JOHN F. KENNEDY
VÀ CUỘC CHÍNH BIẾN 1-11-1963
Đỗ Kim Thêm
Tổng thống
John Kennedy (bìa phải), Bộ trưởng Robert McNamara và Tướng Maxwell Taylor đang
thảo luận về tình hình Việt Nam trong Phòng Bầu Dục tại Nhà Trắng (1963)
Tóm lược
Ngày 2 và 22 tháng 11 năm 2018
là kỷ niệm 55 năm ngày hai Tổng thống John F. Kennedy và Ngô Đình Diệm
bị mưu sát vào
năm 1963.
“Nếu hai Tổng thống Kennedy
và Diệm còn sống, thì miền Nam còn”, khi về sau nhìn lại hai biến cố, người dân
miền Nam có lập luận đơn giản với lòng thành kính ngưỡng mộ và nuối tiếc trước
hai cái chết oan nghiệt do định mệnh an bài. Dĩ nhiên, đó là ước vọng không
thành.
Khi các biến chuyển lịch sử
lắng đọng, thì các các bí ẩn lần lượt hé lộ sự thật phủ phàng và đánh bại các ước
vọng chân thành. Năm 1962
McNamara khai triển kế hoạch rút các cố vấn quân sự Mỹ khỏi Việt Nam,
Kennedy đồng thuận kế hoạch này vì không còn tin khả năng lãnh đạo của Tổng thống
Diệm như trước. Khi phát hiện mọi báo cáo về diễn tiến tình hình Việt Nam đều
mâu thuẩn hoặc sai lạc, ông lo âu trước các chính sách độc tài, gia đình trị, tham nhũng và đàn
áp tôn giáo. Kennedy cho là người Mỹ không thể chiến đấu thay cho người
Việt khi phong trào chống Mỹ ngày càng lên cao.
Dù yểm trợ cho các tướng
lãnh đảo chánh, Kennedy cho biết cái chết của Tổng thống Diệm và Bào Đệ là ngoài
dự liệu của Mỹ. Trong cuộc họp
báo ngày 12 tháng 11 năm 1963, Kennedy tái xác định mục tiêu "đưa người Mỹ ra khỏi nơi đó". Trước ngày công du tại
Texas, Kennedy yêu cầu Mike Forrestal xem lại toàn bộ biện pháp để Mỹ có thể
rút khỏi Việt Nam. Ông bị mưu sát vào lúc 12 giờ 30 ngày 22 tháng 11 năm 1963 tại
Dallas và mọi kế hoạch không thành.
Dựa vào các tài liệu mới nhất
của CIA, bài viết sau đây trình bày việc thất bại của Kennedy trong các đối
sách tại Lào và Việt Nam, khủng hoảng Phật giáo, bất mãn của quân đội, diễn biến
đảo chánh và cơ hội của Kennedy tái lập hoà bình cho Việt Nam.
Tác giả cám ơn Cư sĩ Nguyên
Giác Phan Tấn Hải đã cung cấp nhiều tư liệu mới giải mật của CIA. Các trích dẫn,
chú thích và thư tịch tham khảo sẽ bổ sung khi bài viết này in thành sách.
***
Biên cương mới
Khi nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ vào tháng Giêng năm 1961, Kennedy đã đánh dấu một sự thay đổi thế hệ
trong tầng lớp lãnh đạo tại Toà Bạch Ốc. Toả sáng bên cạnh một nhà lãnh đạo 41
tuổi với dáng dấp hào hoa là các cố vấn trẻ trung, năng động và lạc quan, họ được
ca tụng là những người tài hoa và thông thái nhất (The Best and The Brightest).
Thành phần nội các mới gồm có Bào đệ Robert Kennedy, Cố vấn an ninh Mc
Georg Bundy, Cựu Khoa Trưởng Đại học Harvard, Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara,
Cựu Chủ tịch Công Ty Xe Ford, Kinh tế gia Walt W. Rostow, Arthur M. Schesinger
Jr., Sử gia của Đại học Harvard và Theodore C. Sensore, Luật gia và người viết
diễn văn cho tổng thống. Vì muốn tự đảm nhận chính sách đối ngoại, nên Kennedy
chọn Dean Rush, một chính khách không đảng phái. Về cố vấn quân sự ông ủy nhiệm
cho Maxwell D. Taylor, vị tướng đã từ chức Tham mưu trưởng Liên quân dưới thời Tổng
thống Eisenhower.
Nội các Kennedy quyết tâm theo đuổi các chính sách mới, muốn cùng người
dân đi về một biên cương mới (New Frontier) bằng cách tạo cho nước Mỹ thoát ra
khỏi cảnh tê liệt chính trị và kinh tế: phá bỏ cấu trúc nội trị lổi thời, chấm
dứt nạn kỳ thị chủng tộc, kết hợp các biện pháp tài trợ kinh tế theo chủ thuyết
Keynes, soạn thảo chính sách mới về an ninh và canh tân kỷ thuật để chinh phục
không gian vào cuối thập niên 1960.
Kennedy sẽ kế tục các chính sách đối ngoại của các bậc tiền nhiệm. Với
chính sách be bờ ngăn chận, Tổng thống Harry S. Truman và Dwight D. Eisenhower tận
tình bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ châu Âu khi Liên Xô đe doạ trầm trọng; Hoa Kỳ
luôn chứng tỏ là có tinh thần trách nhiệm đối với châu Âu mà Tây Bá linh là một
biểu tượng ràng buộc.
Nhưng là một thành viên trong Hội American Friends of Vietnam, Kennedy
nghĩ đã đến lúc cần phải có một đối sách mới làm chuyển điểm cho vấn đề Việt
Nam: việc giải quyết trở thành thước đo về khả năng hành động và mức độ khả tín
về chính sách của Hoa Kỳ. Dù Việt Nam trở thành một chủ đề chính, nhưng vấn đề
của Lào cần đem ra để thử nghiệm trước tiên.
Thất bại tại Lào
Xung đột của Lào được Hiệp định Geneva 1954 giải quyết khi các phe lâm
chiến thành lập một chính phủ liên hiệp trong năm 1957. Washington muốn ngăn ngừa
ảnh hưởng của Cộng sản Pathet Lao đang ngày càng lan rộng, nên tìm cách xây dựng
một quân đội Lào hùng mạnh. Phumi Nosavan, một nhân vật quan trọng trong quân đội
Lào đã đứng ra hợp tác. Dù có khuynh hướng thân Mỹ, nhưng ông là một tướng lãnh
thiếu khả năng, tham nhũng và giàu có nhờ khai thác nhiều cơ sở trồng bạch phiến.
Phumi hứa sẽ cải thiện nội tình của Lào, mà thực tế là giống như Việt Nam. Tổng
thống Eisenhower đã tung ra trên 300 triệu Đô là viện trợ kinh tế và quân sự
cho Lào mà không mang lại kết quả cụ thể nào.
Tháng 8 năm 1960 Hoàng thân Souvana Phuma lập một chính phủ trung lập để
ngăn ngừa nội chiến. Pháp và Anh công nhận chính phủ Phuma. Trong khi Mỹ tỏ ra
dẻ dặt trong vấn đề viện trơ, Phuma quay sang cầu viện Liên Xô và vì thế mà mất
uy tín đối với Mỹ. Ngay trong ngày Kennedy nhậm chức, Tổng thống Eisenhower đã
kêu gọi Kennedy phải ngăn chận sự chiến thắng của Cộng sàn Lào, nếu cần, cả bằng
phương tiện quân sự. Kennedy cam kết tiếp tục thực hiện chính sách này.
Thừa lệnh Kennedy, Bộ Tham mưu Liên Quân, Joint Chief Staff (JSC) khai
triển một kế hoạch can thiệp quân sự. Tháng 10 năm 1960 Đại uý Kong Le đảo
chánh, tháng 3 năm 1961 tình hình an ninh Lào lọt ngoài vòng kiểm soát, chiến
tranh không tránh khỏi bùng nổ, khi vũ khí của Liên Xô viện trợ ào ạt cho Pathet
Lào và Đệ Thất Hạm đội của Mỹ đã đậu ngoài Biển Đông. Cùng lúc này, Ngoại trưởng
Dean Rusk yêu cầu Thái Lan, Pakistan và Philippines, các thành viên trong khối
SEATO, chuẩn bị gởi quân tham chiến; kế hoạch này được tất cả đồng thuận.
Tuy nhiên, nguy cơ an ninh của Vịnh Cu Ba lên cao độ. Lý do chính là tháng 4 năm 1961, Kennedy chấp thuận đưa Lữ Đoàn
2506, du kích quân người Cuba do CIA huấn luyện, vào Vịnh Con Heo để lật đổ chế
độ Fidel Castro, nhưng nhưng thất bại. Dù kế hoạch là do Eisenhower chuẩn bị từ
lâu, nhưng Kennedy công khai chịu trách nhiệm về sự thất bại này. Ông bắt đầu
nghi ngờ khả năng của JSC và CIA và quan tâm giải pháp đàm phán là ưu tiên hơn
quân sự cho Lào.
Washington lo ngại nhiều hơn khi Nikita Chruschtschows, lãnh đạo Đảng và
nhà nước Liên Xô, chính thức lên tiếng sẳn sàng viện trợ vũ khí cho các phong
trào giải phóng dân tộc trong một bài diễn văn hùng hồn vào tháng 1 năm 1961.
Ông muốn nhắm trực tiếp tới giới lãnh đạo Bắc Kinh và gián tiếp tới Washington.
Tinh thần đối kháng về ý thức hệ trong nội bộ của hai Đảng Cộng sản anh em đã
lên cực điểm, mà việc Thủ tướng Chu Ân Lai rời khỏi Đại hội Đảng Cộng Sản Liên
Sô lần thứ XXII là một thí dụ.
Đến tháng 7 năm 1962, một hiệp ước đình chiến tại Lào thành hình, nhưng tỏ
ra quá mong manh. Hiệp ước quy định chính phủ Suvana Phuma là chính danh và các
các lực lượng quân sự không phải Lào phải ra khỏi lãnh thổ. Nhưng Bắc Việt và Mỹ
không tôn trọng hiệp ước này. Bắc Việt đã sử dụng lãnh thổ Lào để đưa quân xâm
nhập miền Nam và CIA có một chương trình chống du kích quân Cộng sản tại Lào. Trong
suốt thập niên 1960, tất cả các xung đột ngấm ngầm hai phe bộc phát thành một
cuộc chiến bí mật.
Theo quan điểm của Washington, Liên Xô ủng hộ Pathet Lào và Fidel Castro trong
khi Mỹ tạo khủng hoảng tại Cu Ba
và Berlin đều có quan hệ nhau và phương Tây đang lâm vào thế phòng thủ trên
chính trường quốc tế. Kennedy đã phản ứng bằng một loạt các sáng kiến về ngoại giao và an ninh.
Sáng kiến về ngoại giao và
an ninh
Về ngoại giao, ông quyết định gởi các Đoàn Chí nguyện Hoà bình (Peace Corps)
nhằm mục đích thực hiện các chương trình viện trợ phát triển kinh tế của Hoa Kỳ
và giới thiệu văn hoá phương Tây tới các nước Á, Phi và Mỹ La tinh. Lý tưởng
này của Kennedy đã nung nấu cho giới trẻ Mỹ qua bài diển văn nhậm chức: ”Đừng hỏi
tổ quốc đã làm gì cho bạn mà hãy tự hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc.” Tinh thần dấn
thân cao cả này thúc dục cho giới trẻ tham gia. Nhưng khi va chạm thực tế tại
các quốc gia chậm tiến, họ trở về trong một tâm thức tỉnh ngộ trước thực trạng
trên đất Mỹ và lên tiếng phê bình về các tình trạng nghèo đói, phân biệt chủng
tộc và bất công kinh tế xã hội.
Về an ninh, theo Tướng Taylor, gia tăng kinh phí quốc phòng và thay đổi
táo bạo chính sách an ninh không đem lại một giải pháp hữu hiệu. Mỹ cần đối ứng
mềm dẻo (flexible response) để làm giảm bớt các nguy cơ chiến tranh thế giới: mở
rộng các phạm vi hành động khác nhau và tuy theo tình hình xung đột địa phương Mỹ
sẽ có những phản ứng phù hợp hơn. Mỹ không sử dụng các lực luợng vũ trang quy ước
trong quy mô quốc tế, nhưng Mỹ lại không thể thay thế hay bổ sung cho việc giải
quyết các khủng hoảng chính trị địa phương mà Kennedy đã áp dụng tại Berlin vào
năm 1961 và Cu Ba vào năm 1962.
Thực ra, Mỹ và Nga cũng có một đối sách mềm dẻo như nhau, nhưng trong một
ý nghiã nội dung khác hằn. Chruschtschow có nói đến mềm dẻo trong bài diễn văn
tháng 1 năm 1961. Với những động lực ý thức hệ và mục tiêu chính trị khác nhau,
nên cả hai có các sách lược ngoại giao và phương tiện khác nhau tại các nước chậm
tiến.
Đối sách mới cho Việt Nam
Thất bại của Mỹ tại Cu Ba và Lào làm cho Kennedy thấy là vấn đề Việt Nam
càng khó giải quyết hơn vì trung lập hoá theo mô hình của Lào và tiếp tục trang
bị vũ khí bí mật như tại Cu Ba là không triển vọng. Các dân biểu đối lập thuộc
Đảng Cộng hoà cáo buộc Kennedy đã bán quyền lợi của nước Mỹ cho ngoại bang.
John Kenneth Galbraith, Đại Sứ Mỹ tại Ấn Độ, cũng lên tiếng phản bác.
Không quan tâm các chỉ trích này, nhưng dựa theo chính sách be bờ, lý
thuyết Domino và mức độ khả tín, Kennedy kết hợp đối sách mới cho Việt Nam
thành hai phạm vi hành động: viện trợ kinh tế và quân sự hoặc gởi quân tham chiến.
Dù theo phương tiện nào Mỹ giúp cho Việt Nam, thì những suy nghĩ về mục tiêu là
giống nhau: Mỹ đến như Mỹ muốn và Mỹ sẽ thắng cuộc.
Về mặt kinh tế, Kennedy thoả mản tối
đa yêu cầu của Tổng thống Diệm là viện trợ kinh tế tăng lên đến bốn lần.
Về mặt quân sự, Kennedy theo chính sách Bồ câu hơn là Diều hâu, khi che giấu
cuộc chiến bí mật tại Việt Nam nhằm ngăn cản bất ổn trong nội bộ Hoa Kỳ
và duy trì các giới hạn trong cuộc chiến giữa hai phe Cộng sản và Thế giới Tự
do.
Kennedy không cho đóng quân bộ
binh Mỹ tại Việt Nam theo như lời yêu cầu của vị Tham mưu trưởng Liên
quân. Ông giải thích cho Arthur Schlesinger là: “Binh sĩ Mỹ diễn hành, quân nhạc chào mừng và dân chúng reo hò, chỉ bốn
ngày sau, mọi sự sẽ quên lãng. Việt Nam sẽ yêu cầu chúng ta tiếp tục gởi quân.
Giống như chuyện uống một ngụm nước, sau khi uống, ta thấy ngay hậu quả là phải
uống tiếp.”
Kennedy quyết định đào
tạo nhiều cố vấn quân sự. Họ hiện diện một cách biểu tượng,
không được quyền tác chiến trừ phi bị tấn công, ngay cả
khi sự có mặt như thế dẫn tới trường hợp tác chiến, cho dù là với tư cách cố vấn
quân sự, chuyên gia, phi công hay là nhân viên căn cứ. Mỹ thay đổi cơ quan viện trợ thành United States Military Assistance
Command, Vietnam (MACV). Số lượng các cố vấn tăng từ tháng 12 năm 1961 là 3200
đến cuối năm 1962 là 9000. Mỹ đãm nhiệm các biện
pháp kiểm soát không lưu, không vận, trực thăng vận và trang bị vũ khí tối tân
cho QLVNCH.
Ngoài ra, Kennedy gởi các Đội Biệt Kích Mũ xanh để huy động cho các sắc
tộc thiểu số miền núi và tăng cường kiểm soát dọc theo biên giới Lào-Việt. Về
sau, Kennedy cho các Đội Biệt Hải thâm nhập và phá hoại miền Bắc.
Về mặt chính trị, Kennedy cử Johnson tới Việt Nam để tham dự một buổi lể
rầm rộ vào ngày 11 đến 13 tháng 5 năm 1961 và ca ngợi Tổng thống Diệm là một Winston Churchill tại Đông Nam Á. Trong lần gặp
gở này với Tổng thống Diệm, Johnson, theo lệnh của Kennedy, không đề cập đến việc
gởi bộ binh tham chiến. Theo một tài liệu khác, Johnson có đề cập với Tổng Thống
Diệm đế yêu cầu, nhưng bị cự tuyệt.
Tại Washington, giới hoạch định chính sách cũng chia thành hai khuynh hướng
Bồ câu và Diều hâu. Các nhân vật thân cận của Kennedy là Taylor, Rostow,
Galbraith và Harriman tin là hai luận điểm này sẽ đem lại giải pháp đúng đắn
cho tình thế.
Là Diều hâu, Taylor và Rostow đề nghị nên gởi thoạt đầu 5000 binh sĩ đến
miền Nam qua hình thức hoạt động trợ giúp thiên tai và thuần là lực lượng trừ bị.
Cả hai khuyến cáo thay đổi cơ cấu tổ chức
viện trợ Mỹ và gia tăng các biện pháp viện trợ quân sự; quân số Mỹ phải tăng viện
cho Bộ Quốc Phòng là 40.000 mới đủ để củng cố tinh thần binh sĩ của QLVNCH. Bộ
Quốc Phòng Mỹ cũng ý thức được là đối sách này sẽ gây khiêu khích cho Trung Quốc
và Bắc Việt.
Trong khi đó, Dean Rush và Bộ Ngoại giao Mỹ trung dung hơn khi cho là viện trợ quân sự là tất yếu
nhưng tránh việc đưa các binh sĩ tham chiến; các biện pháp cải thiện về tự do
dân chủ cho miền Nam sẽ hữu hiệu hơn. Mike Mansfield và Theodore
Sorensen cũng theo quan điểm là nên gây áp lực cho Tổng thống Diệm để cải cách chính trị.
Thuần túy là Bồ câu, Galbraith và Harriman đề xuất ngược lại: Mỹ phải trực
tiếp đàm phán với Liên Xô về một Hiệp ước đình chiến và Liên Hiệp Quốc phải can
thiệp trong việc tổ chức một cuộc tổng tuyển cử cho Việt Nam. Trong khi một giải
pháp mới cho Việt Nam chưa thành hình, thì nội tình miền Nam bất ổn liên tục.
Nội tình bất ổn.
Ngày 26 tháng 4 năm 1960, Khối
Tự do Tiến bộ (nhóm Caravelle), tập hợp 18 nhân sĩ trí thức ra tuyên ngôn tố cáo chính quyền độc tài, bất
lực và đòi cải tổ chính sách. Sau đó, bất đồng chính kiến đưa đến việc bốn Bộ trưởng Lâm
Lễ Trinh (Nội Vụ), Trần Trung Dung (Phụ tá Quốc Phòng), Trần Chánh Thành (Thông
Tin) và Nguyễn Văn Sĩ (Tư Pháp) từ chức.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, lực
lượng Nhảy Dù (Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán)
tấn công và bao vây Dinh Độc
lập đòi thay đổi lãnh đạo, nhưng thất bại.
11-11-1960: Binh chủng Nhảy Dù do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu
và một số đảng phái chính trị làm đảo chánh để
“... LẬT ĐỔ CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH TRỊ NGÔ ĐÌNH DIỆM“
Theo lệnh của Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam ra đời tại Tây Ninh, lên
tiếng thách thức tính
chính danh của chính phủ Ngô Đình Diệm, mà thực ra là làm con rối để Hà Nội xâm lăng miền Nam.
Các biện pháp viện trợ của Mỹ tỏ ra không hữu hiệu trong khi tình hình an ninh nông thôn suy
sụp, có nhiều nơi Việt Cộng kiểm soát 80% lãnh thổ. Ngày 10 tháng 10 năm
1961, ông Diệm phải ban bố “tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ”.
CIA cho biết là các hoạt động của MTGPMN đang gia tăng, mức độ tử vong hằng tháng cho binh sĩ
miền Nam lên khoảng 200 và số người bị thương lên hàng ngàn.
Trước tình thế nguy ngập, Kennedy quyết định gởi Tướng Taylor và Walt
Rostow đến Việt Nam vào tháng 10 năm 1961
để ước lượng tình hình. Cả hai kết luận là bi quan và khuyến cáo cần cải thiện. Lối trình bày
tình hình bi quan và đề xuất biện pháp lạc quan được lập đi lập lại trong tất cả
các phúc trình, dần dà thành một thông lệ làm việc báo cáo cho các cố vấn Mỹ.
Hai tháng sau, ngày 7 tháng 12 năm 1961,
Tổng thống Diệm thú nhận là “Việt Nam Cộng
Hòa đang phải đối đầu với một thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử” và gởi thư cho Tổng thống Kennedy
xin tăng thêm viện trợ quân sự.
Để đáp ứng tình thế, Kennedy đòi hỏi Tổng thống Diệm là Mỹ có quyền quyết
định chung trong các vấn đề về quân sự và chính trị. Tổng thống Diệm phản đối kịch
liệt vì lý do tinh thần độc lập dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Một thất bại
khác của Kennedy là trường hợp công bố Bạch thư của Hoa Kỳ vào tháng 12 năm
1961. Hoa Kỳ muốn xác quyết trước công luận là cuộc nổi dậy ở miền Nam không phải
là một cuộc đấu tranh của người dân nội địa mà là do ngoại xâm có vũ trang. Tổng
thống Diệm cho là chính phủ của Việt Nam Cộng Hòa không chịu trách nhiệm cho một
cuộc đấu tranh đẩm máu. Thái độ này làm cho Kennedy có dị biệt về quan điểm hợp
tác với Tổng thống Diệm. Một mặt, chiến tranh đang từng bước leo tháng, trong
khi mặt khác, hợp tác Mỹ-Việt chỉ đạt được trong mức độ giới hạn. Tướng Taylor
cho rằng chiến tranh Việt Nam đang dần dà trở thành một cuộc chiến tranh của Mỹ.
Ngày 27 tháng 2 năm
1962, hai phi công Nguyễn Văn Cử
và Phạm Phú Quốc ném bom dinh Độc Lập để mưu sát gia
đình họ Ngô: một cảnh báo an ninh đáng lo ngại
cho chế độ.
Hai chiếc Khu trục cơ Skyraiders của Không Quân VNCH do hai phi công
Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử đột kích từ sông Sài Gòn, chuẩn bị
ném bom Dinh Độc Lập, nơi ngự trị của ông Diệm và gia đình ông
bà Nhu.
Vụ nầy được cho là do Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ xướng.
Bất ổn nội tình làm cho một nghịch lý thành hình: Tổng thống Diệm không thể
áp dụng cùng lúc việc quân sự hoá và dân chủ hoá cho chế độ. Khi Tổng thống Diệm càng dập tắt các
tiếng nói của các thành phần đối lập ở thành phố, ở nông thôn đường lối
đấu tranh của MTGPMN càng thu hút hơn. Tình hình chuyễn
biến khó khăn khi chiến lược chống du kích chiến thất bại.
Chiến lược chống du kích chiến
thất bại
Một đối sách mềm dẻo của Mỹ trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam phải được
hiểu là áp dụng chiến lược chống du kích chiến (Counterinsurgency). Khái niệm này
là một sách lược chống Cộng đúng đắn cho Việt Nam, một tổng hợp các biện pháp chính trị, quân sự,
kinh tế và xã hội trong một nhịp điệu hoà hợp: đầu tiên là đem lại an ninh nông
thôn, kế tiếp là xây dựng một cơ cấu hành chính tạo được hiệu năng và thiện cảm
trong dân chúng và sau cùng sẽ là cải thiện đời sống vật chất. Cả ba biện pháp tương
tác nhau làm cho cơ sở Cộng Sản nằm vùng không còn có
cơ hội tiếp tục hoạt động mà kinh nghiệm tại Mã Lai và Philippines đã chứng
minh thành công.
Về mặt lý thuyết, VNCH và MTGPMN có chung một sách lược để từng bước
dành dân lấn đất tại nông thôn là cùng ăn, cùng ở và cùng làm. Sự khác biệt chủ
yếu là nhu cầu ưu tiên theo lối Mỹ. Là siêu cường, Mỹ thừa khả năng, nhưng không
đủ thiện chí và kiên nhẩn để theo đuổi một cuộc chiến tranh du kích dai dẳng
trong một phạm vi nhỏ và không quy ước. Mỹ có hoả lực tấn công mãnh liệt, đó là một chiến thuật hữu hiệu nhất trong giai đoạn này.
Thoạt đầu, chính phủ Ngô Đình Diệm giải quyết được xung đột các giáo
phái Cao Đài và Hoà Hảo, nội loạn Bình Xuyên thành công, đó là thí dụ điển hình
cho một chính quyền còn non trẻ nhưng đã có khả năng xây dựng đất nước. Lập Khu
Dinh điền và Trù mật cho gần 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư là quốc sách có kết
quả.
Đến năm 1960, tình hình kinh tế phát triển, xuất khẩu nông sản,
thặng dư ngân sách, xã hội dần đi vào ổn định, nhưng các biện pháp đàn áp tàn bạo các đoàn thể quốc gia
có bất dồng chính kiến và triệu chứng gia đình trị bất đầu thể hiện.
Ngày 3 tháng 3 năm 1962, Tổng thống Diệm ký Sắc lệnh
11/TTP ban hành việc phát động Quốc sách Ấp Chiến Lược cho nông dân miền Nam. Đến
tháng 10 năm 1963 đã có 11.847 Ấp Chiến Lược thành hình và quy tụ gần 8.900.000
nông dân về sinh sống.
Nhưng Quốc sách Ấp Chiến Lược không tồn tại trong lâu dài. Chính quyền địa
phương buộc dân chúng sống
trong khu vực kiểm soát với kẻm gai và chòi canh, phải từ bỏ ruộng đồng quen
thuộc và xa cách mồ mả tổ tiên là trái với truyền thống, nên không có thiện cảm
cho chính quyền.
Hơn nửa, Ấp Chiến Lược không đem lại an ninh tuyệt đối và lâu dài, mà
còn tạo tâm lý là bị kiểm soát và không nâng cao mức sống. Chương trình viện trợ
nông phẩm của Mỹ không tới
tay cho nông dân thụ hưởng vì chính quyền địa phương tham nhũng. Nguồn
cung cấp thực phẩm cứu trợ khổng lồ gồm lúa mì, bột mì, gạo, dầu ăn thông qua các Cơ quan Cứu trợ
Thiên Chúa giáo đến cha xứ ở các tỉnh, được đưa ra bán ở thị trường chợ đen.
Nhưng trầm trọng nhất là các báo cáo sai lạc về triển vọng phát triển của các cấp địa
phương.
Các cuộc kinh lý của Tổng Thống Diệm tại các Khu Trù mật
và Ấp Chiến Lược kiểu mẩu đưọc địa phương dàn đựng giả tạo, cố tình lừa dối ông Diệm và công
luận nên gây tác hại cho việc phản tuyên truyền của Cộng Sản và trong công luận
Mỹ.
Tại nhiều nơi, Cộng Sản không thể kiểm soát, nhưng còn duy trì các hoạt
động phá hoại lẻ tẻ, nên các tác dụng vết dầu loang không phát huy. Thất bại này không phải là tại các vùng châu thổ sông Cửu Long
đông dân, mà ngay trong vùng Cao nguyên thưa thớt, nơi CIA có nhiều ảnh hưởng. Thành
công của mô hình chiến khu Hải Yến ở Bình Hưng, Cà
Mau do cha Nguyễn Lạc Hoá lãnh đạo những người Hoa chống Cộng không thể áp dụng cho cả nước, mà chỉ là một ngoại lệ.
Thực ra, không phải chỉ có ông Ngô Đình Nhu, Cố vấn chính trị, là chịu trách nhiệm toàn bộ trong sự
thất bại này mà Cơ quan Viện trợ Mỹ tại miền Nam và Bộ Tham mưu Liên
Quân tại Washington có liên đới.
Đâu là nguyên nhân? Thay vì thuyết phục cho Tổng thống Diệm thấy là cần
có một chiến lược dài hạn nhằm thu phục nhân tâm trong chiến tranh chống du
kích, ông Nhu cho là chiến thuật ngắn hạn là ưu tiên và Cố vấn Roger Hilmans đề cao các biện pháp quân sự. Cơ quan MACV đồng thuận là các biện pháp đấu
tranh chính trị và cải thiện kinh tế cần giới hạn trong giai đoạn này. Ý tưởng
này được Tướng Paul D. Harkins chia sẻ khi huy động trực thăng vận để yểm trợ
các lực lượng bộ binh tại nhiều khu vực. Đây là một thí dụ cho thấy là phương
tiện dồi dào của Mỹ áp dụng cho khuôn khổ đấu tranh chống du kích chiến là
không phù hợp, nhất là khi thiếu nhân tâm. Các cuộc hành quân bộ binh có trực
thăng yểm trợ thành công vì đẩy lui du kích quân về các căn cứ địa, nhưng không thể hủy diệt toàn bộ Cộng
quân vì có nông dân còn bao che hoặc do thiện tâm hoặc bị bắt buộc.
Để huỷ diệt các mật khu, cuối năm 1962, Mỹ bắt đầu sử dụng bom Napalm và
vũ khí hoá học, nhưng tác
hại là làm nông dân thất thu nông sản và hủy hoại môi sinh. Chương trình
này được thực hiện trong một kế hoạch mang tên Ranch Hand kéo dài cho đến 8 năm
sau. Chất độc Da Cam Agent Orange được
sử dụng lần đầu tiên vào năm 1963 và lần lượt các tác haị về gây ung thư và biến
dạng, như được biết đến sau này.
Tăng cường hoạt động các cố vấn Mỹ không có nghĩa là khả năng chiến đấu của
QLVNCH được đương nhiên nâng cao. Trận Ấp Bắc vào ngày 2 tháng 3 năm 1963 thất
bại là bằng chứng. Các tài liệu giải mật về sau giải thích các diễn tiến trận đánh trái ngược nhau. Dù theo quan điểm nào của phe thua cuộc hay thắng cuộc, thì một luận điểm
chính đều được công nhận là dù
có nhiều ưu thế hoả lực hơn CSBV, QLVNCH
lệ thuộc vào các hoạt động yểm trợ trực thăng vận và phối hợp hành quân
Việt-Mỹ không nhanh chóng dễ dàng.
Trong khi Tướng Harkins đề cao thành công trong trận Ấp Bắc, lạc quan về
triễn vọng chiến thắng và không công bố hết các thiệt hại quân sự, David
Halberstam, phóng viên chiến trường của New
York Times và Neil Sheehan của cơ quan thông tấn UPI
tường thuật bi quan về tinh thần chiến đấu của QLVNCH và vai trò yểm trợ của Mỹ.
Trận Ấp Bắc là một trận tuyến khởi đầu giữa truyền thông phản chiến và chính
quyền Mỹ, gây bất lợi cho Mỹ và VNCH trong việc phát huy chính nghiã.
Để xoa dịu tình hình, Tổng thống Kennedy gây áp lực cho New York Times thay đổi nhiệm sở của
David Halbertstam, nhưng thất bại. Khi các thủ thuật của chính quyền bị phơi
bày thì công luận Mỹ càng nghi ngờ hơn, trong khi Mike Mansfield lên tiếng phê bình một vấn đề nghiêm chỉnh qua Phúc trình “Chúng ta có thể thắng Cộng Sản với Diệm
không?”
Câu hỏi này khó trả lời khi báo giới Mỹ có mặt tại Sài Gòn không thể kiểm
chứng các nguồn tin được cho là có thẩm quyền của các giới chức Mỹ. Ém nhẹm hay
nhỏ giọt tin tức làm cho cả hai phiá càng ít thân thiện trong hợp tác. Một ký
giả Mỹ đã tường thuật một trường hợp điển hinh: Hàng không mẩu hạm USS Core cập
bến Cảng Sài Gòn, các kỷ giả Mỹ ngồi trên sân thượng của khách sạn Majestic ngay
trung tâm thành phố và cách không xa bến cảng, có thể tận mắt chứng kiến các trực
thăng
lên xuống trên tàu. Khi báo giới yêu cầu xác nhận việc
cập bến, các giới chức Mỹ công khai nói là không thể bình luận về sự việc này.
Tin tức trái ngược dẫn đến các bình luận tương phản. Trong khi Tướng
Harkins lạc quan là Cộng quân sẽ bị dẹp tan vào cuối năm 1963 thì CIA bi quan
hơn vì xung đột giữa Saì Gòn và Washington lên cao. Các cố vấn quân sự Mỹ cho
là QLVNCH quá thụ động, Mỹ phải áp lực trực tiếp ông Diệm để giải quyết. Giới
ngoại giao cho là cần dân chủ hoá chế độ, biện pháp cải thiện này tại hậu
phương cũng quan trọng như chiến thắng nơi tiền tuyến. Ngược lại, ngay
tử giữa năm 1962, McNamara khai triển kế hoạch rút khỏi Việt Nam theo một thời
biểu nhất định.
Tin tức càng hỗn loạn thì áp lực của Mỹ càng nhiều. Khi không ai có thể
kiểm chứng nguồn tin nào là khả tín và giải pháp nào là khả thi, thì Tổng thống Diệm càng phản ứng gay gắt. Ông than phiền
với vị Đại sứ Pháp tại Sài Gòn là không hề yêu cầu lính Mỹ đến Việt Nam. Mối
quan hệ giữa hai chính phủ căng thẳng làm cho Washington mất thiện cảm. Trong khi
đó tình
hình miền Nam nguy cơ đến nổi ngày 31 tháng 3 năm 1962 ông Diệm phải gởi thông điệp cho 92 quốc gia
trên thế giới yêu cầu ủng hộ VNCH chống cuộc xâm lăng của Cộng Sản.
Ngay từ đầu năm 1963, Kennedy lâm vào một tình trạng tiến thoái lưởng
nan. Một mặt, Kennedy bắt đầu nghi ngờ về hiệu năng hoạt động của các cố vấn Mỹ
và QLVNCH, nhưng muốn tiếp tục cam kết bảo vệ Việt Nam. Mặt khác, ông muốn rút
quân ra khỏi miền Nam, nhưng lại cho mở nhiều cuộc đột kích tấn công miền Bắc. Làm
như vậy, ông muốn xoa dịu công luận, cứu vãn thanh thế ngoại giao của Mỹ và chờ
kết quả tái tranh cử trong năm 1964 mới chung quyết cho vấn đề Việt Nam. Mọi
suy đoán này được các tài liệu của CIA mới giải mật chứng minh ngược lại.
Ông bắt đầu lo âu trước các
biểu hiện độc tài, gia đình trị, tham
nhũng và đàn áp tôn giáo của Tổng thống Diệm. Khi được tin ông Nhu đơn phương tiếp xúc với
đối phương, ông dọa sẽ cúp hết các kinh viện cho miền Nam, tỏ ra kiên quyết hơn
trong chính sách khi cho là chính người Việt phải chiến đấu cho Việt Nam và Mỹ
không thể thay thế. Ông nói với
Robert Kennedy: “Người Việt ghét người Mỹ,
họ muốn chúng ta rút quân ra khỏi nước, nhưng chúng ta lại không muốn Việt Nam
rơi vào tay Cộng Sản và nhờ làm như thế mà chúng ta thắng cử.”
Nhưng từ muà hè năm 1963, nội tình miền Nam khẩn trương hơn: các phong đấu
tranh của Phật giáo và bất mãn của Quân đội tạo ra động loạn toàn xã hội
Bìa báo TỰ DO Xuân Canh Tý (1961), đăng hình một trái dưa hấu (tượng
trưng
cho miền Nam) đang bị 5 con chuột đục khoét (ám chỉ 4 anh em họ
Ngô và bà Nhu).
Vừa phát hành, báo bị tịch thu, tòa oạn bị đóng cửa, và nhóm Chủ
biên (trí thức di cư 1954)
bị ruồng bố bắt giam. Đụng đến chế độ Gia Đình Trị là bị đàn áp
liền.
Khủng hoảng Phật giáo
Phật tử thành phố Huế hân hoan đón mừng Phật đản Phật lịch 2527 năm 1963
và hy vọng cờ Phật giáo cũng được kéo lên để làm lể một cách trang trọng tương xứng. Trước đó, trong các lễ của Thiên Chúa giáo trong toàn quốc,
cờ tôn giáo và quốc kỳ được chính phủ khuyến khích
sử dụng. Gần nhất là để kỷ niệm Lễ Ngân Khánh, 25 năm ngày ông Ngô Đình Thục thụ phong linh mục và
nhậm chức Tổng Giám Mục Huế, cờ
Toà thánh Vatican được kéo lên để chào mừng.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, theo chỉ thị của Tổng thống Diệm,
Quách Tòng Đức, Đổng lý văn phòng Phủ Tổng thống, đã gửi công điện số 5159 ngày
6 tháng 5 năm 1963 yêu cầu các địa phương không được treo cờ tôn giáo ngoài cơ
sở. Căn bản pháp lý của việc
cấm đoán là Dụ số 10 thời Bảo Đại, một Nghị định do Thủ tướng Trần Văn Hữu ký ban hành ngày 6
tháng 8 năm 1950 mà hầu như rất ít được chính quyền sử dụng.
Vì cho là chính quyền dành
quá nhiều ưu đãi cho Công giáo, nên 3000 Phật tử Huế xuống đường chống đối.
Ngày 8 tháng 5 năm 1963, trong bài thuyết pháp tại lễ Phật đản ở chùa Từ Đàm, Thượng tọa Thích Trí Quang chỉ trích chủ trương kỳ
thị Phật giáo của chính quyền khi so sánh việc cờ Công giáo Vatican treo khắp
đường phố vào các dịp lễ. Nhiều Phật tử yêu cầu chính quyền cho phát thanh lại
bài thuyết pháp này, nhưng ông Ngô Ganh, Giám đốc Đài phát thanh Huế, không đồng
ý vì
nội dung còn được kiểm duyệt. Đang khi còn tranh cải trong cuộc biểu tình này, có 8 người chết và 15 người bị thương. Tổng thống Diệm giải thích cho việc tử thương là do
Cộng quân chịu trách nhiệm vì trà trộn khích động, nhưng dân chúng tin chánh
quyền là thủ phạm.
Theo điều tra sau này thì có ba vấn đề đuợc làm sáng tỏ. Một là, các
nhân chứng cho biết là chính quyền không hề sử dụng xe thiết giáp để đàn áp như
tường thuật, mà chỉ có xe tuần cảnh thường trực của cảnh sát địa phưong. Hai
là, lúc đầu binh sĩ chính quy được lệnh đàn áp nhưng họ từ chối. Do đó, chính lực
lượng Ðịa Phương Quân của Thiếu tá Ðặng Sỹ đã nổ súng. Là Phó tỉnh trưởng Nội an, nhưng ông Sỹ nhận khẩu
lệnh trực tiếp từ Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục. Bài thuyết pháp của
Thượng toạ Thích Trí Quang không thể hiện tinh thần bất bạo động của Phật giáo,
ngôn ngữ sử dụng là đấu tranh tuyên truyền của Cộng sản để đòi lật đổ chế độ,
nên không được phép phát thanh.
Để phản ứng, giới lãnh đạo Phật giáo đã ra yêu sách có năm nội dung: Chính
phủ thu hồi vinh viễn công điện triệt giáo kỳ của Phật giáo, cho Phật giáo hưởng
một chế độ đặc biệt như các Hội Truyền Giáo Thiên Chúa, chấm dứt t́ình trạng bắt
bớ và khủng bố Phật tử, Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo, bồi thưòng
cho nạn nhân và áp dụng hình phạt cho phạm nhân.
Tổng thống Diệm đã nhận ra nguy cơ của vấn đề khi tầm vóc chống đối sẽ
còn lan rộng và lâu dài, nhưng ông cố dùng biện pháp mạnh để dập tắt bằng cách bắt
giam nhiều vị lãnh đạo Phật giáo và kiểm soát nhiều chùa tại Huế và các thành phố khác.
Ngày 10 tháng 5 năm 1963, cuộc biểu tình chống
chính phủ đã có trên 10.000 người tham gia. Ngày 30 tháng 5 năm 1963, cảnh sát
và mật vụ vây chùa Xá Lợi tại Sài Gòn và các chùa Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang
tại Huế. Ngày 31 tháng 5 năm 1963 một số sinh viên
Viện Đại Học Huế
họp tại chùa Từ Đàm và kiến nghị chính phủ giải quyết
năm nguyện vọng của Phật giáo. Ngày 31 tháng 5 năm 1963,
tại Huế, một cuộc biểu tình và tuyệt thực lớn được
tổ chức. Tại Chùa Ấn Quang và Chùa Xá Lợi, Sài Gòn, 800 người tuyệt thực. Ngày
3 tháng 6 năm 1963, cảnh sát và quân đội vũ trang
chặn đường không cho đoàn biểu tình đến chùa Từ
Đàm, đoàn đồng loạt ngồi xuống đường cầu nguyện thì bị cảnh sát dùng lựu đạn
cay giải tán. Khi đoàn về tới Bến Ngự thì bị cảnh sát khác tấn công. Ngày 4 tháng 6 năm 1963 cảnh sát phong tỏa các chùa Từ
Đàm, Báo Quốc và Linh Quang. Quần chúng kéo lên
chùa nhưng bị ngăn lại. Đám đông đồng loạt ngồi xuống
đường cầu nguyện. Cảnh sát dùng lựu đạn cay tấn công làm 142 người bị
thương. Các chùa hoàn toàn bị cô lập và bị cắt điện nước. Chính quyền đưa tài liệu Cộng Sản
vào các chùa rồi lục soát để vu cáo các Tăng Ni và Phật tử theo Cộng Sản.
Tại các tỉnh, các chùa đều bị phong tỏa.
Tình hình ngày càng nghiêm trọng, nên Tổng thống Diệm đồng ý lập Ủy ban Liên Bộ để nghiên cứu nguyện vọng
của Phật giáo. Nỗ lực đối thoại hai phía không có kết
quả. Trong khi chính quyền vẫn duy trì quan điểm xiết chặt, vì thế Ủy Ban Liên Phái Phật giáo quyết định tiếp
tục đấu tranh.
Cuối cùng, sau nhiều nỗ lực hòa giải giữa Phật giáo và chính quyền, Tổng thống Diệm và Ḥoà Thượng Thích Tịnh
Khiết ký kết Thông Cáo Chung ngày 16 tháng 6 năm 1963, nội dung quy định về treo cờ tôn
giáo, sẽ tách các tôn giáo ra khỏi Dụ số 10 để chờ đạo luật về tôn giáo sẽ do
Quốc hội thông qua, chính phủ hứa thả các Phật tử bị bắt, bỏ luật khắt khe về
xây chùa Phật giáo và cứu xét việc trừng phạt các viên chức có lỗi.
Nhưng thực tế trái ngược. Ngày 18 tháng 6 năm 1963, Tổng thống Diệm gửi mật lệnh cho chính quyền
tạm thời nhượng bộ cho Phật giáo, chuẩn bị dư luận để phản công và thanh trừng
những nhân viên ủng hộ Phật giáo.
Làn sóng chống đối lan rộng khi Thượng Toạ Thích Quảng Đức tự thiêu vào
ngày 11 tháng 6 năm 1963 tại ngả tư Lê văn Duyệt và Phan Đình Phùng Sài Gòn trước
ống kính truyền hình của các ký giả ngoại quốc. Việc tự thiêu lan ra toàn quốc:
Ngày 4 tháng 8 năm 1963, Đại đức Thích Nguyên Hương tại Phan Thiết, ngày 13
tháng 8, Đại đức Thích Thanh Tuệ tại Huế, ngày 15 tháng 8 năm 1963, Ni sư Thích
Nữ Diệu Quang tại Ninh Hòa, ngày 16 tháng 8 năm 1963, Thượng tọa Thích Tiêu
Diêu tại Huế, ngày 25 tháng 8 năm 1963, nữ sinh Quách Thị Trang tử thương trong
cuộc biểu tình trước chợ Bến Thành, ngày 7 tháng 9 năm 1963, học sinh các trường
Trung học Gia Long, Trưng Vương và Võ Trường Toản bãi khóa, ngày 10 tháng 9 năm
1963, Thiền sư Thiện Mỹ tự thiêu trước Nhà thờ Đức Bà, ngày 5 tháng 10 năm
1963, Đại đức Thích Quảng Hương trước chợ Bến Thành. Cái chết của chư Tăng Ni
là ngọn lửa châm ngòi cho Phật giáo đấu tranh mạnh mẽ hơn.
Làn sóng chống đối lan rộng khi Thượng Toạ Thích Quảng
Đức tự thiêu
vào ngày 11 tháng 6 năm 1963 tại ngả tư Lê văn Duyệt
và Phan Đình Phùng Sài Gòn
trước ống kính truyền hình của các ký giả ngoại quốc.
Bà Ngô Đình Nhu cho hành động tự thiêu nầy chỉ là việc "nướng thịt sư."
[She
referred to the suicides as “barbecues” and told reporters,
“Let them
burn and we shall clap our hands.”]
Tình hình sôi động khi Bà Ngô Đinh Nhu tuyên bố khích động chống lại cuộc
đấu tranh. Ngày 1 tháng 8 năm 1963, khi trả lời phỏng vấn của đài CBS, bà tố
cáo các lãnh tụ Phật giáo đang mưu toan lật đổ chính phủ và tự thiêu chỉ là việc
"nướng thịt sư." Ngày 3
tháng 8 năm 1963, bà lên án Phật giáo vời lời lẽ thiếu lễ độ làm cho mối quan hệ
giữa chính phủ với Phật tử và người dân xấu đi.
Cao điểm của tình hình là việc chính phủ ra lệnh thiết quân luật và tổng
tấn công vào các chùa trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 8 năm 1963, bắt giam
1.426 Tăng ni và Phật tử. Hai vị lãnh đạo là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết và Thượng
tọa Thích Tâm Châu bị bắt. Thượng
tọa Thích Trí Quang cũng bị bắt, nhưng sau đó trốn được vào Tòa Đại sứ Mỹ.
Do đâu mà có lệnh thiết quân luật? Trước tin đồn sinh viên sẽ tổ chức tổng
biểu tình, ngày 18 tháng 8 mười tướng lãnh cao cấp đã họp để đối phó và quyết định
đầu tiên là quân đội sẽ yêu cầu ông Diệm tuyên bố thiết quân luật. Luật sẽ cho
phép quân đội đưa các chư Tăng Ni từ ngoại ô đang cư trú trong các chùa nội
thành Sài Gòn về chùa địa phương của họ, trước khi sẽ có biện pháp khác kế tiếp;
ông Diệm không tham khảo ý kiến nội các và chấp thuận.
Ngoài mọi dự liệu của quân đội, ngay trước khi chiến
dịch bắt đầu, ông Nhu
ra lệnh cho cắt đường dây điện thoại ở Ṭoà Đại sứ Mỹ
cũng như nhà của các viên chức Mỹ. Mấy ngày sau, họ mới có thể liên lạc được
nhau và biết mọi diễn biến. Cuối cùng, Ṭoà Bạch Ốc phổ biến một bản tuyên bố
lên án việc tấn công các chùa là vi phạm những cam kết theo đuổi chính sách ḥòa giải của chính phủ theo
Thông Cáo Chung ngày 16 tháng 6 năm 1963.
Không những biến động Phật giáo mà bất mãn của Quân đội cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc
đảo chính làm sụp đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà.
Nếu giới ngoại giao Hoa Kỳ hoàn toàn bất ngờ trước các diễn biến, thì
Quân đội lâm vào tình trạng bất mãn. Họ bị dân chúng đổ tội tấn công các chùa,
trong khi thực tế dù lệnh thiết quân luật là một trong các kế hoạch của Quân đội mà không
ai biết về việc ông Nhu trước đó đã ra lệnh cho Lực lượng Đặc biệt
gài vũ khí, chất nổ vào các chùa để vu vạ và bất ngờ tấn công các chùa. Bất mãn lên cao khi đài VOA đưa tin tấn công là do quân đội, một bản
tin do giới chức Mỹ đưa đi mà không kiểm chứng sự việc này là do Lực lượng Đặc
biệt. Tối
ngày 23 tháng 8 năm 1963, Trung tướng Trần Văn Đôn, Tham mưu
Trưởng Quân đội,
gặp Trung tá Lucien Conein, nhân viên CIA, để giải thích sự tình và yêu cầu Mỹ đính chánh.
Quân đội
bất mãn việc tiếm quyền của ông bà Nhu đã có từ lâu, nhưng trầm trọng nhất phát sinh sau khi ông Nhu liên lạc với Hà Nội. Ngày
25 tháng 8 năm 1963, Tướng Nguyễn Khánh nói với một
viên chức Mỹ rằng các tướng sẽ chống giải pháp trung lập hóa miền Nam. Đại sứ
Nolting còn cho biết thêm là ông Nhu đã
có nhiều cuộc gặp gở với Hà Nội trong mùa hè năm 1963 qua
trung gian Mieczylaw Maneli, Đại diện Ba Lan ở Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế ICC, Đại
sứ Pháp Roger Lalouette, Đại sứ Ấn, Ramchundur Goburdhun, Đại sứ Ý Giovanni
Orlandi và Khâm sứ Vatican Đức Ông
Salvatore d‘Asta. Nhưng vai trò chính là Pháp, vì Tổng Thống Pháp Charles de
Gaulle muốn trung lập hóa Việt Nam để Pháp trở lại: Đông dương trở thành viên
ngọc trong hào quang vĩ đại của nước Pháp. Kennedy xem ông Nhu đơn
phương thương thuyết với đối phương là phản bội lòng tin của Mỹ.
Thực
ra, Tướng Tôn Thất Đính cho tin là ngay từ đầu năm
1963 ông Nhu đã gặp Tướng Văn Tiến Dũng tại Huế,
ông Cao Xuân Vỹ xác nhận ông Nhu đã tiếp xúc với gặp Phạm Hùng và
Trần Độ tại Bình Tuy. Dù giới lãnh đạo Bắc Việt chỉ trích ông Diệm, nhưng đã
bày tỏ thiện chí hoà giải với miền Nam. Nhân dịp đầu xuân âm lịch 1963, họ đã gởi
tặng ông Diệm một cành đảo được chưng tại Dinh Độc lập. Bắc Việt hy vọng sẽ hỗ trợ ông
Diệm để yêu cầu người Mỹ ra đi. Trên căn bản này, miền Bắc sẽ trao đổi
than và các vật liệu kỹ nghệ khác để đổi lấy gạo và lương thực khác với miền
Nam. Đó là lý do vì sao Việt Cộng không tấn công quân sự vào cuối tháng 8 năm
1963. Ông Nhu cho các tướng lãnh biết thương thuyết với Hà Nội mà
không sợ Mỹ cắt viện trợ, vì cuộc chiến sẽ kết thúc. Tin tình báo cho biết là ông
Nhu hút nha phiến
và mang bệnh ảo tưởng; ngôn ngữ ông dùng cho thấy bị
bệnh tâm thần.
Chứng cớ ngày càng nhiều về sự bất mãn nghiêm trọng của Phật giáo và quân đội, đây là thời kỷ khủng hoảng nhất cho Tổng thống
Diệm kể từ ngày chấp chánh. Nhưng ông Diệm quan tâm việc trước mắt duy nhất là quân đội sẽ đảo chính,
tin đang loan truyền trong chính giới và quần chúng, trong khi tầm vóc khủng hoảng lan rộng đến phạm vi quốc tế và Liên Hiệp Quốc vào cuộc điều tra.
Liên
Hiệp Quốc vào cuộc
Phái đoàn Liên Hiệp Quốc đã đến Việt Nam từ ngày 24 tháng 10
năm 1963 đến ngày 3 tháng 11 năm 1963 để điều tra về các vi phạm tự do tôn
giáo. Bản Phúc trình A/5630 bằng Anh ngữ dài 93
trang của phái đoàn trình lên kỳ họp thường niên lần thứ 18 của Đại Hội Đồng với
tiêu đề chính là “Vi phạm nhân quyền ở Việt
Nam”
Nội dung của bản Phúc trình gồm có các điểm: Điều 44 Dụ số 10 là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng tôn giáo, khi tách riêng
Thiên Chúa giáo như một ngoại lệ. Việc bắt giam hàng loạt Tăng ni Phật tử không
chứng cứ là có thật. Chính phủ thừa nhận khoảng 300 người còn bị giam. Lãnh đạo
Phật giáo hoàn toàn hoạt động độc lập, không mang mục đích chính trị và bị Cộng
sản kích động. Những cáo buộc cho là Thượng tọa Thích Trí Quang đã sử dụng phong trào Phật giáo
như một công cụ phục vụ mưu đồ chính trị là việc quy chụp.
Trang Mục lục của Phúc
trình số A/5630 của
Phái đòan Liên Hiệp Quốc Điều tra Nam Việt Nam
(Report of the United Nations Fact-Finding Mission to South
Viet-Nam).
Xem chi tiết nội dung Phúc
trình nầy tại
đây:
Tin đồn đảo chính
Do đâu mà có tin đồn đảo chính? Ngày 23 tháng 8 năm 1963, Tướng Lê văn Kim, Tham Mưu Phó của Tướng Đôn, cho
Rufus Phillips, Giám đốc Ủy ban Hoa Kỳ về Bình định và Phát triển Nông thôn, biết là ấn tượng xấu mà
dân chúng gán cho quân đội sẽ làm khó khăn hơn trong việc chống Cộng. Nguyên
nhân mọi biến động là do việc tiếm quyền của ông bà Nhu.
Loại trừ ông bà Nhu ra khỏi guống máy thì quân đội và dân chúng sẽ đoàn kết với chính quyền. Tướng Kim thăm dò phản ứng của Mỹ về việc đảo chính xảy
ra: nếu Mỹ ủng hộ việc giữ lại ông Diệm và bỏ ảnh hưởng của gia đình họ Ngô và
bè phái là tốt.
Theo CIA, trong
giai đoạn này, có ít nhất mười nhóm âm mưu đảo chính của các tướng
tá trẻ. Chính áp lực này làm cho tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim và Dương Văn Minh phải quyết định hành động để
ngăn ngừa khủng hoảng trầm trọng hơn. Ý tưỏng này là
khởỉ đầu cho Mỹ can thiệp chính thức vào việc đảo chính. Từ đó, Lucien Conein, đặc
vụ của CIA, trở
thành đầu mối liên lạc với tướng Đôn. Tuy nhiên, cho tới giữa tháng 9 năm 1963,
chính phủ Mỹ khỏng chính thức lên tiếng ủng hộ hay chống đối với ý định đảo
chính của các tướng lãnh.
Phật giáo làm gì? Bằng chứng cho thấy là tất cả các vị lãnh đạo Phật giáo
không tham gia hay giữ một vai trò nào liên quan đến đảo chính. Đặc biệt nhất
là Thượng tọa Thích Trí Quang, một biểu tương của phong trào, không tiếp
xúc với ai bên ngoài Tòa Đại sứ Mỹ, nơi ông xin lánh nạn, trước và sau khi đảo
chính.
Chống đảo chánh thật và chống
Mỹ
Để đối phó, chính phủ ra lệnh thuyên chuyển các tướng lãnh trung thành nắm
quyền tư lệnh các Vùng Chiến thuật. Tướng Tôn Thất Đính từ Vùng II chuyển về
Vùng III, tướng Huỳnh Văn Cao về Vùng IV, tướng Nguyễn Khánh ra Vùng II, tướng
Đỗ Cao Trí ra Vùng I. Hai lực lượng tin cậy là Lực lượng Đặc biệt do Đại tá Lê
Quang Tung làm Tư lệnh và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng Thống do Trung tá
Nguyễn Ngọc Khôi làm Tư lệnh, được lệnh sẵn sàng đối phó đảo chính.
Ông bà
Nhu bày tỏ lòng căm
thù Mỹ qua báo chí Việt và Mỹ. Trong bài viết cho báo Times số tháng 9,
bà Nhu cho là báo chí Mỹ tường thuật sai lệch và chính giới Mỹ can thiệp thô bạo
nên làm cho tình hình nghiêm trọng. Bà cáo buộc Đại Sứ Lodge đang muốn loại bỏ
hoặc ám sát bà trong khi ông Diệm lệ thuộc vào bà để có sức chống
Cộng và các kẻ thù khác.
Trên
báo chí Việt ngữ, bà Nhu tố cáo CIA đang âm mưu đảo chánh. Có nhiều tin đồn cho
là bà Nhu dự tính sẽ ám
sát một số viên chức Mỹ. Denis Warner, một phóng viên người Úc cho tin
là ông Trần Văn Khiêm, em trai bà Nhu, có cho xem một danh sách cố vấn quân sự Mỹ sẽ bị ám sát qua một đơn vị cảnh sát đặc biệt. Đại
sứ Nolting nêu việc này với ông Diệm; ông Diệm phủ nhận và cho rằng ông Khiêm
có thể có một số trách nhiệm an ninh đặc biệt.
Ông Nhu tương kế tựu kế khi soạn kế hoạch đảo chánh giả để tiêu diệt mưu toan của phe đảo chánh thật. Theo dự kiến, sau lễ Quốc khánh ngày 26 tháng 10 năm 1963, tướng Đính sẽ cùng
đại tá Tung kết hợp thực hiện chiến dịch Bravo
qua hai giai đoạn
Giai đoạn Bravo 1: Hai ông Diệm
và Nhu sẽ ra Vũng Tàu lập một bộ chỉ huy có đầy đủ phương tiện liên lạc; đại tá
Tung sẽ gởi một vài đơn vị ra khỏi Sài Gòn, nói là đi hành quân, để lừa người Mỹ và các tướng đang mưu toan đảo
chánh; trong khi các lực lượng trung thành sẽ bố trí quanh Sài Gòn. Các đơn vị
cảnh sát tạo ra đảo chánh giả; một chính phủ cách mạng giả hiệu sẽ ra tuyên cáo
về chương trình mới.
Giai đoạn Bravo 2: Các tướng
Đính và Cao giả vờ như tái chiếm thành phố. Cuối cùng, hai ông Diệm và Nhu sẽ
trở về từ Vũng Tàu. Nhưng đảo chánh giả đã không xảy ra, vì tướng Đính đã ngã
sang phía Hội đồng Quân nhân Cách mạng vào những ngày cuối.
Mối quan hệ Việt-Mỹ trước
ngày đảo chính
Henry Cabot Lodge đến Sài G̣òn lúc 9 giờ 30 tối ngày 22 tháng 8 năm 1963 trong bầu không khí căng thẳng
và mù mịt thông tin. Roger Hilsman, Phụ tá Ngoại trưởng về Viễn Đông Sự vụ, Bộ
Ngoại giao, muốn Lodge phúc trình nội tình của Việt Nam: Ai thực sự nắm quyền,
Quân đội, ông Diệm hay ông bà Nhu và triển vọng của đảo chính.
24 giờ sau, Lodge trả lời là không có đảo chánh, nhưng có vẻ như quyền lực
của ông bà Nhu không suy giảm, tình hình vẫn chưa rõ ràng là thế lực nào nắm
quyền điều hành.
Sau đó, Lodge lần lượt cho biết thêm chi tiết: Ông
Nhu còn chủ động nằm quyền và được ông Diệm tín nhiệm. Ông Nhu sai lầm là không báo tin cho các tướng lãnh khi
tự ý sử dụng Lực lượng Đặc biệt tấn công các chùa. Các
tướng Đôn, Đính và Tung không có bất mãn chế độ. Chống
ông bà Nhu mà không có hậu thuẩn quân đội tại Sài Gòn là mạo hiểm. Nếu Đài VOA
không cải chính tin như quân đội yêu cầu sẽ làm cho dân chúng càng tin rằng
trách nhiệm bất ổn là do quân đội; chính quyền Mỹ không lên tiếng thì cũng có
nghĩa là theo lập trường này.
Lodge đã lần lượt có nhiều văn thư thảo luận
với các giới chức cao cấp khác trong chính quyền Mỹ về lập trường đảo chính. Chủ
đề chính là vai trò của ông Nhu, loại bỏ ông Nhu và duy trì ông Diệm hay loại bỏ
cả hai, ảnh hưởng của bất
ổn chính trị đến công cuộc chống Cộng và vai trò của Hoa Kỳ trong thời kỳ chuyển tiếp.
Trong phúc trình cho Washington, Lodge kết luận là ông Nhu đã tự sắp xếp để giử chức chỉ huy khi lợi dụng thiết
quân luật của Quân đội và sự chấp thuận của ông Diệm.
Ông Nhu sử dụng lực lượng
trung thành của mình để đàn áp Phật giáo và đánh lừa công luận. Mỹ không thể chấp nhận tình trạng này và phải tạo áp lực
loại bỏ ông Nhu và thay
đổi nhân sự có hiệu năng. Nếu thuyết phục ông Diệm
không có kết quả thì Mỹ sẽ không còn giử ông Diệm nửa.
Điện
văn 243 ngày 24 tháng 8 năm 1963 của
Washington trả lời cho Lodge và thông báo kết quả của các biện pháp mới được đồng
thuận: Mỹ không đồng ý việc chính quyền ông Diệm
đàn áp Phật giáo và ông Diệm phải cải
cách; Lodge có quyền tham khảo tại chổ về việc tìm bộ máy thay thế; tìm các tướng
nào thích hợp để thông báo sự yểm trợ của Washington; tin tức về việc quân đội
tấn công các chùa là sai lạc và đài VOA phải cải chính. Thoạt đầu, Tổng Thống lúc đó đang ở Hyannis Port và Rusk ở New York
không tán thành nội dung Điện văn 243. Nhưng cuối cùng, Tổng thống và Ngoại Trưởng thông qua. McNamara và McCone đều vắng
mặt vì đang nghỉ phép, chỉ có Gilpatric thuộc Bộ Quốc Phòng và Tướng Taylor của
JCS đồng ý. Sử gia Schlessinger cho là việc soạn thảo điện văn đồng thuận lập trường lật đổ trong hoàn cảnh vội vã vào cuối tuần và nội dung cân nhắc chưa
đúng mức.
Ngày
26 tháng 8 năm 1963
Lodge trình ủy nhiệm thư lên Tổng thống Diệm trong khi đài VOA đưa tin là Mỹ có thể cắt giảm viện trợ nếu ông Diệm không làm
sáng tỏ vụ tấn công các chùa và loại bỏ các viên chức chịu trách nhiệm. Sau đó, do áp lực của Lodge, đài VOA đính chánh việc Mỹ
cắt viện trợ.
Tin tức và nhận
định tình tình hoàn toàn trái ngược nhau. Đại sứ Lodge nói rằng có 10 âm mưu đảo chánh và Mỹ
không có cách nào ngăn chận, nhưng chỉ
nhóm các tướng lãnh là có kế hoạch khả thi. Ngày 14 tháng 9 năm 1963, Bộ
Ngoại Giao Mỹ tin là chế độ nhà Ngô phải bị lật đổ, trong khi Bộ Quốc Phòng Mỹ
và CIA không cùng quan điểm này
Ngày 16 tháng 9
năm 1963, Kennedy chỉ thị một pháí đoàn sang Việt Nam để khảo sát tình hình trước khi có một đồi
sách thích hợp. Ngày 23 tháng 9 năm 1963, McNamara, Tướng Taylor và một số viên
chức cao cấp sang Việt Nam xem có thể giữ Tổng thống Diệm không. Ngày 2 tháng
10 năm 1963, phái đoàn báo cáo cho Kennedy rằng Mỹ phảỉ áp lực ông Diệm cải tổ triệt để và loại trừ ông
bà Nhu.
Sau
đó, Đại sứ Lodge xác nhận thêm là trực tiếp liên hệ với các tướng lãnh và cho biết
là Mỹ sẳn sàng giử ông Diệm, còn việc giử ông Nhu là do các tướng quyết định.
Ông Diệm không biết các cuộc gặp này.
Trong
khi đó, Richardson của CIA báo cáo về Washington là ông Diệm sẽ không loại trừ ông Nhu và Mỹ cần tìm hiểu vấn đề quyết tâm và đoàn kết
của các tướng lãnh. Mỹ cũng sẽ ngưng tiếp xúc với ông Diệm cho đến khi tình
hình sáng tỏ hơn.
Vào
ngày 30 tháng 10 năm 1963, trong một điện văn gửi cho Đại sứ Lodge, Toà Bạch Ốc chỉ thị rằng “Chúng ta không thể
chấp nhận kết luận rằng chúng ta không có sức mạnh để trì hoãn hay khuyến cáo hủy
bỏ cuộc đảo chánh.” Một điện văn kế tiếp
ra lệnh Lodge vận động các
tướng lãnh hủy bỏ cuộc đảo chánh, nếu Lodge không tin là cuộc đảo chánh
sẽ thành công, yêu cầu Lodge “tuyệt đối không liên hệ gì tới đảo chánh và giữ
thái độ trung lập“.
Trong
thời điểm này, phản ứng của chính giới và công luận người Việt khá mạnh mẻ. Ông
Trần văn Chương, Đại sứ Việt Nam tại
LHQ, bà Thân thị Nam Trân, Quan sát
viên tại LHQ, thân sinh bà Nhu, đồng loạt từ chức và lên tiếng phản đối. Giáo
sư Vũ văn Mẩu, Bộ trưởng Ngoại giao,
Khoa trưởng Đại học Luật khoa từ chức. Sinh
viên đại học Y khoa và Dược khoa xuống đường ủng hộ. Biểu tình tiếp tục lan đến các
trường trung học và chính phủ quyết định đóng cửa Đại học Sài gòn.
Diễn biến đảo chánh
Ngày 2 tháng 10 năm 1963 tại Nha Trang,
Tướng Đôn cho Conein biết là Quân đội quyết định đảo chính và Tướng Minh sẽ gặp Conein để thảo luận chi tiết.
Trong hai ngày 5 và 10 tháng 10 năm 1963, Tướng Minh gặp
Conein ở trại Lê Văn Duyệt; hai người dùng tiếng Pháp. Tướng Minh cho biết
là đối với anh em ông Diệm, Quân đội có ba chọn lựa: thứ nhất là ám sát vợ chồng
ông Nhu và ông Cẩn; thứ hai bao vây Sài Gòn làm áp lực đòi ông Diệm cải tổ; và
thứ ba là đánh tan Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng Thổng
phủ rồi mới gặp ông Diệm để đưa yêu sách. Trong cả ba trường hợp, Quân đội đều
duy trì ông Diệm làm nguyên thủ quốc gia, chỉ triệt tiêu quyền lực của gia đình
ông Diệm. Tướng Minh không yêu cầu Mỹ yểm trợ
mà chỉ yêu cầu không ngăn chận cho cuộc đảo chính diễn tiến và sau ngày
cách mạng thành công, xin Mỹ tiếp tục chương trình viện trợ để miền Nam chống Cộng
và xây dựng dân chủ.
Ngày 28 tháng 10 năm 1963 Tướng Đôn tiếp xúc chính thức đầu tiên với ông Lodge tại
phi trường Tân Sơn Nhất trong buổi tiễn ông Diệm đi Đà Lạt, ông Lodge được ông
Diệm mời tháp tùng trong chuyến kinh lý này. Đại sứ Lodge cho Tướng Đôn biết là Mỹ
ủng hộ cho Quân đội thay đổi chế độ và muốn biết thời điểm phát động. Nhưng Tướng
Đôn từ chối và cho rằng thuộc về nội bộ của người Việt. Ngay tối hôm đó,
Conein đến gặp tướng Đôn và muốn biết chi tiết để có những biện pháp an ninh
cho các cơ sở và nhân viên, một lần nữa tướng Đôn từ chối và chỉ hứa cho biết
trước 4 giờ khi khởi động. Thực tế cho thấy, Tướng Đôn chỉ báo tin
cho phía Mỹ biết trước đó 4 phút.
Ngày 29 tháng 10 năm 1963 tướng Đính chuẩn bị cho cuộc đảo
chính. Ông ra lệnh đưa Lực lượng Đặc biệt, đơn vị trung thành với chính phủ, đi
ra vùng Hố Bò, Củ Chi xa Sài Gòn truy quét Cộng sản, để họ không thể ứng cứu.
Sáng ngày 31 tháng 10 năm 1963, Tướng Đính ra lệnh cấm trại
toàn thể quân đoàn Vùng III Chiến thuật và cho một đơn vị tới Bắc Mỹ Thuận tịch
thu hết tất cả tàu bè để cản đường của Quân đoàn IV về thủ đô.
Chiều 31 tháng 10 năm 1963, Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư lệnh Sư đoàn 5 cho các đơn vị án ngữ ở ngã ba xa lộ Biên Hòa và Quốc lộ 15 đi Vũng
Tàu; các đơn vị của Đại tá Nguyễn Hữu Có án ngữ tại Phú Lâm, con đường từ Lục tỉnh
về Sài gòn, các đơn vị của Thiếu tướng Mai Hữu Xuân án ngữ các con đường miền
Tây; các đơn vị của Đại tá Vĩnh Lộc án ngữ các con
đường khác. Do đó, các trục lộ chính tiến quân về thủ đô bị phong toả.
Trong cuộc họp buổi tối tại Bộ Tổng Tham Mưu để thành lập Hội
Đồng Quân Nhân Cách Mạng, Tướng Minh đề nghị tất cả tướng lãnh tham dự đảo chính. Các Tướng Lê Văn Kim, Tôn Thất
Đính, Nguyễn Hữu Có, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Khánh, Trần Ngọc Tám, Lê Nguyên Khang và
nhiều tướng lãnh khác hưởng ứng, trừ 5 người phản đối đó là Đại tá Cao Văn Viên
từ chối tham gia, nhưng sau đổi ý; 4 người khác phản đối gồm có Trung tá Nguyễn
Ngọc Khôi, Thiếu tá Nguyễn Đức Xích, Đại tá Lê Quang Tung, Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền.
Đến 10 giờ đêm, Tướng Minh ra lệnh cho tất cả các tướng tá có mặt xưng danh để
được phát thanh trên đài Sài Gòn.
Cao điểm
Lúc 12 giờ 10 ngày 1 tháng 11 năm 1963, Tổng thống Diệm được
tin đảo chính; ông và ông Nhu xuống hầm bí mật trong dinh Gia Long và liên lạc
với các Tướng Khiêm và Đính yêu cầu ứng cứu.
Vào 1 giờ 30 chiều, Tướng Mai Hữu Xuân chặn được đơn vị của Lực
lượng Đặc biệt đóng tại Tân Sơn Nhất, đồng thời các ngả đường tiến vào Sài Gòn.
Trung tá Nguyễn Cao Kỳ nắm quyền Tư
lệnh Không quân cho phi cơ lượn trên không phận Sài Gòn để uy hiếp các lực lượng
chống đảo chính. Lữ đoàn Thủy quân lục chiến của Thiếu tá Nguyễn Bá Liên chiếm
Tổng nha Cảnh sát. Sau khi đơn vị của Đại tá Phạm Ngọc Thảo chiếm được Đài Phát thanh Sài Gòn, Hội Đồng Quân
Nhân Cách Mạng lên đài tuyên bố lý do lật đổ chế độ, kêu gọi ông Diệm đầu hàng,
hứa cho xuất ngoại và kêu gọi đồng bào hậu thuẫn cho cuộc đảo chính.
Khoảng nửa đêm, tất cả các quân đoàn trên toàn quốc đã nằm dưới
sự kiểm soát của phe cách mạng, trừ dinh Gia Long còn nằm trong tay quân Phòng
Vệ Phủ Tổng thống, đang tìm cách phản công để tái chiếm Đài Phát thanh, nhưng
không thành công, rạng sáng ngày 2 tháng 11 buông súng đầu hàng.
Ông Diệm gọi điện thoại cho Tướng Đôn đề nghị đối thoại với các
tướng lĩnh để "tìm ra con đường củng
cố chế độ". Tướng Đôn trả lời là sẽ bàn với các tướng khác về đề nghị
của Tổng thống, nhưng có lẽ đã quá trễ. Phe đảo chính hành động là để "đáp lại nguyện vọng của nhân dân, các tướng
đã đề nghị cải cách nhiều
lần nhưng không được đáp ứng.“
Lúc 4 giờ 30 chiều, ông Diệm gọi điện thoại cho đại sứ Mỹ
Lodge để thăm dò thái độ của người Mỹ. Ông đề nghị sẽ thực hiện các yêu cầu của
người Mỹ. Lodge khuyên ông
Diệm từ chức và lưu vong như mong muốn của phe đảo chính. Ông Diệm cho rằng người
Mỹ đã bật đèn xanh với âm mưu đảo chính của các tướng lĩnh.
Đến 6 giờ 30, ông Diệm gọi lại Tướng
Đôn, nhưng Tướng Đôn báo là phe đảo chính đòi hỏi hai anh em ông Diệm phải rời khỏi nước. Ông Diệm đặt
điều kiện là phải cho ông ra đi với các nghi thức danh dự nhưng bị từ chối.
8 giờ tối Tổng thống Diệm và ông Nhu cùng 2 sĩ quan tùy viên,
Đại úy Đỗ Thọ và Đại úy Bằng, trốn về nhà Mã Tuyên, Tổng Bang trưởng của người Hoa ở Chợ Lớn.
Khoảng 10 giờ đêm, từ nhà Mã Tuyên, ông Diệm gọi điện thoại
cho Tướng Minh và cho biết bằng lòng ra đi nhưng chỉ với nghi lễ quân cách. Ngược
lại, Tướng Minh cho ông âm thầm ra đi và nặng nề lên án chế độ là độc tài, gia
đình trị, tham nhũng, thối nát làm cho quê hương nguy biến, dân chúng điêu linh
và quân đội bất
mãn và thất trận.
Trong cuộc điện đàm lần cuối này, ông Diệm tức giận và khiển trách ông Minh. Theo giải thích của Tướng Đỗ Mậu, cả
hai không còn dùng ngôn ngữ tương kính cho nhau, đó là lý do duy nhất mà
Tướng Minh không còn khoan dung với ông Diệm nữa. Quyết định thay đổi này là không ai biết. trong khi trước
đó, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đồng thuận cho việc giử ông Diệm và có thông
báo cho phía Mỹ biết.
Sáng sớm ngày 2 tháng 11, từ nhà Mã
Tuyên, hai ông sang dự thánh lễ tại nhà thờ Cha Tam. Tại đây, Tổng thống Diệm
ra lệnh cho Đỗ Thọ gọi về Bộ Tổng tham mưu thông báo là đang ở Nhà thờ Cha Tam.
Khoảng 7 giờ sáng
ngày 2 tháng 11, tướng Mai Hữu Xuân, Đại tá Dương Ngọc Lắm, Đại tá Nguyễn Văn
Quan, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và Đại úy Dương Hiếu Nghĩa và Đại úy Phan Hòa Hiệp
tới nhà thờ cha Tam để đón hai ông. Họ đi với 3 chiếc xe Jeep, 2 chiếc Thiết giáp M113, 2 chiếc GMC chở đầy lính vũ
trang. Đại tá Lắm tuyên bố áp giải hai ông lên xe thiết giáp M.113. Ông Nhu phản
đối cung cách áp giải và đòi liên lạc với
tướng Đôn và Đính nhưng bị từ chối. Trên
đường về Bộ Tổng tham mưu, Tổng thống Diệm và ông Nhu
bị Đại úy Nguyễn Văn Nhung hạ sát theo lệnh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. [Cho đến nay, chưa có tài liệu Việt Nam hay
ngoại quốc khả tín nào xác định được một cá nhân nào, hay những nhân vật nào,
hay toàn bộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã ra lệnh nầy. Tất cả mọi thông tin
hiện hữu đều chỉ là giả thiết hoặc đồn đoán – Xem thêm phần Kết Luận của bài viết
nầy – Blog HBG]
Khoảng 10 giờ ngày 2 tháng 11, Đài phát thanh Sài Gòn loan một
tin vắn tắt: "Anh em ông Diệm bị bắt tại Chợ Lớn và đã tự tử!". Thi
hài anh em Tổng thống Diệm được âm thầm an táng trong vòng thành Bộ Tổng tham
mưu, về sau cải táng ra Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi và hiện nay đưa về Bình Dương.
Ngày 3/11/1963, nhân dân thủ đô Sài Gòn tràn ra
đường, vui mừng chăng biểu ngữ
"... NHIỆT LIỆT ỦNG HỘ CUỘC CÁCH MẠNG CỦA
QUÂN ĐỘI“
Cơ hội cho Kennedy tái lập
hoà bình?
Xúc động trước cái chết của Tổng thống Diệm và Bào Đệ, Kennedy cho biết việc
mưu sát của phe đảo chính là biến cố thương đau ngoài dự liệu ngoại giao của Mỹ.
Kenneny bị mưu sát vào lúc 12 giở 30 ngày 22 tháng 11 năm 1963 tại Dallas. Vấn
đề cho các sử gia về sau nhìn lại là lúc còn sống, Kennedy có cơ hội để tái lập
hoà bình cho Việt Nam không. Câu trả lời chung là có,
nhưng Kennedy không nhận ra hoặc thiếu kiên quyết hành đông
Giới quân sự lập luận là MTGPMN còn trong thời kỳ phôi thai, muốn tiêu diệt VNCH phải đấu tranh toàn diện, cho dù Quốc
sách Ấp Chiến Lược có nhiều sai lầm, gây bất mãn cho nông dân. Do đó, giải pháp
là Mỹ tiến hành chiến dịch Bình định Nông thôn và hành quân bộ binh ngay từ
đầu, khi MTGPMN bắt đầu phát triển cơ sở, thay vì để cho Johnson thực hiện về
sau. Kennedy không kết hợp các thành quả xây dựng
này khi không nhận ra cơ hội đã đến. Gởi 16300 cố vấn quân sự sang Việt Nam vào tháng Mười Một năm 1963
(số thương vong là 78), dĩ nhiên là không đủ để đáp ứng cho tình hình. Trở ngại
chính một phần là do phản ứng đầy tự ái dân tộc của Tổng Thống Diệm, một phần
do thiếu kiên quyết của Kennedy gây áp lực triệt để cho Tổng thống Diệm thực
thi. Tài liệu giải mật cho thấy, Kennedy không còn tin khả năng của ông Diệm và chỉ muốn rút quân sau khi thắng cử.
Giới ngoại giao nhận ra rằng tình hình quốc tế biến chuyển thuận lợi, ngay
trong muà hè 1963 một giải pháp bằng hoà đàm cho Việt Nam là hiện thực.
Sau vụ suýt đụng độ tại Cu Ba vào tháng Mười năm 1962, mọi lo sợ về hai
hệ thống bom nguyên tử có khả năng huỷ diệt của Mỹ và Liên Xô không còn đe doạ
và đường giây điện thoại đỏ giữa Washington và Moscow đựợc thành lập. Vào tháng
Sáu năm 1963, Mỹ ký với Liên Xô một thoả ước ngưng sử dụng và thử nghiệm vũ khí
nguyên tử; vào tháng Tám, Mỹ ký với Anh một thoả hiêp tương tự. Hai thành quả
ngoại giao này của Mỹ cho phép kết luận là đấu tranh trực diện giữa siêu cường
quốc tế là đã tránh được và các xung đột vũ trang tại địa phương có thể giải
quyết bằng hoà đàm.
Kennedy không nhận ra thuận lợi này mà luôn bị ám ảnh chiến tranh Việt
Nam sẽ trầm trọng hơn khi Nga-Hoa hợp tác. Đây là một kịch bản đã luôn ám ảnh cho
Kennedy, nhưng đã không bao giờ xảy ra. Một lý do khác là bang giao Pháp-Mỹ
đang bắt đầu căng thẳng, chủ trương Trung lập hoá Đông Dương của De Gaulle
không thu hút công luận Mỹ và Việt và nhất là tranh chấp trong khối NATO là
nguyên nhân dẫn đến các xung đột khác về sau.
Nhưng theo MacNaughton và McNamara, Kennedy không thảo luận một chủ đề
cơ bản: Sự cam kết của Hoa Kỳ tại miền
Nam còn có ý nghiã gỉ? Vấn đề động lực thúc đẩy cho Mỹ gắn bó với Việt Nam cần được làm sáng tỏ hơn. Việt Nam không
là một thị trường thu hút về tiêu thụ hay cung cấp nguyên liệu mà là nơi Mỹ thể
hiện lý tưởng về việc xây dựng quốc gia, thành trì chống Cộng và uy tín ngoại
giao đối với thế giới.
Theo MacNaughton ước lượng: những nỗ lực của Mỹ gồm có 60% là cứu vớt uy
tín của Mỹ trong lĩnh vực ngoại giao, 30% là ngăn chận sự xâm chiếm lãnh thổ của
Trung Quốc và CSBV tại miền Nam và 10% là lo nâng cao mức sống cho dân miền
Nam.
Về sau, khi nhìn lại toàn bộ bối cảnh xung đột, McNamara cho rằng:
"Chúng ta đã không nêu lên năm vấn đề
quan trọng: Sụp đổ miền Nam có kéo theo sự sụp đổ của Đông Nam Á và đe doạ cho
an ninh phương Tây không? Một loại chiến cuộc nào, quy ước hay du kích, sẽ
thành hình tại miền Nam? Khi Quân đội Mỹ hợp tác với miền Nam, liệu chúng ta có
thằng không? Chúng ta có biết trả lời các câu hỏi này trước khi quyết định gởi
quân đến miền Nam không?”. Dĩ nhiên, Kennedy và các tổng thống kế nhiệm đã
không nghiêm túc trả lời các câu hỏi này, kể cả McNamara.
Hơn ai hết, McNamara không am tường văn hoá Việt Nam và thể hiện tương
kính khi đến Việt Nam; ông thản nhiên mặc quần ngắn mùa hè trong khi chính quyền
tiếp đón theo lể nghi quân cách dành cho một quốc khách và mang quốc phục trang
trọng. McNamara thể hiện tinh thần đạo đức giả khi trong nội tâm không tin Mỹ sẽ
thắng cuộc, nhưng ngoài mặt ông đã đến từng các Sư đoàn và các tỉnh của VNCH tổ
chức các
buổi lể và hô hào chung là chúng ta sẽ chiến thắng.
Thái độ này đã bị chỉ trích sau khi sách của ông ra đời.
Kết luận
Lịch sử thường
được viết bởi phe thắng cuộc. Việt Nam cũng không thể thoát khỏi ngoại lệ này. Nhưng
55 năm trôi qua, với các tư liệu mới, ba sự thật của cuộc chính biến 1963 đã phơi
bày. Do đó, đã đến lúc chúng ta cần có cái nhìn khác hơn với các tuyên truyền của
phe thắng cuộc.
Một là, chế độ miền
Nam làm tay sai cho đế quốc Mỹ, ông Diệm được Mỹ trọng dụng và cho phép Mỹ xâm
lăng. Tài liệu của Hower Jone, Robert McNamara, John M. Newman, James K.
Galbraith và
CIA chứng minh ngược lại: Tổng
thống Diệm không được Eisenhower và Kennedy tín nhiệm trong vai trò lãnh đạo đất
nước; ông Diệm phản đối gay gắt việc Mỹ can thiệp, vì lý do tinh thần độc lập
dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Ông bà Nhu chống Mỹ công khai. Ông Nhu đơn
phương thương thuyết với miền Bắc gây hoang mang cho chính giới Mỹ và các tướng
lãnh miền Nam. Miền Bắc quan tâm đến việc trao đổi hàng hoá của miền Nam hơn là
tấn công quân sự.
Hai là, hai
chính sách của Kennedy và Johnson liên tục trong quyết định leo thang chiến
tranh. James Galbraith và John M. Newman chứng minh ngược lại: Kennedy quyết định rút quân
khỏi miền Nam. Sau cuộc đảo chính, Kennedy tái xác định mục tiêu "đưa người
Mỹ ra khỏi nơi đó". Trước khi công du tại Texas, Kennedy yêu cầu Mike
Forrestal xem lại toàn bộ biện pháp để Mỹ có thể rút khỏi Việt Nam. Do đó,
Kennedy không có ý chí leo thang chiến tranh. Ông bị mưu sát và kế hoạch đều không thành.
Ba là, Mỹ chủ
mưu đảo chính. Hồi ký của Tướng Đôn và Đỗ Mậu chứng minh ngược lại: chế độ của
Tổng thống Diệm là độc
tài, gia đình trị và tham nhũng, làm cho quê hương nguy biến, dân chúng điêu
linh và quân đội bất mãn và thất trận. Đàn áp Phật giáo và bất mãn của
Quân đội là hai nguyên nhân chính dẫn đến việc đảo chính, mục tiêu Quân đội là
để "đáp lại nguyện vọng của nhân dân“. Tài liệu giả mật của CIA cho thấy
là Mỹ yêu cầu Lodge “tuyệt đối không liên
hệ gì tới đảo chánh và giữ thái độ trung lập.“
Như vậy, Quân đội quyết định hoàn toàn độc
lập và ý kiến tương thuận của phía Mỹ chỉ hỗ trợ, Mỹ không chủ mưu đảo chính và
quyết định sát hại hai ông Diệm và ông Nhu. Gần đây, Tổng thống Donald
Trump cho biết sẽ lần lượt cho giải mật các tư liệu về cái chết của Kennedy, mà
qua đó có thể hé lộ ít nhiều bí ẩn liên quan đến cái chết của Tổng thống Diệm.
Dĩ nhiên, vấn đề còn cần thời gian để trả lời.
Dù vậy, hai bí ẩn chính vẫn còn tồn đọng là vai
trò của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và Thượng toạ Thích Trí Quang.
Một là Quân đội
đồng thanh quyết định giử ông Diệm trong vai trò nguyên thủ quốc gia, chỉ loại
trừ gia đình họ Ngô ra khỏi guồng máy chính quyền. Vào giờ chót, hai anh em ông
bị hạ sát. Tại sao có thay đổi quyết định đột ngột? Ai quyết định và thủ tục đồng
thuận? Tướng Minh hay Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng? Người trong cuộc phải có
can đảm lên tiếng. Nhưng Tướng Minh không công khai trình bày và các tướng lãnh
khác chỉ suy đoán các diễn biến. Do đó, cho dù Tướng Minh và các tướng lãnh
khác trong Hội Đồng đã ra đi và Tướng Trần Thiện Khiêm còn im tiếng, động cơ
thúc đẩy cho quyết định vội vàng này còn cần tìm hiểu,
Hai là vai trò của
Thượng toạ Thích Trí Quang trong phong trào Phật giáo đấu tranh mà nhiều sách vở
đã bàn đến: Cộng Sản hay CIA? Lật đổ chế độ hay bảo vệ đạo pháp? Thành công
trong năm 1963, thất bại trong năm 1966 và thất sủng sau năm 1975? Là người
trong cuộc, Thượng toạ phải lên tiếng biện minh cho hành động của mình. Trong
sách Trí Quang tự truyện (2011), Thượng toạ không soi sáng các vấn đề mà độc giả
quan tâm. “Tôi không biết gì, không có ý gì nên cuộc đời tôi không vẫn hoàn
không“. Đó là kết luận né tránh của tác giả và gây hoàn toàn thất vọng cho độc
giả.
Vấn đề không phải
là Tướng Minh và Thượng toạ Thích Trí Quang có công hay tội với hậu thế, quyết
định là sáng suốt hay sai lầm, nhưng tại sao cả hai có can đảm quyết định gây
vang động trong lịch sử, mà lại thiếu can đảm trình bày động cơ cho hành động của
mình, một ý thức trách nhiệm, đó là một bí ẩn còn lại cho những người thiết tha
với sự thật của lịch sử.
***
Cùng một tác giả sách đã xuất bản tại Amazon: