ðạo Vũ Ngự Chiêu
Cách
đây ít hôm, Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, tác giả Thực chất của Giáo hội La-Mã, (2 tập, xuất bản năm 1999), gửi điện
thư cho tôi, yêu cầu lên tiếng về một bài viết của Tú Gàn trên tờ SàiGòn Nhỏ mới xuất bản. Ông bà Quang
còn cẩn thận đính kèm bài viết trên, được gửi đi các mạng lưới online. Tôi chẳng
bận tâm vì Tú Gàn, tức Lữ Giang, tức Nguyễn Cần là người từng được Giáo sư
Quang mệnh danh là ‘chuyên viên phịa sử’
(sách đã dẫn, 1999, II:689), không những chỉ ‘dốt sử,’ ‘thiếu căn bản sử học,’
mà lại ‘đầy gian ý’ (sđd, 1999,
II:653-738). Tệ hại hơn, Tú Gàn, tức Lữ
Giang còn trộm cắp công trình nghiên cứu của người khác, đặc biệt là những
nghiên cứu của tôi trong tập Việt Nam
Niên Biểu, chép vào ‘sách’ của đương sự, mà không hề trưng dẫn nguồn xuất xứ, mập mờ đánh lận con đen rằng từng
tham khảo các tài liệu ‘văn khố’ ngoại quốc. Trâng tráo hơn nữa, Tú Gàn thỉnh
thoảng lại cao giọng chê tôi là ‘phịa’ hay ‘xuyên tạc’ khi các tư liệu của tôi bác bỏ một cách rõ ràng, khẳng định, những điều bịa
đặt xưa nay trong nỗ lực ‘cung văn’ giòng dõi họ Ngô Ðình Khả, Nguyễn Hữu Bài
cùng thành phần trung gian bản xứ dưới thời Pháp đô hộ của Tú Gàn và những tàn
dư của Cần Lao.
Thuộc
loại người tương đối có học (hình như tốt nghiệp trường Luật ở Việt Nam), nhưng
Tú Gàn không những chỉ thiếu sự lương thiện
trí thức mà còn đầy những ý tội [mens rea] và việc tội [actus reus] - tìm đủ
cách nhục mạ, bôi nhọ những người tham gia sinh hoạt cộng đồng và những người
tên tuổi trên những tờ báo chợ-thật không xứng đáng để ghé mắt. Bởi thế, tôi đã
im lặng bấy lâu, dành cho dư luận phán đoán bản chất con người Tú Gàn. Nhiệm vụ
chính yếu một người học sử, theo tôi, là truy tìm những tài liệu mới, hầu tái dựng
các biến cố gần đúng với sự thực nhất, dưới sự hướng dẫn của lương tâm nghề
nghiệp; chẳng nên phí phạm thời gian một cách vô ích vào
những
việc cuồng quay trong chu trình lên men thối của những người chưa chết đã có
mùi tử thi. Nếu đáng chú ý chăng chỉ có các vấn đề liên quan đến khả năng hội
nhập của tuổi trẻ Việt vào quê hương mới của họ, trong chu trình hình thành các
cộng đồng gốc Việt.
Nhưng
mới đây, mạng lưới ‘Lịch sử Việt Nam’
cho đăng lại bài viết mới nhất của Tú Gàn, gọi là ‘làm sáng tỏ’ thêm về Hiệp định Geneva. Bởi vậy, tôi nghĩ khó thể tiếp
tục im lặng.
Bài
minh xác này được viết không thuần nhắm phản ứng lại ác tâm vu khống và mạ lỵ của Tú Gàn tức Lữ Giang. Biện pháp hữu hiệu
duy nhất thực ra là phải nhờ đến pháp luật, như Kỹ sư Bùi Bỉnh Bân, nguyên Chủ
tịch cộng đồng Santa Ana, đã từng lôi bọn côn đồ chữ nghĩa ở hải ngoại, kể cả Tú Gàn, ra trước pháp đình. Nhưng
những ai biết rõ về luật pháp Mỹ cũng hiểu sự nhức đầu của các
phiên tòa dân sự: Nếu bị can thuộc loại sống vô gia cư, chết không địa táng, ví
thử có thắng kiện, chỉ tốn kém tiền bạc và thời gian, cuối cùng chỉ nắm trong
tay một bản án của tòa, mà chẳng sai áp được bao nhiêu tiền bạc hay tài sản. Bởi
thế, đa số đều im lặng, theo đúng lời dạy của Cổ nhân: ‘Thứ nhất sợ kẻ anh hùng; thứ nhì sợ kẻ bần cùng khố giây.’
