NGÀN NĂM SOI MẶT:
CÁI CHẾT CỦA MỘT HÀNG TƯỚNG
DƯƠNG VĂN MINH (1916-2001)
Nguyên Vũ Vũ
Ngự Chiêu
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 9/8/2001, vài bằng hữu điện thoại,
e-mail hay fax cho tôi bản tin ngắn về cái chết của cựu Đại tướng (1916-.
Tại Pasadena, tiểu bang California, mà không phải Việt Nam như nhiều người
tưởng nghĩ. Theo báo chí Mỹ, Tướng Minh, 86 tuổi, chết tại bệnh viện Huntington Memorial Hospital tối ngày Thứ Hai 8/8/2001, sau khi bị
té từ xe lăn xuống đất trong một phòng cho mướn (apartment) chiều ngày
hôm trước, Chủ Nhật, 7/8/2001. (Theo một nguồn tin khác, ông Minh chết ngày Thứ
Bảy, 6/8/2001. Tin này có lẽ chính xác hơn).
Còn nhớ năm 1982, khi sang Pháp nghiên cứu
lần đầu tiên để sửa soạn viết luận án, tôi được tin Tướng Minh mới từ Sài Gòn
qua Pháp chữa bệnh. Người cho biết tin này là ký giả Nguyễn Ang Ca, ngày ấy
định cư ở Belgium (Bỉ). Anh Ca tiết lộ thêm rằng theo lời thân nhân Tướng Minh,
ông ta đã hoàn tất một tập hồi ký dành riêng cho cháu ngoại (con ông bà Nguyễn
Hồng Đài và Dương [Thị?] Mai), sẽ được ấn hành sau khi Tướng Minh chết. Trong
thời gian nghiên cứu lần thứ hai ở Pháp, từ 1985 tới 1988, được tin Tướng Minh
đã biến mất ở Paris, “nghe đâu trở lại Việt Nam.” Bây giờ mới rõ tin ấy sai
lầm. Tướng Minh đã âm thầm qua Mỹ định cư, sống với vợ chồng người con gái.
Việc Tướng Minh “tuyệt tích giang
hồ” cũng dễ hiểu. Từ năm 1963, ông Minh trở
thành kẻ thù của nhiều hơn một thế lực chính trị tại Việt Nam.
Nhóm kẻ thù hằn học nhất là những người
ủng hộ và còn tưởng nhớ Tổng thống Ngô Đình Diệm (1955-1963). Cuộc đảo chính
1/11/1963 không những chỉ mang lại cái chết cho ba anh em nhà họ Ngô, mà còn
khiến nhiều cộng sự viên và nha trảo của chế độ bị tử hình (Phan Quang Đông, đồ
tể miền Trung), tù đày (Dương Văn Hiếu, Nguyễn Văn Y, Trần Kim Tuyến, Nguyễn
Văn Hay), tịch thu tài sản, truy nã, săn đuổi, v.. v... Trong khi đó, Giám mục
Nguyễn Văn Thuận, cháu ngoại ông Ngô Đình Khả—hiện đã trở thành Hồng Y ở
Vatican—cũng muốn khôi phục lại thế giá cho các bậc trưởng thượng của mình, qui
tụ tàn dư đảng Cần Lao làm hậu thuẫn chính trị. Tướng Minh, người đào mộ vùi
chôn nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam và gây nên cảnh tang tóc thê lương của
họ Ngô, khó thể được yên lành.
Ngay trong hàng ngũ quân đội nhiều
người cũng không muốn “huynh đệ chi binh” (đúng ra có lẽ phải là “binh
chi huynh đệ”) với Tướng Minh. Trung tướng Nguyễn Khánh tìm mọi cách triệt hạ,
khiến Tướng Minh phải lưu vong qua Thái Lan khá lâu. Thủ lãnh nhóm Young Turks là Nguyễn Văn Thiệu (1923-
cùng những Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên nhất quyết không cho Tướng Minh hồi
hương để tranh cử Tổng thống năm 1967.
Mãi tới năm 1968, do sự can thiệp của Thủ
tướng Trần Văn Hương (1904-1982?), và giữa cao trào thanh toán phe “Bắc Kỳ”
Nguyễn Cao Kỳ-Nguyễn Ngọc Loan, Tướng Minh mới được về nước. Phía sau đặc ân của
ông Hương này là kế hoạch vận động tinh thần bài Bắc Kỳ từ thời Nam Kỳ tự trị
của Nguyễn Văn Thinh-Lê Văn Hoạch-Nguyễn Văn Tâm-Trần Văn Hữu (1946-1947), đồng
thời chuẩn bị dùng ông Minh làm con cờ thí cho cuộc tranh cử Tổng thống vào năm
1971 của liên danh Thiệu-Hương. Nhưng giờ chót, sau khi Tướng Kỳ bị loại bỏ vì
thiếu người giới thiệu, Tướng Minh đột ngột rút lui. Cuộc bầu cử Tổng thống
nhiệm kỳ 1971-1975, đứa con “hợp hiến” thứ hai của Đại sứ “Tủ lạnh” Ellsworth
Bunker, bỗng trở thành “cậu con nuôi” “trưng cầu dân ý” của liên danh “mồ côi”
Thiệu-Hương.
Rồi
đến cuộc sụp đổ của miền Nam mùa Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40
tiếng đồng hồ của Tướng Minh. Lệnh buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày
30/4/1975 khiến nhiều người, vốn chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu
trường sân khấu chính trị, trút
mọi trách nhiệm việc “mất nước” (sic) lên đầu ông “hàng Tướng”
này.
[Những lời thở than, khóc lóc “mất nước”
cũng chẳng khác gì việc đồng hoá một chế độ chính trị với “Tổ Quốc” trên
trình độ hiểu biết chữ Việt!]
Cho tới ngày Tướng Minh nhắm mắt, chẳng
mấy ai được nghe Big Minh tâm sự về những tao ngộ đời ông. Tập hồi ký mà anh
Nguyễn Ang Ca “tiết lộ” với tôi thực chăng hiện hữu và bao giờ sẽ được ấn hành?
Tư liệu văn khố Mỹ, Pháp, Nga, Trung cộng cũng chưa mở ra đầy đủ, nhất là việc
Tướng Minh được Quốc Hội cử làm Tổng thống ngày Chủ Nhật, 27/4/1975. Đại sứ
Pháp Jean-Marie Mérillon đã thủ diễn vai trò nào trong màn bi kịch chính trị và
ngoại giao này? Việc phán định công và tội của Tướng Minh hẳn còn nhiều năm nữa
mới đủ sử liệu để suy xét.
Bài này không có ý định phê bình hay đánh
giá Tướng Minh. Chỉ ghi lại những dữ kiện lịch sử tương đối khả tín nhất để
những người nghiên cứu sau này đỡ mất công tra cứu.
PHÂN ĐOẠN I : Tướng và
Đệ Nhất Cộng Hòa
Tướng sinh
năm 1916 tại Vĩnh Long (lại có tin sinh ngày 19/2/1916 ở Mỹ Tho). Thường được
biết như "Big" Minh, để phân biệt với Minh "nhỏ"
(Sylvain Trần Văn Minh, Ki-tô giáo). Ông Minh thuộc loại to lớn so với người
Việt bình thường, cao hơn 1 mét 80 (6 feet), và nặng hơn 90 ki-lô.
Năm 1940, ông Minh gia nhập quân đội Pháp,
tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bị Thủ Dầu Một. Nổi danh là một lực sĩ chạy đua
nước rút, nên được thăng cấp Thượng sĩ. Năm 1946, lên cấp Thiếu úy. Hai năm
sau, lên Trung úy, rồi chuyển qua Quân đội Quốc Gia Việt Nam. Từ đó, thăng tiến
rất nhanh vì Quân đội Quốc Gia đang thành lập, thiếu cấp chỉ huy.
Trong hai năm 1954-1955, khi chỉ huy Phân
Khu Sài Gòn/Chợ Lớn, Đại tá Minh "lớn" đã giúp Thủ tướng Ngô
Đình Diệm bẻ gẫy được cuộc đảo chính của Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh cùng các
tổ chức vũ trang Bình Xuyên và Hòa Hảo (qua các chiến dịch Hoàng Diệu, Nguyễn Huệ, Thoại Ngọc
Hầu). Nhờ vậy, ông Minh từng được ca ngợi là “anh hùng rừng Sát [Sác],” và
vài năm sau đã lên tới chức Trung tướng.
Nhưng sau khi đã dẹp xong mối hiểm họa
giáo phái, Tướng Minh bị thất sủng. Có tin hai anh em ông Diệm-Nhu nghi Tướng
Minh dấu đi một phuy (fut hay
thùng) vàng cùng quí kim tịch thu được của Lê Văn “Bảy” Viễn, thủ lĩnh Bình
Xuyên, ở mật khu Rừng Sác mà không giao nạp cho chính phủ. Nguyên cớ chính là
Tướng Minh chống việc chính trị hóa quân đội theo kiểu Cộng Sản Bắc Việt (hay,
Đài Loan, nếu muốn)—tức bắt các cấp chỉ huy quân đội phải gia nhập Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng,
thường gọi tắt làCần Lao. Bởi thế ông Minh chỉ được giao nắm những chức
vị không có quân như Thanh tra quân đoàn, rồi Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân, v..
v... Lòng ghét bỏ ông Minh của anh em ông Diệm-Nhu càng tăng lên khi Tướng Minh
giữ lập trường “trung lập” trong cuộc đảo chính hụt 11/11/1960 của nhóm Đại tá
Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Nguyễn Triệu Hồng, v.. v... (Xem Chính Đạo [ed.], et
al., Nhìn lại biến cố
11/11/1960 [Houston: Văn Hóa,
1996]) Uy tín Tướng Minh với chế độ cũng khó thể gia tăng khi Trung tá Vương
Văn Đông đề nghị Tướng Lê
Văn Tỵ rồi đến Tướng Minh làm Bộ
trưởng Quốc Phòng chính phủ quân sự chuyển tiếp.(Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, I-C:
1955-1963, tr. 202)
Từ tháng 10/1961, Tướng Minh được một số viên chức ngoại giao Mỹ
đánh giá như có khả năng tạm thay Tổng thống Diệm, hoặc phụ giúp Phó Tổng thống
Nguyễn Ngọc Thơ nắm quyền miền Nam nếu xảy ra việc gì chẳng may cho ông Diệm.(FRUS,
1961-1963, I:409-10) Nhưng ông Minh cũng có khá nhiều kẻ thù. Tướng Raymond
Nguyễn Khánh, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, nuôi hiềm khích cá nhân với ông Minh
từ lâu.(Ibid., I:710) Hiềm khích này có thể bắt nguồn từ xuất thân binh nghiệp,
danh lợi, và sự chia chác không đều chiến lợi phẩm, khi ông Khánh làm Chỉ huy
phó cho ông Minh trong chiến dịch đánh Bình Xuyên. (Xem Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, [Văn Hóa:
2002] tập I, chương IX) Bộ trưởng Quốc Phòng Nguyễn Đình Thuần thì cho rằng
Tướng Minh “chỉ ưa than phiền,” bỏ qua nhiều cơ hội chiến thắng, hoặc làm những
việc kỳ quái như đưa Nhảy dù vào mặt trận bằng quân xa thay vì thả máy bay, v..
v... (FRUS, 1961-1963, I:530)
Sau khi tuyên bố tình trạng “lâm nguy” vào
mùa Thu 1961, ông Diệm không thay đổi thái độ với Tướng Minh. Khi một số viên
chức Mỹ, kể cả Tướng Maxwell D. Taylor, Tổng Tham Mưu trưởng Liên Quân, muốn đề
nghị Tướng Minh lên chỉ huy quân đội (Ibid., I:80, 372), Tướng Edward G.
Lansdale cực lực phản đối. Theo Lansdale—người nhiệt thành ủng hộ họ Ngô từ năm
1954, và mùa Thu 1961 được ông Diệm xin đích danh làm cố vấn riêng, nhưng Tổng
thống John F. Kennedy (1961-1963) không chấp thuận—Tướng Minh từng tuyên bố
muốn đảo chính.(Báo cáo ngày 27/12/1961; US-Vietnam
Relations, 1945-1967, Bk 11, tr. 427; FRUS,
1961-1963, I:719n2) Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần hay Tướng Paul Harkins, Tư
lệnh Bộ Tư lệnh Quân Viện [MACV], cũng nghi ông Minh mưu làm đảo chính từ năm
1960.
Ông Diệm luôn luôn nghi ngờ Tướng Minh.
Khi người Mỹ yêu cầu Tướng Minh soạn thảo kế hoạch tấn công chiến khu D (ở Tây
Ninh) để tạo một chiến thắng nào đó, hầu vận động dư luận Mỹ, ông Diệm ra sức
bắt bẻ từng chi tiết. Thí dụ như ông Minh muốn thành lập các chiến đoàn với cấp
tiểu đoàn, ông Diệm chẳng những không chấp thuận mà còn cho người điều tra phải
chăng ông Minh muốn đảo chính. Rồi sai Tướng Lê Văn Tỵ Tổng Tham Mưu trưởng, thông báo cho
ông Minh biết chỉ đồng ý việc sử dụng các đơn vị cấp đại đội.(FRUS,
1961-1963, II:9-10, 24-5) Cuối cùng, ngày 18/7/1962, ông Diệm tiết lộ với
Tướng Harkins quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng
Minh vì “thiếu khả năng.”(Ibid., II:536) Chẳng hiểu quyết định này liên
hệ gì đến kế hoạch tìm giải-pháp-khác-Diệm bắt đầu manh nha từ năm 1960, và được
nghiên cứu ở Oat-shinh-tân từ cuối năm 1961 hay chăng.(Ibid., II:64, 232,
459-60, 598-600) Do áp lực của Mỹ, Tướng Minh vẫn còn được tước “Cố vấn quân
sự.”
I. Cuộc Đảo Chính 1/11/1963 :
Năm 1963, ông Minh cùng một số tướng tá
làm đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Vài ba người cho rằng ông Minh đã
“nhận lệnh Mỹ để làm đảo chính.” Tướng Minh còn bị cáo buộc đã ra lệnh thảm sát
anh em ông Diệm-Nhu vào sáng ngày 2/11, trên đường dẫn giải từ nhà thờ “cha
Tam,” Chợ Lớn, về Bộ Tổng Tham Mưu, sau khi họ đã xin đầu hàng.
Tôi sẽ tự hạn chế trong hai vấn đề trên;
và, tránh thảo luận nên hay không
nên đảo chính, đảo chính hay cách mạng, vì những tra vấn này
khó vượt qua khuôn khổ suy luận và phê phán, thuần là trò chơi của trí tuệ và
xúc động.
A. “Big” Minh có nhận lệnh người Mỹ để đảo
chính hay không?
Để
tìm hiểu thực chăng Tướng Minh nhận lệnh Mỹ lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, cần
lược xét vài dữ kiện sau:
(1) “Big” Minh thù ghét chế độ từ lâu:
Trước
hết, từ lâu, “Big” Minh hơn
một lần muốn giết hai ông Nhu-Cẩn hoặc đảo chính ông Diệm. Không đợi tới ngày
Ngoại trưởng Dean Rusk muốn vợ chồng ông Nhu, và nếu cần, chính ông Diệm, “đi
nghỉ mát dài hạn” (từ khoảng ngày 13/7/1963; VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 298, 315), hoặc Đại sứ Henri Cabot-Lodge nhận lệnh Tổng
thống Kennedy giải quyết cuộc khủng hoảng Phật Giáo ở Nam Việt Nam (tháng
6/1963). Từ tháng 11/1961, ông Minh cùng các Tướng Lê Văn Kim, Lê Văn Nghiêm và Đại tá Phạm Văn Đổng ít nhiều dính líu
đến một dự định đảo chính.(FRUS, 1961-1963, I:682; Báo cáo ngày
27/12/1961; US-Vietnam
Relations, 1945-1967, Bk 11, tr. 427) Chính anh em ông Diệm cũng biết điều
này, và cử người điều tra, theo dõi, rồi tước đoạt binh quyền của ông Minh.
Cho tới năm 1963, sở dĩ ông Minh chưa ra
tay vì màng lưới bảo vệ ông Diệm của người Mỹ—sự bảo vệ mà cựu hoàng Bảo Đại
từng cay đắng gọi là “mù lòa.” Tướng Minh và các chiến hữu chỉ muốn người Mỹ đừng ngăn cản, hay không mật báo cho anh em ông Diệm-Nhu biết
kế hoạch đảo chính của mình. Việc Kennedy cho phép Đại sứ Cabot-Lodge toàn
quyền hành động, và ông Lodge (cũng một giáo dân Ki-tô Vatican như Kennedy và
anh em ông Diệm) quyết định
không thể làm việc với ông Diệm được nữa, chỉ mở ra cho Tướng Minh và những
người muốn thay đổi chế độ cơ hội để hành động.
Hơn nữa, là một Phật tử, Tướng Minh (cũng
như các ông Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, v.. v...) không thể buông xuôi hai tay làm
ngơ trước cảnh anh em ông Diệm ngược đãi Phật Giáo, lùng bắt sinh viên học
sinh, vu cáo đối lập là Cộng Sản. Bề ngoài, ông Diệm ra vẻ rất công bình, tuyên
bố “sau lưng Hiến Pháp còn có tôi,” đồng ý thỏa đáp các nguyện vọng của Phật
giáo (Tuyên cáo chung ngày 16/6/1963 giữa ông Diệm và Hòa thượng Thích Tịnh
Khiết), nhưng không thực thi những điều hứa hẹn. Ngược lại, ngầm thả lỏng cho
(hoặc không kiểm soát nổi) hai vợ chồng Ngô Đình Nhu-Trần Thị Lệ Xuân đẩy Phật
Giáo đến chân tường. Trong những buổi đàm thoại với viên chức Mỹ và Pháp thì
đặt điều vu cáo Phật giáo bằng những luận cứ mà một người có óc suy luận trung bình và lương
thiện tối thiểu cũng không
dám phát biểu.(VNNB, I-C: 1955-1963) Nên
chẳng phải ngẫu nhiên mà đầu năm 1973, khi sắp lìa đời tại bệnh viện Grall,
Thượng tọa Thích Thiện Hoa ân cần trối trăng với hàng tăng lữ đừng bao giờ quên
công đức của Đại tướng Minh với
Phật giáo trong mùa pháp nạn 1963! (Tôi nghĩ Hòa thượng Thích Tâm Châu,
một lãnh tụ tranh đấu đầu tiên ở Sài Gòn, cũng đồng ý với nhận xét trên).
Tóm lại, ghép tội (đúng hơn là vu cáo) ông
Minh “nhận lệnh Mỹ” để làm đảo chính không đúng, hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc,
bất chấp sự thực lịch sử: Giữa
anh em ông Diệm-Nhu và Tướng Minh chẳng còn chút thiện cảm nào để mất.
(2) Liên hệ giữa Tướng Minh và ông Diệm:
Có người còn lên án ông Minh và phe nhóm
đã “phản bội” ông Diệm. Cáo buộc này quá vội vã, không đúng sự thực, nếu
chẳng phải bất chấp sự thực. Giữa ông Diệm và ông Minh chẳng hề có tình đồng
chí cũ, hay nghĩa thày-trò, hiểu theo nghĩa cấp chỉ huy và thuộc hạ. Liên hệ
giữa Thủ tướng Diệm và Tướng Minh chỉ khởi sự từ ngày ông Diệm về nước vào hạ
tuần tháng 6/1954. Nó là sự nối kết quyền lợi, do Mỹ dàn xếp, để loại bỏ Tướng
Nguyễn Văn Hinh cùng phe thân Pháp. Hai người là cộng sự viên, hơn cấp chỉ huy
và người tùy tùng. Ông Diệm là lá bài chính trị của người Mỹ, trong khi Tướng
Minh là một trong những lá bài quân sự. Nói cách khác, hai ông Diệm và
Minh cùng “làm quan”
cho người Mỹ, hầu biến miền Nam vĩ tuyến 17 thành một “nước” (không hề
qui định hay dự trù trong Hiệp ước Geneva ngày 20-21/7/1954). Văn hoa hơn, miền
Nam trở thành “tiền đồn chống Cộng của Thế giới Tự do,” dù dân miền Nam (cũng
như miền Bắc) chỉ có quyền “tự do” duy nhất là được đói khổ, đàn áp, tù đầy,
tra tấn dã man, đẩy ra mặt trận, và chết chóc.
Bản hiệu triệu của ba ký giả Chu Tử, Hiếu
Chân và Từ Chung trên tờ Ngôn
Luận, số đặc biệt chào mừng cách mạng thành công ra ngày 4/11/1963—trích
lại trên bán nguyệt san Bách
Khoa (số 165, ngày
15/11/1963, tr. 93) của ông Huỳnh Văn Lang, một cựu lãnh tụ Cần Lao—phần nào
nói lên sự thực này: Ba nhà báo Chu Tử, Hiếu Chân và Từ Chung tự trách đã “đánh
đĩ tâm hồn, cam tâm làm gia nô cho họ Ngô trong chín năm qua.” Ngay đến báo Sài Gòn Mới của Bà Bút
Trà, có liên hệ với Bộ trưởng Canh Nông Lê Văn Đồng, cũng than phiền rằng “luôn
luôn bị áp bức, khủng bố,” “[h]àng ngày phải chịu trăm chiều tủi nhục,
bắt buộc phải viết những điều trái ngược với lòng mình, để hoan hô những cái
điêu ngoa, giả dối, tàn ác, bất nhơn của gia đình họ Ngô.” (Bách Khoa,
số 165 [15/11/1963], tr. 93-4; trích trong VNNB,
IC: 1955-1963 [2000], tr.
391)
(3) Bản chất sự liên hệ giữa Mỹ và chế độ
Ngô Đình Diệm.
Cho
tới hiện nay, vì lý do nào đó, vẫn chưa ai nói lên được bản chất sự liên hệ
giữa Mỹ và chế độ Ngô Đình Diệm. Sự im lặng hay thiếu hiểu biết này gây ra
nhiều ngộ nhận trong việc diễn giải các biến cố lịch sử. Phe Cộng Sản thường
dùng chiêu bài tuyên truyền quen thuộc, lên án chính sách Mỹ ở Việt Nam là “tân
thực dân” [Neo-colonialism], và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là “bù nhìn”
[puppet regime]. Lối gọi tên này không chỉnh. Tài liệu Liên sô Nga,
Trung Cộng, và ngay chính tài liệu Cộng Sản Việt Nam đã tiết lộ rằng vị thế
chiến lược quốc tế của chế độ “cách mạng xã hội chủ nghĩa” tại miền Bắc Việt
Nam trong giai đoạn 1945-1975 chẳng sáng sủa gì hơn miền Nam. Thực ra, Hà Nội
còn chịu cảnh một cổ hai tròng: chẳng những nằm trong quĩ đạo quốc tế Cộng Sản
của Nga, mà còn bị bóp cổ, chẹn họng bởi điều mà sử quan Cộng Sản Việt Nam có
thời gian gọi là “chủ nghĩa
bành trướng và bá quyền nước lớn” của Trung Cộng.
[Xem, chẳng hạn, “Sách Trắng” ngày
25/9/1979 của Hà Nội; Trung
Quốc từ Mao đến Đặng, Văn Trọng chủ biên (Hà Nội: 1984); Phê phán chủ nghĩa bành trướng và
bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh, do Phạm Như Cương
chủ biên (Hà Nội: 1979); Chống
chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn (Hà
Nội: Tạp chí Cộng Sản,
1982); hay, những tựa sách khác in trong thập niên 1980.
Nực
cười là một thời các tư tưởng gia Việt Cộng như Hồ Chí Minh, Trường Chinh hay
Tố Hữu, đích thân hay chỉ thị thuộc hạ “gân cổ bắc loa mồm” ca tụng thứ liên hệ
quốc tế vĩ đại này bằng những danh từ thống thiết nhất như “môi hở, răng
lạnh,” “đời đời nhớ ơn,” v.. v... Phía sau hậu trường thì cắt đất
xin quân viện để đánh chiếm miền Nam.]
Phần
Việt Nam Cộng Hòa thích gọi Liên bang Mỹ là “Đồng Minh” và ngược lại. Nhưng
danh xưng chính xác hơn là quốc
gia bảo trợ và chế độ vệ tinh. Mối liên hệ ông chủ- đầy tớ này phản ảnh rõ ràng qua tài liệu văn
khố Mỹ, hàng trăm tác phẩm nghiên cứu và hàng ngàn bài báo xuất bản tại Mỹ từ
năm 1956 tới 1975, nếu chẳng phải còn kéo dài tới ngày nay. Người Mỹ, và cả
người Pháp trước đó, chỉ coi người bản xứ Đông Dương như công cụ chống Cộng hay
lính đánh thuê, trong một cuộc chiến “ủy thác” [proxy wars] để tiết kiệm
xương máu công dân Mỹ.
Với vị thế bảo trợ, từng khai sinh và nuôi
dưỡng chế độ Việt Nam
Cộng Hòa, chính phủ Mỹ thường bị kết tội, dù đúng hay sai, là đã đứng sau mọi
biến cố quan trọng tại Việt Nam, từ những cuộc tranh đấu của các đảng phái, tôn
giáo, phe nhóm, tới “thay ngựa giữa dòng” v.. v... Thực ra, người nghiên
cứu sử nghiêm túc về sự can thiệp của Mỹ không thể không liên tưởng đến chính
sách “cơ mi” mà các triều đình phong kiến Trung Quốc khi xưa đã
áp dụng: Cho tới năm 1960,
người Mỹ chỉ muốn đưa ra những chính sách đại cương, và cử cố vấn theo dõi việc
thực hành của giai tầng trung gian bản xứ. Bởi thế, người Pháp và rồi anh
em ông Diệm được chính phủ Dwight D. “Ike” Eisenhower (1953-1961) cho hưởng
những quyền hành rộng rãi trong khi thực thi chiến lược hoàn cầu chống Cộng và
ngăn chặn sự bành trướng ảnh hưởng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam á. Nhưng
cơ quan tuyên truyền của Mỹ, do nhu cầu chính trị, tô hồng chuốt lục cho ông
Diệm thành Chí Sĩ, lãnh tụ, “bao năm từng lê gót quê người” nên ông Diệm ngỡ
tưởng mình quả thực là Chí Sĩ, lãnh tụ vĩ đại—quên đi cái dĩ vãng của một gia
đình ba thế hệ trung gian bản xứ phục vụ quân xâm lược Pháp từ buổi đầu cho tới
phút chót; bản thân từng man khai lý lịch để làm quan cho Pháp càng sớm càng
tốt (nếu tin được lời ông Ngô Đình
Luyện giải thích với tác giả); ngoài mặt “chống Pháp” mà bề trong thú nhận Bảo
hộ Pháp là “bát cơm dòng họ Ngô”; ngụy tạo thành tích “từ quan chống Pháp” mà
thực chất chỉ là cuộc tranh giành quyền lực với nhóm trung gian bản xứ khác,
đang lên, tiêu biểu bằng ông Phạm Quỳnh.(Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn,
1883-1945, 3 tập [Houston: Văn Hóa, 1999-2000], tập III).
[Tôi vẫn nghĩ nếu gọi ông Diệm là người
yêu nước, phải tôn xưng ông Phạm Quỳnh làm nhà đại ái quốc. Sự đóng góp của ông
Phạm Quỳnh cho đất nước Việt Nam về giáo dục và văn học vượt xa tội hợp tác với
Pháp. Riêng gia đình họ Ngô, ngoài các tội hình sự của Ngô Đình Khả, Ngô Đình
Khôi, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, còn vi phạm nhiều tội ác
chống nhân quyền, mà chẳng có đóng góp gì ngoài hành động biến Ki-tô giáo thành
kẻ thù của các tôn giáo khác như Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài, v.. v... trong
một thời gian dài. (Xem, chẳng hạn, Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư,
tái bản lần 1 (Houston: Văn Hóa, 2000).]
Nhưng từ năm 1957, chế độ Diệm bắt đầu bộc lộ nhược điểm căn bản của
nó. Chống đối nổi lên khắp nơi, trong mọi giai tầng xã hội. Cuộc ám sát hụt ông
Diệm tại Hội chợ Ban Mê Thuột năm 1957 mới chỉ là dấu hiệu tiên khởi. Trong khi
đó, anh em ông Diệm ngày thêm kiêu ngạo, tự cô lập với quần chúng, xa lánh dần
cộng sự viên cũ. Bất cứ một chống đối nào—dù chỉ trong khuôn khổ muốn chân
thành hợp tác—đều bị coi như nguy hiểm cho chế độ, và bị anh em ông Diệm-Nhu
coi như chống đối chính cá nhân mình. Trường hợp Y sĩ Trần Văn Đỗ (chú ruột
Trần Thị Lệ Xuân, vợ ông Nhu), Nguyễn Tăng Nguyên (người theo ông Diệm về nước
năm 1954), Luật sư Nguyễn Hữu Châu (anh rể Lệ Xuân), hay ông Vũ Văn Thái (Tổng
Giám đốc Ngoại viện), cựu Thủ hiến Trần Văn Lý, Luật sư Lê Quang Luật, Y sĩ
Phạm Hữu Chương chỉ là dăm thí dụ được nhiều người biết đến. Bản tuyên cáo
tháng 4/1960 của 18 trí thức, nhân sĩ (thường được biết như Tuyên cáo Caravelle; Gravel,
I:316-21), hay cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960 của nhóm Đại tá Nguyễn Chánh
Thi cho thấy sự bất mãn chế độ đã lan tràn từ giới trí thức thành thị tới hàng
ngũ quân đội, xương sống của chế độ.
Trong khi đó, Cộng Sản Bắc Việt ngày một
ưu thắng trong kế hoạch nhuộm đỏ miền Nam. Nguyên từ năm 1956, dưới áp lực của
chiến dịch Diệt Cọng và Tố
Cọng, nhiều cán bộ Cộng Sản được gài lại miền Nam đã phải rút ra chiến khu,
công khai chống lại chế độ Diệm bằng vũ lực. Do nhu cầu sinh tồn, cán bộ Cộng
Sản liên kết với một số tàn
quân giáo phái và Bình Xuyên—với sự trợ giúp của vài tổ chức lưu vong ở Pháp
như Trần Văn Hữu, Trần Đình Lan, Lê Văn Thu, Hồ Thông Minh, Phạm Huy Cơ, v..
v...—dưới chiêu bài giải phóng miền Nam. Tới năm 1959, sau khi đã đồng ý cắt
đất cho Bắc Kinh để xin quân viện, Hồ Chí Minh và Lê Duẩn gửi quân xâm nhập
miền Nam. Khởi đầu là tái tổ chức căn cứ, rồi khủng bố, ám sát ở vùng nông thôn
hẻo lánh, sau đó tiến lên cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh.
[Năm 1958, 193 viên chức hành chính và cảm
tình viên bị VC giết hại; năm 1959, 239 nạn nhân; trong sáu tháng đầu năm 1960,
tổng số nạn nhân lên tới 780 người. Số người bị bắt cóc tăng từ 236 người năm
1958, lên 344 người năm 1959, và 282 người trong 6 tháng đầu năm 1960. (FRUS,
1958-1960, I:539n5). Nhưng nhiều chuyên viên thế giới vẫn khẳng quyết rằng
cuộc chiến tại miền Nam là “nội chiến” giữa các phe phái đối nghịch nhau].
Mùa Thu năm 1961—phần vì tình hình hỗn
loạn ở Lào, quân CSBV chiếm cứ Tchépone; phần vì một chuỗi thiệt hại về quân sự
trong hai tháng 9-10/1961, đặc biệt là cuộc thất thủ tỉnh ly Phước Thành ngày
18/9/1961 (khiến tỉnh trưởng bị bêu đầu, phó tỉnh trưởng và 10 công chức khác
thiệt mạng); tiếp nối bằng cái chết bí mật ngày 1/10/1961 của Đại tá Hoàng Thụy
Năm, đại diện VNCH trong ổy Ban Quốc tế Kiểm soát Đình chiến [ICC]—ông Diệm ban
hành tình trạng “lâm nguy” (Luật 54/21 ngày 18/10/1961), tập trung mọi quyền
hành còn sót lại vào dinh Độc Lập, biến cơ quan dân cử và tư pháp thành vật
trang sức cho chế độ.
Nhưng tình hình chẳng khả quan hơn. Ngoài
mặt trận, vào giữa năm 1962, an ninh đã ở mức báo động đỏ. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam [MT/GPMN] chính thức hoạt
động từ khoảng mùa Xuân 1962, như một cánh tay chính trị ngoại vi của Bắc Việt,
để cuộc chiến có cái bề ngoài “nội chiến” mà các chuyên viên thế giới ưa thích
diễn tả.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 248-50) Trong nội bộ, tin đồn đảo
chính lưu truyền khắp nơi. Ngày 27/2/1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn
Văn Cử đánh bom Dinh Độc Lập, nhưng không thành công trong việc tiêu diệt họ
Ngô.
Nguy hiểm hơn nữa là giao tình giữa ông
Diệm và Mỹ ngày một xấu đi. Những lời khen ngợi ông Diệm như “người của phép
lạ” đã lạnh tắt dư âm. Từ năm 1957-1958, viên chức Mỹ bắt đầu tố cáo chế độ
“Cảnh sát trị” [police state], cùng những vi phạm nhân quyền khác ở miền Nam
—những cáo buộc với chứng cớ quá hiển nhiên đến độ Lansdale phải vụng về bào
chữa: Đảng Cần Lao cũng như chế độ miền Nam là sản phẩm
của Mỹ; tự lúc khai sinh nó đã độc tài, cách nào trách nó không dân chủ! Trong
khi đó, anh em ông Diệm không còn hoàn toàn tin tưởng vào Mỹ nữa. Những lời chỉ
trích trên báo chí Tây phương, rồi đến lời bàn tán “Họ Ngô phải ra đi” [The
Ngos must go] của các viên chức Mỹ trẻ, và nhất là cuộc đảo chính hụt ngày
11/11/1960 khiến anh em ông Diệm hoài nghi sự ủng hộ của Mỹ. Chỉ một việc xin
đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào chiếm phi trường Tân Sơn Nhất để dẹp đảo chính
mà Đại sứ Elridge Durbrow cũng không chấp thuận. Lại còn áp lực hai bên phải
hòa giải, thương thuyết. Nên ông Diệm chẳng cần bận tâm đến công lao của
Durbrow và trưởng lưới CIA “Bill” Colby—ngăn chặn quân Nhảy Dù đánh thẳng vào
Dinh Độc Lập, hay pháo của phe đảo chính nã vào Dinh Độc Lập và thành Cộng
Hòa—mà chúi mũi dùi vào những nhân vật như Miller, Carver, v.. v... bên cạnh
nhóm đảo chính. Họ Ngô công khai tuyên bố “có bàn tay lông lá” phía sau cuộc
đảo chính trên. (Theo tin đồn của chế độ Diệm, Luật sư Hoàng Cơ Thụy được Mỹ
cho vào bao đựng văn thư đưa trốn khỏi nước)
Thực ra, từ năm 1959 người Mỹ mới bắt đầu
chú ý nhiều hơn đến Việt Nam. Một trong những lý do là tình hình Lào ngày thêm
rối loạn. Trong khi đó, Hà Nội công khai tuyên bố chủ trương “thống nhất đất
nước” bằng võ lực. Dẫu vậy, phải tới thời Kennedy, Mỹ mới bắt đầu leo thang sự
can thiệp. Chiến lược hoàn cầu của Kennedy phần nào thay đổi so với chính sách
của người tiền nhiệm: Kennedy muốn giành lại ưu thế về quân sự, chính trị và
ngoại giao với Liên Sô Nga sau các biến cố phi thuyền Sputnik, phi cơ thám
thính U-2, hay Cuba. Kennedy quyết định đương đầu với sách lược “chiến tranh
giải phóng quốc gia” của điện Krem-li bằng mọi giá. Xương sống của chủ thuyết
Kennedy là kế hoạch chống phản loạn (Counter-Insurgency Plan, viết tắt
là CIP; thường được các tác giả Cộng Sản gọi là chiến tranh đặc biệt).
Trước viễn ảnh suy sụp của chế độ
Diệm-Nhu, chính phủ Kennedy bỏ chính sách cơ mi cũ, muốn can thiệp mạnh hơn.
Chưa làm lễ nhiệm chức, Kennedy đã phái Tướng Lansdale qua Sài Gòn từ ngày 2
tới 14/1/1961 để dò xét tâm ý ông Diệm hầu thiết lập một kế hoạch riêng cho
Việt Nam. Tiếp đó là các chuyến viếng thăm của Phó Tổng thống Lyndon B.
Johnson, Tướng Maxwell D. Taylor, kinh tế gia Eugene E. Staley. Ngày
22/11/1961, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia [HĐ/ANQG] Mỹ phê chuẩn Nghị quyết NSAM
111 về Việt Nam. Nghị quyết mang tên “Giai đoạn đầu của Kế hoạch Việt Nam” này
dựa trên tờ trình của Bộ trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara và Ngoại trưởng
Dean Rusk ngày 11/11/1961—chỉ gạch bỏ lời cam đoan rằng Mỹ sẽ can thiệp cho tới
chiến thắng cuối cùng. Mỹ quyết định sẽ giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cuộc
nổi dạy của “Việt Cộng” bằng mọi cách, ngoại
trừ việc đưa quân chiến đấu vào đây. Kế hoạch này gồm nhiều điểm, từ quân
sự tới kinh tế, chính trị, và bình định. Về quân sự, Mỹ sẽ tăng cường số cố
vấn, thử nghiệm những kỹ thuật chiến tranh mới (như trực thăng vận, thiết vận
xa, thuốc khai quang), v.. v... Sau đó sẽ nghiên cứu việc đưa quân chiến đấu
vào miền Nam, nếu cần.
[Tháng 9/1963, Ngoại trưởng Rusk vẫn khẳng
định Mỹ không muốn đưa quân chiến đấu vào miền Nam để tránh rơi vào tình trạng
tương tự như Pháp trước đó, dù Mỹ cũng không muốn bỏ rơi miền Nam.(FRUS,
1961-1963, IV:185)]
Về phương diện hành chính và chính trị, Mỹ
ra sức khuyến khích ông Diệm thay đổi lề lối cai trị, cho phép những người
ngoài đảng Cần Lao tham gia sinh hoạt chính trị để tạo
thế đoàn kết quốc gia.
Về phương diện quân sự, ông Diệm rất vui
vẻ đón nhận quân viện và chính sách mới của
Mỹ. Chẳng hạn như từ ngày 15/6/1961, ông Diệm luôn thúc dục Mỹ phải thực hiện
càng sớm càng tốt việc sử dụng thuốc khai quang để phá hoại mùa màng trong mật
khu Việt Cộng. Chỉ có hai trở ngại là vấn đề lập một Bộ Tư lệnh hỗn hợp Mỹ-Việt
(sau Mỹ bỏ qua); và vấn đề cho quân đội được quyền tự trị.
Về phương diện chính trị, anh em ông
Diệm-Nhu cương quyết chống việc mở rộng chính phủ. Thái độ ông Diệm với cố vấn
dân sự Mỹ ở các tỉnh cũng rất lạnh nhạt (như không cho cố vấn ở chung với Tỉnh
trưởng; ngầm khuyến khích bất hợp tác).
Về phương diện bình định nông thôn—một
lãnh vực ông Diệm không mấy chú tâm trước năm 1960—ông Nhu đưa ra hai kế
hoạch Khu Trù Mật và ấp Chiến lược. Tự hào đây là quốc sách cứu vãn miền Nam,
anh em ông Diệm-Nhu thường không hài lòng khi thấy báo chí Mỹ chỉ trích chiến
lược này nói riêng, và chế độ độc tài, gia đình trị của họ Ngô nói chung. (Báo
chí và chuyên viên về Việt Nam thỉnh thoảng nhắc đến hai tiếng “giáo phiệt
Ki-tô”—tức dùng thiểu số Ki-tô cai trị một quốc gia đại đa số dân chúng không
theo đạo này)
(4) “Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long:
Đáng
ngại hơn nữa, và đây là thảm kịch của họ Ngô nói riêng, toàn dân quân miền Nam
nói chung, qua kế hoạch “chiêu hồi,” anh em ông Diệm bị lôi cuốn dần vào cái
bẫy sập “hòa bình, thống nhất, trung lập” của Hà Nội, với sự cổ võ của chính
phủ Charles de Gaulle. Bẫy sập này bắt đầu mở ra trước hoặc sau bài chúc Tết của
Hồ Chí Minh vào dịp đầu năm 1962—Hồ ngỏ ý mong mỏi thương thuyết “để hòa bình
thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ
[Geneva, 20-21/7/1954] qui định.” (Báo cáo số 41/AS, Roger Lalouette gửi Couve
de Murville; AMAE [Paris], CLV, SVN, hộp 91; Nhân Dân, 1/1/1962; Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989,
9:272) Vì thế, có tin ông Hồ đã gửi cho ông Diệm một chậu đào “vui Xuân” Nhâm
Dần (1962)—chậu đào rồi sẽ tưới bằng máu họ Ngô.
[Theo Tướng Đỗ Mậu, ông Diệm khoe chậu đào
này do bà con ngoài Bắc gửi tặng. Một nhân chứng khác, ông Cao Xuân Vỹ, cho
rằng Hồ gửi chậu đào trên vào dịp Tết Quí Mão, 1963]
Trọn năm 1962 và đầu năm 1963, Hà Nội tiếp
tục tung ra những màn hỏa mù ngoại giao “hòa bình, thống nhất trên cơ sở Hiệp
định Geneva,” qua bài viết của Thiếu tướng Nguyễn Văn Vịnh, chuyến viếng thăm
India của Y sĩ Phạm Ngọc Thạch, và đặc biệt, những cuộc tiếp xúc bí mật với anh
em ông Diệm-Nhu. Vào tháng 5/1963, trong bài phỏng vấn của Alfred Burchett trên
tờ báo chuyên về ngoại giao của Liên Sô Nga, New
Times [Tân Thời Báo], Hồ còn
lập lại đề nghị này như để khuyến khích họ Ngô.
Đại sứ Pháp Roger Lalouette—qua thư riêng
của ông Diệm xin Paris cứu nguy vào mùa Thu 1961, và kế hoạch “trung lập hóa”
Đông Dương của Tổng thống de Gaulle—đã hướng dẫn anh em ông Diệm lạc dần khỏi
vòng quĩ đạo che chở và dung dưỡng của Mỹ. Giáo hoàng John XXIII (1958-1963),
người từng trao đổi quà tặng với Nikita Khruschev nhân dịp Giáng Sinh, cũng ít
nhiều tiếp tay anh em ông Diệm-Nhu trong việc “ve vãn” [flirting] Cộng Sản
này (với niềm tin rằng Hồ Chí Minh chủ hòa, và Trung Cộng chủ chiến). Ngoài ra,
cũng cần đề cập đến không khí hòa hoãn đặc biệt giữa Mỹ và Nga vào cuối năm
1962, đầu năm 1963. Tháng 12/1962, Khruschev đề nghị hai siêu cường nên hạn chế
cuộc chạy đua vũ trang nguyên tử. Ngày 10/6/1963, Kennedy đáp ứng bằng bài diễn
văn tại Đại học American ở Kentucky, kêu gọi tiến về một nền hòa bình thế giới.
Khruschev hết lời ca ngợi, và ngay sau đó, đại diện Mỹ, Bri-tên cùng Nga bắt
đầu thương thuyết về vấn đề hạn chế thí nghiệm bom nguyên tử. Ngày 5/8/1963,
Hiệp ước ngưng thí nghiệm nguyên tử trên không gian, trong khí quyển và dưới
nước ký tại Mat-scơ-va.
Chính
ông Nhu không dấu diếm người Mỹ những cuộc tiếp xúc bí mật với cán bộ Cộng Sản
trong khuôn khổ quốc sách “chiêu hồi” (như ý định xin về hàng của một Đại tá
Cộng Sản và 3 tiểu đoàn ở Lào). Có lần, ông Nhu đã kiêu hãnh chỉ vào chiếc ghế
trước mặt, khoe với viên chức tình báo Mỹ rằng một cán bộ cao cấp Việt Cộng vừa
ngồi ở đó.
[Cho tới nay vẫn chưa có tài liệu rõ ràng
về những đầu mối bản xứ giúp ông Nhu ve vãn Việt Cộng. Có người cho rằng Mã
Tuyên, một lãnh tụ Hoa kiều ở Chợ Lớn, là đầu mối quan trọng. Lại có tin Albert
Phạm Ngọc Thuần [sau đổi thành Thảo], cựu Giám đốc Mật vụ của Ủy Ban Hành Chính
Kháng chiến Nam Bộ (1947-1949), và lúc đó giữ chức Thanh tra ấp Chiến lược, với
cấp Trung tá, là đầu mối khác. Ngoài ra, phải kể Vũ Ngọc Nhạ của cụm tình báo
chiến lược A-22, và các ổ trí vận ở Sài Gòn dưới quyền Trần Bạch Đằng, kể cả em
gái Bộ trưởng Trần Lê Quang, v.. v...]
Đây có lẽ là lỗi lầm chiến lược lớn nhất
của anh em ông Diệm. Sở dĩ ông Diệm được đưa về làm Thủ tướng vào tháng 6/1954,
hay viện trợ và ảnh hưởng chính trị Mỹ giúp khai sinh và dung dưỡng chế độ Việt
Nam Cộng Hòa suốt hơn 8 năm sau Hiệp định Geneva, không nhắm mục đích cho ông
Nhu bắt tay với Cộng Sản Hà Nội, hoặc, theo lời Ngoại trưởng Rusk, không để bà
Nhu “vỗ tay reo hò” khuyến khích việc “nướng thịt sư.” Dù Đại sứ Frederick E.
Nolting và Trưởng lưới Tình báo Trung ương (CIA) tại Sài Gòn, John H.
