NGÔ ĐÌNH NHU
THỎA HIỆP VỚI HÀ NỘI
·
Dịch
theo sách: Death of a Generation - How
the Assassinations of
Diem and JFK
Prolonged the Vietnam War
·
Tác
giả: Howard Jones, Giáo sư Danh dự, khoa Sử học, University of Alabama
·
Nhà
Xuất Bản: Oxford University Press, New York 2003
[LỜI NGƯỜI DỊCH: Bài này sẽ tập trung dịch
những cuộc móc nối, thương thuyết mật giữa Hà Nội và ông Ngô Đình Nhu, qua trung
gian của Đại diện Ba Lan Mieczylaw
Maneli, Khâm sứ Vatican
Salvatore d’Asta, Đại sứ Pháp Roger Lalouette và Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến ICC
Ramchundur Goburdhun. Phần được dịch sẽ là 11 trang: 310-314,
344-345, 362-364, và 406.
Tác
phẩm này được viết rất mực công phu trong 15 năm, bởi Howard Jones, Giáo sư Đại
học University of Alabama. Sách nầy khác tất cả những sách trước đó, vì sử dụng
rất nhiều nguồn tài liệu, trong đó có những cuộc điều trần chưa được in trên
sách, báo nào.
Bản
thảo được Jones đưa cho 4 vị giáo sư bạn – David Beito, Ron Robel, Tony Freyer,
Forrest McDonald -- cùng trong đại học này, đọc, kiểm soát và góp ý.
Jones
cũng đưa cho nhiều giáo sư và học giả khác -- James K. Galbraith, ở University
of Texas; Paul Hendrickson, ở báo Washington Post và là tác giả một tác phẩm viết
về Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara; Ken Hughes, ở University of Virginia;
Don Rakestraw, ở Georgia Southern University; Pete Maslowski, University of
Nebraska -- đọc bản thảo và góp ý.
Đặc
biệt, Jones đã phỏng vấn nhiều người liên hệ tới thời kỳ 1963 tại Việt Nam,
trong đó có Daniel Ellsberg, John Kenneth Galbraith, Roger Hilsman, Jack
Langguth, Robert McNamara, Walt Rostow, và Dean Rusk.
Jones
cũng được trợ giúp về tài liệu từ hàng chục học giả khác tại các Thư Viện Tổng
Thống John F. Kennedy Library, Gerald R. Ford Library, Lyndon B. Johnson
Library, Trung Tâm Văn Khố Quốc Gia. Trong đó có những cuộc điều trần chưa từng
phổ biến.
Có
thể kể, một điển hình cho sự nghiên cứu công phu và cẩn trọng của tác phẩm này
như chú thích số 47 của trang 314, trong đó dẫn tới 7 nguồn khác nhau. Những
chú thích khác đã dẫn 4 nguồn, hay 5 nguồn là bình thường. Tất cả các chú thích
nơi đây đều sẽ không dịch ra Việt ngữ, để người nghiên cứu có thể dựa vào chú
thích đó mà tự mình dễ dàng tìm ra tài liệu gốc Anh ngữ.
Có
thể ghi nhận một số diễn biến nơi đây:
-
Ngày 25-8-1963, Tướng
Nguyễn Khánh nói với một viên chức Mỹ rằng ông Ngô Đình Nhu đang liên lạc với
Hà Nội, và bày tỏ quan ngại, nói rằng các
tướng sẽ chống tới cùng các giải pháp thương lượng Nam-Bắc và trung lập hóa
Miền Nam, vì các tướng sợ sẽ bị trả thù.
-
Chính phủ Kennedy
xem việc Nhu tìm hiệp ước với Hà Nội là phản
bội lòng tin của Mỹ.
-
Đại sứ Nolting nói
là có biết các đại diện Việt Cộng tới thẳng Dinh Tổng Thống, vào họp và đi ra bình an.
-
Có nhiều tin trong
mùa hè 1963 rằng Nhu liên lạc với Hà Nội qua trung gian Khâm sứ Vatican, Đại
diện Ba Lan ở ICC (Maneli), Đại sứ Pháp, Đại sứ Ấn, Đại sứ Ý.
-
Pháp muốn trung lập
hóa Nam VN và tranh dành ảnh hưởng với Mỹ tại Đông Dương cũ..
-
Đầu năm 1963, Nhu đã
gặp một đại diện Việt Cộng ở Huế.
-
Đại diện Ba Lan ở
ICC là Maneli, vào tháng 8-1963, đã báo cáo về chính phủ Ba Lan rằng trong khi
anh em Diệm-Nhu đàn áp Phật Giáo dữ dội,
thì Hà Nội và Việt Cộng, qua những cuộc thương thuyết, đã hy vọng sẽ hỗ trợ Diệm-Nhu để yêu cầu người Mỹ rút
khỏi Việt Nam.
-
Nhu nói trong một
buổi họp 15 tướng lãnh rằng Nhu đang thương thuyết với Hà Nội, và không sợ chuyện Mỹ cắt viện trợ, vì cuộc
chiến sẽ ngưng.
-
Nhu viết bài trên
báo Times of Vietnam ấn bản đầu tháng 9-1963 nói rằng Mỹ đang âm mưu đảo chánh
anh em Diệm-Nhu.
-
Nhu hút nha phiến, và mang bệnh ảo tưởng về “sự vĩ đại của Nhu.” Ngôn ngữ Nhu nói
trong một buổi gặp Maneli có dấu hiệu
Nhu bị bệnh tâm thần. Điều nầy được xác nhận bởi Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần và Chánh Văn phòng Võ Văn Hải
-
Trong tháng 9-1963,
Nhu cũng khoe với Alsop, một nhà bình luận Hoa Kỳ, rằng Nhu đang nói chuyện với
Hà Nội.
-
Tình báo Mỹ nhận ra
trong tháng 10-1963, tại Sài Gòn có 10
âm mưu đảo chánh, muốn lật đổ anh em nhà Ngô, nhưng chỉ nhóm các tướng lãnh
là có kế hoạch khả thi.
-
Đại sứ Lodge nói
rằng Mỹ không có cách nào ngăn cuộc đảo
chánh được, vì các tướng lãnh tự thấy sẽ bị trả thù, mất hết đường sống khi Nhu bắt tay Hà Nội.
-
Tướng Tôn Thất Đính
nói rằng Nhu đã họp với Tướng VC Văn Tiến Dũng qua Ủy hội ICC.
-
Xem chú thích 38:
Giới ngoại giao tại Sài Gòn chuyển cho nhau một tấm hình và nghi là có dan díu tình cảm bất chính giữa Maneli và
Bà Nhu, nhưng Maneli bác bỏ.
Kèm
bản Việt ngữ nầy là các bản Anh ngữ chụp lại từ bản chính để độc giả nào quan
tâm có thể đối chiếu, đọc bản gốc Anh văn. Toàn văn dịch bởi Cư sĩ Nguyên Giác.]
HNG - Như vậy, việc
ông Nhu, với sự “đồng ý” của ông Diệm và lời “xúi dại” của Đại sứ Pháp, đã quyết
định liên hệ với Hà Nội để tìm cách đuổi Mỹ ra khỏi miền Nam hầu tìm một giải
pháp cho cuộc chiến tranh Quốc-Cọng là sự thật không thể chối cải. Sự thật đó,
qua các tiết lộ của nhân vật trong cuộc, đã cho thấy nguyên ủy sâu thẳm của quyết
định nầy là cơn bệnh hoang tưởng của một
đầu óc mang bệnh cuồng vĩ của ông Nhu. Còn phía Hà Nội, trong quá trình thiết lập mối
liên hệ, theo dõi kỹ những tuyên bố và động thái của các ông Hồ Chí Minh, Phạm
Văn Đồng, Xuân Thủy ta thấy rõ ràng rằng những toan tính chính trị của họ chỉ
là “Mỹ phải ra đi” để cán cân
thắng lợi trên chính trường cũng như ngoài chiến trường nghiêng về phía họ
… Đó là chiến lược nhất quán của Hà Nội. Sau nầy, từ hòa đàm Ba Lê (1968-1973)
đến chính sách “Việt Nam hóa” chiến tranh của Mỹ (1969-1972), từ khi tấn chiếm
Ban Mê Thuột đến khi dàn 9 sư đoàn ở cửa ngõ Sài Gòn vào cuối tháng 4/1975,
lãnh đạo Hà Nội cũng chỉ đòi hỏi 3 chính phủ Thiệu, rồi Hương, rồi Minh của miền
Nam một điều kiện chính trị là “Mỹ phải ra
đi”.
Hai vấn đề còn lại để thẩm định giá trị của “bước sẩy chân” chính
trị (political faux-pas) nầy của ông
Nhu là (1) Quá trình lấy quyết định thỏa hiệp với Hà Nội và cách thiết lập mối liên hệ với Bắc Việt của hai anh em ông Diệm Nhu có
phù hợp với Hiến pháp, Luật pháp, Hiện thực Chính trị và An ninh, Lòng dân và
Thế nước của chế độ Việt Nam Cọng Hòa tại miền Nam từ năm 1954 qua phân cho đến
lúc bấy giờ không ? Và (2), giải pháp “đuổi Mỹ và thỏa hiệp với Cọng” của hai
anh em ông Diệm Nhu, nếu không có ngày 1-11-1963, thì có đạt được kết quả dự
kiến là hai ông Nhu Diệm sẽ cùng với đảng
Lao Động và ông Hồ Chí Minh, với cơ cấu chính trị nào và trong sách lược
quốc gia nào, sẽ mang lại thống nhất độc lập bền vững, dân chủ tự do thật sự,
và hòa bình thịnh vượng cho Việt Nam trong bối cảnh tuyến đầu của cuộc thư hùng
Tư bản-Cọng sản vào đầu thập niên 1960’ ? (Nhấn
mạnh trong bản dịch là của HNG)
BẮT ĐẦU BẢN DỊCH
■ Trang 310:
Gần
như tất cả các nguồn tin đều nhận định ông Nhu là nan đề chính, và Đại sứ Lodge
vẫn dè dặt, cảnh giác Bạch Ốc vào ngày 24-8-1963 rằng chưa tới lúc để đứng về
phía các tướng lãnh VNCH. Lodge không đồng ý với CIA, cơ quan tình báo này gọi ông
Nhu là “nhân vật nắm quyền, có lẽ với ưng
thuận của Tổng Thống Diệm.”
Dựa
vào những cuộc nói chuyện riêng rẽ với Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần, Chánh Văn
Phòng Phủ Tổng Thống Võ Văn Hải, Tướng Trần Văn Đôn và Tướng Lê Văn Kim, Đại sứ
Lodge khẳng định rằng ông Nhu (“nếu ông này không hoàn toàn vẽ ra kế hoạch mọi
thứ”) có lẽ đã có ủng hộ từ ông Diệm trong việc soạn kế hoạch tổng tấn công các chùa (đêm 20-8 rạng ngày
21-8-1963). Nhiều phần có lẽ rằng quân đội
VNCH không tham dự tấn công chùa, và phía gây tội là cảnh sát và Lực Lượng Đặc
Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung.
Đại
sứ Lodge nhấn mạnh rằng điều quan trọng nhất là, cả 3 sĩ quan chỉ huy quân sự quyền lực nhất tại Sài Gòn
-- Tướng Trần Văn Đôn, Tướng Tôn Thất Đính, và Đại Tá Lê Quang Tung -- vẫn giữ
lòng trung thành với hoặc ông Diệm hoặc ông Nhu. Bất kỳ nỗ lực nào từ phía Mỹ
muốn vận dụng các tướng sẽ là “phát đạn
trong bóng đêm.” (35)
Vào
thời điểm quan trọng này, Tướng Nguyễn Khánh thông báo cho John Richardson (Trưởng
Phòng CIA tại Sài Gòn) vào ngày Chủ Nhật 25-8-1963 về một diễn biến bất tường:
Nhu đang xem xét một hiệp ước với Hà Nội để sẽ kết thúc chiến tranh. Bên cạnh
việc làm mất mặt các tướng lãnh trong trận tổng tấn công các chùa, có phải Nhu
cũng muốn tìm một thương lượng giữa Bắc VN và Nam VN để buộc người Mỹ ra khỏi VN?
Chính
phủ Kennedy chỉ trích hành vi phản bội
lòng tin này, mặc dù một năm trước đó
Mỹ đã lặng lẽ đưa Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ về Chính Trị Vụ William
Averell Harriman thăm dò về một khả năng tương tự với các đại diện nhà nước Hà
Nội tại Geneva. Nhiều năm sau, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Viễn Đông Vụ Roger
Hilsman nói rằng Bạch Ốc đã xem các cuộc nói chuyện như thế như là nỗ lực của chế độ Diệm muốn làm áp lực Hoa
Kỳ.
Nhưng
các lời khẳng định của Tướng Khánh thu hút sự chú ý tức khắc tại Bộ Ngoại Giao
Mỹ, nơi xem Tướng Khánh là “một trong các tướng lãnh xuất sắc, vừa can đảm, vừa
phức tạp.”
Điều
quan trọng nhất là, các tướng lãnh VNCH tin vào chuyện đó. Tướng Khánh nói với
một viên chức CIA tại Sài Gòn rằng họ lo sợ cho sinh mạng của họ, và “sẽ
tất yếu nổi dậy” nếu Nhu tìm một hiệp ước với hoặc Hà Nội, hoặc với Cộng
Sản Trung Quốc để trung lập hóa Nam VN. Các tướng lãnh nghĩ rằng, sau đó,
Nhu sẽ chĩa mũi dùi sang họ. Họ “sẽ kháng
cự dữ dội nếu các chính khách hiện nắm quyền lực lại đi sai lối.” Bởi vì giờ
khác biệt (giữa Mỹ và VN), bức điện văn kể về buổi họp của Tướng Khánh với
Richardson (Trưởng Phòng CIA tại Sài Gòn) tới Washington vào Thứ Bảy 24-8-1963,
lúc 9:30 giờ sáng. (36)
Chuyện
Tướng Khánh nói không gây ngạc nhiên nhiều ở Washington. Cựu Đại sứ Mỹ tại VN
Frederick
Nolting trước đó đã tường trình về nhiều
cuộc liên lạc ngõ sau do Nhu thực hiện với người CS mà ông Diệm “đều biết cả.”
Tuy
nhiên, Phó Đại Sứ Mỹ William Trueheart bác bỏ thông tin rằng Nhu đang bí mật thương
thuyết với Bắc Việt và bác bỏ bản tin [Nhu] muốn Hoa Kỳ rút khỏi VN. “Tôi thực sự nghĩ đó phần nhiều là tin nhảm.”
Nhưng
rồi, nhiều năm sau, chính Nolting đã hồi tưởng lại rằng “Các lãnh tụ Việt Cộng tới thẳng văn phòng của Nhu trong Dinh Tổng
Thống... với thỏa thuận rằng họ sẽ không bị bắt trong khi họ ở đó.”
Nolting
nói, “Tôi đã biết chuyện đó. Và tôi biết chắc rằng họ đã nói, ‘Đừng để người Mỹ
vào sâu ở đây.’ Và [biết] Nhu đã nói, ‘Đừng để người Tàu dính vào mấy chuyện này.’”
■ Trang 311:
Nolting
ghi nhận rằng chính phủ Mỹ chỉ trích hành động của anh em Diệm-Nhu như là phản
bội. “Tôi đã rơi vào cảnh khó khăn khi tìm cách nói, ‘Chờ một chút. Có thể chuyện
này không phảỉ là phản bội. Hãy cho họ [Diệm-Nhu] một cơ hội. Họ không quá ngu
ngốc thế, và họ không đang phản bội chúng ta.” Nhu đang tìm cách thuyết phục Việt
Cộng hãy ‘bán đứng, trên thực tế, cho chính phủ [VNCH].”
Bạch
Ốc đã quyết định không can thiệp, để mọi chuyện diễn tiến khi nào mà chế độ Diệm
chưa bán đứng Miền Nam cho CS. Nolting thì không biết chắc là ai đã trả lời các
điện văn của ông, nhưng chữ ký của Bộ Trưởng
Ngoại Giao Hoa Kỳ Dean Rusk ghi tên tất cả các điện văn phúc đáp đó. (37)
Lời
kể của Nolting phù hợp với nhiều tin nghe được trong mùa hè 1963, rằng Đại diện
Ba Lan của Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế ICC, Mieczylaw Maneli, đóng vai trung gian
hòa bình giữa Nhu và Hà Nội.
Maneli,
người từng sống sót qua trại tập trung Auschwitz trong Thế Chiến 2, làm giáo sư
luật ở đại học University of Warsaw và là đảng viên Cộng Sản, sau đó xác nhận rằng
ông đã hai lần họp với ông Nhu. Lần đầu
là ngày 25-8-1963, trong một buổi tiếp tân ở Sài Gòn có tham dự của nhiều đại
diện ngoại giao, và lần thứ nhì là gặp
bí mật tại Dinh Gia Long vào ngày 2-9-1963.
Đại
sứ Pháp tại Sài Gòn, Roger Lalouette, đã thu xếp buổi họp đầu tiên với sự hỗ trợ
từ Đại sứ Ấn Độ và là Chủ tịch ICC Ramchundur Goburdhun, Đại sứ Ý Giovanni
Orlandi, và Khâm sứ Vatican là Đức Ông Salvatore d’Asta.
Theo
lời Maneli, Lalouette đã tìm cách phát triển một cuộc trao đổi văn hóa và kinh
tế giữa những người Việt thù nghịch nhau để sẽ đặt nền tảng cho sự thống nhất
VN và do vậy sẽ “đưa chế độ Diệm về lại thân Pháp và tách khỏi phía người Mỹ vô tình.”
Kết
thúc cuộc chiến VN sẽ cho VN trung lập
hóa theo đường hướng của Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle, người có ý định
kết hợp Việt Nam với hai nước trung lập Lào và Cam Bốt để biến vùng này một lần
nữa trở thành “viên ngọc trong hào quang
vĩ đại của nước Pháp.”
Thời
điểm của buổi họp đầu tiên giữa Nhu và Maneli trùng hợp với lời báo động nêu lên
từ Tướng Khánh và cho tính xác thực về nỗi lo sợ của Tướng này. (38)
Khi
Maneli lần đầu đưa ra kế hoạch hòa bình này cho Hà Nội xem vào mùa xuân 1963,
Thủ Tướng Bắc VN Phạm Văn Đồng lập lại lời khẳng định trước đó của ông Hồ Chí
Minh rằng Bắc VN đã sẵn sàng thương thuyết vào bất kỳ lúc nào. Ngoại Trưởng Xuân
Thủy đã có một danh sách các hàng hóa trong đó có cả than và các vật liệu kỹ
nghệ khác, mà chính phủ Bắc VN sẽ trao đổi với Nam VN đổi lấy gạo và nhiều lương
thực khác.
Cả
2 lãnh tụ Bắc VN này đều công khai chỉ trích chế độ Diệm nhưng nói vẫn sẵn sàng
thương thuyết. Họ Hồ trước đó cũng đã nói với Goburdhun rằng Diệm là “một người yêu nước kiểu của ông ấy” và rằng
giao thương là có thể. Ông Hồ nói, “Khi
ông gặp ông Diệm, hãy bắt tay ông Diệm giùm tôi với.” (39)
Vào
tháng 7-1963, Maneli thăm Hà Nội lần nữa, sau đó nói rằng quan tâm muốn thương
thuyết của ông Hồ đã tác động quyết định của NLF (Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam) để không leo thang
hành động trong khi chính phủ ông Diệm căng thẳng với Phật Giáo.
■ Trang 312:
Thực
sự, Bắc VN đã cho thấy rằng ông Diệm có
thể trở thành một nguyên thủ có thể chấp nhận được của chính phủ Sài Gòn. Lalouette
đã nghĩ rằng Diệm sẽ sống sót nếu Diệm chấp nhận một cuộc dàn xếp chính trị.
“Ông ta [Diệm] lẽ ra phải thay đổi hệ thống [cai trị] nếu ông ta vẫn giữ quyền
lực, nhưng ông ta đã có chính phủ và bộ máy hành chánh, và ông ta có nhân sự
tốt.”
Mùa
hè đó, ông Hồ công khai kêu gọi ngưng bắn, mà lần này, [lời kêu gọi] dường như
chân thực vì Bắc VN quan tâm về việc Mỹ mở rộng tham dự quân sự. Maneli cũng thấy
hy vọng cho việc Diệm vẫn nắm quyền được – ít nhất là một thời gian nữa. “Nếu chính phủ Hà Nội không nỗ lực tấn công
nhằm lật đổ Diệm và Nhu khỏi Sài Gòn, điều này chắc chắn vì Hà Nội muốn
Diệm-Nhu nắm quyền thêm một thời gian nữa -- đủ lâu để đạt một thỏa ước với họ
sau lưng người Mỹ.”
Nhận
được thông tin từ Hà Nội, Nhu có lẽ đã nói chuyện với ông Hồ “xuyên qua các đặc
sứ trực tiếp từ Hà Nội, với giúp đỡ từ người Pháp.” Maneli đã chính xác. Vài năm sau đó, theo báo
Hòa Bình có tòa soạn ở Sài Gòn thì ông
Nhu đã gặp các đại diện Việt Cộng tại Huế, thành phố quê nhà của ông, vào đầu năm
1963.
Nhu
lúc đó nói chuyện với người anh/em của một đại sứ Bắc Việt, và thương thuyết đã khởi sự vào tháng 7-1963,
như Maneli nghi ngờ. Và, đúng như sự suy
nghĩ của Lalouette, những cuộc thương thuyết bí mật này giúp giải thích tại sao
Việt Cộng không lợi dụng thời cơ trong khi ông Diệm căng thẳng với Mỹ để tung
ra một trận tấn công lớn vào cuối tháng 8-1963. (40)
Khi
Maneli hỏi Phạm Văn Đồng (Thủ Tướng Bắc Việt) và Xuân Thủy (Bộ Trưởng Ngoại Giao
Bắc Việt) rằng điều gì ông nên nói nếu ông Nhu mời thương thuyết, họ đã trả lời:
“Bất cứ những gì ngài biết về lập trường chúng tôi về hợp tác và trao đổi kinh
tế và văn hóa, về hòa bình và thống nhất đất nước. Một điều chắc chắn rằng: người Mỹ phaỉ ra đi. Trên căn bản chính trị này, chúng ta có thể thương
thuyết về mọi thứ.”
Maneli
đã hỏi Phạm Văn Đồng (với ông Hồ Chí Minh lúc đó đứng trong phòng, “lặng lẽ, như
dường bị cưỡng ép”) rằng Hà Nội sẽ có hay không cứu xét “một hình thức liên bang với Diệm-Nhu hay một thứ gì trong bản chất về
một chính phủ liên hiệp.”
Thủ
Tướng Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Mọi thứ đều
có thể thương thuyết được dựa vào nền tảng độc lập và chủ quyền cho VN. Hiệp ước Geneva cung cấp nền tảng pháp lý
và chính trị cho điều này: không lập
doanh trại hay để lính nước ngoài trên lãnh thổ VN. Chúng tôi có thể đạt
tới một hiệp ước với bất kỳ người VN nào.”
Maneli
cảnh báo rằng các cường quốc Tây phương sẽ chống một chính phủ liên hiệp và [sẽ]
đòi an toàn cho anh em Diệm-Nhu. Phạm Văn Đồng lập lại: “Mọi thứ đều có thể là đề
tài thương thuyết. Chúng tôi có ước muốn chân thực chấm dứt tranh chấp, để thiết
lập hòa bình và thống nhất trên căn bản thực tế hoàn toàn. Chúng tôi là những
người thực tế.” (41)
Maneli
kết thúc bản phúc trình gửi cấp chỉ huy của ông tại Warsaw ngày 10-7-1963 rằng
cả 2 chính phủ VN muốn đạt thỏa ước theo kiểu riêng của họ. Họ muốn làm như thế
mà “không có tham dự của các Siêu Cường
Quốc, không có Moscow, không có Washington, và chắc chắn là không có Bắc Kinh;
cả 2 chính phủ ước muốn có những cuộc nói chuyện tối mật và phải giữ một mặt
ngoài chính thức nào đó.” Hà Nội đã đón nhận sáng kiến này, mà lần đầu tiên không có sự chấp
thuận trước của Bắc Kinh.
Đại diện Phái đoàn Ba Lan tại ICC, Mieczyslaw Maneli, và tác phẩm War Of The Vanquished
(xuất bản năm 1971) kể lại toàn bộ vai trò trung gian của ông trong thỏa hiệp Hà Nội - Sài Gòn
■ Trang 313:
Maneli
liên tục báo cáo về chính phủ của ông [Ba Lan] trong đầu tháng 8-1963 rằng nếu
Diệm và Nhu muốn sống còn, họ hoặc phải rời khỏi Việt Nam hoặc đàn áp Phật Tử.
Hà Nội và Việt Cộng đã chọn lập trường “chờ cho một cuộc ‘nội chiến’ mới và
trong cơ hội đầu tiên này, họ sẽ hỗ trợ Diệm để chống lại người Mỹ.”
Cả
Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh đã nêu lập trường rõ ràng: “Mục tiêu và việc làm tối quan trọng của chúng tôi là dẹp bỏ người Mỹ.
Và rồi chúng ta sẽ thấy.” Maneli không ngờ vực rằng “một đồng thuận tối mật” đã có giữa “Diệm-Nhu và
Hà Nội” -- rằng “khi nào Diệm-Nhu còn tham dự chống lại phía người Mỹ và đồng minh [của
Mỹ], Hà Nội sẽ để cho Diệm-Nhu sống.” (42)
Maneli
nhận định, việc bổ nhiệm Lodge làm tân Đại sứ Mỹ đã khởi động ra các sự kiện dẫn
tới việc ông gặp ông Nhu lần đầu hôm 25-8-1963. Thực sự, hành động của Bạch Ốc
“đã khởi sự kết thúc chế độ ông Diệm” và buộc họ [Diệm Nhu] tấn công những người
Phật Tử “thân Mỹ” trước khi Lodge tới VN. Anh em Diệm-Nhu đã tung ra trận tổng tấn công nhà chùa, theo
Maneli lý luận, là để “tự cứu họ khỏi bị
đảo chánh do Mỹ thúc đẩy,” nhưng hành vi
tấn công chùa hóa ra lại làm mất uy tín chế độ trước người dân Việt và thế giới.
Bây
giờ, trong tuyệt vọng, Nhu sắp xếp để tân Ngoại Trưởng Trương Công Cừu mời
Maneli vào dự bữa tiệc chỉ mới 4 ngày sau trận tổng tấn công các chùa, trong đó
có Đại sứ Lodge trong danh sách khách mời của các viên chức ngoại giao. Đó là một
quyết định mấu chốt. Sự hiện diện của Maneli ghi dấu lần đầu một nhà ngoại giao
Cộng Sản tham dự một buổi họp mặt cấp cao như thế ở Sài Gòn. Nơi đó, trong một
cử chỉ dàn dựng sẵn, Lalouette (Đại sứ Pháp), Orlandi (Đại sứ Ý), d’Asta (Khâm
sứ Vatican), và Goburdhun (Chủ tịch ICC) đã tạo cho Maneili và Nhu gặp nhau. (43)
Nhu
nói với Maneli trong khi nhóm nhà ngoại giao này quan sát hai người, “Tôi đã
nghe nhiều về ngài từ các bạn chung của chúng ta. Dân tộc Việt vốn nhạy cảm về vấn
đề chủ quyền và sự bất tín, không chỉ đối với người Trung Quốc mà còn đối với tất
cả những kẻ chiếm đóng và thực dân, tất cả.” (44)
Maneli
và, tất nhiên là, cả những người khác đang trong cuộc nói chuyện, nghĩ trong đầu
rằng có phải Nhu bao gồm cả người Mỹ [trong câu nói đó] không?
Nhu
khẳng định, “Bây giờ chúng ta muốn hòa bình, và chỉ muốn hòa bình thôi... Tôi
tin rằng Ủy Hội Quốc Tế có thể và nên đóng một vai quan trọng trọng việc tái lập
hòa bình tại Việt Nam.”
Maneli
cẩn trọng bảo đảm với Nhu rằng tất cả những thành viên Ủy Hội đã nghĩ rằng Ủy Hội
“có thể giữ vai trò xây dựng nếu cả hai phía mong muốn.”
Nhu
nhấn mạnh, “Chính phủ Việt Nam ước muốn
hành động theo tinh thần của Hiệp Định Geneva.”
Maneli
trả lời rằng, đó là cách duy nhất để đạt hòa bình và thống nhất. (45)
Lodge
đã gặp Maneli trong bữa tiệc, nhưng bị lôi đi giữa cuộc đối thoại, tình hình này
cho thấy đánh giá ban đầu của Maneli về tính kiêu hãnh của Đại sứ Lodge. Nếu
Lodge ở lại thêm một chút, thay vì về sớm, Lodge có thể đã nhận ra cuộc thảo luận
của Maneli với Nhu.
■ Trang 314
Kết
hợp với những gì Bạch Ốc đã biết về liên lạc của Nhu với Việt Cộng và với Bắc
Việt, những trao đổi công khai giữa Maneli và Nhu có thể đã khuyến khích chính
phủ Mỹ xem xét về các tác động chính trị. Có phải buổi gặp gỡ này củng cố cho nỗi
nghi ngờ đã lan rộng rằng Maneli đã trở thành trung gian giữa hai miền Việt
Nam? Ảnh hưởng nào đã có từ các cuộc liên lạc Nam-Bắc đối với quan điểm các tướng
lãnh VNCH về một cuộc đảo chánh? (46)
III
Nỗ
lực của Đại sứ Lodge để trì hoãn bất kỳ hành động nào đã không có ảnh hưởng: Điện
văn ngày 24-8-1963 của ông đã tới Washington vào lúc 2:05 giờ chiều Thứ Bảy,
khi đó, như định mệnh đã sắp xếp, chỉ có vài cố vấn làm việc và họ là những người
công khai chỉ trích chế độ ông Diệm. Forrestal (Phụ tá Cố vấn An ninh), Hilsman
(Thứ Trưởng Ngoại Giao Viễn Đông Vụ), và Harriman (Thứ Trưởng Ngoại Giao Chính
Trị Vụ) đọc bản điện văn của Lodge một cách quan ngại, ghi nhận rằng điện văn đã
xác minh nỗi nghi ngờ của họ về những thủ
đoạn bất lương của Nhu trong cuộc tổng tấn công các chùa.
Có
phải tin này củng cố cho bản điện văn sáng hôm đó từ Sài Gòn có ghi lời Tướng
Khánh cáo buộc rằng Nhu đang bí mật thương
thuyết với Hà Nội? Có lẽ ngay cả phóng viên Halberstam đã chính xác trong ấn bản
ngày hôm đó của tờ New York Times,
khi ông tường trình rằng nhiều quan sát viên tại Sài Gòn đã gọi cuộc tổng tấn công
nhà chùa là ‘cú đánh của Nhu.’
Không
kiểm chứng trước với Phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc gia McGoerge Bundy, Forrestal kèm
một lá thư “chỉ để đọc thôi” vào một điện văn gửi Tổng Thống vào lúc 4:50 giờ
chiều, thông báo về thư của Lodge và kèm một đề nghị đáp ứng với Sài Gòn, mà ba
cố vấn – Forrestal, Harriman và Hilsman – đã soạn thảo với sự chấp thuận của
Ball (Thứ Trưởng Ngoại Giao) và Đô Đốc Felt (Tư Lệnh Quân Lực Mỹ ở Thái Bình Dương)
và muốn gửi ngay đêm hôm đó.
Lodge
khuyến cáo là “hãy chờ xem” cho tới khi ông có thể quyết định xem quân đội VNCH
có hành động nào chống Nhu hay không.
Harriman,
Hilsman, và Forrestal thì muốn hành động tức khắc vì tình hình tại Sài Gòn có
thể không “linh hoạt lâu nữa.” Hilsman gọi bức điện văn của Lodge là “có lẽ phán
đoán thuyết phục nhất trước giờ” cho thấy các
tướng lãnh VNCH không hài lòng với việc ông bà Nhu hung bạo với Phật Tử.
Nếu
Nhu còn nắm quyền, “chế độ sẽ tiếp tục
đi theo chính sách tự sát mà không chỉ kéo Việt Nam xuống chỗ xấu hổ và thảm họa
nhưng cũng kéo cả Mỹ như thế.” Harriman và Hilsman muốn rằng Mỹ phải “hành động
trước khi tình hình tại Sài Gòn đóng băng.” (47)
Sự
thật đã trở thành không thể chối bỏ: Nhu là người trách nhiệm cuộc tổng tấn công
các chùa. Điện văn 243, soạn bởi Harriman, Hilsman, và Forrestal (với giúp đỡ từ
Mendenhall), kêu gọi Lodge phải công khai tố cáo Nhu về vụ tấn công chùa, trong
khi Washington và đài VOA cùng làm như thế khi nào Đại sứ Lodge cho thấy thời điểm
thích nghi lên tiếng.
Nhu
đã sắp xếp để công chúng có ấn tượng rằng quân đội VNCH trách nhiệm trận tắm máu
đó và như thế tự đưa Nhu vào vị trí lãnh đạo... (Sẽ nhảy tới trang 344 để nói tiếp phần Nhu liên lạc với
Hà Nội).
■ Trang 344:
Ngoại
Trưởng Rusk đồng ý với khuyến cáo của Đại sứ Lodge để tiếp tục áp lực ông Diệm
phải tiến hành thay đổi nội các.
Vẫn còn giữ lý luận rằng khuyến khích
một cuộc đảo chánh không có nghĩa là đồng lõa, Ngoại Trưởng khẳng định rằng Bạch
Ốc sẽ hỗ trợ cho một nỗ lực đảo chánh của người Việt, nhưng Bạch Ốc “không nên và sẽ không khởi dậy và điều hành
một cuộc đảo chánh.”
Trong
một cố gắng giải thích cũng dao động như thế để phân biệt giữa động cơ Hoa Kỳ và
hành động Hoa Kỳ, Rusk tuyên bố rằng Diệm phải hiểu rằng Mỹ tìm cách “cải thiện
chính phủ [của Diệm] chứ không phải lật đổ.”
Hạ
Viện Mỹ mới đây đã cắt chương trình viện trợ, “phần lớn vì thất vọng trong toàn bộ các nỗ lực tại Việt Nam.” Nếu
không có thay đổi chính phủ, Mỹ có thể sẽ ngưng tất cả viện trợ.
Diệm
phải chứng minh cho Quốc Hội Mỹ và cho dư luận thấy rằng “chúng tôi không yêu cầu người Mỹ tới để bị hy sinh nhằm hỗ trợ cho khát
vọng của Bà Nhu muốn nướng thịt các vị sư.”
Các
biện pháp cứng rắn bây giờ có cơ may sẽ thành công, vì đã thấy ông Diệm “có thể
cũng đã biết sợ trong những ngày gần đây.” (55)
Tính
bất khả tiên đoán của tình hình Việt Nam tiếp tục làm rối trí Bạch Ốc khi, vào
ngày 1 tháng 9-1963, Đại sứ Lodge có buổi họp lâu 2 giờ với Nhu, trong đó cho
thấy chuyện ngạc nhiên là Nhu đồng ý từ
chức ra khỏi chính phủ như một dấu hiện của sự thành công trong cuộc chiến.
Trước mặt Đại sứ Ý và Khâm sứ Vatican, Nhu tuyên bố rằng ông không còn được cần
tới nữa và sẽ về hưu ở Đà Lạt sau
khi chính phủ Sài Gòn gỡ thiết quân luật.
Những
vị khách lắng nghe kinh ngạc trong khi Nhu khẳng định một cách bi hài rằng Nhu
ưa thích chờ đợi cho tới khi “các điệp viên Mỹ nào đó” những người vẫn còn đang
ám trợ một cuộc đảo chánh chống lại gia đình ông đã rời khỏi Việt Nam. “Mọi người đều biết họ là ai.”
Bà
Nhu sẽ rời Việt Nam ngày 17-9-1963 để dự Hội Nghị Liên Quốc Hội
(Interparliamentary Union) tại Nam Tư, sau đó sẽ đi tới Ý Đại Lợi và có thể tới
Mỹ, nơi bà có một lời mời để nói chuyện trước Câu Lạc Bộ Báo Chí Hải Ngoại
(Overseas Press Club) tại New York.
Khâm sứ Vatican sẽ
sắp xếp để Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục ra khỏi Việt Nam.
Tuy
nhiên, Nhu từ chối rời Việt Nam vì các liên lạc của Nhu với các cán bộ Việt
Cộng, vốn bị mất tinh thần vì sự tiếp trợ không đủ từ Bắc Việt và đã sẵn sàng
rời bỏ cuộc chiến vũ trang. (56)
Đại
sứ Lodge chắc chắn đã nhận ra rằng Nhu
không thật thà về chuyện rút khỏi chính phủ và rằng Nhu đã giấu các động cơ.
Có chứng cớ nào về thành công [trên chiến trường] của quân lực VNCH? Những liên
lạc nào Nhu đã thực hiện với Việt Cộng? Còn về những tin đồn về Nhu nói chuyện với Hà Nội? CIA đã gọi đó
là “bí mật hiển lộ” trong giới ngoại giao ở Sài Gòn rằng Nhu đã liên lạc với Hà
Nội và rằng ngườì Pháp đang tìm kiếm hòa
giải giữa Nam và Bắc VN.
■ Trang 345:
Nhu
mới đây đã nói với 15 tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu Quân lực VNCH là đừng lo
ngại về chuyện người Mỹ hăm dọa cắt viện trợ; Nhu “đã liên lạc với các anh em Miền Bắc và có thể có dịp nghỉ ngơi bằng
cách yêu cầu Bắc Việt chỉ thị cho các du kích Miền Nam tạm ngưng hoạt động
trong khi thương thuyết cho một thương lượng lâu dài.” Nhu đã tố cáo rằng
CIA muốn Nhu “bước sang một bên,” và [CIA] đang làm việc với các “phần tử bí mật”
trong chính phủ Mỹ để lật đổ chế độ Diệm. Chỉ có Đại sứ Lodge đưa tới hy vọng,
theo Nhu khẳng định trong một lời tuyên bố và lời này hiển lộ ảo vọng cuả Nhu.
“Chúng ta có thể vận dụng sai sử Lodge –
Lodge sẽ đồng ý hoàn toàn với những suy nghĩ và những hành động của chúng ta.”
(57)
Thái
độ sai lầm của Nhu cứ tiếp diễn mãi khi Maneli gặp Nhu hôm 2-9-1963 (mà điều này
nhiều năm sau mới được biết) trong khi đang có sự phẫn nộ về một bài viết nơi
trang nhất của tờ Times of Vietnam
trong đó cho thấy rạn vỡ giữa chế độ Diệm và Hoa Kỳ. Dòng tưạ đề nêu rõ, “CIA tài
trợ một âm mưu đảo chánh.”
Bài
này do Nhu viết, bản gốc của bài đã kể ra tên nhiều viên chức CIA đứng sau âm mưu,
trong đó có Trưởng phòng CIA tại Sài Gòn là Richardson. Có một vài người sau đó
kể lại rằng, Bà Nhu đã xóa tên ông Nhu trên bài viết đó.
Maneli
tới Dinh, vào ngồi với Nhu ở một chiếc bàn nhỏ trong một căn phòng rải rác đồ đạc
để lăn lóc “trông như một khối rác.” Nhu nhanh chóng khởi sự độc thoại trong đó
có những ngôn ngữ và ý tưởng Mác-xít, điều này làm cho Maneli sửng sờ. (58)
“Tôi đang thực hiện một cuộc chiến để kết
thúc chiến tranh vĩnh viễn tại Việt Nam; Tôi đang thực sự chiến đấu chống chủ nghĩa Cộng Sản để kết thúc chủ nghĩa tư bản vật chất.
Tôi đang tạm thời xiết chặt tự do để sẽ cho lại tự do trong một
hình thức vô hạn. Tôi đang củng cố kỹ luật để khai tử những trói
buộc ngoại tại. Tôi đang trung ương tập
quyền đất nước để sẽ dân chủ hóa và sẽ phân tán quyền lực ... Các ấp chiến
lược là định chế căn bản của nền dân chủ trực tiếp. Khi các ấp nầy phát triển và thịnh vượng, chúng
sẽ trở thành hạt nhân chính của một tổ
chức quốc gia, và rồi chính bản thân nhà nước – như Karl Marx đã nói -- sẽ biến mất.” (59)
Hàng
rào tre của một Ấp Chiến lược.
Theo ông Nhu, Ấp sẽ trở thành "định chế căn bản của nền dân chủ trực tiếp" và là
"hạt nhân chính của tổ chức quốc gia, và nhờ vậy, nhà nước sẽ biến mất"
Nhu
thấy cái nhìn kinh ngạc của Maneli, và lập lại tuyên bố đó. “Đúng vậy. Tôi đồng ý với kết luận cuối cùng
của Marx: nhà nước phải biến mất – đó là
một điều kiện cho chiến thắng cuối cùng của dân chủ. Ý nghĩa của đời tôi là
làm việc để cho tôi có thể trở thành không cần thiết. Tôi không chống lại những
cuộc thương thuyết và hợp tác với Miền Bắc... Nơi đây, Ủy hội Quốc tế -- và bản
thân ngài—có thể đóng một vai trò tích cực.” (60)
Maneli
lập lại lời bảo đảm trước đó của ông đối với Nhu rằng Ủy hội Kiềm soát Quốc tế
ICC sẽ làm mọi việc có thể để kết thúc chiến tranh, ghi nhận rằng Sài Gòn đang
râm ran những tin đồn về những cuộc thương thuyết bí mật. Maneli tin rằng Diệm
và Nhu đã nghĩ rằng nếu họ tách lìa người Mỹ, họ có thể trong vị trí để sắp xếp
cuộc thương lượng với Hà Nội. Do đó họ sử dụng nỗi sợ lan rộng này “để gây kinh hoảng và để bắt chẹt các đồng
minh chống Cộng của họ.” (61)
Sau
đó trong ngày, Maneli nói chuyện với Lalouette, được Lalouette nhấn mạnh lần nữa
rằng cách duy nhất để có hòa bình tại VN là xuyên qua chế độ Diệm. Maneli chưa
bao giờ chấp nhận lời khẳng định như thế. (Nhảy tới trang 362)
■ Trang 362, từ giữa trang:
Các
nguồn tin tình báo củng cố niềm tin của Đại sứ Lodge rằng đã tới lúc phải hành động
quyết liệt, đặc biệt bởi vì các bản tin liên tiếp cho thấy Nhu đang thương thuyết
với Hà Nội, “có hay không có sự xúi dại
của người Pháp.”
De
Gaulle mới trước đó đã lập lại lời khẳng định rằng chỉ có trung lập hóa Nam Việt
Nam mới có thể ngăn cản làn sóng Cộng Sản xâm chiếm. Ông nói thế cũng có lợi ích
riêng: phương cách đó sẽ trao một cơ hội
để tái lập vị trí của Pháp trong khu vực. Thực sự, tham vọng của De
Gaulle vượt xa hơn Việt Nam. Ông đã thu
hút sự ủng hộ rộng rãi từ dân Pháp vì đã thiết lập Pháp Quốc như cường quốc
trung gian chính trong việc làm giảm căng thẳng Chiến Tranh Lạnh.
Một
chính phủ trung lập tại VN sẽ làm tăng
ảnh hưởng de Gaulle như một lãnh tụ thế giới, và kết hợp với việc de Gaulle ủng
hộ cho Trung Quốc vào Liên Hiệp Quốc, sẽ làm khựng lại những bước lớn của chính sách Mỹ tại Châu Á và Châu Âu.
De
Gaulle biết rằng chỉ cần có những cuộc thương thuyết giữa Nhu và Hà Nội là sẽ hợp thức hóa được Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam (NLF) và sẽ tăng áp lực cho một hội nghị quốc tế về Việt Nam mà người Pháp có thể đóng vai chủ tọa.
Liên Xô sẽ hỗ trợ, Trung Quốc cũng sẽ hỗ trợ nếu các nước tham dự kêu gọi Hoa Kỳ
rời bỏ Nam Việt Nam.
Đại
sứ Lodge nhận định rằng cơ hội duy nhất của Nhu để sống còn nằm trong việc sắp
xếp với Bắc Việt để buộc Mỹ ra đi.
■ Trang 363-364:
Cả
McCone (Giám Đốc CIA) và Harriman (Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ về Chính Trị Vụ)
đều biết lời cảnh báo của Robert Thompson (Chuyên gia về chống du kích, đã xóa
sổ cuộc chiến của Cộng Sản Mã Lai, và là Trưởng Phái Đoàn Cố Vấn Anh Quốc để giúp
Hoa Kỳ ở VN) rằng “Nhu có lá bài độc duy
nhất là việc Mỹ rút quân. Đưa lá bài đó ra,” Thompson nhận định, “Bắc Việt
sẽ trả gần như với mọi giá.” (33)
CIA
cũng nhận thấy rằng nhiều phần là chế độ Diệm, Hà Nội và người Pháp đang thúc
giục để dẫn tới hòa giải hai miền Nam-Bắc. Phải thú nhận rằng, sự thống nhất Việt
Nam không phải là giải pháp thay thế khả thi trong tình hình có những căm thù
cay đắng hiện nay. Nhưng một cuộc ngưng bắn có thể củng cố đòi hỏi của Hà Nội rằng
Mỹ phaỉ rút hoàn toàn khỏi Việt Nam, sau đó là sự thiết lập một chính phủ liên
hiệp ở Miền Nam VN trong đó đón nhận tất cả các nhóm chính trị, kể cả Việt Cộng.
Người
Pháp đã tìm cách hành động như vai trò liên
lạc của Hà Nội với Tây Phương. Mặc
dù Nhu sẽ đối diện sự chống đối gay gắt từ các tướng lãnh VNCH đối với bất kỳ
thỏa hiệp nào với Miền Bắc, Nhu có thể nghĩ chuyện này khả thi nhờ ủng hộ từ người
Pháp.
Nhà
bình luận Joseph Alsop trong bài viết ngày 18-9-1963 trên tờ Washington Post đã làm cho Bạch Ốc thêm
quan ngại. Trong bài viết tựa đề “Very
Ugly Stuff” (Chuyện Cực Kỳ Xấu Xa), Alsop cáo buộc rằng, lần đầu tiên Nhu
thú nhận đã liên lạc với Hà Nội. (34)
Nếu
như thế, hành vị của Nhu hứa hẹn hậu quả nghiêm trọng đối với chính sách Mỹ.
Nhu nhận định rằng thương lượng Nam-Bắc là rủi ro, nhưng đáng chấp nhận nếu có
rủi ro. Làm sao Nhu có thể biết chắc rằng Nhu (và ông anh) sẽ sống sót với sắp
xếp mới chứ?
CIA
nhận định rằng thống nhất tức khắc là khó có thể được, vì Hà Nội trước đó đã công khai tuyên bố ý định sát nhập Nam VN. Nhưng Bắc VN tất phảỉ kiên
nhẫn, và sẽ muốn làm dịu cuộc chiến trước khi Hoa Kỳ tăng sự tham dự.
Sài
Gòn có lẽ sẽ có thể chấp nhận ngưng bắn và một vài hình thức trung lập để tự bảo
tồn. Nhu đã nói rõ lập trường rồi. Cả công
khai và cả nơi riêng tư, Nhu tố cáo Mỹ đã
đưa Nam VN vào vị trí thuộc địa. Tuy nhiên, ở một mặt khác, việc Nhu nói rằng
có sự ủng hộ của Mỹ đã làm suy yếu những
người đối lập với chế độ Diệm tại Nam VN trong khi làm tăng uy tín Nhu.
Bệnh hoang tưởng
quyền lực của Nhu đã lộ hẳn ra trong lời khoe khoang rằng duy chỉ có Nhu là có
thể cứu Nam VN. Tôi là “cột xương sống duy nhất” của cuộc chiến chống Cộng, Nhu khoe
với Alsop. “Ngay cả nếu người Mỹ quý vị
có rút đi, tôi sẽ vẫn
thắng cuộc chiến với cương vị lãnh tụ
của phong trào du kích vĩ đại của tôi.”
Cả
Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần và Chánh Văn Phòng Võ Văn Hải (thư ký riêng cuả Diệm)
đều nói rằng Nhu đã hút nha phiến trong
hai năm qua, điều nầy giải thích cho bệnh hoang tưởng cuồng vĩ của Nhu. (35)
Cơn
lốc những sự kiện đã làm cho mùa thu năm 1963 trở thành thời kỳ nghiêm trọng tại
VN. Chế độ Diệm đã gỡ thiết quân luật vào ngày 16-9-1963, nhưng chính sách đàn áp Phật Tử vẫn không ngừng.
Trong một bản tin phát thanh cùng ngày, NLF (Mặt trận Giải phóng) lên án chế độ
Diệm vì đã đàn áp Phật Tử và “tập đoàn Mỹ hiếu chiến” đang tiến “vào một đường
hầm không lối ra.” Rằng tất cả những đồng bào Nam VN hãy nổi dậy chống “bọn xâm
lược Mỹ và các con chó săn của chúng – gia đình Ngô Đình Diệm.”
Cả
những nguồn tin tình báo Mỹ và the Country Team in South Vietnam (cụm từ này có
nghĩa: các viên chức Tòa Đại Sứ Mỹ) kết luận rằng những người chống Nhu có mặt ở mọi cấp trong chính phủ, cũng như trong
quân đội VNCH và trong giới trí thức thành thị. MACV nhận định rằng các sĩ
quan cao cấp nhất cuả quân lực VNCH bác bỏ vai trò lãnh đạo của Nhu “trong bất
kỳ điều kiện nào.”
Nếu
những nhận định này là chính xác, hễ Nhu càng hành động, là càng bảo đảm sẽ rơi
khỏi quyền lực.
■ Trang 406:
Đại
sứ Lodge đã chính xác khi khẳng định rằng không
người Mỹ nào có thể ngăn cản các tướng VNCH phát động cuộc đảo chánh.
Những
lực mạnh mẽ đã thúc giục họ hành động, đáng ghi nhận nhất là việc chính phủ
Kennedy đã cắt giảm có chọn lọc viện trợ, vốn là sự ủng hộ thấy rõ của Lodge
cho một cuộc đảo chánh, và hậu quả thảm tử chắc chắn xảy ra cho họ nếu có bất kỳ
thương lượng nào đạt được giữa Nhu và Hà Nội.
Tướng
Tôn Thất Đính, sau nầy, giải thích về cuộc đảo chánh trong nhiều cách, trực tiếp
nhất là việc Nhu mới liên lạc với Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng xuyên qua đại
diện Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế ICC.
Nhu
có vẻ như thu xếp gần xong việc kết thúc cuộc chiến, việc sẽ giữ gìn được chế độ
Diệm, và việc sẽ tới cao điểm là các bản án tử hình cho những người âm mưu đảo
chánh. Giây phút quyết định đã tới khi các tướng lãnh chống đối nhận ra nỗi
nguy hiểm chết chóc lớn hơn khi trì hoãn đảo chánh thay vì cứ tiến hành luôn. (70)
Vào
cuối tháng 10-1963, một cuộc đảo chánh lần nữa thấy như dường tất yếu. Đại sứ
Lodge báo cáo rằng có ít nhất 10 nhóm
nói về chuyện đảo chánh, nhưng nhóm chính yếu, dĩ nhiên, là các tướng lãnh cao
cấp cuả quân lực VNCH.
Lần
này khác một trời một vực với kinh nghiệm hồi tháng 8-1963. Chính phủ Kennedy đã
ra dấu hiệu ủng hộ, Tướng Dương Văn Minh và các bạn tướng lãnh của ông có một kế
hoạch, và việc Nhu thương thuyết với Hà Nội đã xóa bỏ mọi do dự của họ.
Bạch
Ốc nêu chính sách hồi tháng 8-1963 là sẽ ủng hộ các tướng nếu họ thành công và
sẽ không bao giờ biết tới nếu họ thất bại. Nhưng tình hình quốc nội và quốc ngoại VN đã suy sụp tệ hại trong 2 tháng qua,
tới nổi một cuộc đảo chánh trở thành một lối khả thi duy nhất cho chính phủ
Kennedy để gỡ rối cho quân Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Chỉ
có sự thay đổi chính phủ Nam VN, mà nhờ vậy, Hoa Kỳ có thể tuyên bố đã có tiến bộ cần và đủ trong nỗ lực viện trợ để [rút bớt quân Mỹ và]
trở về mức chỉ duy trì cố vấn Mỹ cấp
thấp và mức độ viện trợ tương đương như hồi đầu năm 1961.
Một
lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ, cả Hải quân và Không quân, đã tiến vào khơi sát bờ
biển Nam VN để sẵn sàng di tản người Mỹ. Đại sứ Lodge được lệnh từ chối bất kỳ
lời nài nỉ xin giúp nào từ bất kỳ phe nào trong cuộc đảo chánh. Nhu có vẻ như sẵn
sàng thương thuyết để đạt thương lượng với Hà Nội. Đối với các tướng lãnh VNCH,
bây giờ hoặc sẽ không bao giờ...(71)
NOTES
Chú
thích cho các trang 310-314:
35.
Lodge to Rusk, Aug. 24, 1963, FRUS,
3: Vietnam January–August 1963,
620–21; President’s Intelligence Checklist (sent to Hyannis Port, Mass.), Aug.
24, 1963, ibid., ed. note, 626; Current Intelligence Memorandum, CIA, Aug. 26,
1963, ibid., ed. note, 626.
36.
Acting sec. of state to Lodge, Aug. 25, 1963, FRUS,
3: Vietnam January– August 1963,
635; CIA station in Saigon to CIA in Washington, Aug. 25, 1963, ibid., 633–34;
author’s interview with Hilsman, Sept. 17, 2001; Hammer, Death
in November, 177; Winters, Year
of the Hare, 61.
37.
Nolting Oral History Interview, 80–81 (May 6, 1970), JFKL; Trueheart Oral
History Interview, 1: 53–54, LBJL; Nolting Oral History Interview, 115–16, May
7, 1970, by Joseph E. O’Connor, for JFKL Oral History Program.
38.
Mieczyslaw Maneli, War of the Vanquished (New
York: Harper and Row, 1971), 115, 117–18, 121, 125. A photograph had circulated among the diplomatic corps
that suggested an immoral liaison between Maneli and Madame Nhu. Maneli denied
both charges, although wittily remarking that “a love affair with as
interesting and unusual a woman as Madame Nhu . . . could only adorn a man’s
biography.” Ibid., 112–13. See also Langguth, Our
Vietnam, 232, and Logevall, Choosing
War, 6–12. Later exiled from Poland, Maneli came to the United States
and taught political science at Queens College in New York. Hammer also
emphasizes France’s wish to reestablish its control over Vietnam. See Death
in November, 222. Dinh told the press that the Diem
government “had entered negotiations with the Communists. . . by contacting the
Polish representative on the ICC.” Policy of
the Military Revolutionary Council and the Provisional Government of the
Republic of Vietnam (Saigon: Ministry of Information, 1963), 32.
Wason Pamphlet, Department of State Vietnam 373+. Echols Collection: Selections
on the Vietnam War.
39.
Maneli, War of the Vanquished,
121–22; Ho quoted in Hammer, Death in November,
221–22.
40.
Maneli, War of the Vanquished,
127; Hammer, Death in November,
223; Lalouette quoted in ibid.
41.
Maneli, War of the Vanquished,
127–28; Hammer, Death in November,
223–24; Winters, Year of the Hare,
43–44; Duiker, Ho Chi Minh,
534. Ho Chi Minh expressed the same peace terms in an interview with Wilfred
Burchett that appeared in Moscow’s New Times on
May 29, 1963. See FRUS, 4: Vietnam
August–December 1963, 85 n. 3.
42. Maneli, War of the
Vanquished, 128–29, 131, 134.
43. Ibid., 135–37; Hammer, Death
in November, 220–21.
44.
Nhu’s first quote in Hammer, Death in
November, 221; Nhu’s second quote in Maneli, War
of the Vanquished, 138.
45. Remainder of conversation in Maneli, War
of the Vanquished, 138–39.
47.
David Halberstam, “U.S. Problem in Saigon,” New
York Times, Aug. 24, 1963, p. 2; Forrestal to JFK, Aug.
24, 1963, encl.: Ball to Lodge, Aug. 24, 1963, FRUS,
3: Vietnam January–August 1963,
625; Forrestal to JFK, Aug. 24, 1963, ibid., 627; Hilsman, To
Move a Nation, 485, 485 n. 1; Newman, JFK
and Vietnam, 346–51; Kaiser, American
Tragedy, 231–34.
Chú
thích cho trang 344-345:
55.
Forrestal to JFK, Aug. 25, 1963, encl.: Lodge to Rusk and Hilsman, CAS
(Controlled Action Source or CIA) station 292, Aug. 24, 1963, NSF, Countries—
Vietnam, box 198A, JFKL; Ball to Lodge, Aug. 25, 1963, ibid.; Hilsman,
“McNamara’s War,” 157.
56.
William Colby, Lost Victory: A Firsthand Account of
America’s Sixteen-Year Involvement in Vietnam (Chicago:
Contemporary Books, 1989), 138; Taylor, Swords and
Plowshares, 292–94; Rust, Kennedy
in Vietnam, 119; Hilsman, To
Move a Nation, 487–88; memo for record by Krulak, Aug. 24,
1963, FRUS, 3: Vietnam
January–August 1963, 630–31; Gilpatric Oral History Interview, 1:
5–6, LBJL; Hilsman, “McNamara’s War,” 157; Halberstam, Best
and the Brightest, 263–64.
57.
First JFK quote in Reeves, President Kennedy,
567; second JFK quote in Rust, Kennedy in
Vietnam, 119.
58.
Ball’s interview of 1988 quoted in Winters, Year
of the Hare, 57; Rust, Kennedy
in Vietnam, 119–20; Ball, Past
Has Another Pattern, 370, 372; Hilsman Oral History Interview, 31,
34–35, JFKL; Colby, Lost Victory,
138.
59.
Hilsman Oral History Interview, 35, JFKL; Hilsman, “McNamara’s War,” 158;
Schlesinger, Thousand Days,
825; Schlesinger, Robert Kennedy and His Times,
745–46.
60.
Memo for record of meeting at White House, Aug. 26, 1963, FRUS,
3: Vietnam January–August 1963,
638–39, 639 n. 5; Hilsman memo of meeting, Aug. 26, 1963, Vietnam: White House
Meetings, Hilsman Papers, box 4, JFKL. Those present included Rusk, McNamara,
Taylor, Ball, Harriman, Gilpatric, CIA Deputy Director General Marshall Carter,
Helms of the CIA, Hilsman, William Bundy, Forrestal, and Krulak.
61.
Taylor quoted in Rust, Kennedy in Vietnam,
114; Memo for record of meeting at White House, Aug. 26, 1963, FRUS,
3: Vietnam January–August 1963,
639; Hilsman memo of meeting, ibid., 639 n. 7; Joint Chiefs of Staff to Felt,
Aug. 27, 1963, ibid., 639 n. 7; Hilsman Oral History Interview, 34, JFKL.
Chú
thích cho trang 362-364:
33.
Research memo from Hughes to Rusk, Sept. 11, 1963, NSF, Countries—Vietnam,
boxes 200–201, JFKL; memo to Bundy from Robert Neumann, Sept. 15, 1963, ibid.;
Lodge to Rusk, Sept. 13, 1963, FRUS, 4:
Vietnam August–December 1963, 203;
memo of telephone conversation between Harriman and McCone, Sept. 13, 1963,
ibid., 204; Saigon embassy to Rusk, Sept. 12, 1963, ibid., 204 n. 4.
34.
Memo from Chester Cooper, chair of CIA’s Working Group on Vietnam, to McCone,
Sept. 19, 1963, NSF, Countries—Vietnam, boxes 200–201, JFKL; memo for McCone,
Sept. 26, 1963, FRUS, 4: Vietnam
August–December 1963, 295–96.
35.
CIA memo from Ray Cline, deputy director of intelligence, for Bundy, Sept. 26,
1963, NSF, Countries—Vietnam, boxes 200–201, JFKL; Hughes to Rusk, Sept. 15,
1963, ibid.; Nhu quoted in “Victory in Defeat?” Newsweek,
Sept. 30, 1963, p. 38.
Chú thích cho trang 406:
70.
Lodge to Rusk, no. 973, Nov. 8, 1963, NSF, Countries—Vietnam, boxes 202–3,
JFKL; McGeorge Bundy to Lodge, Oct. 30, 1963, FRUS,
4: Vietnam August–December 1963, 500–501;
Dinh’s claim to secret negotiations between Nhu and Hanoi in Seth S. King,
“Hanoi Problems Said to Increase,” New York
Times, Nov. 10, 1963, p. 4.
71.
Gravel, ed., Pentagon Papers,
2: 260, 264; Bundy to Lodge, CAS 79109, Oct. 30, 1963, ibid., 783; Bundy to
Lodge, Oct. 30, 1963, FRUS, 4: Vietnam
August–December 1963, 502.
HẾT BẢN DỊCH
Hình chụp 11 trang Anh ngữ từ
sách Death of A Generation của Howard
Jones