Bài
minh xác này cũng không được viết để trả lời hay đối thoại với Tú Gàn. Tú Gàn không hề biết đối thoại hay thảo luận
mà chỉ làm một công việc mệnh danh là ‘tinh
tinh tân thời.’ Thời xưa, đối xử với loài tinh tinh, người ta cho chúng uống
rượu say, rồi chăng lưới bắt.
Vào
đầu thế kỷ XXI, ai phí thì giờ bắt những con tinh tinh say rượu ở hải ngoại làm
gì?
Tuy
nhiên, từ vị thế một người nghiên cứu sử học và luật học chuyên nghiệp, tôi cảm
thấy cần khẳng định thêm một lần về Hiệp định Geneva 1954, một Hiệp định mà đại
đa số người Việt của cả hai phe chẳng những
chưa được thông báo đầy đủ, mà còn bị nhiễm độc vì những xảo thuật tuyên truyền
của nhiều phe phái bấy lâu. Hậu quả của sự thiếu thông tin và tuyên truyền này
khiến đại đa số người Việt không hiểu rõ được bản chất của cuộc chiến 1945-1975
nói chung, và nhất là giai đoạn 1954-1975 nói riêng. Trong bài ‘Từ Ðiện Biên Phủ tới Geneva’ (Chính Ðạo,
Cuộc thánh chiến chống Cộng [Houston, TX: Văn Hóa, 2004]) tôi đã trình bày tỉnh
lược nhưng khá đầy đủ về biến cố đã khiến Việt Nam bị chia cắt thành hai chế độ
đối nghịch nhau như nước với lửa, tức giai đoạn hai, cũng giai đoạn kinh hoàng nhất
của cuộc ‘thánh chiến’ giữa hai phe Cộng Sản và Ki-tô giáo. Kết luận chính của
tôi là (1) Cả hai phe Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] và Quốc Gia Việt Nam
[QGVN] chỉ là những tác nhân phụ thuộc
trong việc phân chia đất nước theo vĩ tuyến 17 (phe QGVN không được tham dự việc
thảo luận và ký Hiệp ước; phe VNDCCH bị áp lực của cả ngũ cường để chấp nhận
đình chiến và tập trung quân ở phía Bắc vĩ tuyến 17, với lời hứa hẹn là sẽ bàn
thảo việc tổng tuyển cử hai năm sau, dự trù vào tháng 7/1956); và, (2) Ngô Ðình Diệm mới là người chịu trách nhiệm
chính về việc chia đôi đất nước và dân tộc, khi thành lập chế độ tiền đồn
chống Cộng Việt Nam Cộng Hòa [VNCH] dựa trên các cộng đồng Ki-tô Roma, và từ chối
thảo luận vấn đề tổng tuyển cử dự định vào tháng 7/1956 (dù thực ra, ông Diệm cũng chỉ là một lá bài chống Cộng
bản xứ của Liên bang Mỹ). Thiếu hiểu biết về, hay tảng lờ yếu tố quốc tế
này-trong một thế giới luật kẻ mạnh-chẳng bao giờ có thể nhận hiểu được rõ
ràng, minh bạch những chuyển biến chính trị và quân sự trong nội địa Việt Nam.
Bởi thế mới nảy sinh ra những lập luận ngụy biện, kỳ quái của cơ quan tuyên truyền
của chế độ Ngô Ðình Diệm, và tàn dư Cần Lao ở hải ngoại, như Hồ Chí Minh và Ðảng
CS Việt Nam đã chia cắt đất nước và lòng người qua Hiệp định Geneva vào năm
1954 (sic).
Bài
báo của Tú Gàn, với tham vọng ‘làm sáng tỏ’
Hiệp định Geneva, thực chất chẳng có một
giá trị nào, nếu không phải là một thứ tội ác tinh thần, làm ung hoại tuổi
trẻ, và một hành động mọi rợ văn hóa.
Thay vì làm sáng tỏ thêm vấn đề, nó chỉ tạo
nên sự hiểu lầm và hỗn loạn trong giới độc giả không thành thạo về lịch sử cận
đại Việt, làm sâu dày thêm cảm nhận sai lầm về Hiệp định Geneva giữa Pháp
và VNDCCH, một hiệp ước thành hình do sự dàn xếp và dưới sự chứng kiến của ngũ
cường. Nếu chỉ vì dốt nát sử liệu, hẳn có thể khoan dung độ lượng cho những điều
Tú Gàn đã viết. Nhưng ở đây, Tú Gàn
không chỉ bộc lộ sự dốt nát, mà còn cố tình bịa đặt ra, hoặc lập lại như vẹt,
những chi tiết về những điều khoản chính trị của Hiệp định (đã đạt được thỏa
thuận từ ngày 19-20/7/1954). Những biên khảo nghiêm túc về hiệp định Geneva,
như tác phẩm của Francois Joyaux và nhiều học giả khác trên thế giới, đã trình
bày khá đầy đủ chi tiết về hiệp định này. Nếu muốn đóng góp thêm cho sự hiểu biết
của chúng ta, cần nghiên cứu thêm tại các văn khố ở Việt Nam, văn khố Pháp,
Trung Cộng, Nga, Bri-tên hay Mỹ, để tìm được những tư liệu mới hầu tu sửa những
sai lầm cũ (nếu có). Nhưng Tú Gàn không có
khả năng tri thức và nhất là không thể có phương tiện để nghiên cứu, tìm
tòi thêm tài liệu mới. Khả năng duy nhất của Tú Gàn là cóp nhặt công bố của người khác, cộng với thứ kiến thức hời hợt, sai lầm
do cơ quan tuyên truyền của VNCH ngụy tạo. Tham vọng làm sáng tỏ thêm Hiệp
định Geneva của Tú Gàn bởi thế trở thành cuồng vọng, và một trò cười, khi đương
sự chỉ dẫn ra được đôi ba chi tiết của Ruscio, một học giả Pháp, hay một tướng
Pháp, xuất bản đã lâu, cùng bài báo trên tờ La
Libération của Ðảng Cộng Sản Pháp (chắc chắn không thể chính xác như các
nghiên cứu nghiêm túc của các sử gia và luật gia), hay đôi ba tài liệu tuyên
truyền của Ðảng CSVN. (Cũng không thể không đặt câu hỏi thực chăng Tú Gàn đã đọc
được những tác phẩm trên, hay chỉ
cóp của những người khác mà không chịu trưng dẫn xuất xứ. Cái thói quen gian xảo, trộm cắp công trình tim óc của người khác này
đã thành tật trong tâm tưởng Tú Gàn. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã phân tích
khá tỉ mỉ thói quen cầm nhầm [theft hay larceny] của Tú Gàn trong cuốn Thực chất của Giáo hội La Mã, tập II).
Thành
ngữ Việt Nam cùng những nước Á đông (kể cả Indonesia) có câu: ‘Không ai bới đống phân lên để mình là người
đầu tiên chịu ngửi mùi thối.’ Ðó là lý do chính khiến tôi đã im lặng bấy lâu
trước thái độ khiêu khích, tinh tinh của Tú Gàn và phe nhóm. Nhưng qua bài viết
mới nhất về Hiệp định Geneva, Tú Gàn lại sử dụng luận điệu vu
khống và mạ lỵ quen thuộc, khiến tôi nghĩ đã đến lúc minh xác cùng
thân hữu và độc giả năm châu một số điểm như sau:
■
Thứ nhất, tôi muốn khẳng định, Tú Gàn chẳng biết gì về sử học, cũng chẳng có
bao lăm kiến thức sử. Sự hiểu biết về lịch sử của Tú Gàn chỉ cỡ các học sinh
trung học đệ nhất cấp. Những điều Tú Gàn gọi là ‘làm sáng tỏ’ Hiệp định Geneva thực ra chẳng có chút giá trị gì về sự liệu. Nó không hề đưa ra một tư
liệu nguyên bản hay chính gốc nào, mà chỉ là sự cóp nhặt một cách sai lầm từ các tài liệu tầng hai hay tầng ba của
các tác giả; hoặc do chưa hề tham khảo nguyên bản chính các tác phẩm trên,
hoặc đọc không kỹ, hoặc đọc mà không hiểu, hay xuyên tạc những điều các nhà
nghiên cứu đã viết.
Ðộc
giả muốn rõ về hiệp định Geneva, xin tìm đọc bài ‘Từ Ðiện Biên Phủ tới Geneva’ của Chính Ðạo trong nghiên cứu Cuộc thánh chiến chống Cộng (sđd, 2004).
Bài này cũng đã được phổ biến trên các tờ Người
Việt ở Santa Clara và nguyệt san Ði Tới
ở Canada.
■
Thứ hai, trong bài ‘Phiến Cộng trong Dinh
Gia Long,’ trong tập Cuộc thánh chiến
chống Cộng nói trên, tôi không hề nhắc đến tên Trần Ðộ và cũng không hề gọi
anh ông Diệm-Nhu là ‘phiến Cộng’ chỉ
vì ông Nhu đã tiếp Tướng ‘Trần Ðộ’ ngay tại Dinh Gia Long. Ðây là một sự bịa đặt (phịa sử) trắng trợn của Tú Gàn, tức
Lữ Giang, tức Nguyễn Cần. Sự bịa đặt (phịa sử) này giúp tang chứng để khẳng
định thêm nghề ‘chuyên viên phịa sử’
của Tú Gàn. Ðiều này cũng chứng tỏ Tú Gàn hoặc không đọc sách tôi, hoặc đọc mà
chưa đủ sức hiểu, hoặc đọc mà cứ tảng lờ, viết nhăng viết
cuội cho thỏa cái ác tâm ‘tinh tinh’ chữ nghĩa ở hải ngoại.
■
Thứ ba, Tú Gàn cho rằng tôi không phải là ‘sử gia.’ Ðiều này thì rõ ràng Tú Gàn
đã vượt quá khả năng và giới hạn của
đương sự. Sử gia [historian], theo định nghĩa của các nước văn minh, đã
phát triển như nước Mỹ, là người từng được huấn luyện ngành sử học, tối thiểu
phải tốt nghiệp bằng Tiến sĩ bộ môn Sử học, và tiếp tục dạy hay nghiên cứu
chuyên nghiệp ngành này. Nó không phải là một học vị mà bất cứ ai cũng có thể vỗ
ngực tự xưng, hay tâng bốc ca tụng một
người
nào đó. Cái tôi đáng ghét, và với sự khiêm nhượng tối đa, tôi khẳng định Chính
Ðạo Vũ Ngự Chiêu là một sử gia, với đầy đủ sự huấn luyện chuyên nghiệp, bằng cấp,
tác phẩm bằng Anh và Việt ngữ, cùng những phần thưởng danh dự khác suốt hơn 20
năm qua (như Fulbright scholar 1982-1983, 1985-1986, 2004-2005, v.. v...) Nhận xét
của Tú Gàn bởi thế là sự vu khống
[libel] có ác tâm [malice]. Chỉ một
điểm này thôi, theo dân luật Mỹ, đã mang tội phỉ báng [defamation] rồi, và Tu
chính án thứ nhất của Hiến pháp Mỹ không áp dụng được. Tú Gàn dốt luật Mỹ,
nhưng những luật gia ở Mỹ đều hiểu rõ.
■
Thứ tư, Tú Gàn đi xa hơn nữa là khuyên Nguyễn Hữu Thống đừng nên tham chiếu các
nghiên cứu của Chính Ðạo Vũ Ngự Chiêu. Cũng chẳng sao. Bản thân Tú Gàn có lẽ đã
theo đúng nguyên tắc này, nhất định không ‘tham chiếu’ nghiên cứu của Chính Ðạo.
Nhưng Tú Gàn chỉ trộm cắp tài liệu của Chính Ðạo, in vào ‘sách’
đương sự, mà không trưng dẫn xuất xứ thôi. Xin đan cử vài thí dụ: Tú
Gàn Lữ Giang lấy đâu ra chi tiết về việc Ngô Ðình Diệm từ chức vào tháng 7/1933?
Lấy đâu ra chi tiết ‘văn thư’ [sic] của
Grandjean ngày 26/3/1943 (Những bí ẩn lịch
sử, tr. 413)? Lấy đâu ra chi tiết ngày 22/7/1946, Hồ Chí Minh viết thư cho
Bộ trưởng hải ngoại Marius Moutet xin tiếp tục thương thuyết (sđd, 1999:301).
Nhiều nữa, tôi không tiện nhắc ra đây. Và, chắc chắn các độc giả đã thấy rõ bản chất bịp bợm, dốt nát của Tú Gàn từ lâu.
[Xin đính kèm một Phụ Bản về công trình trộm cắp và phịa sử của Tú Gàn-Lữ Giang
đã được tóm lược trong tập Thực chất Giáo
hội La Mã của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang để những người chưa biết rõ về Tú
Gàn-Lữ Giang thẩm định].
■
Thứ năm, Tú Gàn đưa ra trường hợp Tri huyện Ngô Ðình Diệm bị tố cáo là dùng nến
đốt hậu môn các nghi can Cộng Sản như một bằng chứng tiêu biểu là tôi xuyên tạc
lịch sử. Một lời chỉ trích chẳng có vẻ gì chứng tỏ Tú Gàn từng thực sự học Luật.
Tôi ghi trong tập III của bộ Việt Nam
Niên Biểu, tức Nhân Vật Chí, như sau: ‘Có
người cho rằng Diệm, khi làm tri phủ Hòa Ða, đã dùng đèn cầy [nến] thiêu đốt hậu
môn tù nhân CS để lấy khẩu cung,’ và ghi thêm hai nguồn xuất xứ là Hoàng Trọng
Miên và Bùi Nhung (dẫn chứng từ của Cựu nghị viên trưởng miền Trung là Nguyễn
Trác). Vậy có gì là xuyên tạc lịch sử? Hai ‘người
cho rằng Diệm, khi làm tri phủ Hòa Ða, đã dùng đèn cầy [nến] thiêu đốt hậu môn
tù nhân CS để lấy khẩu cung’ là Hoàng Trọng Miên và Bùi Nhung. Vậy xuyên tạc
hay phịa sử ở chỗ nào? Theo tôi, giá trị những điều hai tác giả trên viết đáng giá hơn, rất xa, chuyên viên phịa sử
và trộm cắp tài liệu của người khác là Tú Gàn-Lữ Giang-Nguyễn Cần.
Trong
bài ‘Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm,
1897-1963’ trong Cuộc thánh chiến chống
Cộng tôi còn ghi thêm nguồn xuất xứ khác là chứng từ trong cuốn Miền Nam giữ vững thành đồng (1964) của
Trần Văn Giàu. Trong một phụ chú khác về chi tiết này, trong Các vua cuối nhà Nguyễn, tập III, để giải
đáp thắc mắc của ông Huỳnh Văn Lang, tôi thêm rằng một người đã cho lệnh tấn
công chùa chiền, bắt giữ tăng ni thì bất cứ việc ác nào cũng có thể làm. (Xem
thêm ‘Mùa Phật đản đẫm máu’ trong Cuộc thánh chiến chống Cộng, với rất nhiều
tư liệu văn khố mới giải mật). Dù tư liệu văn khố về Ngô Ðình Diệm chưa hoàn
toàn giải mật, tôi tin rằng sẽ có dấu vết của những việc làm mà thượng cấp người
Pháp ghi là ‘nghiêm khắc’ của ông Diệm,
khiến Cộng Sản phải thuê cả một sát thủ người Hoa ra tận Phan Rang thanh toán,
nhưng ông Diệm may mắn thoát chết. [Xem thư ngày 21/8/1944, Ngô Ðình Thục gửi
Jean Decoux, do tôi phát hiện năm 1983, công bố trên nguyệt san Lên Ðường năm 1988; in lại trong Việt Nam Niên Biểu, I-A: 1939-1946. Tài
liệu này đã bị Lê Trọng Văn và một cá nhân cùng một trường phái ‘ziết sử’ với
Tú Gàn trộm cắp, tẩy xóa bút phê của Decoux và nhân viên văn khố, in vào ‘sách’
họ. Có người gửi thư rơi đi khắp nơi, vu cáo rằng lá thư trên do Cộng Sản bịa đặt
ra. Thật là lố bịch. Tài liệu tôi công bố là thủ bút có chữ ký của Giám mục Thục,
viết trên tín chỉ [letterheads] của giáo phận Vĩnh Long, có bút phê của Toàn quyền
Decoux sau khi đọc xong, và dấu thị thực sao y bản chính của nhân viên văn khố
Pháp tại Aix-en Provence. Chẳng lẽ hai ông Thục và Decoux đều là Cộng Sản, giả
mạo ra lá thư trên? Trong khi đó một số người vừa dốt sử vừa đầy cảm tính chỉ
nhắm mắt lại phán rằng thư này là tài liệu giả mạo, chẳng cần hoặc không biết đến
việc sử dụng lý trí để phán đoán! Giám mục Ngô Ðình Thục và những
tàn dư Cần Lao khi đưa ra lập luận trên, quên một điều: Muốn người ta không biết
thì đừng làm những việc khuất tất. Lại có người cho rằng tôi có tư
tâm hay ‘ghét’ họ Ngô nên mới công bố lá thư của Giám mục Thục. Thật là một thứ
suy luận hồ đồ. Người nghiên cứu sử nào cũng có bổn phận phải công bố những tư
liệu mới mình khám phá ra; đặc biệt là lá thư ngày 21/ 8/ 1944 của Ngô Ðình Thục
là những lời chứng vô cùng quí báu về sự nghiệp phục vụ bảo hộ Pháp của họ Ngô đất Ðại Phong Lộc,
Quảng Bình. Hơn nữa, đây không phải là tài liệu văn khố duy nhất tôi đã tìm ra
và công bố trên thế giới. Thân hữu của tôi hẳn chưa quên tài liệu xin nhập học
trường Thuộc Ðịa năm 1911 của Nguyễn Tất Thành cùng nhiều tư liệu khác về Ðảng
CSÐD, hay những tư liệu về Petrus Key, các đảng phái và tác nhân Việt Nam trong
thời cận và hiện đại.]
Tóm
lại, Tú Gàn, vốn tính gian xảo, ưa trộm cắp công trình tim óc người khác, không
nói thành có,
lại thích ‘bí ẩn’ rông càn (kiểu cha cụ Phan Bội Châu phải đổi tên cụ vì sợ phạm
húy vua Duy Tân, người lên ngôi năm 1907, tức nhiều năm sau ngày thân phụ cụ
Châu từ trần, và hàng chục năm sau ngày cụ Châu đỗ giải nguyên), nên mới thích
chụp mũ cho người khác là ‘phịa sử’ như tay nghề của chính đương sự, theo đúng
nguyên tắc ‘vừa đánh trống vừa ăn cướp.’
■
Thứ sáu, Tú Gàn còn dọa là sẽ ‘viết sách’ để đối chất với tôi về gia đình Ngô
Ðình Diệm - Một
lời đại ngôn của những kẻ không thấy được sự khác biệt giữa bóng mình và bàn
chân đế. Là chuyên viên trộm cắp công
trình tim óc của các nhà khảo cứu chuyên nghiệp (nhất là các tư liệu văn khố
do tôi tìm ra), pha thêm tay nghề phịa sử,
bẻ cong sự thực lịch sừ để trám đầy những khoảng trống của các tờ báo phát
không tại chợ búa, việc duy nhất mà Tú Gàn có thể
làm là chửi bới bừa bãi, một thứ nghề tay trái của một cá nhân đã mất hết sự lương
thiện trí thức và lương tâm. Những trang giấy in đầy chữ nghĩa tinh
tinh nằm giữa hai bìa sách ký tên Tú Gàn hay Lữ Giang, hay Nguyễn Cần, hoặc bất
cứ một bút hiệu nào khác, chẳng bao giờ xứng đáng gọi là ‘sách’ hay ‘văn
chương’ theo ý nghĩa cao đẹp của nó. Hơn nữa, Tú Gàn và những tên đạo văn ở hải
ngoại quên một điều: Những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp chúng tôi tuy lương thiện,
nhưng có những kỹ thuật để bảo vệ tính chất nguyên bản của các tư liệu mà chúng
tôi đã công bố. Bởi vậy, những tay trộm cắp tài liệu như Tú Gàn hay Lê Trọng
Văn mới bị độc giả và các nhà nghiên cứu khác vạch mặt, chỉ tên những chỗ trộm
cắp, rồi nhắm mắt lại mà phịa sử và lăng mạ, vu khống người khác. Tôi sẵn sàng
chờ đợi một công trình trộm cắp mới của Tú Gàn (chắc là để bào chữa cho những
đoạn cung văn đầy sai lầm về gia đình họ Ngô trong cuốn Những bí ẩn).
■
Thứ bảy, Tú Gàn tức Lữ Giang Nguyễn Cần
giảo hoạt chụp mũ cho tôi là ‘chống lại’ hay ‘nói xấu’ Ki-tô giáo. Loại chụp
mũ này rất nguy hiểm, nguy hiểm còn hơn cả cái mũ ‘Cộng Sản’ hay ‘Phiến Cộng’
dưới triều đại giáo phiệt họ Ngô. Họ Ngô chỉ chống Cộng được khoảng 9 năm, rồi
bắt tay với Cộng Sản khi người Mỹ muốn thay ngựa [shift the horses], trong một
màn bi hài kịch mà Cố vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ McGeorge Bundy từng chua chát gọi
là ‘cơn điên rồ tập thể của một gia đình
cai trị chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng.’ Nhưng Ki-tô giáo là một tôn
giáo đã có khoảng 2,000 năm hiện hữu, và gần 1,700 năm tổ chức thành vương quốc
thần linh [organized church]. Trong thời
gian còn thống trị Âu châu, giáo hội Ki-tô Roma và Avignon đã thi hành những biện
pháp cực kỳ sắt máu để trừng phạt và tiêu diệt đối thủ, và gán ép cho nạn nhân
của giáo hội những tội danh như rối đạo, hay chống lại giáo hội. Người bị đốt
cháy, người bị bỏ tù; cho đến lúc chết còn bị đóng thập tự giá vào trái tim vì
bị kết tội là ‘ma-cà rồng.’ Trong khi các cường quốc thực dân Âu châu đi chinh
phục thế giới, Giáo hoàng Ki-tô từng ra
những ‘thánh dụ’ cho phép những kẻ xâm lược chiếm đóng, cướp làm vật sở hữu mọi
tài sản và cá nhân hay bộ lạc không chịu theo đạo Ki-tô. (Xem Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi Mặt, tâm bút 2002). Những tội
ác chiến tranh và diệt chủng này trúc rừng không đủ ghi chép. Bởi thế, mới nẩy
sinh ra những phong trào chống đối, từ Tin lành giáo, tới thuyết Duy vật, chủ thuyết
Cộng Hòa, và rồi Cộng Sản. Gán ghép cho tôi cái mũ chống hay nói xấu Ki-tô
giáo, Tú Gàn muốn gì đây? Phải chăng đây là một mưu đồ hiểm độc: Một mặt để kiếm điểm những giáo sĩ và giáo
dân nhẹ dạ; mặt khác tạo nên những hiềm khích, nghi kỵ giữa các tín đồ các tôn
giáo khác nhau? Hay, chỉ là những phản ứng hẳn có, vẫy vùng, rẫy rụa, chửi bới lung tung khi bị kéo ra khỏi những
vách hầm tối tăm, lạnh lẽo của sự ngu dốt sâu dày bấy lâu; và bản chất gian
ngoan, lừa bịp?
Thực
ra, với tôi, mọi thứ trên đời này chỉ là giả trá, tạm bợ. Nhiều hơn một lần,
tôi đã khẳng định, ‘danh chỉ là khách của
thực.’ Là một người học sử và học Luật, với tôi sự thực lịch sử chỉ là sự thực
lịch sử; và, người học sử có bổn phận phải ghi chép hết những sự thực ấy cho hậu
thế suy gẫm, học hỏi. Là một người nghiên cứu sử chuyên nghiệp, tôi không có
quyền bẻ cong ngòi bút, dấu diếm những việc làm khuất tất của các tác nhân lịch
sử. Tôi chủ trương không thể đồng hóa những tác nhân lịch sử trên với bất cứ một
tôn giáo nào; vì tôn giáo không chỉ đơn thuần gồm một thiểu số giáo sĩ hay giáo
dân tham vọng, quá khích. Chỉ có những người mới đẻ ngày hôm qua mới đồng hóa
những cá nhân tham vọng bán buôn tôn giáo cho quyền lợi gia đình và cá nhân với
tôn giáo này hay tôn giáo khác. Sau hơn ba thập niên nghiên cứu, tôi đi đến kết
luận rằng đại đa số giáo dân Ki-tô Việt chỉ là nạn nhân của những
tham vọng quyền lực của các nhà truyền giáo cùng các thành phần trung gian bản
xứ như Petrus Key, Nguyễn Hữu Bài, Trần Lục cùng cha con họ Ngô, v.. v...
Tóm lại, viết sự thực về vai trò của một số giáo sĩ Ki-tô trong cuộc Pháp xâm lăng
và chiếm đóng Ðại Nam không có nghĩa ‘nói xấu’ hay ‘xuyên tạc’ Ki-tô giáo; mà
chỉ muốn giúp các bậc trí giả theo đạo trên suy nghiệm lại cái gọi là ‘mang đến hồng ân.’ Nói hết sự thực về
thành phần trung gian bản xứ như Petrus Key, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Ðình Khả hay
anh em họ Ngô không thể là nói xấu hay xuyên tạc Ki-tô giáo; mà chỉ muốn đại đa
số giáo dân Ki-tô suy gẫm lại những việc làm và hậu quả của các tác nhân lịch sử
trên.
Loại
lý luận qui nạp rằng công bố sự thực sử học về họ Ngô
là chống Ki-tô giáo, theo tôi, không những chỉ ngây ngô, nông cạn mà còn đầy bệnh
hoạn kiểu Trung cổ. Ðáng buồn và đáng ái ngại là Tú Gàn, một cá nhân
tôi chưa từng biết mặt, lại chỉ biết và sống với loại lý luận kiểu ‘rẻ rách
sinh con chuột’ trên. Và, dĩ nhiên, bài viết của Tú Gàn chẳng làm sáng tỏ được
gì hơn chính sự dốt nát, thói xấu trộm cắp
tài liệu công trình tim óc của các học giả, và tội ác bịa đặt lịch sử hay ‘phịa
sử.’ Nhưng cũng có thể Tú Gàn không ngây ngô và nông cạn, mà hành động đầy
ác tâm. Ðó là chủ mưu gây nên tình trạng chụp mũ, vu cáo, khích động nhằm khoét
sâu vào sự khác biệt giữa các cá nhân và tổ chức, phe phái, tôn giáo người Việt
hải ngoại, gây hoài nghi về mọi người mọi việc. Kỹ sư Bùi Bỉnh Bân, cựu Chủ tịch
cộng đồng Santa Ana, đã từng là nạn nhân của âm mưu khích động, nhằm khoét sâu
sự nghi kỵ trong nội bộ cộng đồng này. Cá nhân tôi chỉ là một trong những nạn
nhân khác. Tôi hy vọng các thân hữu, các bạn trẻ và độc giả của tôi hãy bước ra
khỏi thế thụ động, bình chân như vại, có những hành động thích nghi với loại
người như Tú Gàn.
Trân
trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét