TRUNG QUỐC vs MỸ
(China vs America)
Foreign Affairs, Sept-Oct 2017
Quản lý cuộc xung đột kế
tiếp giữa các nền văn minh
Graham Allison
(Người dịch: Huỳnh Hoa)
Khi
người Mỹ tỉnh ngộ trước một Trung Quốc đang trỗi dậy và giờ đây đang đối
địch với Mỹ trên mọi đấu trường, nhiều người đã tự trấn an bằng niềm tin rằng khi Trung Quốc trở nên giàu có
hơn, hùng mạnh hơn thì nước này sẽ đi theo dấu chân của Đức, Nhật và nhiều nước
khác từng trải qua những cuộc chuyển hóa sâu sắc và nổi lên thành những nền dân chủ tự do tiên tiến. Theo
cách nhìn này, một hỗn hợp kỳ diệu của toàn
cầu hóa, chủ nghĩa tiêu dùng dựa trên thị trường và sự hội nhập vào một trật tự
thế giới dựa trên luật lệ cuối cùng sẽ đưa Trung Quốc trở thành một nền dân chủ
ở trong nước và phát triển thành cái mà cựu thứ trưởng ngoại giao Mỹ Robert Zoellick có lần gọi là “một cổ đông
có trách nhiệm” ở nước ngoài.
Samuel
Huntington không đồng ý như vậy. Trong tiểu luận “Sự xung đột giữa các
nền văn minh” (“The Clash of
Civiliztions?”) xuất bản trên tạp chí Foreign Affairs năm
1993, nhà khoa học chính trị này cho rằng, những đường đứt gãy về văn hóa chẳng
những không bị hòa tan vào cái trật tự thế giới có tính tự do toàn cầu mà còn có khả năng trở thành một
đặc điểm xác định thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh. Ngày nay, lập luận của
Huntington được nhớ tới chủ yếu vì tính tiên tri của nó, soi chiếu sự phân cách
giữa “các nền văn minh phương Tây và Hồi giáo” - một sự tách biệt được biểu lộ
sinh động nhất bởi những cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 và hậu quả của chúng.
Nhưng Huntington còn nhìn
thấy vực thẳm ngăn cách giữa văn minh phương Tây do Mỹ dẫn dắt và nền văn minh
Trung Hoa cũng sâu rộng, kéo dài và gây ra hậu quả tương tự. “Bản thân ý niệm
rằng có một ‘nền văn minh phổ quát’ là ý tưởng của phương Tây, nó mâu thuẫn trực tiếp với chủ
nghĩa đặc thù (particularism) của phần lớn các xã hội châu Á
và sự nhấn mạnh vào những gì phân biệt dân tộc này với dân tộc khác”, ông khẳng
định.
Từ bấy đến nay năm tháng
đã ủng hộ nhận định của Huntington. Những thập niên sắp tới sẽ càng củng cố nó
thêm nữa. Mỹ là hiện thân của những gì mà Huntington coi là nền văn minh phương
Tây. Và căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc về hệ giá trị, truyền thống và triết
lý sẽ làm trầm trọng thêm sự căng thẳng có tính chất nền tảng xảy ra khi một
thế lực đang lên, chẳng hạn như Trung Quốc, đe dọa thay thế vị trí của một thế
lực đã được thiết lập, chẳng hạn như Mỹ.
Lý do mà những sự chuyển
dịch như vậy thường dẫn tới xung đột chính là cái bẫy Thucydides - được đặt
theo tên một sử gia Hy Lạp cổ đại, người đã ghi nhận một xung đột nguy hiểm
giữa một Athens đang nổi lên với một Sparta đang cai trị. Theo Thucydides,
“chính sự trỗi dậy của Athens và mối lo sợ mà điều đó gây ra ở Sparta đã làm
cho chiến tranh là không thể tránh khỏi”. Các cường quốc đang lên có ý thức
ngày càng mạnh mẽ về quyền lực và đòi hỏi một ảnh hưởng lớn hơn, một sự tôn
trọng lớn hơn. Đối mặt với những kẻ thách thức như vậy, các cường quốc đã định
hình có khuynh hướng sợ hãi, bất an và phòng thủ. Trong một môi trường như vậy,
mọi sự hiểu lầm sẽ được phóng đại, sự đồng cảm trở nên hiếm hoi, những sự cố và
hành động của một bên thứ ba nào đó, lẽ ra chỉ là chuyện vặt hoặc có thể xử lý
được, lại có thể kích hoạt chiến tranh mà những tay chơi chủ chốt không bao giờ
muốn xảy ra.
Trong trường hợp của Mỹ
và Trung Quốc, những rủi ro của chiếc bẫy Thucydides kết hợp với tính
không tương hợp về văn minh giữa hai quốc gia càng làm cuộc tranh
đua thêm trầm trọng và càng khó đạt tới một tình hữu nghị thật sự. Rất dễ nhìn
thấy sự bất cân xứng này ở những khác biệt sâu sắc giữa quan niệm của Mỹ và của
Trung Quốc về bản chất của nhà nước, kinh tế học, vai trò của cá nhân, quan hệ
giữa các quốc gia dân tộc và bản chất của thời gian.
Người Mỹ coi nhà
nước như là một “cái xấu cần thiết” và tin rằng, nhà nước có khuynh hướng trở
nên độc tài và lạm dụng quyền lực, một khuynh hướng đáng sợ và cần được chế
ngự. Đối với người Trung Quốc, nhà nước là một “cái tốt cần thiết”, là trụ cột
căn bản bảo đảm trật tự và ngăn ngừa hỗn loạn. Trong chủ nghĩa tư bản định
hướng thị trường kiểu Mỹ , chính phủ thiết lập và thực thi luật pháp; quyền sở
hữu của nhà nước và sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế đôi khi vẫn xảy
ra nhưng chỉ là những ngoại lệ không mong muốn. Trong nền kinh tế thị trường do
nhà nước kiểm soát của Trung Quốc, chính phủ thiết lập các mục tiêu tăng
trưởng, lựa chọn và trợ cấp để các ngành công nghiệp phát triển, xây dựng các
công ty hàng đầu quốc gia và thực hiện các dự án kinh tế quan trọng, dài hạn để
thúc đẩy quyền lợi của đất nước.
Văn hóa Trung Quốc không
tôn vinh chủ nghĩa cá nhân kiểu Mỹ vốn đo lường xã hội theo tiêu chuẩn xã
hội đó có làm tốt hay không việc bảo vệ quyền lợi và nuôi dưỡng tự do của cá
nhân. Thay vì vậy, thuật ngữ “cá nhân” (gerenzhuyi - cá nhân chủ
nghĩa) trong tiếng Trung Quốc có hàm ý là thiên kiến ích kỷ chỉ biết tới bản
thân mình hơn là quan tâm tới cộng đồng. Với người Trung Quốc, câu nói “cho tôi
tự do hoặc cho tôi án tử” sẽ trở thành “cho tôi một cộng đồng hài hòa hoặc cho
tôi cái chết”. Đối với Trung Quốc, trật tự là giá trị cao nhất và sự hài hòa sẽ
sinh ra từ tôn ti trật tự, trong đó mọi thành viên phải tuân thủ lời dạy đầu
tiên của Khổng Tử: “Hãy tự biết mình”.
Quan điểm này không chỉ
áp dụng cho xã hội trong nước mà cả cho các hoạt động toàn cầu, mà người Trung
Quốc nghĩ rằng vị trí đúng đắn của Trung Quốc là ở trên đỉnh của kim tự tháp,
các quốc gia khác phải được sắp xếp như là những nước chư hầu phụ thuộc. Quan
điểm của Mỹ thì hơi khác. Ít nhất là từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới
thứ hai, Washington luôn tìm cách ngăn chặn sự trỗi dậy của một “đối thủ cạnh
tranh cùng trang lứa” có thể thách thức sự thống trị về quân sự của Mỹ. Nhưng
những quan niệm của Mỹ thời hậu chiến về trật tự quốc tế cũng luôn nhấn
mạnh vào nhu cầu có một hệ thống toàn cầu vận hành theo luật lệ có khả năng chế
ngự ngay chính Mỹ.
Cuối cùng, người
Mỹ và người Trung Quốc nghĩ về thời gian và trải nghiệm sự trôi đi của
thời gian theo những cách khác nhau. Người Mỹ có khuynh hướng tập trung
vào hiện tại và thường đếm thời gian theo ngày hoặc theo giờ. Người Trung Quốc
trái lại thường bận tâm tới lịch sử và thường suy nghĩ theo từng thập niên,
thậm chí theo từng thế kỷ.
Tất nhiên, đây là những
sự khái quát hóa chung chung được tóm gọn và không phản ánh đầy đủ tính chất
phức tạp của xã hội Mỹ và Trung Quốc. Nhưng chúng cũng cung cấp một số
gợi ý quan trọng mà các nhà hoạch định chính sách ở cả Mỹ và Trung Quốc cần lưu
ý trong việc xử lý cuộc cạnh tranh sao cho không dẫn tới chiến tranh.
Ta là số một!
Những dị biệt văn hóa
giữa Mỹ và Trung Quốc đang bị làm trầm trọng thêm bởi một đặc điểm đáng chú ý
mà cả hai bên đều chia sẻ: mặc cảm cực kỳ siêu việt. Mỗi nước đều tự thấy mình
như một ngoại lệ - nghĩa là vô đối, không có ai cùng hạng. Nhưng chỉ có một con
số một mà thôi. Lý Quang Diệu, vị thủ tướng quá cố của Singapore, từng nghi ngờ
khả năng của Mỹ có thể thích nghi với một Trung Quốc đang trỗi dậy. “Về mặt cảm
xúc, thật rất khó chấp nhận việc Mỹ bị thay thế, không phải trên thế giới mà
chỉ trong vùng tây Thái Bình Dương, bằng một dân tộc châu Á từ lâu bị khinh rẻ,
bị coi là suy đồi, yếu ớt, tham nhũng và lạc hậu... Ý thức về uy thế văn hóa
của người Mỹ càng làm cho sự thích nghi trở nên khó khăn bội phần”, ông
Lý nói trong một cuộc phỏng vấn năm 1999.
Tuy vậy, về nhiều phương
diện, chủ nghĩa biệt lệ (exceptionalism) của Trung Quốc còn có
ảnh hưởng sâu rộng hơn nhiều so với đối tác Mỹ. “Đế quốc [Trung Hoa] tự coi
mình là trung tâm của vũ trụ văn minh,” sử gia Harry Gelber viết như vậy trong
cuốn sách Nations Out Of Empires xuất bản năm 2001. Suốt thời
kỳ quân chủ chuyên chế, “các học giả-quan chức Trung Hoa thường không nghĩ về
một ‘Trung Hoa’ hoặc ‘nền văn minh Trung Hoa’ theo ngữ nghĩa hiện nay. Đối với
họ, chỉ có dân tộc Hán và ngoài họ ra thì chỉ còn những kẻ man di (barbarism).
Những gì không văn minh, theo định nghĩa, đều là man di.”
Ngày nay, người Trung
Quốc vẫn rất hãnh diện về những thành tựu văn minh của mình. “Đất nước chúng ta
là đất nước vĩ đại”, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố trong một bài
diễn văn năm 2012. “Trong suốt quá trình văn minh hóa và phát triển kéo dài hơn
5.000 năm, dân tộc Trung Hoa đã có những đóng góp không thể phủ nhận được vào
nền văn minh và sự tiến bộ của loài người”, ông Tập nói. Thật vậy, trong cuốn
sách xuất bản năm 2014 của mình, The Governance of China, ông Tập
tuyên bố rằng “Nền văn minh liên tục của Trung Quốc là một thành tựu độc đáo
của lịch sử nhân loại, trên trái đất không gì sánh nổi”.
Người Mỹ cũng tự
nhìn mình như là người tiên phong của văn minh, đặc biệt là trong lĩnh vực phát
triển chính trị. Niềm say mê tự do đã được trân trọng khắc ghi trong văn bản
cốt lõi của tư tưởng chính trị Mỹ, bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố
“mọi người sinh ra đều bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền không thể xâm phạm
được”. Những quyền đó, bản Tuyên ngôn xác định, là “quyền
Sống, quyền Tự do và quyền Mưu cầu Hạnh phúc”. Bản Tuyên ngôn cũng
khẳng định đây là sự thật “hiển nhiên”, không phải bàn cãi. Như nhà viết sử Mỹ
Richard Hofstadter viết: “Định mệnh của chúng ta, với tư cách một dân tộc,
không phải là có những hệ tư tưởng, mà là một hệ tư tưởng”. Trái lại, giá trị
chính trị trung tâm của Trung Quốc là trật tự - trật tự sinh ra từ hệ thống tôn
ti, thang bậc. Tự do cá nhân, theo cách hiểu của người Mỹ , sẽ phá hủy tôn ti
trật tự; và theo quan điểm của người Trung Quốc, nó sẽ kích hoạt hỗn loạn.
Làm như tôi nói... và
như tôi làm?
Những sự dị biệt về
triết lý này sẽ thể hiện trong quan niệm của mỗi nước về chính phủ. Mặc dù có
nỗi hoài nghi sâu sắc đối với quyền lực, các nhà lập quốc Mỹ vẫn công nhận
rằng, xã hội cần có chính quyền. Nếu không thì ai sẽ bảo vệ các công dân khỏi những
mối đe dọa của ngoại bang hoặc của bọn tội phạm vi phạm quyền của họ ở trong
nước? Tuy nhiên, các nhà lập quốc bị vướng vào một nan đề: một chính phủ mạnh
đủ để thực hiện các nhiệm vụ thiết yếu của mình sẽ có xu hướng trở nên chuyên
chế và bạo ngược. Để xử lý thách thức này, họ thiết kế ra một chính phủ có “các
định chế riêng biệt cùng chia sẻ quyền lực,” như miêu tả của nhà sử học Richard
Neustadt. Kiểu chính phủ này cố tình tạo ra cuộc ganh đua thường xuyên giữa các
nhánh hành pháp, tư pháp và lập pháp, dẫn tới sự trì hoãn, bế tắc, thậm chí rối
loạn chức năng của chính phủ. Nhưng nó cũng tạo ra cơ chế kiểm tra và cân bằng,
chống lại sự lạm dụng quyền lực.
Quan niệm của Trung Quốc
về chính quyền và vai trò của chính quyền trong xã hội thì rất khác. Theo ghi
nhận của ông Lý, “Lịch sử và văn hóa của nước này cho thấy khi nào có một trung
tâm quyền lực hùng mạnh (Bắc Kinh hoặc Nam Kinh) thì đất nước hòa bình và thịnh
vượng. Khi trung tâm bị suy yếu thì các tỉnh, các huyện rơi vào tay của các
lãnh chúa”. Như vậy, kiểu chính phủ trung ương hùng mạnh mà người Mỹ
chống lại thì đối với người Trung Quốc lại là một nhân tố chủ yếu để duy trì
trật tự và lợi ích công cộng, ở cả trong nước và nước ngoài.
Đối với người Mỹ , dân
chủ là hình thức công bằng duy nhất của chính quyền: quyền cai trị thoát thai
từ tính chính danh (legitimacy), từ sự ưng thuận của người dân bị
cai trị. Đây không phải là quan niệm phổ biến ở Trung Quốc, nơi người ta thường
tin rằng, chính phủ có được hoặc đánh mất tính chính danh chính trị tùy thuộc
vào kết quả điều hành. Tại một diễn đàn TED Talk gây nhiều tranh cãi năm 2013,
một nhà đầu tư tài chính tại Thượng Hải là Eric Li đã thách thức cái gọi là
tính ưu việt của thể chế dân chủ. “Có lần người ta hỏi tôi, ‘Đảng [Cộng sản
Trung Quốc] không được bầu lên qua bầu cử. Thế thì đâu là cội nguồn của tính
chính danh?’, ông kể lại. “Tôi nói: ‘Thế năng lực thì sao?’”. Ông nhắc nhở khán
giả rằng năm 1949, khi đảng Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền, “Trung Quốc tan
hoang vì nội chiến, bị các thế lực xâm lược nước ngoài chia năm xẻ bảy, và tuổi
thọ trung bình của người dân lúc ấy chỉ là 41 tuổi. Ngày nay [Trung Quốc] là
nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, một cường quốc công nghiệp và nhân dân ngày
càng giàu có”.
Washington và Bắc Kinh
cũng có những cách tiếp cận khác nhau rõ ràng khi quảng bá các giá
trị chính trị nền tảng của họ ra quốc tế. Người Mỹ tin rằng nhân quyền và
dân chủ là những khát vọng có tính phổ quát cho mọi dân tộc, cho nên mô hình
của Mỹ cần được thực hiện ở khắp nơi. Mỹ, như Huntington viết trong cuốn sách
kế tiếp của ông, The Clash of Civilisations, là “một dân tộc truyền
giáo”, được thôi thúc bởi niềm tin “rằng các dân tộc ngoài Tây phương nên tự
gắn bó với các giá trị Tây phương và nên tích hợp các giá trị này vào các định
chế của họ.” Đa số người Mỹ tin rằng các quyền dân chủ đem lại lợi ích
cho mọi người, ở mọi nơi trên thế giới.
Nhiều thập niên qua,
Washington đã theo đuổi một chính sách ngoại giao tìm cách thúc đẩy nguyên tắc
dân chủ - thậm chí đôi khi họ gắng áp đặt nó lên những xã hội đã thất bại trong
việc tự xây dựng dân chủ. Trái lại, mặc dù người Trung Quốc tin rằng, các dân
tộc khác đang nhìn họ, thán phục những thành công của họ, và thậm chí cố gắng
bắt chước hành vi của họ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không khuyến khích
người khác đi theo cách tiếp cận của mình. Như nhà ngoại giao kỳ cựu của
Mỹ Henry Kissinger có lần lưu ý: Trung Quốc đế quốc “không xuất khẩu các
ý tưởng của mình mà để người khác tự tìm đến chúng”. Và do đó không nên ngạc
nhiên khi thấy các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn hoài nghi sâu sắc những nỗ lực
của Mỹ nhằm cải hóa họ theo tín điều của người Mỹ. Vào cuối thập niên 1980,
Đặng Tiểu Bình - người lãnh đạo Trung Quốc từ năm 1978 đến 1989 và khởi động
tiến trình tự do hóa kinh tế của nước này - than phiền với một chính khách đang
viếng thăm Trung Quốc lúc ấy rằng phương Tây nói về “nhân quyền, tự do và dân
chủ được thiết kế chỉ để bảo vệ quyền lợi của các nước mạnh và giàu có, những
nước lợi dụng sức mạnh để dọa nạt các nước yếu kém, để theo đuổi bá quyền và
thực hành chính trị sức mạnh”.
Nghĩ nhanh và nghĩ chậm
Ý thức của người
Mỹ và người Trung Quốc về quá khứ, hiện tại và tương lai có sự khác biệt
căn bản. Người Mỹ tự hào chào mừng nước mình chuyển sang tuổi 214 hồi
tháng Bảy; còn người Trung Quốc thích nhắc nhở rằng, lịch sử của nước họ trải
dài tới 5 thiên niên kỷ. Các nhà lãnh đạo Mỹ thường đề cập tới “những cuộc thử
nghiệm của Mỹ ” và những chính sách đôi khi có vẻ ngẫu hứng của họ phản ánh tâm
thế đó. Trung Quốc, trái lại, tự thấy mình như cột trụ cố định của vũ trụ, nó
đã luôn như thế và cũng sẽ luôn như thế.
Nhờ ý thức về thời gian
được mở rộng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc rất cẩn thận khi phân biệt cái “ác
tính” với cái “mãn tính”, cái “khẩn cấp” với cái chỉ “quan trọng”. Thật khó
hình dung một nhà lãnh đạo chính trị Mỹ có thể đề nghị xếp lại một vấn đề
chính sách đối ngoại quan trọng để chờ thế hệ sau giải quyết. Tuy nhiên, ông
Đặng đã làm đúng như vậy năm 1979 khi ông dẫn đầu phía Trung Quốc trong các
cuộc đàm phán với Nhật Bản về nhóm đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư và chấp nhận
một giải pháp cuối cùng hơn là một giải pháp trước mắt cho vụ tranh chấp.
Tỏ ra ngày càng nhạy cảm
với nhu cầu của vòng xoáy truyền thông và dư luận của công chúng, các chính trị
gia Mỹ sử dụng mạng Twitter hoặc công bố chính sách theo kiểu gạch đầu dòng hứa
hẹn sẽ có giải pháp nhanh chóng. Ngược lại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thì
nhẫn nại hơn về mặt chiến lược: chừng nào các xu hướng vẫn còn chuyển động theo
hướng có lợi cho họ thì họ thoải mái chờ cho vấn đề trôi qua. Người Mỹ
nghĩ mình là người giải quyết vấn đề. Cái chủ nghĩa ăn non của người Mỹ
thể hiện ở chỗ họ luôn nhìn thấy vấn đề là những việc riêng lẻ, hữu hạn cần
giải quyết ngay bây giờ để chuyển sang các vấn đề khác. Nhà văn và sử gia Mỹ
Gore Vidal có lần gọi nước ông là “Hợp chủng quốc chóng quên” (the United
States of Amnesia, thay vì the United States of America) - nơi
mà mỗi ý tưởng là một sự canh tân và mỗi cuộc khủng hoảng đều chưa có tiền lệ.
Điều này tương phản sâu sắc với ký ức lịch sử và ký ức cộng đồng của người
Trung Quốc - những người cho rằng dưới ánh mặt trời thì không có gì mới mẻ cả.
Thật vậy, các nhà lãnh
đạo Trung Quốc có khuynh hướng tin rằng nhiều vấn đề không thể giải quyết được
mà chỉ có thể quản lý chúng. Họ nhìn các thách thức như là các vấn đề dài hạn,
lặp đi lặp lại - những vấn đề mà họ phải đối mặt hôm nay là kết quả những quá
trình đã diễn ra trong năm ngoái, trong thập niên trước hoặc thậm chí trong thế
kỷ trước. Các hành động chính sách họ thực hiện hôm nay chỉ đơn giản là góp
phần vào cái tiến trình đó. Ví dụ, từ năm 1949, Đài Loan đã được cai trị
bởi cái mà Bắc Kinh gọi là những người dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa phản bội.
Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn nhấn mạnh rằng Đài Loan vẫn là một bộ
phận không tách rời của Trung Quốc song họ theo đuổi một chiến lược trường kỳ,
áp dụng việc siết chặt dần các mối ràng buộc về kinh tế và xã hội để thu hút
hòn đảo này trở về.
Ai là ông chủ?
Cuộc xung đột về văn
minh gây khó khăn lớn nhất cho Washington và Bắc Kinh khi tìm cách thoát khỏi
chiếc bẫy Thucydides lại nổi lên từ các quan điểm đang cạnh tranh giữa hai bên
về trật tự thế giới. Cách đối xử của Trung Quốc với dân chúng của mình cung cấp
một kịch bản để hiểu quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước láng giềng nhỏ hơn và
yếu hơn. Đảng Cộng sản Trung Quốc duy trì trật tự bằng cách cưỡng đặt một hệ
thống tôn ti trật tự có tính chất chuyên chế, đòi hỏi dân chúng của họ phải tôn
kính và tuân phục. Hành vi của Trung Quốc trên trường quốc tế cũng phản ánh các
kỳ vọng tương tự về trật tự thế giới: trong một khoảnh khắc bất ngờ tại hội
nghị Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Asean) ở Hà Nội năm 2010, đáp lại những
lời than phiền về sự hung hăng của Trung Quốc ngoài Biển Đông, bộ trưởng ngoại
giao Trung Quốc lúc đó là Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã nói thẳng với những
người đồng nhiệm khu vực và ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng “Trung Quốc là
một nước lớn, các nước khác là nước nhỏ và đó là một thực tế”.
Trái lại, các nhà lãnh
đạo Mỹ mong muốn một hệ thống pháp quyền quốc tế (international rule of
law) về căn bản phản ánh rõ ràng pháp quyền nội bộ của Mỹ (U.S.
domestic rule of law). Nhưng đồng thời, họ cũng ý thức được thực tế quyền
lực trong khu rừng toàn cầu kiểu Hobbesian (*), ở đó làm sư tử bao giờ cũng tốt
hơn làm cừu non. Washington thường cố gắng dung hòa mâu thuẫn này qua việc miêu
tả một thế giới trong đó Mỹ là một kẻ bá quyền nhân hậu, hành động như một nhà
lập pháp của thế giới, một cảnh sát viên, một quan tòa...
Washington thôi thúc các
cường quốc khác hãy chấp nhận cái trật tự quốc tế dựa trên luật pháp mà trong
đó Mỹ đang ngự trị. Nhưng dưới mắt người Trung Quốc, có vẻ như người Mỹ
làm ra luật và các nước khác phải tuân theo mệnh lệnh của Washington. Đại tướng
Martin Dempsey, cựu chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ, là người quá quen
thuộc với nỗi ác cảm có thể tiên đoán được mà cách nhìn này gây nên ở Trung
Quốc. “Một trong những điều tôi thấy thú vị về người Trung Quốc là bất cứ khi
nào tôi nói chuyện với họ về các tiêu chuẩn quốc tế hoặc luật lệ quốc tế trong
cách hành xử, họ hầu như đều chỉ ra rằng, các luật lệ đó được hình thành khi họ
chưa có mặt trên vũ đài thế giới”, ông Dempsey nhận xét trong một bài trả lời
phỏng vấn tạp chí Foreign Affairs năm ngoái.
Bạn có thể đi theo đường
của bạn
Mỹ đã trải qua ba thập
niên là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Trong thời gian này, ảnh hưởng to lớn
của Washington lên những vấn đề của thế giới đã làm cho nhu cầu hiểu biết văn
hóa Mỹ và cách tiếp cận chiến lược của Mỹ trở nên cấp bách cho giới tinh
hoa và lãnh đạo các quốc gia khác. Người Mỹ , trái lại, thường cảm thấy rằng họ
không cần phải suy nghĩ cẩn thận về thế giới quan của người nước khác - một sự
thiếu quan tâm được khuyến khích bởi niềm tin trong nhiều người thuộc giới tinh
hoa ở Mỹ rằng, dù thế nào đi nữa, phần còn lại của thế giới sẽ chậm rãi
nhưng chắc chắn trở nên giống với Mỹ.
Tuy vậy trong những năm
gần đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã thách thức sự dửng dưng đó. Các nhà
hoạch định chính sách ở Mỹ đang bắt đầu nhận ra rằng họ phải cải thiện sự hiểu
biết của họ về Trung Quốc - đặc biệt là tư duy chiến lược của người Trung Quốc.
Các nhà hoạch định chính sách và phân tích chính trị của Mỹ cũng đã bắt đầu
nhìn thấy những đặc điểm khác biệt rõ ràng trong cách mà đối tác Trung Quốc
nghĩ về việc sử dụng sức mạnh quân sự. Khi quyết định nên hay không nên, lúc
nào và cách thức nào để tấn công kẻ thù, các nhà lãnh đạo Trung Quốc phần lớn
đều tỏ ra chín chắn và thực dụng. Tuy vậy, các nhà phân tích và hoạch định
chính sách của Mỹ đã xác định được năm điều giả định và thiên hướng có thể giải
thích cho hành vi chiến lược của Trung Quốc trong các cuộc xung đột.
Thứ nhất, cả trong chiến
tranh và hòa bình, chiến lược của Trung Quốc được thúc đẩy bởi sự thực dụng
trắng trợn, không bị vướng víu vào bất kỳ nhu cầu nào cần có để biện minh cho
hành vi của họ về phương diện luật pháp quốc tế hoặc quy tắc đạo đức. Điều này
cho phép chính phủ Trung Quốc hành xử linh hoạt, hoặc tráo trở một cách độc ác,
bởi vì họ cảm thấy gần như không bị kiềm chế bởi những tiền lệ và gần như miễn
nhiễm với mọi sự phê phán “tiền hậu bất nhất”. Một ví dụ, khi Henry Kissinger
tới Trung Quốc năm 1971 để bắt đầu các cuộc hội đàm bí mật về nối lại quan hệ
Mỹ -Trung, ông thấy những người đối thoại với mình chẳng mảy may quan tâm tới
vấn đề ý thức hệ và họ thành thật một cách kinh hoàng về quyền lợi quốc gia của
Trung Quốc. Trong khi Kissinger và tổng thống Mỹ Richard Nixon thấy cần phải
biện minh cho sự thỏa hiệp mà cuối cùng họ phải đi đến nhằm chấm dứt chiến
tranh Việt Nam như là “hòa bình trong danh dự” thì lãnh tụ Trung Quốc Mao Trạch
Đông lại thấy không cần phải giả vờ rằng việc thiết lập quan hệ với Mỹ tư bản
chủ nghĩa - để củng cố vị thế của Trung Quốc cộng sản mặt đối mặt với Liên xô –
là nhằm thúc đẩy phong trào quốc tế xã hội chủ nghĩa rộng lớn hơn.
Có thể nói rằng cách
tiếp cận mang tính thực dụng của Trung Quốc đối với chính trị quốc tế đã giúp
Trung Quốc có lợi thế so với Mỹ, và quan điểm chiến lược về thế giới bị ám ảnh
bởi sự toàn diện của Trung Quốc cũng vậy. Các nhà kế hoạch Trung Quốc thấy mọi
sự việc đều được nối kết với nhau. Cái bối cảnh đang vận động trong đó xảy ra
một tình huống chiến lược nào đó sẽ quyết định cái mà Trung Quốc gọi là
“thế” (shi). Thuật ngữ này không thể dịch trực tiếp sang tiếng Anh
nhưng có thể hiểu như là “năng lực tiềm tàng”, hoặc “động lực” vốn có trong mọi
hoàn cảnh tại một thời điểm nào đó. Thế bao gồm cả địa lý và địa hình, thời
tiết, cân bằng lực lượng, yếu tố bất ngờ, quy tắc đạo đức và nhiều yếu tố khác
nữa. “Mỗi yếu tố có ảnh hưởng tới các yếu tố khác, kích hoạt những sự dịch
chuyển tinh vi trong động lực và lợi thế tương đối,” như Kissinger đã viết
trong cuốn sách On China xuất bản năm 2011 của ông. Như vậy,
một nhà chiến lược tài năng của Trung Quốc sẽ dành phần lớn thời gian của mình
để kiên nhẫn “quan sát và nuôi dưỡng những sự thay đổi trong cảnh quan chiến
lược” và chỉ hành động khi mọi sự đã được sắp xếp tối ưu. Khi ấy, ông ta sẽ ra
tay rất nhanh. Với người quan sát, kết quả rõ ràng là khó tránh khỏi.
Đối với các nhà chiến
lược Trung Quốc, chiến tranh trước tiên là chiến tranh chính trị và chiến tranh
tâm lý. Trong lối suy nghĩ của người Trung Quốc, cảm nhận của đối phương về
những dữ kiện trong thực tế cũng quan trọng không kém bản thân các dữ kiện đó.
Trong thời quân chủ Trung Quốc, tạo ra và nuôi dưỡng hình ảnh về một nền văn
minh Trung Hoa ưu việt tới mức đại diện cho “trung tâm của vũ trụ” là nhằm ngăn
ngừa các kẻ thù dám thách thức sự thống trị của Trung Quốc. Ngày nay, câu
chuyện về sự trỗi dậy tất yếu của Trung Quốc và sự suy thoái không thể đảo ngược
của Mỹ cũng đang sắm một vai trò tương tự.
Theo truyền thống, người
Trung Quốc tìm kiếm chiến thắng không phải trong một trận đánh quyết định mà
thông qua hành động gặm nhấm từng bước được thiết kế để cải thiện dần dần vị
thế của họ. David Lai, một chuyên gia về các vấn đề quân sự châu Á, đã minh họa
cho lối tiếp cận này bằng cách so sánh môn cờ vua với môn cờ tương tự của Trung
Quốc, gọi là cờ vây (weiqi), tiếng Anh đôi khi gọi là cờ “Go”.
Trong cờ vua, kỳ thủ tìm cách chiếm lĩnh trung tâm của bàn cờ và khuất phục đối
phương. Trong cờ vây, kỳ thủ tìm cách bao vây đối phương. Nếu một cao thủ cờ
vua nghĩ trước từ năm đến sáu nước đi thì cao thủ cờ vây phải tính trước hai
mươi, ba mươi nước đi. Xem xét mọi phương diện của mối quan hệ rộng rãi giữa
Trung Quốc với các địch thủ, các chiến lược gia Trung Quốc thường cưỡng lại ý
muốn nôn nóng đạt tới chiến thắng kiểu ăn non; thay vì vậy họ nhắm xây dựng lợi
thế từng bước một. “Trong truyền thống phương Tây, người ta thường nhấn mạnh
vào việc sử dụng vũ lực; binh pháp chủ yếu giới hạn trong hoạt động ở chiến
trường và phương thức chiến đấu là lấy vũ lực đối đầu với vũ lực,” ông Lai viết
trong một bản phân tích năm 2004 cho Viện nghiên cứu chiến lược của trường Đại
học Chiến tranh thuộc bộ Lục quân Mỹ. Trái lại, “triết lý đằng sau môn cờ vây…
là giành kết quả tương đối hơn là tìm cách hủy diệt hoàn toàn lực lượng của đối
phương.” Và trong một lời nhắn nhủ khôn ngoan, ông Lai cảnh báo “sẽ rất nguy
hiểm khi chơi cờ vây bằng não trạng của kỳ thủ cờ vua”.
Hãy thương lượng
Washington rất nên để ý
tới lời cảnh báo đó. Trong những năm sắp tới, bất kỳ điểm nóng nào cũng có thể
gây ra khủng hoảng trong quan hệ Trung Quốc-Mỹ, bao gồm những vụ tranh chấp
lãnh thổ ngày càng tăng ở Biển Đông và xung đột về chương trình vũ khí hạt nhân
mới manh nha của Bắc Triều Tiên. Bởi vì quân đội Trung Quốc cần có thêm ít nhất
một thập niên hay hơn nữa mới có khả năng bắt kịp năng lực của quân đội Mỹ nên
Trung Quốc sẽ rất thận trọng và cảnh giác với mọi sự sử dụng vũ lực gây sát
thương chống lại người Mỹ. Bắc Kinh vẫn sẽ coi sức mạnh quân sự là công cụ thứ
yếu trong chính sách ngoại giao của mình, sẽ không tìm kiếm chiến thắng trên
chiến trường mà tìm cách hoàn thành các mục tiêu quốc gia. Trung Quốc sẽ thúc
đẩy các mối quan hệ kinh tế và ngoại giao với các nước láng giềng, làm sâu sắc
thêm sự phụ thuộc của các nước này vào Trung Quốc, và sử dụng đòn bẩy kinh tế
để khuyến khích (hoặc dọa nạt) sự hợp tác ở các vấn đề khác. Mặc dù người Trung
Quốc, theo truyền thống, vẫn coi chiến tranh là giải pháp cuối cùng, nhưng nếu
Trung Quốc rút ra kết luận rằng các xu hướng lâu dài không còn chuyển dịch theo
hướng có lợi cho họ và họ đang mất dần sức mạnh mặc cả thì Trung Quốc có thể
kích động một xung đột quân sự giới hạn để cố gắng đảo ngược các xu hướng ấy.
Lần mới nhất mà Mỹ phải
đối mặt với những rủi ro kiểu Thucydides cực kỳ nghiêm trọng là trong thời
Chiến tranh Lạnh – đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Hồi tưởng
lại cuộc khủng hoảng vài tháng sau khi nó được giải quyết, tổng thống Mỹ John
F. Kennedy nhận ra một bài học có giá trị bền vững: “Trên hết, trong khi chúng
ta bảo vệ những lợi ích thiết yếu của chúng ta thì các cường quốc hạt nhân phải
tránh tất cả những cuộc đối đầu nào có thể buộc địch thủ phải lựa chọn, hoặc
rút lui nhục nhã, hoặc chiến tranh hạt nhân.” Bất chấp những tuyên bố cứng rắn
của Moscow, thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev cuối cùng cũng kết luận rằng,
ông ta có thể thỏa hiệp về vũ khí hạt nhân ở Cuba. Tương tự như vậy, Kissinger
và Nixon sau này phát hiện ra rằng, ông Mao Trạch Đông của Trung Quốc là người
rất khôn khéo, sẵn sàng từ bỏ ý thức hệ nếu điều đó phục vụ cho lợi ích của
Trung Quốc.
Ông Tập và tổng thống Mỹ
Donald Trump đều đưa ra những đòi hỏi tối đa, đặc biệt là trong vấn đề Biển
Đông. Nhưng cả hai ông đều là những nhà thương lượng dày dạn. Chính phủ của ông
Trump càng hiểu rõ cách thức Bắc Kinh nhìn nhận vai trò của Trung Quốc trên thế
giới và các lợi ích cốt lõi của quốc gia, thì họ càng chuẩn bị tốt hơn khi bước
vào các cuộc thương lượng. Vấn đề còn lại là nhận thức tâm lý: ngay cả những
quan chức dày dạn của bộ Ngoại giao Mỹ vẫn thường quan niệm sai lầm rằng lợi
ích cốt lõi của Trung Quốc phản ánh lợi ích của chính Mỹ. Vì vậy, sẽ là khôn
ngoan nếu các quan chức giờ đây đang soạn thảo cách tiếp cận của chính phủ
Trump với Trung Quốc chịu đọc lại Tôn Tử (Sun Tzu), nhà triết học
cổ đại Trung Quốc: “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng; biết ta không biết
địch, có thua có thắng; không biết ta cũng không biết địch, trận nào cũng
thua”.
Graham Allison – giáo sư
về chính quyền, trường Hành chính Kennedy thuộc Đại học Harvard. Bài này được
rút gọn từ cuốn sách của ông “Đi tới chiến tranh: Liệu Mỹ và Trung Quốc
có tránh được bẫy Thucydides?” (Houghton Mifflin Harcourt, 2017)
(*) Khu rừng
toàn cầu kiểu Hobbesian: ẩn dụ từ quan điểm của nhà triết học chính
trị Anh Thomas Hobbes (1588-1679), được trình bày chủ yếu trong tác phẩm
Leviathan (1651). Hobbes coi xã hội như một khu rừng, trong đó mỗi cá nhân đều
cho rằng mình có quyền với tất cả mọi thứ, dẫn tới cuộc “chiến tranh tất cả
chống lại tất cả”, mạnh được yếu thua. Để thoát ra khỏi tình trạng man rợ này,
xã hội cần có một khế ước chung sao cho quyền lợi của người này không mâu thuẫn
với người khác và cần có một chính quyền chuyên chính để thực thi khế ước đó…
Hobbes được coi là một trong những người đặt nền móng cho triết học chính trị
phương Tây hiện đại. (ND)