DUY TUỆ THỊ NGHIỆP
Huỳnh Ngọc Chiến
Tư
tưởng Đức Phật như một buổi đại yến tiệc, mà nói như nhà thơ Bùi Giáng, chỉ cần
một hạt cơm thừa trên bàn tiệc đó cũng quá đủ để chúng ta thụ dụng suốt bình
sinh. Điều đó ta càng dễ dàng cảm nhận khi đi sâu vào thế giới kinh điển Phật
giáo.
Không
cần đến cảnh giới hoành tráng được mô tả trong kinh Hoa Nghiêm hay tư tưởng siêu việt được diễn đạt trong kinh Đại Bát Nhã, vốn là những thứ có thể làm
cho những kẻ sơ cơ như chúng ta khiếp hãi, mà ngay những câu kệ đơn giản mộc
mạc trong kinh Pháp Cú hay kinh Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác cũng khiến
chúng ta cảm nhận được chiều sâu thăm thẳm, khi chúng ta đọc những trang kinh
đó bằng những suy niệm chân thành.
Trong
phần cuối của bài kệ thứ ba trong kinh Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật
dạy rằng, bậc Bồ tát cần phải: “Thường
niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy Tuệ thị nghiệp”. (Thường nghĩ đến việc
biết đủ, yên trong cảnh nghèo mà giữ đạo, chỉ lấy việc đạt đến tuệ giác làm sự
nghiệp đích thực của mình). Kinh Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác rất ngắn, chỉ
gồm tám bài kệ ngắn nói về tám điều giác ngộ lớn, song chỉ cần một phần của bài
kệ thứ ba này cũng đủ làm kim chỉ nam cho những ai thành tâm tu học, muốn đi
vào thế giới của Phật đà.
■
Vì sao cần phải “Thường niệm tri túc”?
Tri
túc có nghĩa là biết đủ. Nhưng biết thế nào là đủ? Kẻ có một trăm thì muốn có
một ngàn. Kẻ có một ngàn thì muốn có một vạn. Kẻ có một vạn thì muốn có muôn
vạn. Biên giới của đủ là đâu? Lòng tham của con người không bao giờ có biên
giới. Loài thú có thể lười biếng đi săn khi đã ăn no, nhưng con người không bao
giờ ngưng được tư tưởng chiếm hữu, dù đã sống trong điều kiện vật chất vượt quá
nhu cầu sống hàng ngày. Trong chữ “dục”
欲(ham muốn) có chữ “khiếm“ 欠? có nghĩa là “thiếu”.
Quả là sâu sắc. Đối với người đã có lòng tham dục thì lúc nào cũng thấy thiếu,
nên phải bươn chải mãi theo lòng dục. Muốn ngừng thì cần phải tri túc. Tất cả
tầm quan trọng nằm ở chữ Tri. Nguyễn Công Trứ từng nói “Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc?”. Hễ biết đủ là thấy đủ,
chờ cho đủ thì biết đến khi nào mới đủ? Cái khó nhất là biết đủ. Khi đã biết đủ
thì những cái thêm vào đều là thừa.
Trong
lịch sử triết học Tây phương, có một giai thoại kể rằng triết gia phái khắc kỷ
là Diogène sống với những nhu cầu sống được giảm đến mức tối thiểu. Mỗi tối,
ông chui vào một cái thùng gỗ để ngủ. Ông chỉ giữ một cái bát nhỏ để vừa làm
cái chén ăn cơm vừa làm cái ly uống nước. Ông tưởng như thế đã là nhu cầu tối
thiểu của con người, là đã “tri túc”. Tình cờ một ngày kia, ông gặp một đứa bé
ăn mày vục hai tay vào vòi nước để uống, ông hiểu rằng cái bát kia vẫn là vật
thừa nên đập vỡ luôn cả cái bát – tài sản duy nhất của mình!
Cuộc
sống vốn giản dị hơn ta tưởng. Chính chúng ta đã biến nó thành phức tạp bằng
những tham vọng vô nghĩa và những nhu cầu thường lắm khi phù phiếm của mình.
Cuộc sống thiên về vật chất đã biến những thứ vô vị trên đời thành những nhu
cầu cần thiết. Và buộc chúng ta phải chạy mãi theo chúng, để cố sống theo mọi
người, cố suy nghĩ như mọi người.
Nhà
văn và triết gia Mỹ Henry David Thoreau (1817-1862) đã vào rừng, sống cô đơn
trong căn lều nhỏ suốt một thời gian dài với tinh thần sống đơn giản (simple
living) và tri túc (self-sufficiency). Ông tự trồng trọt mà sống giữa lòng
thiên nhiên tịch lặng, và ông khám phá ra rằng nhu cầu thực sự để con người
sống trong an lạc vốn vô cùng ít. Nhờ thời gian đó, ông đã để lại cho đời tác
phẩm bất hủ “Walden, or Life in the Woods”
(Walden, hay đời sống trong rừng).
Chúng
ta quên rằng chúng ta chỉ có thể đáp ứng được mọi nhu cầu bằng cách biết tiết
chế chứ không phải bằng cách thỏa mãn nó. Ta không thể nào tiêu trừ một tham
vọng bằng cách làm thỏa mãn nó, vì tham vọng không bao giờ thấy đủ. Chỉ có tinh
thần “tri túc” mới đem lại cho ta sự thanh thản trong tâm hồn, nhất là giữa một
thế giới mà sự tiêu dùng và hưởng thụ vật chất luôn được những xảo thuật quảng
cáo nâng lên thành một giá trị của cuộc sống.
■
Vì sao cần phải “an bần thủ đạo”?
Kinh
dạy “an bần thủ đạo” cũng như người xưa thường nói “an bần lạc đạo” (yên cùng
cảnh nghèo mà vui với đạo). Nhưng phải có đạo để lạc thì mới thấy an trong
cảnh bần được. Muốn sống yên vui
trong cảnh nghèo thì phải có một đời sống nội tâm thực sự hoặc phải mang một tâm
hồn thuần phác như người nông dân chân chất. Đối với người tu hành hoặc người
đọc sách, trong tâm phải có sở đắc thì mới có thể yên vui với cảnh nghèo, nếu
không thì sự an bần đó chỉ còn là hình thức. Đó là sự đè nén đầy mặc cảm của
những tham vọng không thành. Không ít vị tu sĩ trụ trì, khi trò chuyện với
người viết, đã chặc lưỡi thở dài khi so sánh cảnh đầy đủ của ngôi chùa khác với
sự nghèo nàn của ngôi chùa mình!
Tôi
không hiểu tại sao có rất nhiều Phật tử, kể cả những vị xuất gia, vẫn thường
quan niệm rằng những tu sĩ nào có “hảo tướng”, thường xuyên được tín đồ cúng
dường hậu hỹ, được tu ở những ngôi chùa đẹp tại những thành phố lớn là do phước
báo đời trước. Quan niệm kiểu đó có khác gì cho rằng những bậc ẩn tu nơi thâm
sơ cùng cốc như đạo sư Mật tông vĩ đại Milarepa, hay bậc chân tu khổ hạnh như
thánh Gandhi đều là những người gánh chịu nghiệp báo? Ở đời, hễ đã nhận người
khác một món quà, dù là vật phẩm cúng dường, là đã thiết lập nên một sự ràng
buộc vô hình trong mối quan hệ xã giao. Món quà càng có giá trị cao thì sự lệ
thuộc càng nhiều, và sự nhiễu loạn của tâm càng lớn.
Chúng
ta thường tỏ thái độ hãnh diện với những tiện nghi cao cấp đang sử dụng như xe
cộ, điện thoại di động đời mới… như là cách để khẳng định mình, mà quên mất
rằng hễ đời sống tinh thần càng hời hợt thì con người, tăng cũng như tục, càng
lo bù đắp và che lấp bằng những thứ trang sức phù phiếm bên ngoài.
Đối
với các tu sĩ, thử hỏi nếu cứ mãi bận lo thù tạc xã giao với các thí chủ giàu
có thường xuyên cúng dường cho chùa thì lấy đâu ra thời gian để nghiên cứu kinh
điển hay quán tưởng trầm tư? Có thể gọi đó là phước báo được chăng? Nói về hảo
tướng và hưởng thụ vật chất trần gian có ai bằng Đức Phật? Có ngôi chùa nào đẹp
bằng cung vàng điện ngọc của nhà vua, thế thì tại sao Ngài vẫn từ bỏ cảnh lầu
son gác tía để ra đi tìm Chánh Pháp?
Đối
với một người tu học thì phước báo phải nên hiểu là phước báo về mặt tâm linh.
Trước mọi phong ba biến động của cuộc đời, mà giữ tâm lặng được như mặt nước
của cái giếng cổ trong bài Đạo ý của Nguyễn Du: Trạm trạm nhất phiến tâm, Minh nguyệt cổ tĩnh thủy (Mảnh lòng mênh
mông tịch lặng, Trăng soi mặt nước giếng xưa), đó mới thật sự là phước báo.
Các
bậc cổ đức nhiều khi từ chối vàng bạc hoặc chức tước vua ban tặng để dành thời
gian cho việc tu hành trong chốn lâm tuyền, vì các ngài sợ cái Vật làm lụy đến
cái Tâm. Tổ Linh Hựu bao năm sống cô độc trên ngọn Quy sơn để tiếp tục tu tập
sau khi chứng ngộ.
Trước
khi muốn cứu đời, trước khi muốn hoằng pháp thì chúng ta phải đủ sức mạnh nội
tâm để bước đi một cách cô đơn trong cuộc đời và trong tư tưởng, để nghe ra
tiếng nói của Tâm. Tâm không tĩnh lặng được trước Vật, còn để Vật sai sử thì lấy
gì để bàn về cõi Đạo mênh mông vi diệu của Phật giáo?
Đối
với hầu hết chúng ta, tu tập trong điều kiện khó khăn về vật chất chưa phải là
điều hay, nhưng nếu cứ bận tâm mãi những tiện nghi vật chất thì tự cắt bỏ con
đường đi vào cõi đạo.
An
bần thủ đạo với một tâm thái ung dung là điều cực khó, mà câu chuyện về nhân
vật Phương Sơn Tử của Tô Đông Pha sau đây là một minh họa đặc sắc.
“Phương Sơn Tử là
người ẩn cư trong khoảng Quang Hoàng. Thiếu thời, hâm mộ cách sống của Chu Gia
và Quách Giải (1). Bọn hào hiệp trong làng xóm đều tôn sùng. Khi hơi lớn, biết
kiềm tính và đọc sách; muốn lấy việc đó mà rong ruổi với đời. Nhưng rồi không
gặp thời. Về già, ẩn lánh trong khoảng Quang Hoàng, nơi chỗ gọi là Kỳ Đình. Ở
nhà tranh, ăn rau trái, không giao thiệp với đời. Bỏ xe ngựa, vứt áo mão, đi
bộ. (…)
“Tôi bị biếm trích ở
Hoàng Châu, qua Kỳ Đình, thì gặp. Bèn kêu: “Hỡi ôi! Cố nhân của ta, Trần Tháo
Quý Thường đây mà. Sao lại ở đây?” Phương Sơn Tử cũng kinh ngạc, hỏi tôi vì sao
đến đây. Tôi nói duyên cớ. Ông cúi đầu không đáp; rồi ngửa lên trời mà cười.
Bảo tôi ngủ lại nhà. Tường vách xơ xác, nhưng trông vợ con và nô tỳ đều có vẻ
ung dung thỏa ý. Tôi giật mình lấy làm kinh ngạc. Lòng riêng nghĩ, Phương Sơn
Tử khi thiếu thời, ưa rượu và thích kiếm, tiêu tiền như rác. Mười chín năm
trước, tôi ở Kỳ Sơn thấy Phương Sơn Tử cưỡi ngựa theo hai tay kỵ mã, kẹp hai
mũi tên dạo chơi ở mạn núi phía Tây. Có con chim khách vụt bay trước mặt, sai
người cưỡi ngựa đuổi bắn, không trúng. Phương Sơn Tử nổi giận, một mình thúc
ngựa lên bắn một phát, chim rơi, rồi nhân đó ngồi trên lưng ngựa bàn với tôi về
phép dùng binh và chuyện thành bại xưa nay, tự cho là bậc hào sĩ trên đời. (…)
Phương Sơn
Tử thuộc nhà thế phiệt, nếu làm quan thì giờ đây đã hiển hách. Nhà cửa vườn
tược ở Lạc Dương rất tráng lệ, sánh ngang với bậc công hầu. (…) Vậy mà bỏ tất
cả để một mình vào tận núi thẳm để ở. Há không có sở đắc mà được như thế sao?”” (lược dịch theo Phương Sơn Tử truyện của Tô Đông Pha).
Câu
chuyện trên phác họa một cách ngắn gọn mà tuyệt vời sự tương phản giữa hình ảnh
một hào sĩ kiêu hùng với một người ẩn cư trong núi. Đó là hạng người đã có sở
đắc để an bần lạc đạo. Hễ trong lòng đã có sở đắc thì mới có thể ung dung tự
tại giữa cảnh nghèo, theo đúng nghĩa hai chữ an bần. Bản thân Phương Sơn Tử vui
trong cảnh nghèo không quan trọng bằng chi tiết: “Tường vách xơ xác, nhưng trông vợ con và nô tỳ đều có vẻ ung dung thỏa
ý” (Tường đổ tiêu nhiên, nhi thê tử nô tỳ giai hữu tự đắc chi ý). Biến cái
an vui trong lòng mình thành cái an vui trong lòng người khác, như Phương Sơn
Tử, mới thực sự là cực đỉnh của sự an bần thủ đạo. Đó mới thực sự là đạo hạnh
của một bậc chân tu, và là một dạng của vô úy thí.
■
Vì sao cần phải “Duy Tuệ thị nghiệp”?
Có
lẽ đây là câu hỏi thừa, vì toàn bộ tòa lâu đài tư tưởng vĩ đại của Phật giáo
được xây dựng trên hai trụ cột của Trí
và Bi. Tuệ là Trí. Đã đi theo chân
Phật, thì dù tại gia hay xuất gia, cũng đều phải tìm cầu giải thoát. Mà giải
thoát chỉ có thể tìm thấy trong ánh sáng của Tuệ giác, chứ không phải trong
việc tích lũy kiến thức hay công đức. Không cần phải đem thân gởi chốn am mây
mới gọi là tu, mà hễ một khi Tuệ kiếm vung lên là trần duyên đứt đoạn, để mở
đường đi vào cõi giác. Cùng đích của đạo Phật, dù với vô vàn phương tiện thiện
xảo hay với vô lượng pháp môn tu học, cũng chỉ nỗ lực khai mở được con mắt Bát
Nhã cho chúng sinh.
Như
khi ta tạo một con số bắt đầu bằng số 1 và sau đó là rất nhiều số 0. Số lượng
số 0 đằng sau số 1 càng nhiều thì giá trị con số đó càng tăng. Các số 0 đó có
thể là sự tích lũy công đức hay chuyên cần tu học… Nhưng chính số 1 mới là con
mắt Bát nhã, mới là Tuệ trong tinh thần “Duy Tuệ thị nghiệp” của Phật giáo. Nếu
bỏ số 1 đi thì giá trị của chuỗi các số 0 đó, dầu dài bao nhiêu đi nữa, cũng
chỉ là 0, theo tinh thần “Quách nhiên vô
thánh” của tổ Đạt Ma khi trả lời Lương Võ Đế.
Các
Phật tử vẫn có một thói quen kỳ lạ là thường đánh giá các tu sĩ qua ngôi chùa
họ đang cư trú, làm như ngôi chùa là nơi đảm bảo cho trí tuệ hay công phu đạo
hạnh! Cách đánh giá đó đã vô tình biến tư tưởng “Duy Tuệ thị nghiệp” của đạo
Phật thành “Duy Tự thị nghiệp” (lấy cái chùa làm sự nghiệp) mất! Chính Trí tuệ
đạt từ kinh điển hay sự thực chứng mới đảm bảo cho sự tồn vong của đạo Phật. Dù
có trải qua muôn ngàn cơn pháp nạn, nhưng hễ một khi hạt giống Tuệ giác còn nảy
mầm thì nó vẫn phát triển thành khu rừng tư tưởng Phật giáo.
* * *
Câu
kinh gồm ba mục “Thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy Tuệ thị nghiệp”,
nhưng thực ra “Thường niệm tri túc” và “An bần thủ đạo” là hệ quả tất yếu của
“Duy Tuệ thị nghiệp”. Một khi đã xác định được “Duy Tuệ thị nghiệp” thì tự
nhiên tâm dần sẽ tĩnh, sẽ dần bớt đi sự tham chấp vào của cải trần gian.
Đạo
Phật chủ trương thập loại chúng sinh đều bình đẳng trước Phật pháp, nên luôn
luôn mở rộng cửa cho mọi người. Chúng sinh vô lượng, căn cơ vô lượng nên phải
có vô vàn con đường dẫn đến cửa thiền. Chư pháp, do đó, không thể có hình tướng
nhất định mà chư Phật cứ tùy theo căn cơ để hóa độ chúng sinh.
Không
ít người, do không hiểu được những yếu tố sơ đẳng trong Phật học, cho rằng đạo
Phật chỉ đưa con người đến chỗ bế tắc (!). Họ quên rằng có quá nhiều kẻ trốn
vào thiền môn chỉ vì một lý do đơn giản là bị bế tắc khi đối diện với cõi thế.
Bế tắc trong tư tưởng, trong tình cảm, thậm chí trong cơm áo. Thuở còn tại thế,
Đức Phật đã từng cảnh báo có những kẻ quy y theo Phật, gia nhập Tăng đoàn chỉ
để kiếm cơm! Thuở đó còn vậy, huống gì đến thời mạt pháp hiện nay. Đối với
những kẻ bế tắc đó thì Phật pháp, dù có quảng đại và nhiệm mầu đến mấy, cũng
chỉ là một loại “cần câu cơm” giúp họ tạm thời làm ổn định những cơn quậy phá
của cái bao tử rỗng, hoặc một loại “si rô an thần” giúp họ làm dịu đi những cơn
khủng hoảng thần kinh!
Hàng
mấy ngàn năm qua, tinh thần bao dung của Phật giáo luôn mở rộng vòng tay để đón
nhận bao nhiêu bậc lợi căn pháp khí, xả thân cầu pháp thì đồng thời cũng đón
nhận không ít bụi bặm bay vào chốn thiền môn. Song một khi tư tưởng “Duy Tuệ
thị nghiệp” còn sống thì tư tưởng Đức Phật vẫn còn mãi ngời sáng, và đạo Phật
vẫn mãi mãi tồn tại và phát triển.
(1)
Những kẻ du hiệp nổi tiếng thời Chiến
quốc
@
Huỳnh Ngọc Chiến – GNO, 11-5-2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét