KIỆN
TRUNG QUỐC Ở TÒA NÀO?
|
||||
Tạ Văn Tài
|
||||
|
|
Phần 2: Việt Nam có thể
kiện trước tòa án quốc tế nào?
Từ lập luận trên của hai bên, câu hỏi đầu
tiên được nêu ra là Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế
nào?
A) Luận cứ (a) của Trung Quốc dùng
Paracels để đòi quyền khai thác cho giàn khoan phải được bác khước bằng hai vụ
kiện trong đó Việt Nam phải trình hồ sơ về hai điểm: (i) Paracels không phải
thuộc chủ quyền đất đai (territorial
sovereignty) của Trung Quốc
mà của Việt Nam; (ii) Paracels không có mỏm đá nào, kể cả Woody/Yongxing /Phú
Lâm xứng đáng gọi là đảo/island, tức có người sống trong nền kinh tế
tự túc được trong trạng thái nguyên thủy sơ khai, mà toàn là đá/reef.
Vụ kiện thứ nhất về chủ quyền đất đai trên
Paracels là thuộc luật quốc tế cổ truyền (traditional
international law), theo đó
Việt Nam phải minh chứng theo nguyên tắc luật quốc tế là một chính quyền muốn
xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục hành xử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ
ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp
bằng võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền bằng
sự hành xử chủ quyền liên tục.
Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền
của Việt Nam theo luật quốc tế này, thì Việt Nam, trong chiều dài lịch sử từ
nhiều thế kỷ, đã xác nhận và hành xử chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa (tuy
phạm vi hành xử ở Trường Sa thì chưa xác định tới bao nhiêu đảo); và khi Trung
Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974 và Việt Nam Cộng hòa phản đối, sau đó
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) – kế
quyền của Việt Nam Cộng hòa theo nguyên tắc thừa kế quốc gia (succession of state) – cũng phản đối vụ Trung Quốc dùng võ
lực chiếm Hoàng Sa và rồi phản đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm
một số đảo ở Trường Sa năm 1988 gây thương vong cho nhiều lính hải quân Việt
Nam và các năm sau đó, thì chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa không
thể bị coi là đã bị xói mòn vì thiếu sự tuyên bố và hành xử chủ quyền.
Nhưng ngay tại đây, cần bác khước một vấn
đề Trung Quốc nêu ra: nguời Trung Quốc thường viện đến công hàm hay công thư
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 mà họ cho là đã nhường Paracels và
Spratleys cho Trung Quốc. Chúng tôi có đủ luận cứ quốc tế công pháp bác khước
điểm này và trình bày trong một bài báo khác, như là Phụ lục của bài này. Phải
dùng luận cứ này trong dư luận quốc tế và trong vụ kiện về chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên Paracels tại tòa án có thẩm quyền
về việc này là Tòa án Công Lý Quốc Tế (International
Court of Justice, ICJ).
Trụ sở International Court of Justice, The Hague, Hà Lan
Rất tiếc là trong hiện trạng luật quốc tế,
không thể lôi Trung Quốc ra tòa ICJ được như một số kiến nghị vì chắc chắn
Trung Quốc sẽ không đồng ý ra tòa mà theo nguyên tắc optional clause thì một quốc gia có đồng ý ra tòa thì
tòa mới xem xét đơn kiện.
B) Trong vụ kiện thứ hai, chúng tôi nghĩ
là trước Tòa án Trọng tài Luật Biển, Việt Nam có thể bác khước căn bản pháp lý
của việc Trung Quốc đặt vị trí giàn khoan, bác khước cả hai luận cứ: luận cứ
(b) về khoảng cách đảo Hải Nam tới giàn khoan chỉ có 180 dặm, gây ra sự trùng
lấp của hai EEZ của hai nước, cùng với luận cứ (a) về tư cách đảo/island của Paracels.
Tòa án Trọng tài Luật Biển là tòa mà Việt
Nam có thể lôi Trung Quốc ra theo thủ tục bó buộc trong UNCLOS, Mục 2, điều
286-288. Tòa án đó có hẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến các mục đích của
Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng điều ước này.
Chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam có thể lôi
Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Luật Biển mà Trung Quốc không thể dùng sự bảo
lưu (reservation) khi ký Công ước là không nhận thủ tục
bó buộc cho các tranh chấp về vùng chồng lấn của các EEZ giữa Việt Nam và Trung
Quốc, như nói ở điểm (b), giàn khoan ở chỗ chống lấn của hai EEZ tính từ bờ
biển Việt Nam và từ Hải Nam, vì rằng Việt Nam cũng có thể xin Toà Trọng Tài xử
về biên giới biển/sea boundary, mặc dầu Trung Quốc có bảo
lưu/reservation khi gia nhập Công ước về vấn dề biên giới biển/sea boundary hay vịnh lịch sử/historical bays;
quyền kiện đó của Việt Nam là chiếu theo điều 298 đoạn 4, Công ước UNCLOS dành
quyền cho quốc gia duyên hải/coastal state, quyền có thể đối kháng:
“4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra
một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng
có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và
nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được
định rõ trong tuyên bố này“.
Bây giờ nói về điểm (b), vị trí giàn khoan
ở nơi chống lấn giữa EEZ Việt Nam và EEZ Trung Quốc tính từ Hải Nam: cả hai
phía bờ biển Việt Nam và Trung Quốc đều có thể phát sinh hai EEZ và hai Thềm
lục địa, của cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Nói cho Việt Nam, chúng ta có
thể biện luận theo luật là: vị trí giàn khoan ở trong Thềm lục địa mở rộng của
Việt Nam, và hơn nữa, ở hẳn sang phía Việt Nam nếu cần phải thương lượng theo
Công ước để tìm ra một đưòng trung tuyến (median
line)giữa hai Thềm lục địa—như vẽ trong hình đăng ở trên.
Trước Toà Trọng Tài, mục đích quan trọng
nhất là xin một bản án giải thích (declaratory
judgement)giải thích và áp dụng Công ước về vấn đề không có mỏm đá, đất
nào trong Paracels, kể cả Woody/Yongxing/Phú Lâm, xứng đáng là đảo (island) mà người ở được trong một nền kinh tế
tự túc, trong trạng thái thiên nhiên trước khi Trung Quốc xây các tòa nhà ở
được, phi trường, cảng, để tiếp tế, và nhà máy lọc nước ngọt.
Cũng còn một căn bản khác để kiện là xin
Tòa giải thích việc Trung Quốc, một quốc gia duyên hải/coastal state,
đã đơn phương ngăn chặn tự do lưu thông, với vòng vây rộng lớn các tầu chiến và
hải giám quanh giàn khoan, chiếu theo điều 297 đoạn 1a:
1. Các vụ tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền
hay quyền tài phán của quốc gia ven biển như đã được trù định trong Công ước,
phải được xét theo các thủ tục giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các
trường hợp sau đây:
a) Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã
không tuân theo Công ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc
tự do và quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển
vào các mục đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58.
Lại còn vi phạm khác nữa của Trung Quốc,
đó là trong khi chờ đợi các cơ quan tài phán giải quyết, Việt Nam chỉ giới hạn
họat động vào các lô 118 và 119, thì Trung Quốc—đáng lẽ phải theo đoạn 3 các
điều 74 và 83 về các bước đi thương lượng giải quyết bất đồng với Việt Nam về
EEZ và thềm lục địa để tự chế trong tinh thần hiểu biết và cộng tác (understanding and cooperation) kèm theo những biện pháp tạm thời (provisional measures), ngõ
hầu không hại đến thỏa ước sau cùng - thì Trung Quốc lại lấn lưót, hung hăng.
Hành động của Trung Quốc cũng vi phạm Tuyên bố Ứng xử trên Biển Đông của ASEAN
(DOC).
Trong việc kiện Trung Quốc, Việt Nam có
thể theo gương Philippines, nhờ các văn phòng luật sư quốc tế giỏi, như
Cotvington & Burling, khi xưa đã giúp Việt Nam thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt,
cũng trong vấn đề Biển Đông.
Phần 3: Vai trò của cộng đồng quốc
tế.
Nếu tình thế tiếp tục căng thẳng thì Việt Nam phải dùng thêm
các biện pháp chính trị, ngọai giao và quân sự nào? Vai trò của cộng đồng quốc
tế ra sao?
Công ước luôn đòi hỏi các bên thương nghị và cả hòa giải nữa trước khi đem ra các thủ tục bó buộc. Vì thế các cuộc thương nghị ngoại giao song phương, đa phương phải luôn có. Nếu thương nghị song phương mà bá quyền lấn áp, thì phải dùng thương nghị đa phương qua ASEAN và, nhất là nếu các nước nhỏ quá ngại va chạm với Trung Quốc thì phải dùng cả sự can thiệp của các nước lớn có quyền lợi ở Biển Đông như Nhật, Úc, Nga, Ấn và nhất là Mỹ.
Một nền ngoại giao đa phương đã có thể làm chùn bớt hành vi hung hăng của Trung Quốc, ngay từ khi trong chuyến du hành của Thủ tướng Việt Nam qua Mỹ năm 2008: lúc đó, Tổng thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung Mỹ Việt "nhắc lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ" và nói đến nhu cầu "củng cố đối thoại cấp cao" và ủng hộ "thành lập các cuộc họp hoạch định chính sách về chính trị, quốc phòng để có các trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh".
Hồi hạ tuần tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố tại Hà Nội rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam “không những thật sự là một quốc gia quan trọng mà còn là một bộ phận của chiến lược nhắm tăng cường cam kết của người Mỹ trong khu vực Á châu Thái Bình Dương, đặc biệt là trong vùng Đông Nam Á.”
Khi phát biểu tại hội nghị của Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội, bà Clinton còn nói rằng Hoa Kỳ xem việc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) bằng đường lối đa phương, theo luật quốc tế, mà không đe dọa hay dùng võ lực, là một “quyền lợi quốc gia” của Mỹ. Những phát biểu này đã khiến cho giới lãnh đạo Trung Quốc phật lòng.
Cơ chế các tổ chức quốc tế hoàn vũ (global international organizations) là diễn đàn nêu sự bắt nạt củaTrung Quốc trước dư luận quốc tế và có thể đi đến những nghị quyết hãm bớt sự hung hăng của Trung Quốc. Vì thế nên đưa vấn đề ra Đại hội đồng Liên hiệp quốc/United Nations General Assembly hay ngay cả Hội đồng Bảo an/Security Council. Một nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc là áp lực công luận quốc tế, có thể làm chùn bước Trung Quốc. Tuy ở Hội đồng Bảo an , khi lấy quyết định có thể vấp vào phiếu phủ quyêt của Trung Quốc, nhưng Việt Nam vẫn cần đưa ra hay nhờ cường quốc đưa ra, vì đó là thủ tục có thế làm bất cứ khi nào có đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế/threat to international peace and security, như việc Trung Quốc đem chiến hạm đe dọa và dùng võ lực với lực lượng kiểm ngư và ngư dân Việt Nam. Làm như vậy để tạo dư luận quốc tế có lợi cho Việt Nam.
Phụ lục: Về công thư của cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Trung Quốc có lý không khi viện dẫn công thư của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng để nói chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa đã về tay họ?
Có hai luận cứ pháp lý quốc tế cho thấy biện dẫn của Trung Quốc là phi lý.
Công thư không đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa.
Công thư mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Chu Ân Lai năm
1958 thường được Trung Quốc viện dẫn một cách sai trái cho chủ quyền của họ ở
Hoàng Sa và Trường Sa.
Hoàn toàn đồng ý với và do đó tiếp tay cho Trung Quốc, có những
nhóm người Việt chống Cọng và chống Nhà nước Việt Nam cũng cho rằng Công thư nầy
có giá trị pháp lý, do đó mặc nhiên công nhận Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng
Sa và Trường Sa là đúng.
Thứ nhất, và quan trọng nhất,
Hiệp định Geneva trao quyền quản lý hành chính Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở
phía Nam vĩ tuyến 17, cho Chính phủ Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa -
VNCH) ở phía nam vĩ tuyến đó, cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền
về Hoàng Sa và Trường Sa phải thuộc thẩm quyền của VNCH, và chính phủ này cũng
như hải quân của họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong
và sau biến cố hải chiến Hoàng Sa 1974.
Còn cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại diện miền Bắc
Việt Nam, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) lúc đó, không có thẩm quyền
hay không có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đất đai về Hoàng Sa và Trường Sa
thuộc VNCH vào thời điểm đó, mà chỉ đưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12 hải
lý của Trung Quốc.
Tuy nguyện vọng "Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một” là chính đáng, nhưng tình trạng hiện hữu của một quốc gia là một vấn đề sự kiện thực tại trong luật quốc tế, cho nên thực tại có hai nước Việt Nam - VNDCCH và VNCH - trong thời gian 1954-1975, là đúng với luật quốc tế và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) là quốc gia kế quyền (successor state) trong việc hành xử và bảo vệ chủ quyền đất đai đó. Sự kế quyền trong việc bảo vệ chủ quyền đất đai này cũng đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề cập trong bài phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011, theo đó khẳng định năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa “trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền VNCH. Chính quyền VNCH đã lên tiếng phản đối việc làm này và đề nghị Liên hiệp quốc (LHQ) can thiệp”.
Theo Hiệp ước Montevideo 1933 thì VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện của một quốc gia (state), gồm: (a) một dân số ổn định; (b) một lãnh thổ rõ rệt; (c) có một chính quyền; và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác. Còn vấn đề các nước khác nhìn nhận một quốc gia có đủ 4 điều kiện trên để lập bang giao thì là vấn đề chính trị và tiêu chuẩn chính trị thêm vào 4 tiêu chuẩn luật, và chính phủ nào không ưa một nước nào mà không nhìn nhận thì cũng không thể xóa bỏ tư cách quốc gia của nước đó. Chẳng hạn như trường hợp Cuba bị Mỹ ghét, không nhìn nhận, nhưng Mỹ cũng không thể xóa tư cách quốc gia của Cuba được.
Quốc gia VNCH 1954-75 đã được mấy chục nước thừa nhận ngoại giao, thậm chí có lúc Trung Quốc đã đề nghị cả hai nước Việt Nam vào LHQ.
Tất nhiên, việc có vào LHQ được hay không (chẳng hạn bị một trong 5 quốc gia thành viên thường trực của HĐBA phủ quyết), thì là chuyện chính trị, không phải là tiêu chuẩn về sự khai sinh một quốc gia. Những ai cứ viện dẫn Hiệp định Geneve nói sẽ có một nước Việt Nam sẽ được thành lập với tuyển cử thống nhất hai phần đất tạm thời chia cắt, mà coi nước VNCH như không có trong trời đất là không hiểu luật quốc tế mấy trăm năm về tình trạng quốc gia và lầm lẫn tiêu chuẩn pháp lý về tình trạng quốc gia trong luật quốc tế với những sự sắp xếp chính trị của các cường quốc trong một Hiệp định giữa vài nước mà thôi, đã cố tình quên cái thực tại chính trị là đã có mấy chục nước nhìn nhận sự khai sinh của quốc gia VNCH, và cũng quên mất luật quốc tế theo nghĩa là một số ít nước ký Hiệp định Geneva không thể truất quyền của mấy chục nước kia đã thừa nhận VNCH.
Bây giờ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói, và trước đây giả sử người tiền nhiệm của ông là cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói một cách minh thị hơn nữa, nói có hai quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975, thì cũng không làm giảm giá trị của sự nghiệp thống nhất đất nước vào năm 1976, vì trong lịch sử thế giới, đã có nhiều quốc gia chia ra nhiều mảnh rồi lại thống nhất, và cũng có quốc gia chia ra hai, thí dụ Pakistan chia thành hai, nửa kia thành Bangladesh, Sudan trước là một thì nay là hai quốc gia, mà các quốc gia đó vẫn có vị trí và được nhìn nhận trong cộng đồng các quốc gia.
Công thư 1958 không có hiệu lực pháp lý quốc tế
về việc nhượng đất.
Thứ hai, một bản tuyên bố đơn
phương (unilateral declaration) như công thư của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý về mặt quốc tế. Trong luật quốc
tế, không thể cố áp dụng lý thuyết "Estoppel", tức là
lý thuyết trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia có quy định là “Đã nói
ra thì không nói ngược lại được”, vì lý thuyết này không áp dụng trong luật
quốc tế theo cùng các điều kiện như trong luật quốc nội, vì có những điều kiện
ngặt nghèo, và do đó không thể coi lời nói đơn phương là có hiệu lực ràng buộc
đương nhiên trong luật quốc tế.
Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Ngoài ra, theo một án lệ khác, khi xét ý nghĩa của lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải xét một cách chặt chẽ "ý định" của người tuyên bố. Theo án lệ "Nuclear Tests Case Australia & New Zealand v. France 1974 I.C.J 253", thì "khi các quốc gia đưa ra lời tuyên bố hạn chế tự do hành động của mình, thì phải giải thích hạn hẹp”. Tòa án cũng nói là: “Chỉ cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong lời tuyên bố có biểu lộ một ý định rõ rệt không… Tòa án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và phạm vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý, và tòa không thể bị ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác.”
Theo tiêu chuẩn trong án lệ trên mà xét, thì ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong công thư 1958 phải được xét trong khuôn khổ quyền hạn Thủ tướng chiếu theo Hiến pháp 1946. Theo đó Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các (điều 44). Trong nội các đó, có Thủ tướng (điều 44), nhưng Chủ tịch nước mới là người thay mặt cho nước (điều 49 đoạn a) mà ký hiệp ước với nước khác (điều 49 đoạn H) ràng buộc Việt Nam về những việc quan trọng, thí dụ chủ quyền đất đai như việc nhượng đất; kèm theo quyết định chuẩn y hiệp ước bởi nghị viện là cơ quan quyền lực cao nhất, thì mới có quyền về nhượng đất (điều 22 và 23).
Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Ngoài ra, theo một án lệ khác, khi xét ý nghĩa của lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải xét một cách chặt chẽ "ý định" của người tuyên bố. Theo án lệ "Nuclear Tests Case Australia & New Zealand v. France 1974 I.C.J 253", thì "khi các quốc gia đưa ra lời tuyên bố hạn chế tự do hành động của mình, thì phải giải thích hạn hẹp”. Tòa án cũng nói là: “Chỉ cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong lời tuyên bố có biểu lộ một ý định rõ rệt không… Tòa án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và phạm vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý, và tòa không thể bị ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác.”
Theo tiêu chuẩn trong án lệ trên mà xét, thì ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong công thư 1958 phải được xét trong khuôn khổ quyền hạn Thủ tướng chiếu theo Hiến pháp 1946. Theo đó Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các (điều 44). Trong nội các đó, có Thủ tướng (điều 44), nhưng Chủ tịch nước mới là người thay mặt cho nước (điều 49 đoạn a) mà ký hiệp ước với nước khác (điều 49 đoạn H) ràng buộc Việt Nam về những việc quan trọng, thí dụ chủ quyền đất đai như việc nhượng đất; kèm theo quyết định chuẩn y hiệp ước bởi nghị viện là cơ quan quyền lực cao nhất, thì mới có quyền về nhượng đất (điều 22 và 23).
Còn Thủ tướng không thể vượt quá quyền, theo học lý luật pháp "ultra vires" (vượt quá quyền hạn), và công thư của cố Thủ tưởng Phạm Văn Đồng, trong ngôn ngữ dùng, chỉ có ý định ủng hộ ngoại giao cho Trung Quốc về một điểm là 12 hải lý hải phận mà Trung Quốc đang lo lắng tuyên bố để chống sự đe dọa lúc đó của Mỹ từ hai đảo Kim Môn và Mã Tổ do quân đội Đài Loan chiếm giữ với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ và đe dọa lớn hơn của Mỹ từ eo biển Đài Loan với Hạm đội 7.
Hơn nữa, ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể được giải thích là liên quan đến nhượng đất, vì Trung Quốc yêu sách về tất cả các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó nhiều đảo thuộc quyền chiếm hữu của một số quốc gia Đông Nam Á, mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không là đại diện để nói về chuyện nhượng đất. Trung Quốc cũng không thể mang lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra để đối kháng với các quốc gia Đông Nam Á khác được. Theo án lệ "Nuclear Tests" nói trên, Toà án quốc tế không cần nghe giải thích chủ quan, thủ lợi theo ý mình của Trung Quốc.
Tạ
Văn Tài