NHẬN ĐỊNH VỀ ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
Trích đoạn từ Chương 10, tác phẩm “Việt Nam 1945-1995”
của Giáo sư Lê Xuân Khoa
Lê Xuân Khoa là một nhà giáo. Ông bắt đầu nghề dạy học ở Hà Nội năm 1950. Từ năm 1953, ông dạy tại trường trung học
Petrus Ký, Sài Gòn. Sau khi học về Triết học tại Ðại học Sorbonne, ông giảng dạy
Triết học Upanishad tại Ðại học Văn Khoa Sài Gòn và Văn Minh Việt Nam tại Ðại Học
Ðà Lạt, Minh Ðức và Vạn Hạnh. Ở Hoa Kỳ, ông cũng từng là giáo sư thỉnh giảng tại
trường Cao học về Nghiên cứu Quốc tế (SAIS) thuộc Ðại học Johns Hopkins ở
Washington, D.C. Sau đó, ông được nhận làm học giả ngoại trú của Học viện về
Chính Sách Quốc tế (FPI) cũng thuộc Ðại học Johns Hopkins.
■ Trang 234:
So với chế độ cộng sản
miền Bắc, chế độ dân chủ ở miền Nam có triển vọng trở thành tương tự như tình
trạng giữa Tây Đức và Đông Đức hay Nam Hàn và Bắc Hàn. Tuy nhiên, do quan niệm trị nước lỗi thời đưa đến độc tài
gia đình trị, Tổng thống Diệm đã làm mất sự ủng hộ của nhân dân trong nước
và chống lại các khuyến cáo của Hoa Kỳ một cách thiếu khôn ngoan đến độ bị đảo
chánh và hãm hại.
■ Trang 236:
… tinh thần vì gia
đình của ông như được chứng tỏ trong thời gian làm Tổng thống VNCH quả thật là một nhược điểm lớn khiến cho ông trở thành
một nhà độc tài gia đình trị.
■ Trang 239:
Tuy nhiên, ban tổ chức
trưng cầu dân ý đã sắp đặt cho việc thắng cử của Ngô Đình Diệm quá bảo đảm đến
độ ông được tới 98.2 phần trăm phiếu trong khi Bảo Đại chỉ được 1.1%. Bằng chứng
gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi
số phiếu ủng hộ ông Diệm nhiều hơn số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sàigòn-Chợ Lớn
có 450,000 cử tri ghi danh mà số phiếu bầu lên tới 605,025.
Ngày 26 tháng Mười, Thủ
tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của miền Nam, quốc hiệu là Việt
Nam Cộng Hòa! Mặc dù nổi tiếng là người có lý tưởng, liêm khiết và can đảm, Ngô
Đình Diệm đã phạm nhiều sai lầm chính trị
trong hơn tám năm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam. Ông có một quan niệm trị
nước theo truyền thống Nho giáo trong cương vị của một tín đồ Ki-tô giáo kiên
quyết thi hành sứ mệnh mà ông tin tưởng
được Thiên chúa trao cho.
■ Trang 240:
… khi Ngô Đình Diệm đã
làm chủ được tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam thì ông lại bắt đầu thiết
lập một chế độ độc tài gia đình trị.
Có thể nói rằng quan niệm trị nước của ông Diệm căn bản là quan niệm “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân) của đạo
Khổng mà ông đã thực hiện từ thời ra làm quan gần ba mươi năm về trước. …. Thêm
vào đó, với tư cách một tín đồ Công giáo nhiệt thành, ông tin tưởng đã được Thiên Chúa trao cho sứ mệnh thiêng
liêng khi ông trở thành Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà và ông càng kiên quyết
thực hiện sứ mệnh thiêng liêng ấy. Trên nền tảng tinh thần đó, ông không chấp nhận những quan điểm khác biệt
và không tha thứ ai làm trái ý ông. Ngày 15.1.1956, ông giải tán Hội Đồng Nhân
Dân Cách Mạng để loại trừ những người có công với ông trong việc lật đổ Bảo Đại
nhưng cũng là những lãnh tụ chính trị độc lập như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn
và Nhị Lang...
... Ngoài ra, cần phải
nhắc đến sắc lệnh số 10/62 hạn chế tự do cá nhân do Tổng Thống ban hành ngày
16.5, qui định mọi cuộc hội họp hay tụ họp dù
là xum họp gia đình cũng phải có giấy phép của Sở Cảnh sát địa phương.
■ Trang 241:
Về mặt an ninh, từ
tháng Giêng 1956 đã có sắc lệnh số 6/56 của Tổng Thống cho phép các cơ quan an
ninh bắt giữ bất cứ người nào có hành động phương hại đến an ninh quốc gia,
tháng Năm 1959 lại có đạo Luật số 10/59 thiết lập Toà Án Quân Sự Lưu Động để
gia tăng hiệu lực ngăn chặn những hoạt động khủng bố của cộng sản. Tháng Năm
1962, Tổng thống lại ra sắc lệnh số 11/62 thiết lập Toà Án Quân Sự Mặt Trận tại
ba Vùng Chiến thuật với thẩm quyền kết án chung thân mà người bị kết tội không
được phép kháng cáo. Các bản án tử hình đều được trình lên Tổng Thống xem xét
và quyết định. Tất cả những văn kiện pháp lý này đều có lý do chung là ngăn ngừa
và trừng trị những hành động phá hoại của cộng sản, nhưng thực tế cũng nhắm cả vào những thành phần đối lập không cộng sản.
Đó là một sai lầm chính trị quan trọng của Ngô Đình Diệm không những làm suy yếu hàng ngũ quốc gia mà còn khiến cho nhiều người
yêu nước ở miền Nam đồng ý hợp tác với cộng sản. Thật khác hẳn chủ trương liên
hiệp với những lãnh tụ quốc gia, dù chỉ là sách lược tạm thời, của Hồ Chí Minh
sau Cách mạng tháng Tám 1945 để xây dựng và củng cỗ lực lượng kháng chiến chống
Pháp. Sách lược đó cũng đã được sử dụng thành công chống lại Ngô Đình Diệm mà kết
quả là sự ra đời của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.
Trong những năm đầu của
chính quyền Ngô Đình Diệm, chiến dịch tố cộng và diệt cộng đã truy lùng và trừng
phạt không những các cán bộ cộng sản nằm vùng mà còn cả những người đã đi theo Việt Minh chống Pháp mặc dù họ không
phải là đảng viên cộng sản. Những người này đã không chọn di cư ra Bắc sau
khi hiệp định Genève chia đất nước làm đôi nhưng, ngoại trừ một số rất ít, đều
không ủng hộ chính phủ Diệm. Cuối năm 1958 có tin là 1,000 người đã bị giết ở
trại tập trung Phú Lợi khiến Hà Nội tổ chức biểu tình phản đối và đòi Ủy hội Quốc
tế Kiểm soát Đình chiến (UHQT) điều tra. Thân nhân của nhiều cán bộ ra Bắc tập
kết cũng bị bắt giữ, tra khảo và làm tiền bởi các viên chức địa phương.
… Đối với các đảng phái quốc gia có khả năng trở thành đối
thủ trong cuộc tranh giành quyền lực thì những cuộc thanh trừng đã được chính
quyền Ngô Đình Diệm thực hiện từ đầu năm 1955, trước khi dẹp yên loạn quân
Bình Xuyên và những nhóm tôn giáo đối lập. Ở miền Trung, vào tháng Ba, Ngô Đình
Cẩn đã dẹp xong các mật khu của Đại Việt tại Ba Lòng (Quảng Trị) và Phú Yên. “Kế tiếp, bắt đầu tiêu diệt các hệ Việt Nam
Quốc Dân Đảng tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kontum và nhiều tỉnh khác.
Tại Quảng Nam, trên 20 người bị bắt giữ, kể cả Trịnh Thể, Nguyễn Tiến Long, Trần
Bích Kiện, Hồ Văn Anh, Phan Thiệp (Quận trưởng Tam Kỳ) cùng nhiều giáo viên trường
Khải Định Huế.”
Khi thành lập chính phủ
cũng như trong những lần cải tổ nội các, Ngô Đình Diệm đều không muốn có sự
tham gia của Phan Huy Quát, một lãnh tụ Đại Việt cũng được Hoa Kỳ tin cậy.
Trong cuộc bầu cử Quốc
Hội Lập Hiến tháng Ba 1956, ứng cử viên đối lập Phan Quang Đán đắc cử nhưng không
được công nhận vì “gian lận”, và bị thua phiếu ứng cử viên chính phủ trong lần
bầu lại. Năm 1959, ông Đán ra tranh cử lần nữa và trúng cử với đa số phiếu
nhưng vẫn bị loại vì “vi phạm luật bầu cử”. Một ứng cử viên đối lập khác là
Nguyễn Trân cùng đắc cử với ông Đán ở Sài-gòn cũng bị loại với cùng một lý do.
■ Trang 242:
Ngày 15.3.1958, Nghiêm
Xuân Thiện, cựu Tổng trấn Bắc phần,
trong một lá thư ngỏ “Gửi Dân biểu của tôi” đăng trên tuần báo Thời Luận do ông
làm Chủ nhiệm, nhận xét rằng:
“Dưới thời chính phủ phong kiến thực dân Nguyễn Văn Tầm, “trong những cuộc
bầu cử hội đồng tỉnh và hội đồng xã, dân chúng bị dọa nạt và ép buộc phải đi bầu,
nhưng còn khá hơn những cuộc bầu cử của quí vị, vì không có ai dùng xe cam-
nhông chở lính vào Sài-gòn để “giúp việc bỏ phiếu”… Quí vị lấy làm hãnh diện đã
tạo lập cho Việt Nam một chính thể mà quí vị nghĩ là tương tự như nước Mỹ. Nếu
có tương tự thì cũng như một toà nhà chọc trời và một ngôi nhà mái tôn giống
nhau ở chỗ cùng là những nơi có người ở.
Ở
Hoa Kỳ, Quốc Hội đích thực là một nghị trường và các dân biểu là những nhà làm
luật tức là những người tự do và có công tâm không sợ hãi chính phủ, biết rõ
nhiệm vụ của họ và dám đem ra thực hiện. Ở đây, dân biểu là những viên chức
chính trị làm luật như một xướng ngôn viên trên đài phát thanh, lớn giọng đọc
những bản văn đã được soạn sẵn từ trước.”
Ngay sau đó, báo Thời
Luận bị đóng cửa và chủ nhiệm Nghiêm Xuân Thiện bị đưa ra tòa về tội phỉ báng
chính quyền và bị xử mười tháng tù giam.
Ngày 26 tháng Tư,
1960, mười tám nhân vật danh tiếng họp báo tại khách sạn Caravelle công bố lá
thư chung gửi Tổng thống Ngô Đình Diệm kêu gọi “khẩn cấp thay đổi chính sách, ban hành các quyền tự do dân chủ để có thể
cứu vãn tình thế và đưa đất nước ra khỏi cơn nguy biến.” Lá thư nhấn mạnh đến
những vụ bắt bớ, giam cầm và xử án phi pháp, nạn lũng đoạn hàng ngũ công chức
và quân đội của các tổ chức chính trị của chính quyền đưa đến những vụ thăng
thưởng hay trừng phạt bất công, các tệ nạn độc quyền kinh tế và tham nhũng làm
cho dân chúng mất niềm tin và dễ bị cộng sản lôi cuốn. Lá thư chung này, được
dư luận đặt tên là “Bản Tuyên cáo
Caravelle,”đã không được ông Diệm quan tâm đến.
Bộ Ngoại giao Mỹ, qua
Đại sứ Elbridge Durbrow, tìm mọi thuyết phục ông Diệm cải thiện các điều kiện
chính trị và bộ hành chánh nhưng không có kết quả. Ngay cả cố vấn cải cách điền
địa và phát triển nông thôn Wolf Ladejinsky rất có thiện cảm với Diệm cũng trở
nên lạnh nhạt và xa lánh ông. Chỉ còn một người vẫn còn nhiệt tình ủng hộ ông
Diệm là Edward G. Lansdale không được Bộ Ngoại giao cho trở lại Việt Nam.
■ Trang 244-245:
Thượng Nghị sĩ Mike
Mansfield, người đã thuyết phục Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles ủng
hộ Ngô Đình Diệm trước áp lực của Pháp và các lực nổi loạn trong những năm
1954-1955, cũng trở nên thất vọng với Diệm mấy năm sau đó. Đại sứ Durbrow kể lại
rằng, trong dịp trở về Washington điều trần trước Thượng Viện năm 1960, ông có
gặp riêng Mansfield và được vị Thượng Nghị sĩ này nói chuyện về “những chính sách thiếu dân chủ, tình trạng
tham nhũng và những nhược điểm khác của chính phủ Diệm.” Theo Durbrow, khi đó
Mansfield đã “hoàn toàn lạnh nhạt với Diệm.”
Đáng chú ý nhất là, sau chuyến đi Việt Nam tháng Mười Hai 1962, Mansfield đã viết
một bản phúc trình cho Tổng Thống Kennedy về những sai lầm của ông Diệm và đề
nghị Hoa Kỳ nên rút ra khỏi Việt Nam trước khi bị sa lầy trong “một cuộc nội chiến tuyệt vọng” của miền
Nam chống cộng sản miền Bắc. Ông cũng
đích thân gặp Kennedy để nói rõ quan điểm của mình. Sau cuộc tiếp kiến này,
Kennedy nói với phụ tá Kenny O’ Donnell, “Tôi
tức giận Mike vì ông ta đã bất đồng ý với chính sách của chúng ta, nhưng tôi
cũng tự giận mình vì tôi đã thấy chính mình đồng ý với Mike.” Trong lần gặp
gỡ thứ nhì với Mansfield, Kennedy cho hay ông đồng ý sẽ rút hết cố vấn quân sự
ra khỏi Việt Nam, nhưng không thể làm chuyện này cho tới năm 1965, sau khi đã
tái đắc cử. Sau đó, Kennedy tâm sự với Charles Bartlett, phái viên thân cận ở Bạch
Cung của tờ Chattanooga Times: “Chúng ta
không cầu mong ở lại Việt Nam. Những người ở đó ghét chúng ta. Có thể họ sẽ tống
cổ chúng ta ra khỏi nơi đó bất cứ lúc nào. Nhưng tôi không thể bỏ một miền đất như
vậy cho cộng sản để rồi vẫn được dân chúng bầu lại tôi.”
... Ngoài chính sách độc
tài gia đình trị, chính phủ Diệm còn phạm
nhiều sai lầm trong việc hoạch dịnh và thi hành các chương trình tranh thủ
nhân dân chống cộng.
■ Trang 246:
Chỉ hai năm sau chương
trình này bị dẹp bỏ khi mới thành lập được
20 khu trù mật trên tổng số 80 theo kế hoạch dự trù.
Các quan sát viên ngoại
quốc đều cho rằng chương trình khu trù mật thất bại vì kéo dân ra khỏi nơi sinh
sống lâu đời của họ để tập trung họ vào một khu xa lạ khiến họ phải làm lại cuộc
sống từ đầu. Điều này chỉ đúng một phần vì làng mạc ở miền Nam không khép kín
và tổ chức chặt chẽ với những truyền thống lâu đời như ở miền Bắc. Đã đành người
dân nông thôn ở đâu cũng không muốn rời bỏ nơi quen thuộc nhưng họ cũng sẵn
sàng thích ứng nếu cuộc sống mới thực sự đem lại cho họ sự yên ổn và hạnh phúc.
Lý do chính vẫn là tệ nạn quan liêu, tham
nhũng của các viên chức cầm quyền địa phương khiến họ thường bị sách nhiễu
và đời sống vẫn bị khó khăn, thiếu thốn, Họ bị cắt xén các vật liệu được chính
phủ cung cấp hoặc phải trả tiền túi ra mua, Họ ít khi ra khỏi khu trù mật vì lý
do an ninh hay vì bị chính những người có nhiệm vụ bảo vệ họ hạch hỏi, gây khó
dễ để làm tiền khi biết họ ra ngoài để buôn bán làm ăn. Nhiều tỉnh trưởng muốn
lập công với Tổng thống đã bắt dân làm việc quá sức để phá kỷ lục mau chóng lập
khu trù mật hoặc kịp trình diễn một bề ngoài sung túc của khu trù mật khi Tổng
thống tới kinh lý, tháng Ba năm 1962, khu trù mật được thay thế bằng chương trình
“Ấp Chiến lược.” Chương trình này, do Sir Robert Thompson quan niệm, đã được thực
hiện thành công trong chiến dịch tiễu trừ cộng sản ở Mã-Lai trong thập niên
1950 nhưng trong những điều kiện khác với Việt Nam.
■ Trang 247:
Ấp chiến lược được đưa
lên thành quốc sách có tầm quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, mọi tính toán lý
thuyết tốt đẹp này lại thất bại một lần
nữa khi thực hiện. Do chỉ tiêu phải hoàn tất 7,200 ấp chiến lược trong năm
đầu tiên trên tổng số dự định là 14,000, nhiều ấp chiến lược đã được thành lập
một cách vội vàng, cẩu thả và dân chúng bị áp lực làm việc quá sức, chịu sự kiểm
soát gắt gao và phải đóng góp nhiều thì giờ vào công tác phòng vệ. Việc xây dựng
ấp chiến lược quá nhiều và quá nhanh cũng làm suy giảm khả năng của quân đội trong việc bảo vệ dân chúng ở những
vùng do chính phủ kiểm soát. Lợi dụng những nhược điểm này, bộ đội cộng sản gia
tăng tấn công các ấp chiến lược yếu và cắt đứt các đường tiếp viện của quân đội.
Hệ thống ấp chiến lược tan rã dần.
Năm 1963 các biến chuyển
bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm liên tiếp xảy ra đưa đến cái chết thê thảm
của các ông Diệm, Nhu, Cẩn và sự sụp đổ của đệ Nhất Cộng Hoà. Ngày 2 tháng
Giêng, quân đội VNCH mở cuộc tân công vào Ấp Bắc, một địa điểm do cộng sản kiểm
soát thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, cách tây- nam Sài gòn khoảng 40 dặm. Mặc
dù đông gấp bốn lần quân địch và có sự yểm trợ của xe thiết giáp và máy bay trực
thăng, ba tiểu đoàn bộ binh của VNCH đã bị quân cộng sản phục kích gây thiệt hại
nặng nề. Họ chỉ rút lui khi quân quốc gia được một tiểu đoàn dù đến tiếp cứu.
Ngày 25.2, phúc trình Mansfield khuyến cáo
Hoa Kỳ nên rút khỏi Việt Nam được công bố khiến cho quan hệ Việt- Mỹ trở
nên căng thẳng. Tinh thần chống Mỹ của gia đình Tổng thống Diệm lên đến cao độ.
John Mecklin, cố vấn toà Đại sứ, báo cáo về bộ Ngoại giao Mỹ rằng “sự cay đắng bị đè nén này có thể gây hậu quả
tai hại cho quan hệ của chúng ta với chính phủ Việt Nam hơn là một sự phản đối
công khai.” Vào cuối tháng Ba, ông Nhu có một “buổi thảo luận đặc biệt của
Quân ủy Cần Lao” với Trung tướng Tôn Thất Đính, Tổng tư lệnh Quân đoàn III và
Thủ đô Sàigòn và Đại tá Lê Quang Tung, Chỉ huy trưởng Lực lượng Đặc biệt, để ra
chỉ thị về các biện pháp ngăn chặn đảo chánh do Mỹ sắp đặt.
Từ tháng Tư trở đi, một
chuỗi biến cố giữa chính quyền và Phật giáo dẫn đến cuộc đảo chính 1 tháng Mười
Một. Nguyên nhân đầu tiên là lệnh cấm treo cờ Phật giáo ngoài khuôn viên chùa
chiền trong ngày lễ Phật Đản. Thông thường cờ của tôn giáo nào cũng chỉ treo ở
những nơi thờ tự của tôn giáo ấy, nếu đôi khi có ngoại lệ thì chẳng có gì đáng
để cho chính quyền phải ngăn cấm. Tuy nhiên, riêng năm 1963 thì xảy ra chuyện
đáng tiếc về vụ treo cờ Công giáo và cờ Phật giáo ở thành phố Huế. Đầu tháng
Tư, nhân dịp lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm
Tổng Giám mục Ngô Đình Thục được thụ phong giám mục, cờ Vatican được treo nhiều
nơi ngoài nhà thờ ở Huế và những vùng phụ cận. Đầu tháng Năm, để chuẩn bị tổ chức
lễ Phật Đản, các Phật tử treo cờ Phật giáo tại tư gia nhiều hơn cờ Công giáo
trong dịp chúc mừng Tổng Giám mục Ngô Đình Thục.
■ Trang 248:
Do sự can thiệp của Tổng
Giám mục Thục, ngày 6.5 Phủ Tổng thống ra lệnh không cho treo cờ Phật giáo
ngoài khuôn viên các chùa. Ngày 8.5, Thượng Tọa Trí Quang thuyết pháp tại chùa
Từ Đàm, phản đối lệnh cấm và tố cáo chính quyền đàn áp Phật giáo. Sau đó, khoảng
ba ngàn Phật tử xuống đường biểu tình phàn đối chính phủ. Phó Tỉnh trưởng Đặng Sỹ
cho lệnh cảnh sát và quân đội giải tán đám biểu tình khiến cho 8 người chết và
15 bị thương.
Các cuộc biểu tình của
tăng ni và Phật tử lan ra một số tỉnh miền Trung và đặc biệt ở Sài-gòn trong
khi những cuộc điều đình giữa chính quyền và các nhà lãnh đạo Phật giáo chưa đạt
được kết quả. Ngày 11.6, Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài-gòn. Tấm
hình của vị tu sĩ ngùn ngụt lửa do Malcom Browne, phái viên AP, chụp được bỗng
nhiên làm sôi nổi dư luận thế giới về cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam. Tổng
thống Diệm lúc đầu muốn giải quyết vấn đề Phật giáo một cách ổn thỏa, nhưng ông
trở nên bất lực trước những lời tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân) có tính cách nhục mạ đối với các nhà
lãnh đạo Phật giáo, đồng thời kịch liệt chỉ trích Hoa Kỳ can thiệp vào nội bộ
Việt Nam.
Ngày 7.7, nhà văn Nhất
Linh Nguyễn Tường Tam, một lãnh tụ của VNQDĐ và Đại Việt Dân Chính uống thuốc độc
tự tử để phản đối chính quyền đưa
ông ra Tòa Án Mặt Trận xét xử cùng với những người liên quan đến vụ đảo chính hụt
gần ba năm trước (11.11.1960.) Bác sĩ Trần
Kim Tuyến, Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị phủ Tổng Thống —cơ quan mật vụ được
CIA yểm trợ để kiểm soát các phần tử chống đối chính phủ— là người đầu tiên trong chính quyền âm mưu đảo
chính nhằm loại bỏ hai vợ chồng ông Ngô Đình Nhu trước nguy cơ sụp đổ của
VNCH. Cùng chủ mưu trong vụ này là Đại tá Phạm
Ngọc Thảo, Tổng Thanh tra chương trình Ấp chiến lược. Âm mưu của Tuyến-Thảo
được sự ủng hộ của một số sĩ quan trẻ, một số nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị.
Được tin này, Lucien E. Conein, nhân viên CIA đang làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ,
báo tin cho người bạn thân là Trung tướng Trần văn Đôn khi đó cũng đang bàn
tính chuyện đảo chính với các tướng Lê Văn Kim, Dương Văn Minh và Trần Thiện
Khiêm. Tướng Khiêm gặp Đại tá Thảo và chặn được kế hoạch đảo chính sớm này.
Sau đó, Trần Kim Tuyến
bị Ngô Đình Nhu nghi ngờ và đẩy đi làm Tổng Lãnh sự bên Ai Cập.
Đêm 21.8, Ngô Đình Nhu
điều động Lực Lượng Đặc Biệt tấn công
chùa Xá Lợi, bắt giữ hàng trăm tăng ni, trong đó có hai nhà lãnh đạo giáo hội
Phật giáo là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thượng tọa Thích Tâm Châu. Đồng thời,
tại Huế và nhiều nơi khác cũng xảy ra những vụ tấn công chùa chiền và bắt bớ
tăng ni, Phật tử. Sau vụ này, Đại sứ Cabot Lodge được Tổng thống Kennedy chấp
thuận quyết định “không ngăn cản” cuộc
đảo chánh nếu Tổng thống Diệm không chịu thay đổi đường lối lãnh đạo và loại bỏ
vai trò của vợ chồng ông Nhu.
Khi biết là quan hệ với
Washington có thể phải đoạn tuyệt, hai ông Nhu và Diệm tỏ ra muốn thương thuyết
với Hà Nội. Ý định này có thể đã nảy sinh từ cuối tháng Năm khi Hồ Chí Minh tuyên
bố trong một buổi phỏng vấn với nhà báo Úc Wilfred Burchett rằng chính phủ Ngô Đình
Diệm và MTGPMN có thể thương thuyết ngưng bắn và thành lập một chính phủ liên hiệp.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi được Mieczyslaw Maneli, Trưởng đoàn Ba-Lan trong UHQT,
thăm dò khả năng hiệp thương với miền Nam, còn cho biết rõ rệt hơn: “Vấn đề chính là Mỹ phải ra đi. Trên cơ sở
chính trị này, chúng tôi có thể thương thuyết về mọi chuyện. Tất cả mọi chuyện.”
Một vài cuộc tiếp xúc bí mật giữa ông Nhu và đại diện của Hà Nội được diễn ra
như Ellen J. Hammer đã thuật lại, và cả Đại sứ Pháp Roger Lalouette lẫn Trưởng
đoàn Ba-Lan Mieczyslaw Maneli cũng đều biết. Tuy nhiên, những cuộc tiếp xúc này
rõ rệt chỉ có tính cách thăm dò. Ngày 2.9, qua sự thu xếp của Đại sứ Ý
d’Orlandi và Chủ tịch UHKSQT Goburdhun, Ngô Đình Nhu tiếp Maneli tại Dinh Gia
Long để được biết tin tức chuyến đi Hà Nội của ông ta hồi tháng Bảy.
■ Trang 249:
Theo Maneli, khi được
hỏi về khả năng trao đổi kinh tế và văn
hoá giữa Nam và Bắc như một bước đầu để tiến đến thoả hiệp về chính trị,
Phạm Văn Đồng không những chỉ nhấn mạnh rằng trở ngại chính không phải là Diệm
mà là sự hiện diện của Mỹ, ông còn gợi
ý về bước đầu của hiệp thương là mở đường bưu điện và đổi gạo ở miền Nam lấy
than đá ở miền Bắc…
Sai lầm chính của Tổng
thống Ngô Đình Diệm trong vụ Phật giáo là chỉ
nghe lời những người trong gia đình và che chở họ ngay cả khi ông biết những
người đó làm sai, như trường hợp Tổng Giám mục Thục và bà Nhu. Công bằng mà
nói, ông Diệm là người Công giáo đang ở vị thế cầm quyền tất không khỏi có những
hành vi đối xử có lợi cho Công giáo, nhưng điều đó không có nghĩa là các ông Diệm,
Nhu và Cẩn có chủ trương kỳ thị và đàn áp Phật giáo. Quyết định sai lầm của ông
Diệm khi chiều ý TGM Thục về vụ treo cờ lúc đầu là do tình cảm gia đình, khi bị
phản đối thì lại phản ứng vì tự ái, thay
vì thỏa mãn những thỉnh nguyện bình thường của Phật giáo, ông lại áp dụng luật
lệ không công bằng khiến phát sinh một phong trào tranh đấu mang tính chất
chính trị bị cộng sản lợi dụng. Đến lúc đó thì ông Nhu nhúng tay vào và chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ là do những
quyết định chính trị sai lầm của ông Nhu. Vì tin tưởng mạnh mẽ ở khả năng
và thiện chí của mình và vì tình gắn bó
chặt chẽ với gia đình, Tổng thống Diệm đã chống lại mọi khuyến cáo hay áp lực
tách ông ra khỏi những người thân, nhất là Ngô Đình Nhu là người mà ông tin tưởng
có thể giúp ông giải quyết được mọi chuyện khó khăn. Giả thử cuộc đảo chánh
thành công trong việc loại bỏ hai vợ chồng ông Nhu và ông Cẩn bằng cách giam giữ,
giết chết hoặc lưu đày họ ra ngoại quốc, Tổng thống Diệm chắc chắn sẽ có những
phản ứng tiêu cực và không khi nào chịu hợp tác với (và bị hạn chế bởi) những
người đã phá hủy hệ thống quyền lực và triết lý cai trị của ông.
Chóp bu của chế độ
Gia Đình Trị:
Việt Nam có bốn gian hùng
Diệm ngu, Nhu ác, Cẫn khùng, Thục điên
(Phong dao miền
Trung những năm đầu 1960’s)
■ Trang 250:
Ngô Đình Cẩn có thể đã
gây nhiều kẻ thù không những chỉ về phía đảng viên cộng sản mà cả trong hàng ngũ các đảng phái quốc
gia, nhất là VNQDĐ và nhóm Đại Việt Cách Mạng mà ông đã triệt hạ ở miền Trung.
Nhưng riêng về vụ Phật giáo thì ông lại là một nạn nhân của chính gia đình ông.
Ngay từ đầu, ông Cẩn đã bất đồng ý kiến với TGM Ngô Đình Thục về vụ cấm treo cờ
Phật giáo. Ông vốn có quan hệ tốt với chùa Từ Đàm và thường giúp đỡ cho Tổng hội
Phật giáo Việt Nam. Khi có những người Công giáo đến gặp ông phàn nàn về việc
ông tài trợ cho Phật giáo, ông bực mình gắt, “Đã đến lúc họ cần được giúp đỡ. Dưới thời Pháp người Công giáo đã được
đủ mọi thứ. Nay đến lượt tín đồ đạo Phật.” Nhưng từ khi TGM Thục được
Vatican bổ nhiệm về Huế năm 1961 thì vai trò của ông Cẩn bắt đầu bị lấn át và mất
dần thế lực. Đầu năm 1963, Ngô Đình Nhu phái người thân tín ra nhắn với ông Cẩn
là ông nên sang Nhật nghỉ một thời gian nhưng ông không chịu. Khi Phủ Tổng thống
ra thông tư về vụ cấm treo cờ, ông Cẩn ra chỉ thị cho Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng
không thi hành và đã cử phái đoàn chính phủ tham dự lễ Phật Đản tại chùa Từ
Đàm.
Việc hạ sát các ông Diệm,
Nhu, Cẩn là những quyết định chính trị mà cả Hoa Kỳ và những người làm đảo
chánh đều có trách nhiệm nhưng sau này lại đổ lẫn cho nhau. Nhóm tướng lãnh có
thể lo ngại rằng nếu các ông Nhu, Diệm không bị giết, sau này các ông ấy sẽ có
thể trở lại cầm quyền và trả thù. Nhưng ai cũng thấy rõ là vào thời điểm của cuộc
đảo chánh 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm đã hoàn toàn bị thất thế cả về đối nội lẫn
đối ngoại. Đại đa số các giới quân sự,
chính trị và dân chúng trong nước đều chống đối. Dư luận thế giới đều bất mãn
và Hoa Kỳ đã quyết định chấm dứt hợp tác với Ngô Đình Diệm. Khi Tổng thống Diệm
bị lâm nguy, không thấy có một hành động can thiệp nào của các lực lượng “Thanh
niên Cộng hòa” hay “Phụ nữ Liên đới” mà ông bà Nhu vẫn tự hào là những lực lượng
nòng cốt với hàng triệu thành viên. Nhiều người từng ủng hộ Ngô Đình Diệm đã thấy
sự sai lầm của ông và đã trở nên thờ ơ hay chống đối. Như vậy, trong trường hợp
hai ông Nhu, Diệm không bị giết và chỉ bị lưu đày ra ngoại quốc, các ông cũng
không còn cơ hội nào để có thể trở lại lãnh đạo cuộc chiến đấu chống cộng sản.
Cho dù hai ông có tìm cách liên kết với cộng sản để tính chuyện trung lập hóa
miền Nam và chấm dứt vai trò của Mỹ ở Việt Nam, các ông cũng không còn có những
điều kiện để nói chuyện được với họ, nhất là khi tình hình chính trị và quân sự
đã trở nên thuận lợi cho họ.
Lê Xuân Khoa
● Nhấn mạnh là của người
sưu tầm bài viết nầy. Có 27 footnotes trong bài (từ số 33 đến số 60), xin xem nội
dung những footnotes nầy trong nguyên bản.