THƯ GỬI GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG HƯNG
Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn tiếng
Việt,
trường Đại học Duy
Tân, TP. Đà Nẵng
Nguyễn Đắc Xuân
Một Cố đạo Pháp bên cạnh tượng Mẹ Maria sau
khi đập phá
và liệng xuống đất các khí pháp và ảnh tượng
của Phật giáo.
[Caption ghi: “19. TONKIN - Les dieux s’en vont”, Ảnh số 19. BẮC KỲ - Thần thánh bỏ
đi]
Thân
gởi GS. Nguyễn Đăng Hưng,
Viện
trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn tiếng Việt,
trường
Đại học Duy Tân, Tp. Đà Nẵng
Anh
Hưng thân,
Sau
khi anh thấy tên tôi trong bản kiến nghị do một nhóm thầy giáo và các nhà
nghiên cứu Văn hóa Lịch sử ở Huế, Hà Nội và TP HCM gởi cho lãnh đạo Thành phố
Đà Nẵng, đề nghị không nên lấy tên hai vị Linh mục Francisco de Pina (Pi-na) và
Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đặt tên cho hai con đường mới ở Thành phố Đà Nẵng,
anh đã gọi điện thoại cho tôi bảo tôi “sai” rồi và vào ngày 28-11-2019, anh và
ông Nguyễn Huy Cường nào đó còn gởi thư cho tôi với nhan đề “Nếu nhầm lẫn
thì xin lỗi và im lặng”.
Anh
Nguyễn Đăng Hưng,
Với
hơn nửa thế kỷ cầm bút, tham gia phản biện hàng chục đề tài với nhiều thể loại,
nhiều cấp khác nhau nhưng chưa bao giờ tôi nhận được những lời cảnh báo “sốc”
đến như vậy. Thông thường mỗi khi gặp một trường hợp phản biện tôi luôn phản
biện lại ngay để bảo vệ ý tưởng của mình. Nhưng đối với lá thư của anh (và ông
Nguyễn Huy Cường nào đó), một người bạn thân nhau từ hơn ¼ thế kỷ qua, tôi “im
lặng” nhưng không xin lỗi. Xin lỗi ai? Và xin lỗi cái gì?
Với
tư cách là một người cầm bút thân thiết với Thành phố Đà Nẵng, năm 1998, tôi đã
từng phản biện giúp ông Nguyễn Bá Thanh, lúc đó là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân
Thành phố Đà Nẵng xóa bỏ tên ông Nguyễn Hiển Dĩnh đã đặt cho con đường song
song với đường 2 Tháng 9 ở Đà Nẵng ngày nay, nên tôi đã không ngần ngại tham
gia vào Bản kiến nghị nói trên. Và lãnh đạo Thành phố Đà Nẵng đã có thư phản
hồi cám ơn những người có tên trong “Bản Kiến nghị” và đồng ý (hứa) “chưa
đặt tên đường hai vị linh mục lần nầy”. Như vậy, Bản Kiến nghị
của chúng tôi có kết quả. Việc kiến nghị như thế đã xong rồi. Nếu sau nầy,
Thành phố Đà Nẵng bỏ qua lời hứa với chúng tôi, họ lại dùng tên hai vị linh mục
ấy đặt tên đường thì chúng tôi mới cung cấp thêm thông tin và kiến nghị tiếp).
Chúng tôi phải lo công việc khác của mình chứ! Vì thế, tôi không biết tôi nhầm
chuyện gì và phải xin lỗi ai? Sở dĩ cho đến nay tôi im lặng không phải vì lời
cảnh báo rất sốc của các anh mà chính vì những lý do sau đây:
- Con cháu trong gia đình anh Cả tôi, gia đình tôi, gia đình em
trai tôi, gia đình em gái tôi đều có người làm dâu trong các gia đình Thiên
Chúa giáo. Bây giờ lật lại nói chuyện này, chuyện không hay của các linh
mục Thiên Chúa giáo thật không nên chút nào;
- Những trang đen trong lịch sử dân tộc tưởng đã giao cho lịch sử
để bây giờ sống trong hiện tại, tự nhiên các anh bươi chuyện Đắc Lộ ra, không
khéo lại “tóa lọa lọa” gây mất đoàn kết dân tộc trong lúc giặc Tàu đang rập
rình cướp đất, cướp đảo ngoài Biển Đông, giữ được im lặng chuyện Đắc Lộ là
phải;
- Bỏ một đời nghiên cứu, học hỏi, trải nghiệm, được học, được gặp
gỡ tiếp xúc trao đổi với các bậc thức giả hàng đầu về văn hóa lịch sử, trong đó
có nhiều vị là tín đồ Thiên Chúa giáo, nói đâu có tài liệu kèm theo đó,… lẽ nào
lại quên hết để đi đôi co với những người mới đầu hôm sáng mai điếc không sợ
súng lên mặt dạy đời sao?
Nhưng
rồi do hoàn cảnh thúc ép, tôi cũng chỉ có thể giữ im lặng cho đến đây thôi. Tôi
viết lá thư nầy gởi đến anh không có ý đề cập đến 6 vấn đề chúng tôi đã nêu lên
trong bản Kiến nghị gởi cho Thành phố Đà Nẵng mà chỉ trao đổi với người bạn vừa
nhận chức Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc ngữ và Bảo tồn tiếng
Việt, Đại học Duy Tân thôi.
Anh
có mời tôi xem cuốn phim “Chuyến đi Iran thăm mộ Đắc Lộ” của anh trên Net. Tôi
đã xem và giới thiệu với các bạn tôi cùng xem. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là
các anh đã làm rõ được nơi an nghỉ cuối cùng của một vị linh mục có tên trong
lịch sử Chữ Quốc Ngữ [CQN], có công lớn trong việc truyền Đạo Thiên Chúa vào VN.
Một người nổi tiếng như thế mà các Giáo hoàng Vatican bỏ rơi ông ở một nơi hiu
quạnh như thế thật bất nhẫn. Và không hiểu có biết bao linh mục, giáo dân giàu
có mà xưa nay đã có ai đến viếng mộ ông Đắc Lộ chưa (?). Bài diễn văn của anh
trong buổi lễ có nhiều chuyện không đúng nhưng đó là chuyện của anh tôi không
nhắc lại ở đây.
1.Nhưng
tôi thật bất ngờ trong diễn văn anh cho biết các anh đã khắc một tấm bia ghi ơn
đặt ở ngôi mộ linh mục Đắc Lộ với nội dung “CHỮ QUỐC NGỮ CÒN, TIẾNG
VIỆT CÒN, NƯỚC VIỆT NAM CÒN”. Như vậy ngày nay tiếng Việt còn, nước Việt
Nam còn là nhờ CQN của linh mục Đắc Lộ. Một khám phá vô tiền khoáng hậu. Như
vậy bảo vệ CQN của linh mục Đắc Lộ là bảo vệ Việt Nam. CQN của Đắc Lộ có một
nhiệm vụ thiêng liêng như thế cho nên anh mới dành cả tuổi già của mình làm
“Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ….”. Các nước Lào, Căm-pu-chia, Thái
Lan, Miến Điện, Trung Quốc Nhật Bản, Hàn Quốc không dùng chữ nước họ được la
tinh hóa như CQN VN, không rõ được thế lực nào đã bảo vệ mà các nước ấy đều sốn
ngon lành như ngày nay.
Có
hai việc cần nhắc ông Viện trưởng sau đây:
1.1.- Anh đã cóp và sửa ý tưởng khắc ở khu lăng mộ cụ Phạn Quỳnh ở
ấp Bình An, phường Trường An, TP Huế - địa điểm có dấu tích Cung điện Đan Dương
thân thiết của tôi trên 1/3 thế kỷ qua. Nguyên văn của cụ Phạm Quỳnh trên bia
đá là: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn;
tiếng ta còn, nước ta còn”.
Bia đá “Tiếng ta còn ...” ở lăng mộ cụ Phạm
Quỳnh
Anh sửa lại “CHỮ QUỐC NGỮ CÒN, TIẾNG VIỆT CÒN, NƯỚC VIỆT NAM
CÒN” và khắc lên đá Non Nước đem qua dựng bên mộ linh mục Đắc Lộ ở Iran.
Thực hiện việc làm nầy anh mắc hai lỗi trọng: (1) Lỗi ăn cắp ý tưởng của người
khác sửa lại làm ý tưởng của anh; (2) Theo anh nước Việt Nam ngày nay còn là
nhờ CQN của linh mục Đắc Lộ. Điều đó có nghĩa anh xóa hết công lao xương máu
của bao thế hệ trường kỳ kháng chiến từ Ngày thất thủ Kinh đô vua Hàm Nghi xuất
bôn với Phong trào cần vương (1885) cho đến ngày thông nhất đất nước (1975)
–ròng rã suốt 90 năm. Người ngoại quốc đọc tấm bia làm ô nhục dân tộc VN đó họ sẽ
nghĩ như thế nào? Với tư cách là môt công dân VN; tôi đề nghị anh nhờ người hủy
tấm bia đá đó kẻo xấu hổ lắm;
1.2.- Anh không phân biệt được “tiếng” và chữ viết. Có ai đó gọi
tên anh, người học chữ Hán và chữ Nôm ghi ngay 登興, người học CQN ghi “Đăng Hưng”. Tiếng của một dân tộc không thay
đổi, luôn tồn tại và phát triển, nó có âm điệu, có nhạc (nhất là tiếng VN), còn
chữ chỉ là hệ thống các ký hiệu để ghi lại ngôn ngữ theo dạng văn bản. Tiếng
không thay đổi, chữ viết có thể thay đổi qua thời gian như chữ Hán, chữ Nôm,
chữ CQN của ta vậy. Trong ngành bưu điện hay ngành truyền tin quân đội trước
đây người ta còn dùng ký hiệu điện báo móoc (morse) nữa.
Tiếng nói mới là tâm hồn dân tộc. Cả một kho tàng ca dao tục ngữ,
dân ca khắp ba miền truyền khẩu qua bao đời nay có chữ chiếc gì đâu. Tôi không
ngờ anh không phân biệt được hai lãnh vực “tiếng” và “chữ” nên mới đem Tình
Ca của Phạm Duy “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…” ra
hát bên mộ giáo sĩ Đắc Lộ - tác giả Tự điển Việt Bồ La. Con nít mới
ra đời được nghe lời ru của mẹ từ ca dao, dân ca chứ làm gì có chuyện trẻ con
còn nằm trong nôi đã biết CQN của linh mục Đắc Lộ của anh? Nếu Phạm Duy biết
chuyện nầy sớm có lẽ nhạc sĩ không cho phép tôi đưa anh đến thăm Phạm Duy năm
ấy.
2.
Trong buổi lễ nhớ ơn Đắc Lộ, các anh đã tôn vinh sách Phép Giảng Tám
Ngày của linh mục Đắc Lộ. Nội dung “Ngày thứ tư”, Đắc Lộ đã mạ lỵ,
xúc phạm hết sức thô bạo:
Sách Phép Giảng Tám Ngày được
GS Nguyễn Đăng Hưng
dâng hiến trong lễ tôn vinh Cố đạo Đắc Lộ ở
Iran ngày 5-11-2018
- Ngày
Thứ tư, Đạo bụt: “giáo ngoài và giáo
trong” (tr.101 và 102). Gọi Phật bằng nó, thóa mạ, miệt thị Đạo Phật là đạo
gian, đạo dối trá, đạo Phật dày đặc những truyện giả, xiêu dối thế gian
nên phạm tội lỗi, đạo Phật là đạo “rợ mọi”,
theo đạo Phật là quỷ quái, ai theo đạo Phật là ngu, thờ Phật là đứa gian, ai
tin Phật, không tin chúa là phạm mọi tội.v.v.
- Ngày
Thứ tư, mục “Những sự dối trá của Thích
Ca về linh hồn ta”. (Tr.110-111). Phê phán tục cúng ông bà tổ tiên của Việt
Nam.
-
Ngày Thứ tư, mục “Những điều lầm lỗi
trong việc thờ cúng cha mẹ” (Tr.112, 113). Cúng cha mẹ chết là có lỗi.
Anh
tôn vinh Phép Giảng Tám Ngày, tức là anh tôn vinh cho quan
điểm trịch thượng bất kính ngạo mạn của linh mục Đắc Lộ đối với giáo chủ của
các tôn giáo khác. Trong Phép Giảng Tám Ngày có 9 lần
Đắc Lộ nói đến “Thích Ca”, 3 lần dùng chữ “rợ mọi” đối với Đạo
Bụt (Đạo Phật), 20 lần nói đến “đạo bụt” với tính cách miệt thị, dạy con
chiên gọi những người thờ Bụt (Phật) là “giáo ngoài”, con chiên gọi
người khác đạo là “ngoại giáo”.
Anh
tôn vinh Phép Giảng Tám Ngày, xóa bỏ hoàn toàn đời sống
văn hóa tâm linh Việt Nam của linh mục Đắc Lộ. Từ nay, anh có thể không vào bất
cứ nơi nào thờ Phật Thích Ca trên thế giới nầy nữa, nhưng lẽ nào anh đập bàn
thờ tổ tiên, không giỗ chạp cúng bái cha mẹ nữa được sao? Anh không biết Cộng
đồng Vatican 2 (từ 1962 đến 1965) đã cho phục hồi việc thờ cúng ông bà cha mẹ
của giáo dân ở VN rồi sao? Trong HTKH Mừng 400 năm Dòng Tên,
…có hai báo cáo, báo cáo thứ hai mang tựa đề “Cái nhìn về các tôn giáo
theo sách giáo lý (Cathechismus Phép Giảng Tám Ngày) của cha Đắc Lộ”
của linh mục. Anton Nguyễn Cao Siêu S.J. trình bày.
Tác giả đã kết luận tham luận:
“Phép Giảng Tám Ngày” là một cuốn sách giáo lý nhằm dạy cho
những ai muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời. Đối với Đắc Lộ,
chỉ Kitô giáo mới là đạo thật, giúp con người được ơn tha tội và có sự sống
vĩnh hằng. Chính từ xác tín này mà Đắc Lộ nhìn các tôn giáo trên đất An Nam:
Đạo thờ ông bà của người Việt, cũng như đạo Nho, đạo Lão, đạo Phật. Khi giảng
cho người dự tòng, Đắc Lộ muốn đề cao cái hay của đạo mới, nên nhấn mạnh
đến những điều mà Ông cho là không đúng, không hay nơi các tôn giáo khác. Hơn
nữa, cái nhìn của Đắc Lộ, một thừa sai Tây phương ở thế kỷ 17, cũng chịu ảnh
hưởng của nền thần học thời đó về ơn cứu độ. Đối với chúng ta hôm nay,
cái nhìn này có những giới hạn và sai sót, cả trong nội dung lẫn cách trình
bày. Chúng ta phải đợi Công Đồng Chung Vaticanô II mới có được cái nhìn tích
cực hơn về các tôn giáo ngoài Kitô giáo” (NĐX nhấn mạnh).
Như
vậy, từ Công đồng Vatican 2 (từ 1962 đến 1965), cách đây trên nửa thế kỷ TCG đã
chính thức nhận sai lầm của Đắc Lộ trong Phép Giảng Tám Ngày đối
với Việt Nam, sao giờ nầy anh còn tôn vinh Phép Giảng Tám Ngày say
sưa đến vậy? Anh có biết nhiều linh mục Thiên Chúa giáo học Phật Thiền Chánh
Niệm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa giảng ở các Nhà thờ, vừa làm Giáo thọ ở
Trung tâm Phật giáo Làng Mai, Pháp quốc không?
3.-
Anh tôn vinh cuốn Tự điển Việt Bồ La (Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum) của linh mục Đắc Lộ. Như anh đã biết phần
Việt Bồ là sản phẩm của những người đi trước linh mục Đắc Lộ như Gaspar
do Amaral, Antonio Barbosa, Francisco de Pina – những bậc thầy của linh mục Đắc
Lộ. Phần La tinh Đắc Lộ thêm vào theo lệnh của Vatican. Tự
điển Việt Bồ La là công cụ trang bị cho các Thừa sai Thiên Chúa
giáo người Bồ, người sử dụng tiếng La tinh đi truyền giáo ở VN, để cải đạo
người VN theo Phép Giảng Tám Ngày.
Ngoài
các Linh mục người Việt, những ai trong xã hội VN xưa nay đã biết, đã sử dụng
cuốn Tự điển ấy? Sử dụng vào việc gì? Một công cụ giúp cho các Thừa sai Thiên
Chúa giáo đánh vào văn hóa, vào đời sống tâm linh của người Việt Nam, tại sao
ta phải cám ơn người làm ra công cụ ấy? Đời thuở nào một người có văn hóa đi cám
ơn người đã chế tác ra “bom” rải thảm lên nền văn hóa của dân tộc mình như thế?
Anh sẽ trả lời con cháu anh như thế nào? Phải chăng như anh đang rao giảng lâu
nay vì linh mục Đắc Lộ đã có công “tạo tác chữ quốc ngữ” như lời anh khắc trên
bia dựng ở mộ Giáo sĩ Đắc Lộ bên Iran?
3.1.
Xét về mặt đạo đức của người biên soạn sách, người làm tự điển của linh mục Đắc
Lộ), chúng tôi đã viết trong Kiến nghị gởi Thành phố Đà Nẵng đề ngày
23-10-2019. Nay tôi mách thêm cho ông Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc ngữ
cái giá trị đích thực của cái công cụ truyền giáo bằng CQN của linh mục Đắc Lộ
hồi ấy như sau:
*
GS.TS. Nguyễn Văn Trung – một người tu xuất, nguyên Khoa trưởng ĐH Văn khoa đầu
tiên của Viện Đại học Huế, tác giả cuốn sách Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp
Ở Việt Nam – Thực Chất Và Huyền Thoại (Nam Sơn, Sài Gòn, 1963),
người rất nổi tiếng trước năm 1975 ở miền Nam, ông đã tham khảo hai cuốn sách
của Toàn quyền Đông Dương (1891-1894) de Lanesan:
- L'Expansion coloniale de la France: étude économique,
politique et géographique sur les établissements français
d'outre-mer (1886) (Sự mở rộng thuộc địa của Pháp: Nghiên cứu
kinh tế, chính trị và địa lý về định cư ở nước ngoài của Pháp (1886).
- L'Indo-Chine française, étude politique, économique et
adminis -trative sur la Cochinchine, le Cambodge, l'Annam et le
Tonkin (1889) (Đông Pháp, nghiên cứu chính trị, kinh tế và hành
chính ở Nam Kỳ, Campuchia, Annam và Bắc Kỳ (1889);
Trong
mục Thái độ đối xử với người bản xứ, về phương diện tôn trọng người,
của cải, tôn giáo, phong tục, tập quán xã hội (tr.114), tác giả Nguyễn
Văn Trung viết:
“Theo Lanessan, các vị thừa-sai Công-giáo thường nhắm quần chúng,
dân quê, bần cùng nghèo khổ, hoặc kẻ trộm cướp để giảng đạo. Nói cách khác,
người công-giáo thường thuộc thành phần những giai cấp thấp hèn nhất trong
xã-hội. Những người này thường được tập-hợp lại thành làng xóm riêng, tách khỏi
đoàn-thể dân-tộc. Lý do cô lập các làng theo đạo ở tại các thừa sai sợ người
theo đạo giao-thiệp với người Lương có thể quay lại những phong-tục lễ-nghi ngoại
đạo. Cũng vì lý-do sợ đó mà họ đã tạo ra chữ quốc-ngữ, chủ-đích là để giáo dân
khi biết đọc chữ quốc-ngữ, thì chỉ biết đọc sách báo đạo mà thôi, trái lại để
cho họ học chữ nho, sợ họ có thể thông cảm lại với tư tưởng ngoại-giáo. Thành
ra việc sáng lập chữ Quốc-ngữ phải chăng nhằm một mục đích “ngu dân” ly- khai
với văn-hóa dân tộc?” (2)
3.2.
CQN của linh mục Đắc Lộ là một công cụ truyền giáo “nhằm quần – chúng, dân
quê, bần cùng nghèo khổ, hoặc kẻ trộm cướp để giảng đạo”, ngoài ra không có
ảnh hưởng, không có tác động gì đối với dân chúng ngoại đạo Thiên Chúa, đối với
tầng lớp Nho sĩ, tầng lớp quan lại của hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài (dù hai
xứ nầy đối nghịch nhau).
Cả
hai Đàng đều trục xuất Đắc Lộ ra khỏi nước Nam. Nghiên cứu Lịch Sử
Văn học Công Giáo Việt Nam(3) của Võ Long Tê khẳng định: Từ khi
có Phép Giảng Tám Ngày và Tự điển Việt Bồ La (1651)
cho đến ngày Việt Nam hoàn toàn bị mất vào tay thực dân Pháp (1885 - Thất Thủ
Kinh Đô), trên hơn 200 năm ấy không thấy có bất cứ một tác phẩm văn học nào bằng
CQN của linh mục Đắc Lộ trong đời sống người dân Việt cả. (Nếu có cũng chỉ phổ
biến trong các nhà thờ mà thôi). Các tác giả Việt Nam, trong thời gian hơn 200
năm ấy, không hề biết trong các nhà thờ Thiên Chúa giáo lớn ở VN đang có Phép
Giảng Tám Ngày và Tự điển Việt Bồ La bằng CQN của
linh mục Đắc Lộ.
Các
tác giả Việt Nam cứ tiếp tục sử dụng chữ Hán Nôm của cha ông mình đã sử dụng,
sáng tác nên các tác phẩm bất hủ trong cổ Văn học sử Việt Nam như Truyện
Hoa Tiên, Tụng Tây Hồ Phú, Sãi Vãi, Hoài Nam Khúc, Ai Tư Vãn, Nhị Độ Mai, Cung
Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm v.v.. Đặc biệt, Truyện
Kiều của Nguyễn Du. Nếu VN không mất nước, không bị thực
dân Pháp và Thiên Chúa giáo bắt buộc phải bỏ chữ Hán, bỏ chữ Nôm, thay vào đó
bằng CQN thì Đắc Lộ và các sách của ông ấy cũng cùng chung số phận bị lãng quên
như các Tự điển La tinh hóa chữ Nhật, chữ Tàu không còn ai nhắc đến nữa.
3.3.
Vì sao các nước Nhật Bản, Trung Quốc loại bỏ chữ la-tinh hóa mà VN thì vẫn giữ
chữ Việt la-tinh hóa cho đến ngày nay? Để trả lời câu hỏi nầy, Giáo sư
Cao Huy Thuần – Giáo sư Đại học ở Pháp, Giám đốc Trung tâm
Nghiên cứu về Liên Hiệp Âu Châu tại Đại học Amiens. Năm 1990, với sự bảo trợ
của Đại học Yale, ông đã xuất bản Luận án Tiến sĩ Quốc gia Pháp: Les
missionnaires et la politique coloniale francaise au Viêt Nam (1857 1914). Tại
Chương IX: Văn thư và tin tức tình báo của Giám mục Puginier (gởi
cho thực dân Pháp) (tr. 276-303). Đoạn trích chụp lại nguyên văn dưới đây tại
trang 300 và tr. 301:
Có chú thích “Notes sur la question du Tong-King,
Mars 1884”.
Archives du ministère de la F.O.M., AOO (30)
ou N.F.54.
Tác
giả Cao Huy Thuần chuyển ngữ văn bản của Giám mục Puginier qua CQN như sau:
“Điều thứ hai phải làm, chính là bãi bỏ chữ Nho và
thay thế, lúc đầu, bằng tiếng Việt Nam viết theo kiểu người Âu, gọi là Quốc
ngữ, rồi sau đó, bằng tiếng Pháp.Không có cách nào hữu hiệu hơn cách
này để tiêu diệt tinh thần đạo Nho và uy thế to lớn của nhà Nho trong
dân chúng (NĐX nhấn mạnh) Thật vậy, nếu không còn dạy
và dùng chữ Nho nữa trong các văn kiện chính thức, thì toàn bộ kiến thức
của các nhà Nho nào có ích lợi gì? Và nếu người Việt Nam không còn biết đọc các
sách cổ viết bằng chữ Nho hoặc chữ Nôm, họ đã chẳng dần dần bị dẫn đến chỗ
không biết được chính văn hóa, văn minh dân tộc họ đó sao? Khi ấy triết học Nho
giáo, nền tảng của tổ chức chính trị và xã hội trong nước, chẳng bị chết dần
chết mòn sao?
“Nhưng công việc này phải tiến hành từ từ, tiệm tiến, đừng nói
gì cả vì ngại va chạm đến dân chúng đã quen dùng ngôn ngữ và chữ Nho, và vì lý
do chính trị, để tránh làm mích lòng Trung Quốc”.
“Từ lâu, tôi chủ trương dạy tiếng Pháp và dùng mẫu tự Âu châu để
viết tiếng An Nam, nhưng khốn thay, tôi không được ủng hộ trong việc thực hiện
kế hoạch mà tôi đã đề nghị sáu lần. Tuy nhiên, tôi vui sướng thấy từ hai năm
nay, chúng ta làm việc tích cực cho mục tiêu này; ngoài trường dạy tiếng Pháp
của Phái bộ truyền giáo, là trường đầu tiên được thành lập ngày 8 tháng 12 năm
1884, chính phủ còn lập nhiều trường khác từ ngày 5 tháng 4 năm 1885”.
“Cần phải dạy càng sớm càng tốt cho người An Nam viết và đọc được
tiếng họ bằng mẫu tự Âu châu, việc này dễ hơn tiện hơn nhiều so với việc dùng
chữ Nho. Rồi vài năm sau, nên bắt buộc mọi giấy tờ chính thức, thay vì viết chữ
Nho như trước, phải được viết bằng tiếng trong nước, và mọi viên chức phải được
dạy ít nhất để biết đọc và viết tiếng An Nam bằng mẫu tự Âu châu. Trong thời
gian đó việc dạy tiếng Pháp sẽ tiến triển hơn và chúng ta chuẩn bị một thế hệ
sẽ cung cấp các viên chức có học ngôn ngữ chúng ta. Thế là, có lẽ trong vòng 20
hoặc 25 năm, chúng ta có thể bắt buộc mọi giấy tờ đều phải được làm bằng tiếng
Pháp và, do đó, chữ Nho sẽ dần dần bị bỏ rơi mà không cần phải cấm học”.
“Khi đạt được thành tựu to lớn đó, chúng ta lấy đi một phần lớn
ảnh hưởng của Trung Quốc tại An Nam, và đảng nhà Nho An Nam, rất căn thù sự
thiết lập thế lực Pháp, cũng dần dần bị tiêu diệt”.
“Vấn để này có tầm quan trọng rất lớn, và sau việc thiết lập
Gia-tô giáo, tôi xem việc phế bỏ chữ Nho và việc thay thế nó dần bằng tiếng An
Nam trước rồi kế đến bằng tiếng Pháp, là một phương cách rất chính trị, rất
tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập lên ở Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ của Viễn
Đông”(4).
Như
vậy CQN của linh mục Đắc Lộ không những là một công cụ xóa bỏ nền văn
hóa Việt Nam mà còn thủ tiêu luôn cả tinh thần ý chí chống Pháp để
bảo vệ đất nước của người Việt Nam. Người làm ra CQN và áp đặt buộc người Việt
Nam phải học là kẻ thù của dân tộc VN, làm sao anh lại có thể làm ngược lại là
tôn vinh Đắc Lộ và Tự điển Việt Bồ La của ông ta? Thực dân Pháp đã thực
hiện đúng quy trình của Puginier đưa ra. Lúc đầu, bắt dân học CQN rồi sau đó
bước qua học tiếng Pháp dứt hẵn với chữ Nho và chữ Nôm, dứt hẵn với lịch sử,
văn hóa Việt Nam.
4.-
Thực dân Pháp thực hiện mưu đồ của Giám mục Puginier bắt dân ta học CQN của Đắc
Lộ. Học CQN để quên đi quá khứ, quên đi lịch sử, để cải đạo, phục vụ cho thực
dân Pháp rồi dần dần trở thành công bộc của thực dân Pháp. Nhà Nho Trần Tế
Xương đã phản ảnh tình hình lúc đó qua bài thơ ngắn sau đây:
Nào có nghĩa gì cái chữ Nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Chi bằng đi học làm thầy phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò
Các chí sĩ yêu nước VN, các nhà
văn hóa VN thấy rõ cái nhục đó, đứng vào cái thế bị cai trị, không còn cách
chọn lựa nào khác họ đã vận dụng ngay cái công cụ phục vụ Thiên Chúa Giáo và
thực dân Pháp biến thành công cụ dạy bảo cho dân VN biết được tội ác của giặc,
biến cái công cụ thô sơ, hẹp hòi của địch thành một vũ khí sắc bén, vừa để đánh
trả địch, vừa để xây dựng ngôi nhà văn hóa của mình. Xây dựng ngôi nhà văn hóa
đó không những bằng gỗ giải hạ lấy được của giặc mà chủ yếu bằng gạch đá
của cha ông để lại (chữ Nho) cộng với tri thức của thời đại không qua con đường
CQN.
Thực
dân Pháp nghe lời Giám mục Puginier loại bỏ chữ Hán, chữ Nôm, nhưng chính trong
giai đoạn nầy xuất hiện nhiều người Việt giỏi Hán Nôm. Giỏi Hán Nôm không phải
để trở thành khoa bảng như ngày xưa mà thực tế để xây dựng văn hóa Việt Nam.
Người Pháp không ngờ các trí thức Hán Nôm (như cụ Đào Thái Hanh ở Sa-đéc, tác
giả Ái Châu Danh Thắng, rất giỏi Hán Nôm và cũng là
người giỏi tiếng Pháp) và ngược lại những trí thức rất giỏi tiếng Pháp và cũng
rất sành Hán Nôm (như cụ Phạm Quỳnh, cụ Hoàng Xuân Hãn).
Tôi
không nghiên cứu ngữ học Việt Nam, chỉ với tư cách là một người cầm bút tôi
nghĩ trong tiếng nói và chữ viết tiếng Việt hiện nay có ít nhất từ 70% đến 80%
là chữ Hán Việt (chữ Nho), còn lại 30% hay 20% chữ thuần , trong đó có CQN do
Giáo sĩ Đắc Lộ chép của các vị Thừa sai người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và chữ
thuần Việt xuất phát từ các địa phương khác mà thời các vị Thừa sai người Bồ,
người Tây Ban Nha chưa biết. 70% đến 80% dùng chữ Hán Việt (chữ Nho) là gì? Là
các chữ do người VN sử dụng (chữ Nho) theo nghĩa của người Việt, hoặc sử dụng
những từ mới do các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc mới phát minh sau nầy.
70% đến 80% chữ Việt dùng Hán Việt trong các lãnh vực Khoa học (Toán học,
Vật Lý, Hóa học, Sinh học, Y học, Địa chất học.v.v.), trong lĩnh vực Luật học,
trong lĩnh vực Triết học, Kiến trúc, Xây dựng, Nghệ thuật, Thương mại .v.v.. Và
ngay bây giờ trong lĩnh vực Công nghệ 4.0.
Ta
nói “trí tuệ nhân tạo” có từ nào là thuần Việt đâu? Tôi không nghiên cứu ngữ
học tôi không biết hết, nhưng qua quá trình học vấn hạn hẹp của tôi: Tôi đã học
khoa học nhờ Danh Từ Khoa Học của Hoàng Xuân Hãn,
nghiên cứu Luật học nhờ từ điển Luật của Vũ Văn Mẫu, học Triết học
bằng Danh từ Triết học của Nguyễn Văn Trung. Gia tài
CQN ngày nay của VN do biết bao người đóng góp xây dựng nên. Tại sao ông Viện
trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc ngữ chỉ vinh danh các Giáo sĩ Pi-na và Đắc Lộ
không mà thôi?
Và,
chắc anh cũng biết, sau ngày Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, cuộc diễn hành
mừng Cách mạng ở Hà Nội, bộ đội Việt Minh mặc binh phục của Pháp, đeo súng
Pháp. Đến ngày Toàn quốc kháng chiến, vũ khí chống Pháp hầu hết cũng đều của
Pháp. Vậy có khi nào ta đặt vấn đề tôn vinh cám ơn những người đã làm ra những
vũ khí và binh phục cho ta chống Pháp không? Chắc chắn là không.
Anh
là nhà vật lý chắc anh biết Giáo sư Tiến sĩ Trần Chung Ngọc (1931–2014) là một học
giả người Mỹ gốc Việt. Ông tốt nghiệp bằng Tiến sĩ vật lý
tại Đại học Wisconsin - Madison, Hoa Kỳ, ông từng giảng dạy
tại trường ĐH Khoa học Sài Gòn và các cơ sở giáo dục
của VNCH đồng thời có thời gian nhập ngũ làm sĩ quan trong quân đội
VNCH. Ông Trần Chung Ngọc sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục nghiên cứu vật lý,
nghiên cứu các vấn đề lịch sử, văn hóa, tôn giáo Việt Nam. Năm 1994,
ông kết luận bài viết Alexandre de Rhodes: Công hay Tội ? như
sau:
“Một tên giặc tới nhà chúng ta, tạo ra một thứ vũ khí để
dễ bề quyến rũ con em nhẹ dạ theo chúng phản lại tổ tiên, chúng ta dùng vũ
khí đó để mở mang đầu óc của tất cả những người trong gia đình nhờ đó mà gia
đình chúng ta bảo vệ được truyền thống luân lý đạo đức của gia đình, bảo toàn
gia sản của tổ tiên khỏi bị cướp đi, vậy chúng ta nên nhớ ơn những người
trong gia đình có sáng kiến dùng ngay vũ khí của địch để đánh địch hay là chúng
ta nên nhớ ơn kẻ đã mang vũ khí đến nhà chúng ta để cướp đi của cải và gây bất
hòa trong gia đình chúng ta?
Tôi hy vọng vấn đề công và tội của Alexandre de Rhodes nay đã sáng
tỏ”.(5)
Anh
có thể không đồng ý với nhận định của TS Trần Chung Ngọc, nhưng ít ra anh cũng
biết được rằng trong xã hội VN hiện nay, không phải ai cũng nghĩ về linh mục
Đắc Lộ và CQN của ông như anh. Anh có quyền vinh danh linh mục Đắc Lộ, anh có
quyền vinh danh Phép Giảng Tám Ngày nhưng anh không
được nhân danh dân tộc VN vinh danh những người anh đang phấn đấu vinh danh như
anh đã khắc lên bia đá “ CHỮ QUỐC NGỮ CÒN, TIẾNG VIỆT CÒN, NƯỚC VIỆT NAM CÒN”.
5.
Vừa rồi anh nói trên Net: “Đà Nẵng không đặt thì ở Quảng Nam sẽ đặt tên
đường hai vị”. Anh là Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc
ngữ và Bảo tồn tiếng Việt, trường Đại học Duy Tân chứ đâu phải HĐND
tỉnh Quảng Nam mà có thể khẳng định như vậy? Mà nếu là tỉnh Quảng Nam đi nữa thì
tỉnh Quảng Nam đâu có thể vượt qua được chủ trương của nhà nước Việt Nam: “Điều
10, Khoản 5 về Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công
trình công cộng như sau:
“Những
nhân vật lịch sử còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch
sử thì chưa xem xét đặt tên cho đường, phố và công trình công cộng”.
Alexandre
de Rhodes là một người có công với Vatican mà có tội với dân tộc Việt, rắc rối
như thế làm sao HĐND tỉnh Quảng Nam có thể chọn ông để đặt tên đường
được chứ! Nhà thơ, ca sĩ Nguyễn Đăng Hưng mới lãng mạn như thế chứ không phải
ông Giáo sư Vật lý phá vỡ ở Bỉ!
6.
Có lẽ anh đã cảm thấy bị hố nên anh lại viết lại trên FB rằng “Đặt tên
đường hay không đâu quan trọng, bởi trong tâm tưởng người Việt, với nết nghĩ
“ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vẫn có Alexandre de Rhodes, bởi chữ quốc ngữ từ ông
hiện hữu đang được dùng mỗi ngày”.
Anh
lại sai nữa rồi. “Đặt tên đường hay không đâu quan trọng” thế
thì anh – một trong những người cổ vũ cho TP. Đà Nẵng lấy tên hai linh mục
Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes đặt tên đường phố làm gì để
gây nên cuộc tranh luận gây mất đoàn kết đang diễn ra như hiện nay? Anh dẫn
đoàn đi Iran vinh danh Đắc Lộ, vinh danh Phép Giảng Tám Ngày, việc
Quảng Nam tổ chức Hội thảo CQN, chuyện Quảng Nam thiết kế xây dựng công viên
Dinh trấn Thanh Chiêm CQN có ai chính thức phản đối gì đâu. Anh viết : “Bởi
trong tâm tưởng người Việt, với nết nghĩ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vẫn có
Alexandre de Rhodes bởi chữ quốc ngữ từ ông hiện hữu đang được dùng mỗi ngày”.
Nhận thức của anh trên đây có hai điều sai:
6.1.
Giáo sĩ Đắc Lộ có làm ra CQN đâu, ông ta chỉ là người cóp của các Thừa sai
Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa, Francisco de Pina. Cóp xong rồi hủy hết tất
cả di cảo mà ông đã sử dụng của các tác giả từng là ân nhân, là thầy của ông để
dành cái quyền làm chủ CQN độc nhất là Alexandre de Rhodes? Khối di cảo đó
rất lớn mới giúp cho Alexandre de Rhodes khai thác làm nên công
trình Tự điển Việt Bồ La, làm sao có thể mất được? Tại sao
anh không lên án Alexandre de Rhodes về hành vi hủy di cảo CQN của
những người đi trước như đã đề cập mà chỉ vinh danh Alexandre de
Rhodes là sao ?
Anh
sống ở TP HCM lâu chắc anh biết học giả An Chi. An Chi đã giải thích công việc
anh đang theo đuổi là:
“Cái
tâm lý đòi dân ta phải mang ơn A.de Rhode chẳng qua là hậu quả của sự nhồi sọ
mà bọn thực dân Pháp đã thực hiện trong thời kỳ chúng còn cai trị dân ta, nước
ta. Ngoài ra, còn có thể có cả những nguyên nhân khác thuộc tâm thức riêng, và
cả...tín ngưỡng riêng nữa.”
“Người
ta thì làm cuốn tự điển để tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền đạo của
người ta mà mình thì cứ nằng nặc đòi người Việt Nam phải ghi công ông cố đạo
Alexandre de Rhode, thậm chí có người mà lòng biết ơn cụ cố còn làm tượng nặng
đến 43 tấn.” (Theo antg.cand.com.vn)
6.2.-
Anh xem thử CQN trong đời sống với công nghệ 4.0 hiện nay có bao nhiêu
phần trăm CQN có trong Tự điển Việt Bồ La (Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Đắc Lộ? Có ít nhất 70% đến
80% từ Hán Việt (chữ Nho). Ví dụ “Công trình nghiên cứu chữ quốc ngữ” (cụm
từ 1) của anh gồm 7 từ, chỉ có 1 từ (chữ) Việt và có đến 6 từ do
cha ông chúng ta đã sử dụng Hán Việt (chữ Nho), 6 từ nầy không thể có trong Tự
điển Việt Bồ La của Đắc Lộ. “Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng tham gia Hội thảo Khoa
học về Chữ Quốc Ngữ” (cụm từ 2) có 15 từ, chỉ có 2 từ Việt (về, chữ) còn có đến
13 từ Hán Việt (chữ Nho).
Chữ
viết trong đời sống của chúng ta hiện nay như thế đấy. Tại sao anh không nhớ
những người làm ra 6 từ trong cụm từ 1 và 13 từ trong cụm từ 2 ấy mà chỉ nhớ
người chép mấy từ “chữ”, “về chữ” trong Tự điển của Đắc Lộ mà thôi? Anh có biết
sách Danh Từ Khoa Học của cụ Hoàng Xuân Hãn ra đời năm
1942, đã được Hội Khuyến Học Nam Kỳ tặng thưởng từ năm 1943 không? “Quyển sách
“Danh từ khoa học” của cụ Hoàng Xuân Hãn viết năm 1942 bàn về việc “nhập
khẩu” thuật ngữ khoa học, ở đó có các chỉ dẫn hữu ích để chọn cách
tạo ra từ ngữ mới khi dịch”.
Nếu
trước đây không có Danh Từ Khoa Học của Hoàng Xuân Hãn
anh có học Toán, học khoa học bằng tiếng Việt được không? Anh có biết Cái
học ban đầu đưa anh lên lấy bằng Tiến sĩ vật lý sao anh không nhớ? Cái quả CQN
ngày nay chúng ta đang sử dụng là một công trình góp công góp sức của biết bao
người qua hàng trăm năm, các nhà Nho không tên tuổi, các ông Trương Vĩnh Ký với
Gia Định Báo, Huỳnh Tịnh Của với Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, các cụ Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Đông Kinh Nghĩa
Thục, Nhóm Đông Dương Tạp Chí,
Nguyễn Văn Vĩnh, Nhóm Nam Phong Tạp Chí,
Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Tường Tam với Tự Lực Văn Đoàn, Hồ Chí Minh, Phong trào
Bình Dân Học Vụ, Phạm Văn Đồng, Nhóm
Giáo sư trường Khải Định (sau năm 1956 lấy lại tên Quốc Học) và trí thức Huế
(như Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Huy Bảo, Đoàn Nồng, Tôn Quang Phiệt,
Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Nguyễn Dương Đôn.v.v.), Nguyễn Bạt Tụy, Trương
Văn Chình, Lê Ngọc Trụ, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Trung,.v.v. Anh chỉ vinh danh
Đắc Lộ - người làm ra công cụ truyền giáo là vô ơn bội nghĩa với những người đã
góp công xây dựng nên CQN cho dân tộc ngày nay.
7.
Có lẽ đến hôm nay anh đã được đọc nhiều bài viết về linh mục Đắc Lộ và Lịch sử
CQN của ông mà trước khi nhận chức Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ và
Bảo tồn tiếng Việt, trường Đại học Duy Tân anh chưa đọc. Và chắc anh cũng không
ngờ chuyện linh mục Đắc Lộ trước đây nó đã dữ dội đến như vậy và đang diễn ra
trên mạng xã hội rầm rộ đến như vậy.
Có
người gọi tôi: “Ông X. ơi, chuyện Đắc Lộ tôi tưởng đã giấu được rồi để lo
chuyện thời sự, ai ngờ ông Giáo sư Việt kiều Bỉ Nguyễn Đăng Hưng xới lại, phát
hiện thêm được nhiều thông tin thú vị quá: Chuyện ông Đắc Lộ xin nước Pháp cấp
cho ông nhiều binh sĩ để ông lên đường chinh phục toàn cõi phương Đông, chuyện
Lời thề của các giáo sĩ Dòng Tên trước Giáo Hoàng ghê quá. Nhiều giáo dân không
thể tưởng tượng được các vị Thừa sai Thiên Chúa giáo truyền bá đạo Chúa vào VN
bằng cuốn Phép Giảng Tám Ngày kinh khủng đến như thế!”
Chắc cũng đã có người gọi điện thoại thông tin đó đến anh phải không ?
Anh
Hưng ơi! Thật tình tôi không muốn nói chuyện nầy: Đã và sẽ, không những người
ta đưa ra nhiều thông tin mới (hoặc cũ nhưng ít người biết) về linh mục Đắc Lộ
và CQN của ông mà còn lôi ra nhiều thứ nữa như những trường hợp Thực dân Pháp
và Thiên Chúa giáo cấu kết với nhau chiếm đất, cướp chùa, phá tượng Phật Việt
Nam, về Trần Lục (Cha Sáu) kéo 5.000 giáo dân triệt hạ căn cứ chống Pháp ở Ba
Đình, lôi ra các tên tuổi làm gián điệp cho Pháp và đặc biệt là nhắc lại lịch
sử Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam
(1857-1914).v.v.. Và tôi tin chắc với phương tiện in ấn dễ dàng và mạng
xã hội phổ cập hiện nay, trong tương lai sẽ còn nhiều tham luận, nhiều tranh
luận, nhiều sách của những người ủng hộ việc vinh danh linh mục Đắc Lộ của anh
và những người hạch tội linh mục Đắc Lộ.
Việc
vinh danh linh mục Đắc Lộ hay lên án ông cho đến nay không có gì mới. Chỉ xuất
hiện những người viết mới thôi. Điều mà những người tử tế trách anh là anh
không nắm rõ vấn đề, anh vinh danh linh mục Đắc Lộ hay ho đâu chưa thấy mà lộ
ra bao chuyện không hay về Đắc Lộ và những gì liên quan đến ông. Anh không để
cho ông nằm yên bên Iran mà lôi ông về VN làm chi để cho thiên hạ nhắc lại
những điều không hay dành cho ông đã diễn ra trước đây và đang được bổ sung hiện
nay. Từ nay cho đến nhiều đời sau nữa, tên GS Nguyễn Đăng Hưng - Viện trưởng
Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn tiếng Việt, trường Đại học Duy Tân, Tp.
Đà Nẵng luôn gắn với linh mục Đắc Lộ. Không biết nên buồn hay nên vui anh Hưng
hè?
Chuyện
linh mục Đắc Lộ và CQN của ông (chứ không phải CQN của VN ngày nay) còn có thể
trao đổi tiếp nhưng dù sao cũng phải tạm dừng ở đây. Nếu anh thấy chưa thỏa
đáng lại sẽ trao đổi tiếp.
Tôi
gởi lại anh lá thư anh đã vội gởi cho tôi: “Nếu nhầm lẫn thì xin lỗi và
im lặng”. Tôi gởi lại để anh thấy tôi hay anh nên thực hiện nội dung lá
thư ấy. Tôi chờ quyết định của anh.
Chúc
anh “Rày hằng ngày dùng đủ”.
Thân
chào anh.
Huế, Lập Đông 2019-2020
Nguyễn Đắc Xuân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexandre De Rhodes, Hành trình và truyền giáo –Diverces
Voyages et Missions, Bản dịch của Hồng Nhuệ, Bản Pháp ngữ của NXB GRAMOISY
1653,TỦ SÁCH ĐẠI KẾT, Ủy Ban Đoàn Kết Tôn Giáo, TP Hồ Chí Minh -1994.
2. Alexandre De Rhodes, Phép Giảng Tám Ngày (Bản
chụp cuốn sách in đầu tiên bằng chữ quốc ngữ *In tại Roma, Italia, 1651)* Sách
phục vụ nghiên cứu - không bán)
3. Cao Huy Thuần, LES MISSIONNAIRES ET POLITIQUE
COLONIALE FRANCAISE AU VIETNAM (1857-1914), The Lac Viet
Series-No 13, Council On Southeast Asia Studies Yale Center For International And
Area Studies.
4. Cao Huy Thuần, Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách
Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914), Nxb. Tôn Giáo, Hà
Nội, 2003.
5. Cửu Long Lê Trọng Văn, PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ,
TUYỂN TẬP, Hoa Kỳ, 1996.
6. Hội thảo HTKH Mừng 400 năm Dòng Tên do
Học viện Dòng Tên Việt Nam tổ chức tại P. Linh Trung, Q. Thủ Đức ngày
12-7-2014.
7. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, Tome
I và Tome II, SAIGON, Imprimerie Rey,Curiol &Cie, 4 Rue d’Adran, 1895.
8. Nguyễn Sinh Duy, “Cuốn sổ bình sinh của Trương Vĩnh
Ký”, Nxb. Nam Sơn, Sài Gòn, 1975.
9. Nguyễn Văn Kiệm (Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo), Sự Du
Nhập Của Đạo Thiên Chúa Giáo Vào Việt Nam Từ Thế Kỷ XVII Đến Thế Kỷ XIX, Hội
KHLSVN, Hà Nội, 2001.
10. Nguyễn Văn Trung, Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp Ở Việt
Nam – Thực Chất Và Huyền Thoại, Nxb. Nam Sơn,
Sài Gòn, 1963.
11. Nguyen Xuan Tho, Histoire de la Pénétration
Francaise Au Viet Nam (1858-1897), Giáo hội Phật giáo Linh Sơn Thế
Giới, Trung Tâm Văn Hóa Linh Sơn 98-847, ILEE ST., AIEA, HI 96701, Tel :
808-488-3425.
12. Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ
Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (1858-1897), Nxb. Hồng Đức, TP HCM
2016.
13. Nhiều tác giả, A. De Rhodes – Người đầu tiên vận
động Pháp chiếm Việt Nam và Chữ Quốc Ngữ, Giao Điểm, Hoa
Kỳ, 1998.
14. Phan Phát Huồn C. SS.R, Việt Nam Giáo Sử,
Quyển I (1533-1933), In lần thứ hai, Copyright, 1965 By CỨU THẾ TÙNG THƯ -
SAIGÒN.
15. Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm,
Sudestasie, Paris 1978.
16. Trên 35 tác giả, Từ Chùa Báo Thiên Đến Tòa Khâm Sứ,
Giaodiemonline.com và Sachhiem.net, 4-2006.
17. Võ Long Tê, Lịch Sử Văn học Công Giáo Việt
Nam, Nxb. Tư Duy, Sài Gòn, 1965.
18. Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam Đối Diện Với Pháp Và
Trung Hoa, Ban KHXH Thành ủy TP HCM, 1990./.
(1) Hội thảo HTKH Mừng 400 Dòng Tên do Học viện Dòng tên Việt Nam
tổ chức tại P. Linh Trung Q. Thủ Đức ngày 12-7-2014.
(2) Nguyễn Văn Trung , Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp Ở Việt
Nam – Thực Chất Và Huyền Thoại (Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1963,
tr.116
(3) Võ Long Tê, Lịch Sử Văn học Công Giáo Việt Nam),
Nxb. Tư Duy, Sài Gòn, 1965),
(4) Cao Huy Thuần, Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc
Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914), Nxb. Tôn Giáo, HN, 2003,
tr. 442-443).
(5) Cửu Long Lê Trọng Văn, PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ, TUYỂN
TẬP, Hoa Kỳ, 1996, tr.161-162.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Nhà Huế Học
Nhà Huế Học