Richardson, ngoảnh mặt làm ngơ—với hy vọng ông Nhu không bán đứng miền Nam cho
Hồ—nhiều viên chức ở Oat-shinh-tân không dấu bất bình. Họ lo ngại rằng một ngày
nào đó vợ chồng ông Nhu, mà ảnh hưởng đang khiến ông Diệm lu mờ dần, sẽ đòi hỏi
Mỹ triệt thoái khỏi miền Nam, thành lập một chính phủ liên hiệp với Hà Nội hay
MT/GPMN. Hai viên chức ngoại giao có tiếng nói mạnh nhất là W. Averell Harriman
và George W. Ball của Bộ Ngoại Giao, từng nổi danh về lập trường chống Cộng. Họ
nỗ lực vận động bắt vợ chồng ông Nhu cùng Tổng Giám mục Thục rời nước.
(5) Thái độ giới truyền thông Mỹ:
Trong
khi đó một nhóm ký giả trẻ như Neil Sheehan, Malcom Brown, David Halberstam,
v.. v... được Trung tá Paul Vann, cùng viên chức trong Dinh Gia Long (Trần Kim
Tuyến, Nguyễn Đình Thuần), và cán bộ tình báo chiến lược Bắc Việt (như Vũ Ngọc
Nhạ, Pham Xuân ẩn) cung cấp
tin tức mật—do những lý do và mục đích khác nhau—tìm cách trình bày chiến cuộc
ở miền Nam và gia đình họ Ngô dưới những góc cạnh bi quan nhất. Sợi giây xuyên
suốt qua những bài tường thuật của họ là trận chiến đang thua và Mỹ không thể
thắng trận với anh em họ Ngô. Theo họ, Nam Việt Nam đang trở thành một thứ “bãi
lầy” hay “cát lún,” nghĩa địa của uy tín và danh dự của siêu cường Mỹ. (“Chiến
thắng” Ấp Bắc vào đầu năm 1963 chỉ là một thí dụ) Qua những cuộc phỏng vấn Ngô Đình Nhu
và nhất là Lệ Xuân, họ biến vợ chồng Nhu-Lệ Xuân thành một thứ quái vật đen của
chế độ. Vì không thích bị chỉ trích, họ Ngô tìm đủ cách phản ứng. Từ áp lực Tòa
Đại sứ Mỹ can thiệp, tới sử dụng tờ nhật báo Mỹ ngữ ở Sài Gòn, Times of Vietnam [Việt Nam Thời Báo], hay vài ký giả
nổi danh như Margueritte Higgins, Joseph Alsop, v.. v... để trả đũa. Rồi dần
dần đến những biện pháp kiểm duyệt, trục xuất, và ngay cả bạo động. (Xem David
Halberstam, The Making of A
Quagmire (New York: Random
House, 1965; Neil Sheehan, The
Bright Shining Lie (New York:
Vintage Books, 1988), tr. 269-371)
(6) Ông Diệm mất dần bạn cũ:
Từ năm 1962, nếu không phải sớm hơn, người
Mỹ bắt đầu nghiên cứu một giải-pháp-khác-Diệm.(VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 256-8) Ngay những người thân cận cũ của ông Diệm trong nhóm
Bạn Mỹ của Việt Nam [American Friends of Vietnam] như Giáo sư Wesley
Fishel, Joseph Buttinger, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield (1903-,
Lãnh tụ Khối đa số Thượng viện, không dấu sự hoài nghi khả năng của anh em ông
Diệm. Cuối năm 1962, Mansfield còn yêu cầu Kennedy tái duyệt xét chính sách của
Mỹ, tức nghiên cứu việc rút khỏi miền Nam trước khi quá trễ. (Báo cáo ngày
18/12/1962, FRUS, 1961-1963,
II:Tài liệu 330; VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 239-40, 268-9)
(7) Chiến dịch chống Mỹ của Ngô Đình Nhu:
Như
một phản ứng dây chuyền, hai anh em ông Diệm-Nhu bèn vận hết sức lực tự cứu.
Một mặt, ông Nhu xúc tiến mạnh hơn việc móc nối Cộng Sản, qua trung gian của
Pháp và Khâm sứ Vatican Salvadore d’ Asta. Trong bóng tối, ông Nhu bí mật gặp
Phạm Hùng, Phó Thủ tướng đặc trách vấn đề thống nhất, ở vùng Bà Rịa.(William
Colby, Lost Victory, 1989,
tr.103; Chính Đạo, Tôn Giáo
& Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 [1994], tr. 50-3) Mặt khác, ông Nhu
và vợ (Lệ Xuân) mở chiến dịch bài Mỹ. Chua ngoa nhất, dĩ nhiên, là Lệ Xuân.
Ngay Đại sứ Nolting—người nhiệt thành ủng hộ ông Diệm—từng đe dọa sẽ rời khán đài
danh dự trong Lễ Hai Bà Trưng năm 1963, nếu Lệ Xuân đả kích Mansfield. Hoặc, từ
chối lên Đà Lạt nghỉ mát với Bà Nhu vào dịp cuối tuần vì những lời tuyên bố vô
trách nhiệm của Phong Trào Phụ
Nữ Liên Đới do Lệ Xuân làm
chủ tịch.
(8) Mùa Phật Đản đẫm máu:
Tiếp đó, một chuỗi biến cố trầm trọng xảy
ra. Nẩy lửa nhất là cuộc nổi dạy của Phật giáo trong dịp lễ Phật đản 8/5/1963.
Khởi đi từ “khẩu lệnh” cấm treo cờ Phật giáo của ông Diệm, cuộc chống đối của
tăng ni, Phật tử và quyết định đàn áp của chế độ đưa đến cuộc thảm sát man rợ
trước đài phát thanh Huế (khiến 9 người thiệt mạng, kể cả hai thiếu nhi—một thứ
tội sát nhân (murder), vi phạm luật chiến tranh (war crimes) và
vi phạm nhân quyền (crimes against human rights) mà Liên Hiệp Quốc lên
án.
[Thoạt tiên ông Diệm biện bạch với viên
chức Mỹ rằng có bàn tay khủng bố của Cộng Sản ném lựu đạn.(Chính Đạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 285,
286) Mãi đến chiều ngày 8/6/1963, ông Diệm mới chịu nhìn nhận rằng cấp dưới đã báo cáo sai lạc là Cộng
Sản ném lựu đạn.(Ibid., tr. 293) Nhưng những người tưởng nhớ họ Ngô vẫn
khăng khăng rằng các nạn nhân đã chết vì một trái lựu đạn “bí mật” của Cộng
Sản. Tác giả Cao Thế Dung thì nói đến một trái mìn đặc biệt của nhân viên tình
báo Mỹ Scott nào đó.
Cho tới năm 2002, vài người còn nhắm mắt
lại mà nguyền rủa quả lựu đạn hay trái mìn của “Cộng Sản” hoặc “tình báo Mỹ”
không hề hiện hữu trên!]
Dù biết và thú nhận thuộc hạ báo cáo sai
lạc, ông Diệm vẫn cho lệnh Đại tá Đỗ Cao Trí “tái lập trật tự” ở Huế, và Đại tá
Lâm Văn Phát “ổn định tình hình” ở Đà Nẵng. Sau đó, phong tướng cho Đại tá Trí
để thay Tướng Lê Văn Nghiêm chỉ huy vùng I. Thuộc hạ các ông Cẩn-Thục tự do sử
dụng cảnh sát, công an, mật vụ, Nhảy Dù, cảnh sát, xe tăng, khói độc (blister
gas) và quân khuyển để đàn áp biểu tình. Họ bắt giữ bừa bãi (arbitrary
detention) và tra tấn (torture) hàng ngàn người vô tội theo phương
cách Trung cổ.
Tại Sài Gòn, các lãnh tụ Phật giáo nổi
danh chống Cộng như Thượng tọa Thích Tâm Châu, Thích Quảng Độ đều đứng lên bảo
vệ Phật giáo. Điều khiến đại đa số thầm lặng và ngay cả người thân cận với ông
Diệm xa lánh dần chế độ là phe tranh đấu Phật giáo chỉ đưa ra những nguyện vọng
rất ôn hòa—bình đẳng tôn giáo và hủy bỏ Dụ số 10 đặt Ki-tô giáo lên hàng tôn
giáo duy nhất được công nhận.(Phỏng vấn điện thoại ông Đỗ Mậu, 1/2002)
Không muốn làm mất vui ngày lễ mừng 25 năm
thụ phong Giám mục (Tae Deum) của ông Thục (từ 25 tới 27/6/1963), ông
Diệm lại ra tay “tái lập trật tự” theo đúng phương cách ở miền Trung. Dùi cui,
vòi rồng, khói ngạt, quân khuyển, mật vụ, công an, rồi đến Lực lượng Đặc biệt,
Nhảy Dù. Thái độ cứng rắn của anh em ông Diệm-Nhu, với nữ phát ngôn viên bán
chính thức Lệ Xuân, đưa đến cuộc tự thiêu vì đạo pháp của Thượng tọa Thích
Quảng Đức ngày 11/6/1963, mồi lửa đầu tiên thiêu hủy chế độ. Rồi đến cuộc tự
sát bằng thuốc độc của nhà văn Nhất Linh ngày 6/7/1963—để phản đối thứ “cong
lý” của chế độ, khi ông Diệm đưa nhóm liên hệ đến cuộc đảo chính 11/11/1960
ra tòa xét xử hầu răn đe những người chống đối—cái chết đẩy giới trí thức, học
sinh, sinh viên nhập cuộc.
Nhưng đáng sợ hơn là hậu quả của chính
sách bàn tay sắt trên, tức sự bất mãn trong giới quân đội và công chức. Ngay
những người thân thiết với chế độ cũng xa lánh, hay tích cực hơn, tìm cách tổ
chức lật đổ họ Ngô. Quân đội có các Tướng Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Trần
Văn Đôn, Lê Văn Nghiêm, Phạm Xuân Chiểu, v.. v... Dân sự có Y sĩ Trần Kim Tuyến
(với sự yểm trợ của Thượng tọa Tâm Châu, Thiện Minh, Tổng Giám mục Nguyễn Văn
Bình). Ngoài ra, còn nhóm Ki-tô miền Nam, cựu Cần
Lao, của các ông Huỳnh Văn Lang, Phạm Ngọc Thảo, v.. v...
Như
đổ dầu vào lửa, suốt mùa Hè 1963, thái độ vợ chồng Nhu-Lệ Xuân thêm hung hăng,
khiêu khích. Hai vợ chồng Nhu công khai vu cáo cuộc tranh đấu của Phật giáo do
“Cộng Sản” chủ trương hay xúi dục (trong khi chính ông Nhu đang móc nối với
Cộng Sản); nhục mạ những cuộc tự thiêu là “nướng thịt sư”; v.. v... Ngày Thứ
Năm, 1/8, trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Mỹ CBS, Lệ Xuân tố cáo các
lãnh tụ Phật giáo đang âm mưu lật đổ chính phủ. Theo Lệ Xuân, tất cả những gì Phật
tử đã làm chỉ có "nướng thịt sư" (barbecue a bonze) với xăng
nhập cảng. Hai ngày sau, 3/8,
trong lễ mãn khóa huấn luyện bán quân sự cho Thanh Nữ Cộng Hoà, Lệ Xuân lên án
Phật tử là phản loạn đang sử dụng các thủ thuật Cộng sản phá hoại quốc gia. Đại
sứ Trần Văn Chương, cha của Lệ Xuân, mượn đài V.O.A. [Đài Tiếng nói Hoa Kỳ] lên
án con gái là vô lễ và hỗn láo [impertinent and disrespectful]
trong buổi phát thanh ngày Thứ Ba, 6/8/1963. Lệ Xuân bèn sai báo Times of Vietnam (số ra ngày Thứ Năm, 8/8/1963) phỏng
vấn để trả lời, khẳng định chỉ nói lên sự thực, và các lãnh tụ tranh đấu không
đại diện cho Phật giáo hay dân tộc Việt Nam.
Để
trả lời Lệ Xuân, ngày Chủ Nhật, 4/8, Đại Đức Nguyên Hương (Huỳnh Văn Lễ) tự
thiêu trước Dinh Tỉnh trưởng Phan Thiết. Sau
đó Phật tử tranh đấu biểu tình đòi lại xác. Hôm sau, 5/8, một tăng sĩ khác tự
thiêu ở Sài-Gòn để đòi bình quyền tôn giáo.
Ông Nhu ra sức bênh vực Lệ Xuân. Khi Đại
sứ Nolting than phiền, Nhu biện hộ rằng Lệ Xuân có quyền phát biểu ý kiến riêng
của một công dân. Cá nhân ông Nhu cũng tuyên bố với hãng thông tấn Reuters rằng sẽ xuống tay với chùa Xá Lợi vì
các tăng sĩ đang âm mưu đảo chính. Rồi đe dọa rằng nếu không giải quyết được
vấn đề Phật giáo, sẽ có một cuộc đảo chính chống Mỹ và Phật giáo.(Ngày 5/8, New York Timesđăng lại tin này
của Reuters).
Lối
chụp mũ “Cộng Sản” và “âm mưu lật đổ chính quyền hợp pháp” này, được ông Diệm
và Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương “làm phép lành,” không chỉ có tính cách mạ lỵ
vu vơ như ở hải ngoại hiện nay. Chúng mang sức mạnh của bạo lực man rợ hôn ám
các ngục tù và cơ quan cảnh sát, an ninh của chế độ: Đêm đêm, mật vụ lùng bắt
học sinh, sinh viên, cùng Phật tử, và đối xử với họ như những nghi can Cộng Sản
khác. Nước xà-phòng (còn gọi là sà-bông,
do chữ savon) đổ vào cuống
họng, rồi cho đi “tàu ngầm,” “tàu bay;” quay điện vào tai, hay bộ phận sinh
dục; dùng đèn tụ quang hàng ngàn watts (oắt) chiếu vào mắt; học sinh,
sinh viên bị nhốt vào những phuy [fut] chứa nước phơi giữa trời
nắng, cho điều tra viên cầm dùi cui gõ bên ngoài. Và bất cứ thứ đòn tra tấn dã
man nào khác mà nha trảo chế độ có thể sáng chế ra. Hai chữ “dã man” phải dùng
vì không còn tĩnh từ nào đủ diễn tả cảnh người hành hạ người như nha trảo chế
độ Diệm khủng bố dân chúng
miền Nam, chỉ vì quyết tâm đòi hỏi tự do, dân chủ hay khác niềm tin tôn giáo.
(Trong số thân hữu của tôi có quí ông Phạm Mộng Chương, Vũ Văn Lê, Nguyễn Văn
Năng, hiện đang cư ngụ tại Houston, từng nếm mùi ngục tù và tra tấn của chế độ
họ Ngô) Phần những lời đả kích Mỹ của vợ chồng Nhu-Lệ Xuân—chẳng hiểu do muốn
chứng minh với Bắc Việt thành tâm hòa hợp, hòa giải, hay để trả đũa báo chí
Mỹ—biến thành những chiếc đinh, từng chiếc, từng chiếc, đóng dần lên quan tài
của chế độ.
Ngày
Thứ Năm, 8/8, báo New York
Times đăng trên trang nhất
bài của ký giả David Halberstam, từ Sài-Gòn, với tựa "Bà Nhu Tố Cáo Mỹ Bắt
Chẹt ở Việt Nam" [Mrs. Nhu Denounces U.S. for "Blackmail" in
Vietnam]. Theo Halberstam, Lệ Xuân tuyên bố rằng Tổng thống Diệm không có
dân chúng ủng hộ, phải dựa vào vợ chồng Nhu. Song song với bài trên có bài của
Tad Szulc ở Oat-shinh-tân, tiết lộ mối quan tâm ngày một gia tăng của chính phủ
Kennedy về việc chính phủ Diệm khó sống còn nếu không hòa hoãn với Phật giáo.
Trong khi đó, tuần báo Newsweek,
số đề ngày 9/8/1963, đăng một bài đặc biệt về “Rồng Cái” [Dragon Lady]
Lệ Xuân.
Tại
Oat-shinh-tân, ngày 9/8, Michael Forrestal thuộc Ban Tham mưu HĐ/ANQG làm phiếu
trình lên Kennedy về thái độ của vợ chồng Nhu. Báo cáo này cũng nhắc đến việc
ba quốc gia Cao Miên, Ceylon [Sri Lanka ngày nay], Nepal đã đưa vấn đề Phật
giáo ra trước văn phòng Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc; và, Liên Hiệp Quốc có thể
sẽ họp Đại Hội Đồng để thảo luận.
Ngày
10/8, Nolting gặp ông Diệm về Lệ Xuân. Khi ông Diệm lập lại lối biện hộ rằng Lệ
Xuân có quyền phát biểu ý kiến riêng, Nolting bảo thẳng Diệm rằng nếu không
đích thân giải quyết, ủng hộ Đại sứ Trần Văn Chương, và chấm dứt tình trạng
“động kinh” [schizophrenia] hiện tại, thì đừng trông đợi sẽ duy trì được
liên hệ tốt với chính phủ Mỹ. Ông Diệm đành hứa là sẽ cứu xét các biện pháp đối
với Lệ Xuân, và đã nghĩ đến việc cho Lệ Xuân "nghỉ." Trong báo cáo về
Oat-shinh-tân, Nolting đề nghị cho Lệ Xuân đi "nghỉ dài hạn" vì vượt
ngoài sự kiểm soát của cha mẹ và anh chồng. Tổng Giám Mục Thục cũng được thăng
cấp [về Vatican]. Phó Tổng thống Thơ, Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần, Ngoại trưởng
Vũ Văn Mẫu, Bửu Hội, và chính Ngô Đình Nhu đều đồng ý.(FRUS, 1961-1963,
III:560-1)
Ngày
Thứ Hai, 12/8—sau khi được chỉ thị phải áp lực ông Diệm tái xác định chủ trương
hòa hoãn với Phật Giáo (FRUS, 1961-1963, III:537-8)—Nolting lại gặp ông
Diệm. Vì họ Ngô đã có quyết
tâm từ sau buổi họp mật tại Huế vào cuối tháng 6/1963, ông Diệm trút tội cho
các tăng ni thiếu thành thực, và trách thế giới không biết đến việc các sư giả
muốn lật đổ chế độ.
[“Sư giả” là sáng chế của họ Ngô—mùa Hè
1963, người ta thấy xuất hiện trên đường phố, rạp hát, tiệm ăn nhiều thanh niên
cạo đầu trọc, mặc áo tu sĩ Phật Giáo, chửi thề, ăn nói tục tĩu. Ai cũng biết
đây là sáng kiến của nha trảo họ Ngô].
Ông
Diệm cũng phủ nhận nguồn tin mật mà Bộ trưởng Thuần tiết lộ với viên chức Mỹ
tối hôm trước là Lệ Xuân cùng em ruột, Trần Văn Khiêm, với sự quay mặt làm ngơ
của Nhu, đang tổ chức một toán cảnh sát đặc biệt để bắt cóc đối thủ. (ít tuần
sau, Khiêm khoe với một ký giả Aus-tra-li-a [Australia] danh sách những người
cần bị tiêu diệt)
Nhưng
vì Nolting sắp hết nhiệm kỳ, ông Diệm hứa sẽ cho Nolting biết quyết định vào
tối đó, khi gặp nhau tại dạ tiệc tiễn biệt—lời hứa ông Diệm không giữ. Câu trả lời đích thực của ông Diệm
được Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phát biểu trong buổi họp báo ngày hôm sau,
13/8. Ông Thơ tuyên bố sẽ truy tố một số người tham dự biểu tình ngày 8/5/1963;
và những người bị bắt sau ngày ra Tuyên cáo chung 16/6/1963 có thể không được
khoan hồng. Trong phần hỏi đáp,
ông Thơ so sánh trường hợp Lệ Xuân với những lời chỉ trích chính phủ VNCH của
TNS Mansfield. Ngày này, như để trả lời ông Thơ, Đại đức Thanh Tuệ, 17 tuổi, tự thiêu tại chùa Phước Duyên.
Bạch
Cung và Bộ Ngoại Giao Mỹ không dấu được bực dọc. Trong công điện ngày 13/8 gửi
Nolting, Bộ Ngoại Giao Mỹ cho rằng buổi họp báo của Thơ khó thể kết luận là
"hoà hoãn." Và đặt câu
hỏi liệu ông Diệm có chịu đi nghỉ mát chung với vợ chồng Nhu một thời gian, để
Phó Tổng thống Thơ làm Quyền Tổng thống, và ông Ngô Đình Luyện làm cố vấn hay
Thủ tướng?(FRUS, 1961-1963, III:564-5)
Trọn
ngày Thứ Tư, 14/8, Nolting cố thuyết phục, nhưng ông Diệm quyết không chịu ra
thêm một bản tuyên bố nào về chính sách hòa hoãn với Phật Giáo. Khi vào chào từ
biệt lúc 11G00, Nolting chỉ được nghe ông Diệm ca ngợi công lao ông Nhu đóng
góp vào quốc sách chống Cộng. Tới
phút chót, sau khi Nolting lại đe rằng liên hệ giữa Mỹ và VNCH sẽ bị tổn thương
nếu Diệm không tuyên bố rõ ràng ai đang thực sự cai trị miền Nam, cải thiện dư
luận về những lời tuyên bố của Lệ Xuân, ông Diệm mới hứa sẽ ra tuyên cáo trước
khi Nolting rời Sài Gòn.(FRUS, 1961-1963, III:565-6)
“Tuyên
cáo” của ông Diệm thực ra là bài phỏng vấn của Marguerite Higgins đăng trên The New York Herald Tribune ngày 15/8. Ông Diệm tuyên bố vẫn theo
chính sách ôn hoà với Phật giáo, và ngầm đả kích những lời tuyên bố lỗ mãng của
vợ Nhu. Ông Diệm và gia đình cũng rất vui lòng về việc bổ nhiệm tân Đại sứ Henri Cabot-Lodge. Nhưng đây
chỉ là món quà chia tay với Nolting, và để trấn an dư luận Mỹ. Các viên chức Mỹ
không thỏa mãn với thứ “Tuyên ngôn” qua phỏng vấn báo chí này: Nó không những
bán chính thức mà Diệm có thể phủ nhận hay cải chính bất cứ lúc nào.
Trong
khi đó, phong trào tranh đấu của Phật Giáo ngày một lớn mạnh. Tại Huế, ngày Thứ
Tư, 14/8, một thợ mộc Phật tử phụ trách việc treo biểu ngữ và cờ bị bắn chết.
Hôm sau, 15/8, ni cô Diệu Quang tự thiêu tại chùa Ninh Hoà. Sinh viên Huế cũng
bắt đầu xao động. Từ giữa tháng 8/1963, họ công khai chống đối việc thay thế
Viện trưởng Đại học Huế Linh mục Cao Văn Luận bằng Giáo sư Nguyễn Hữu Thế.
Giọt nước làm tràn ly, và cũng chiếc đinh
đầu tiên đóng lên nắp quan tài VNCH, là cuộc tấn công hầu hết các chùa chiền
trên toàn quốc vào nửa đêm ngày 20, rạng ngày 21/8/1963.
Đây
là một tội ác vi phạm nhân quyền khác, nặng nề gấp trăm lần cách dùng đèn cầy
[nến] đốt hậu môn tù nhân mà có nhân chứng tiết lộ rằng Tri huyện Ngô Đình Diệm
sính dùng để khảo cung nghi can ngày còn làm quan cho Pháp hơn 30 năm trước.
Cuộc tấn công này và những thủ thuật bưng bít, xuyên tạc của anh em ông
Diệm-Nhu trong những ngày kế tiếp—như ông Diệm cả quyết rằng chỉ lục soát vài
chục ngôi chùa lớn trong số 4,700 chùa khắp miền Nam—gỡ xuống chiếc mặt nạ “tiết
trực tâm hư” của ông Diệm, và gột sạch bất cứ thiện cảm nào còn sót lại với
ông ta trong đám đông thầm lặng cũng như viên chức Mỹ.
Cho
đến nay, vẫn còn người cố tình xuyên tạc về biến cố tấn công các chùa chiền đêm
20 rạng 21/8. Bởi thế tưởng nên thuật lại tóm lược biến cố trên.
(9) Cuộc tảo thanh chùa chiền:
Ý định tấn công các chùa chiền và ban
hành thiết quân luật từ nửa đêm ngày 20/8 không được giữ bí mật hoàn toàn như
người ta thường nghĩ. Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần đã cho nhân viên Tòa Đại sứ
Mỹ biết về Thiết quân luật trước nhiều giờ.(FRUS, 1961-1963, III:595n2)
Một ký giả Mỹ cũng tự nhận được “mật báo” từ một viên chức nào đó tại Dinh Gia
Long, nên đã tới chùa Xá Lợi trước khi xảy ra cuộc tấn công. Và,
thực ra, từ hơn nửa tháng trước, đích thân ông Nhu đã răn đe trong cuộc phỏng
vấn của hãng thông tấn Reuters là sẽ phá tan chùa Xá Lợi, nhưng khi bị Nolting
chất vấn đã qui trách cho ký giả Mỹ dẫn không đúng lời mình.
Người
đưa ra đề nghị thiết quân luật là các Tướng, do André Đôn cầm đầu. Nhưng không
hiểu các Tướng có biết đến kế hoạch mật của ông Nhu. Người được giao trách
nhiệm tổng quát ở Sài Gòn là Trung tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân Đoàn III,
kiêm Tổng trấn thủ đô. Đại tá Lê Quang Tung chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt, và Nguyễn
Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô thành, chỉ huy Cảnh sát mặc giả quân phục. Tại
chùa Xá Lợi (Sài-gòn), cuộc tấn công khởi sự vào
khoảng 1 giờ sáng. Binh sĩ LLĐB và Cảnh Sát sử dụng cả lựu đạn khi lục
soát. Hòa thượng Tịnh Khiết và Thượng tọa Tâm Châu cùng Ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đều bị bắt. Hơn 30 người bị thương.
Chỉ có hai tăng sĩ chạy được qua cơ quan USOM, gần chùa Xá Lợi xin tị nạn
(Thượng tọa Trí Quang xin tị nạn vài ngày sau). Mặc dù các giới chức Việt Nam
áp lực phải trao trả hai tăng sĩ trên, nhưng XLTV Đại sứ Trueheart từ chối. Ông
Nhu bèn cho lệnh đặt kẽm gai cô lập cơ sở USOM, ngoại bất nhập, nội bất xuất. (Gravel,
II:210; Tâm Châu 1994:19;FRUS,
1961-1963, III:595-7; Xem thêm Phạm Trọng Nhân, "Cuốn sổ tay của
một nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi;" Bách Khoa, số 169 (15/1/1964),
tr. 31-43, và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31).
Chỉ
riêng tại Sài-gòn, 2,000 tăng ni Phật tử bị bắt. Ngoại trừ Hòa thượng Tịnh
Khiết được phóng thích ngay, hầu hết các lãnh tụ tăng ni tranh đấu đều bị giam
giữ. Nhiều người bị tạm giam trên những sà-lan nổi trên sông Sài-gòn. (Giống
như chế độ Decoux giam giữ tù binh Cộng Sản trong cuộc nổi dạy ở miền Nam vào
tháng 11/1940)
Tại
Huế, khoảng 3 giờ đêm tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kêu cứu vang lên khắp nơi.
Đồng bào quanh chùa đánh mõ, gõ thùng thiếc báo nguy. Đợt tấn công đầu, Cảnh
sát Dã chiến bị đẩy lui.
Sau đó, Đỗ Cao Trí cho lệnh nổ súng. Giáo sư, sinh viên và học sinh tranh đấu
trong vụ cách chức Linh mục Viện trưởng Cao Văn Luận trong hai ngày 17-18/8
cũng bị bắt giữ tại tư gia.
Theo
Đại sứ Pháp, người có mặt bên ông Nhu suốt thời gian tấn công chùa chiền, viên
chức Việt còn bỏ vũ khí, truyền đơn vào các chùa để vu cáo Phật giáo âm mưu lật
đổ chính phủ. Anh em ông Diệm-Nhu cũng cắt hết điện thoại của các cơ quan Mỹ
hầu mong bưng bít sự thực. Các phi vụ bị tạm ngưng. Báo chí bị kiểm duyệt gắt
gao.(CLV, SV, 17:28; FRUS,
1961-1963, III:598-9)
Ngày
6/9, ông Nhu biện bạch với một viên chức CIA Mỹ rằng ngày 8/5 đang đi nghỉ mát
với gia đình. Nhu cũng không liên quan gì đến việc ban hành thiết quân luật hay
tấn công chùa chiền. Tối ngày 18/8, các Tướng đã yêu cầu Diệm ban hành thiết
quân luật. Ngày 19 hay 20/8, Đỗ Cao Trí cũng vào gặp Nhu trình bày một kế hoạch
tấn công các chùa và danh sách những người cần bắt mà Trí đã chuẩn bị từ một
tháng trước. Nhu chỉ là con dê tế thần trong cuộc khủng hoảng này. Từ sau ngày
21/8, Nhu vẫn theo đuổi chính sách hòa hoãn. Nhân viên CIA có cảm tưởng Nhu dấu
diếm sự thực [deception]. (FRUS, 1961-1963, IV, Tài liệu 69)
Để
che đậy cho tội ác có thể bị truy tố ra trước Tòa Hình sự Quốc tế này, trong
buổi họp chính phủ đặc biệt vào 5 giờ rưỡi sáng ngày 21/8, ông Diệm hoàn toàn
im lặng về cuộc đánh chùa, bắt tăng ni, mà chỉ nói nhiều đơn vị Cộng Sản đang
xâm nhập một số tỉnh lﬠquận lần thủ đô nên phải thiết quân luật để tảo thanh
theo điều 44 Hiến pháp. Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc
Thơ phản đối nhưng không kết quả.
Đúng
6G00 sáng, Tổng thống Diệm chính thức tuyên bố thiết quân luật qua đài phát
thanh. Đồng thời tiết lộ vì Tướng Lê Văn Tị bệnh nặng đã cử Trung tướng Trần
Văn Đôn làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, và Tướng Tôn Thất Đính được phong làm
Tổng trấn. Sau đó, ra lệnh
giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng.(AFP) Đài phát thanh quân đội cũng đọc
một nhật lệnh dài của ông Nhu, kêu gọi Thanh Niên Cộng Hòa phải ủng hộ chính
quyền.
Ngay
trong ngày 21/8, Tướng Đôn báo cáo qua điện thoại với Tướng Harkins rằng chính
ông Diệm ra lệnh Thiết quân luật để chống lại Phật giáo. Hiện mới chỉ sử dụng một tiểu đoàn Dù,
1 tiểu đoàn TQLC, và quân cảnh ở Sài-gòn. Tuy nhiên, các đơn vị ven đô đều đặt
trong tình trạng báo động. Thiết giáp cũng xuất hiện trên đường phố Sài-gòn,
Chợ-lớn và Huế.
Cuộc
tổng tấn công chùa chiền xảy ra khi Đại sứ Henri Cabot-Lodge mới từ Honolulu
qua Tokyo, và dự định ghé thăm Hong kong ít ngày, trước khi tới Sài Gòn để trình
ủy nhiệm thư vào ngày 26/8. Oat-shinh-tân vội gửi một chuyến phi cơ quân sự đặc
biệt cho Lodge tới ngay Sài Gòn. Khoảng 21G30 ngày 22/8, Lodge mới có mặt tại
thủ đô miền Nam.
Đại
sứ Cabot-Lodge là một lãnh tụ quan trọng của Đảng Cộng Hòa Mỹ. Năm 1960, Lodge
từng đứng chung liên danh với Richard M. Nixon, nhưng bị liên danh
Kennedy-Johnson của đảng Dân
Chủ đả bại khít khao. Từ
tháng 6/1963, khi Oat-shinh-tân hỏi ý kiến về việc đề cử Lodge, ông Diệm không
phản đối, nhưng không dấu sự bất mãn và lo ngại. Ông Nhu mỉa mai Lodge là Toàn quyền [Gouverneur
General], trong khi ông Diệm tuyên bố dù có gửi 10 Lodge qua Việt Nam, Mỹ
vẫn phải huấn luyện người bắn pháo binh vào Dinh Gia Long.
Trong
buổi tiếp kiến Kennedy vào trưa ngày 15/8, Cabot-Lodge có cảm tưởng rằng
Kennedy đặc biệt lo ngại về tình hình Việt Nam, và hàm ý rằng chế độ Diệm đang
đi vào đoạn kết. Cuộc tấn công chùa chiền ngày 21/8 đặt Lodge trước một việc đã
rồi. Một cái tát xiếc, như một ký giả Mỹ nhận định, nếu xét kỹ những áp lực và
đòi hỏi “hòa hoãn với Phật giáo” của Oat-shinh-tân.
Ngay
trong ngày 23/4, Cabot-Lodge cho nhân viên đi tiếp xúc hầu hết các nhân vật cao
cấp Việt để có được một hình ảnh rõ ràng về tình hình. Lodge còn mời các ký giả
Mỹ tới tham khảo hầu cải thiện liên hệ giữa Tòa Đại sứ với các ký giả. Không
kém quan trọng, Lodge cho người đi tháo gỡ dây kẽm gai mà Cảnh sát giăng kín
trụ sở USOM, đích thân tiếp xúc hai nhà sư xin tị nạn, và gặp đại diện nhóm Caravelle.Lodge còn tiếp xúc
với Đại sứ Italia Giovanni d’Orlandi và Khâm sứ Vatican Salvadore d’Asta. Chỉ trong vòng 24 giờ, Lodge đã nắm
vững được tình hình. Trước hết, quân đội không dính líu gì đến cuộc tấn công
chùa chiền, và nhóm Tướng ,
André Đôn, Lê Văn Kim muốn làm đảo chính.
Hai
biến cố khác chấn động dư luận là việc Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đột ngột từ chức
chiều ngày 22/8, và cạo đầu phản đối chính sách đàn áp Phật giáo. Hôm sau, ông
Diệm không chấp thuận cho ông Mẫu từ chức, chỉ cho nghỉ dài hạn ba tháng, qua
Nepal hành hương. Ngày Thứ Bảy, 24/8, ông Mẫu tới đại học Luật khoa nói chuyện
với sinh viên, và trước khi ra về hẹn sẽ gặp lại vào ngày hôm sau. Nhưng từ ngày này, ông Mẫu bị giam
lỏng tại gia. Hai ngày sau, 26/8, trên đường ra phi trường để qua India, ông
Mẫu bị Tướng Tôn Thất Đính cản lại tịch thu thông hành theo lệnh của ông Diệm. (Nhân 1964 a:39) Mãi tới ngày 29/8, ông Mẫu mới
được rời nước.
Biến
cố thứ hai là ngày 23/8 sinh viên Y-Dược Sài Gòn xuống đường ủng hộ cuộc tranh
đấu của Phật tử và sinh viên, giáo chức tại miền Trung. Việc sinh viên Y-Dược,
được coi là cốt cán của chế độ và những thành phần bảo thủ nhất trong xã hội,
nghiêng về phe Phật Giáo cho thấy uy tín chế độ đã suy tàn. Anh em ông Diệm-Nhu
tìm cách vuốt ve, nhưng không thành công. Sáng Chủ Nhật 25/8, hàng chục ngàn
sinh viên học sinh biểu tình tại Chợ Bến Thành và nhiều địa điểm khác trong thủ
đô. Hai anh em ông Diệm-Nhu thẳng tay đàn áp. Nhiều người chết, bị thương, hay
bị bắt giữ. Vì dám chống đối chế độ, sinh viên, học sinh được chụp ngay cho cái
mũ “Cộng Sản.”
Chưa
hết. Cuộc tấn công chùa chiền ngày 21/8 gây nên những phản ứng sâu đậm khắp thế
giới. Từ ngày 11/6, bức hình tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức đã trở thành
biểu tượng của cuộc tranh đấu của Phật giáo và chính sách giáo phiệt Ki-tô của
anh em ông Diệm. Vào thượng tuần tháng 8/1963, một số nước Phật giáo chính thức yêu cầu triệu tập Đại Hội
đồng Liên Hiệp Quốc thảo luận. Ngày 22/8, từ Nam Vang, chính phủ Hoàng Gia Cao
Miên ra tuyên cáo:
“Chính phủ Hoàng gia Căm-bốt kinh hoàng
đón nhận tin chính phủ Sài-gòn đàn áp man rợ các tăng ni và Phật tử Nam Việt
Nam vào rạng sáng ngày 21/8/1963. Việc tấn công các chùa bằng lực lượng tinh
nhuệ của chính phủ, việc tàn sát tăng ni, việc bắt giữ, việc phong tỏa các nơi
thờ tự đang diễn ra tại thủ đô Việt Nam là một thách thức thế giới văn minh.
Trong lịch sử hiện đại chỉ có chế độ Hitler mới dám vi phạm những tội ác chống
lại quyền tối thượng của con người như thế.”
Tiếp
đó, chính phủ Sihanouk kêu gọi các quốc gia tố cáo và ngăn chặn tội ác đàn áp
Phật giáo của chính phủ Diệm. Nam Vang còn kêu gọi Vatican cho lệnh chính quyền
Diệm và tín đồ Ki-tô phải theo đúng nguyên tắc cao cả của Ki-tô giáo. (CĐ số
896, ngày 23/8/1963, Phnom
Penh gửi Paris; CLV, SV, d. 17)
Ngay
đến Vatican, điểm tựa vững chắc nhất của chế độ Diệm, cũng bất bình. Khâm sứ
Vatican d’Asta từng bảo thẳng ông Diệm rằng việc tấn công chùa chiền và đàn áp
Phật Giáo làm hại cho uy tín Vatican và đi ngược lại quyền lợi của quốc gia
Việt Nam.
Tại
Mỹ, dư luận báo chí cực kỳ sôi nổi. Hầu hết các cơ quan ngôn luận đều yêu cầu
chính phủ Mỹ có thái độ tức khắc. Tờ New
York Times kịch liệt lên án
chính phủ Diệm, mà sự mất lòng dân, độc tài và tàn bạo biểu lộ qua cuộc đàn áp
Phật giáo. Báo này cũng chỉ trích chính phủ Kennedy đã không sử dụng áp lực
thích đáng với ông Diệm và chậm trễ trong việc minh định thái độ. (CĐ số
4879/83, Đại sứ ở Mỹ gửi BNG; CLV, SV, 17:29)
Những báo khác gọi chế độ Diệm là độc tài, cảnh sát trị, làm mất giá trị sự
tham chiến của lính Mỹ trong cuộc chiến chống Cộng. (CLV, SV, 17:33) Chỉ riêng tờ New York Herald Tribune muốn chính phủ Kennedy tiếp tục yểm
trợ chính phủ Diệm trước hiểm họa Cộng Sản. Marguerite Higgins, trong loạt bài
viết về chế độ Diệm trên New
York Herald Tribune, lập lại hầu như nguyên văn lời tuyên truyền của chế độ
Diệm: không hề có kỳ thị tôn giáo mà những biến động ở Việt Nam thuần có tính
cách chính trị, do Cộng Sản giật dây, với sự hỗ trợ của báo chí ngoại quốc, đặc
biệt là Mỹ.
Trong
khi đó, việc Đại sứ Trần Văn
Chương từ chức (hoặc bị ông Diệm cách chức, nếu muốn) cũng gây bối rối cho chế
độ. Rồi ngày 24/8/1963, ông Vũ Văn Thái—cựu Giám đốc Ngân sách và Ngoại viện,
hiện đang làm cho cơ quan LHQ tại Lome, Togo— cũng viết thư cho Harriman, đề
nghị Tổng thống Diệm và gia đình phải ra đi. Nội dung thư ông Thái cũng tương
tự như thư riêng của ông Vũ Văn Mẫu gửi Chester Bowles từ New Dehli.(FRUS,
1961-1963, IV:114-5. Ngày
5/9/1963, Harriman mới chuyển thư này cho Bundy, Cố vấn ANQG của Kennedy).
Chính
phủ Kennedy bồn chồn theo dõi những phản ứng bất lợi này. Các viên chức cao cấp
Mỹ không muốn cuộc tranh đấu của Phật Giáo khiến tình hình quân sự và chính trị
miền Nam thêm suy thoái. Bởi thế, Oat-shinh-tân đẩy mạnh kế hoạch bắt vợ chồng
ông Nhu và Tổng Giám Mục Thục ra đi. Mối quan tâm duy nhất của người Mỹ chỉ còn
là số phận ông Diệm. Đa số vẫn muốn giữ ông Diệm; nhưng vấn nạn là thật khó
tách rời ông Diệm khỏi các anh em. [Tối
ngày 22/8/1963, tức khoảng 8G56 ngày 23/8/1963, Roger Hilsman chỉ thị cho
Lodge: Chính sách về Phật giáo không thay đổi; tìm cách giảm quyền lực Nhu]. (FRUS,
1961-1963, III:605)
Vận
mệnh nhà Ngô rơi gọn vào bàn tay tân Đại sứ Cabot-Lodge. Những tiết lộ của
Tướng André Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu trưởng, trong buổi nói chuyện với Trung tá
Lucien Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu ngày Thứ Sáu, 23/8, cung cấp cho Lodge những
viên đạn đầu tiên để bắn vào phe bênh vực ông Diệm quanh Kennedy. Trước hết,
André Đôn yêu cầu đài V.O.A. cải chính là Cảnh sát đặc biệt của ông Nhu mà không
phải quân đội đã tham gia cuộc đàn áp, tấn công chùa chiền. Tướng Đôn cũng khẳng định khoảng 1,420
tăng ni bị bắt giữ khắp miền Nam trong đêm 21/8 không phải cán binh Cộng Sản.
Nhận
định về anh em họ Ngô, Tướng Đôn cho rằng ông Nhu là "khối óc" [thinker]
của ông Diệm; nhưng ông Diệm có quyền quyết định tối hậu. Vẫn theo Tướng Đôn,
Lệ Xuân hành xử như "vợ" [platonic wife] của ông Diệm. Ông
Diệm chưa bao giờ lấy vợ và không quen có đàn bà bao quanh. Chín năm qua, Lệ
Xuân lo chăm sóc ông Diệm sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân săn sóc, nói
chuyện, giúp ông Diệm giải tỏa áp lực, và giống như bất cứ người vợ Việt Nam
nào, thống trị gia đình. Giữa ông Diệm và Lệ Xuân không có liên hệ tình dục. Ông Diệm chưa hề trải qua mùi vị tình
dục. Tình trạng giữa ông Diệm và Lệ Xuân, theo Tướng Đôn, giống như Hitler và
Eva Braun.
Tướng
Đôn còn tiết lộ ông Diệm rất thích những thanh niên đẹp trai. Một Trung sĩ làm
vườn, nhờ đẹp trai, đã được ông Diệm cất nhắc lên hàng Trung tá, trông coi dinh
điền quân đội. Theo Tướng Đôn, không thể tách rời ông Diệm với vợ chồng Nhu.
Nếu phải chọn giữa hai anh em ông Diệm và Nhu, Đôn muốn thấy ông Nhu ra đi. (FRUS,
1961-1963, III, tài liệu 275)
[Xin
đừng vội trách ông Đôn bịa đặt.
Tối ngày 26/8, ông Diệm (dù đã 66 tuổi) nói với Đại sứ Lodge là ông ta từng
cảnh cáo Lệ Xuân rằng “sẽ lấy vợ,” nếu Lệ Xuân không ngừng phát ngôn bừa
bãi.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 326) Trong hồi ký của McNamara, đoạn nói về Lệ
Xuân, cũng tương tự như nhận định này. McNamara còn gọi Lệ Xuân là "một
mụ phù thủy."
Vài
Tướng lãnh Việt còn đi xa hơn, cả quyết từng thấy bà Lệ Xuân lả lơi, tình tứ
bên ông Diệm. Tướng Nguyễn Chánh Thi thường gọi Lệ Xuân là “đĩ điếm,”
làm ô uế Dinh Độc Lập.]
Đêm
Thứ Bảy 24/8, sau khi nhân viên Mỹ tiếp xúc với các Tướng Lê Văn Kim, Nguyễn
Khánh, v.. v... Cabot-Lodge gửi công điện báo cáo về những Tướng muốn xin yểm
trợ làm đảo chính. Tuy nhiên,
theo Lodge, thực trạng Sài-gòn cho thấy một âm mưu đảo chính chẳng khác gì
"viên đạn bắn trong đêm."
Tại
Oat-shinh-tân, tối ngày 24/8 [sáng Chủ Nhật, 25/8 VN], XLTV Ngoại trưởng George
W. Ball chỉ thị cho Cabot-Lodge:
Phải áp lực cho vợ chồng Nhu ra đi; nếu
Diệm không đồng ý, sẽ phải tái xét lại vấn đề ủng hộ Diệm. Lodge được quyền nói
với các Tướng đang âm mưu đảo chính rằng Mỹ sẽ tuyên bố cắt quân và kinh viện
để chứng tỏ việc ngưng yểm trợ Diệm. Ngoài ra, Lodge cũng được quyền cho VOA
cải chính rằng quân đội không dính líu gì đến cuộc tấn công các chùa chiền. (CĐ số 243; FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu
281).
Xin mở dấu ngoặc nhỏ để bàn thêm về công
điện số 243 của Ball vào tối 24/8 nói trên. Công điện này chấp thuận trên
nguyên tắc đề nghị của Lodge: Phải áp lực vợ chồng Nhu-Lệ Xuân ra đi, nếu ông
Diệm không đồng ý, sẽ phải tái xét lại việc ủng hộ ông Diệm. Thật ra, kế hoạch
bắt ông Thục và vợ chồng ông Nhu ra đi đã được cựu Đại sứ Nolting dàn xếp từ
thượng tuần tháng 8/1963. Nhưng công điện 243 gửi đi khi TT Kennedy, McNamara,
Rusk cùng Giám đốc CIA John McCone đều không có mặt tại Oat-shinh-tân. Bởi thế, mặc dù được Kennedy phê chuẩn trước khi gửi đi (Roger Hilsman, To Move A Nation, tr.487-8), có
người chê trách Ball vượt quá quyền hạn. (dựa theo luận cứ
của Tướng Taylor; Swords and
Plowshares, tr. 292-4) Thứ nữa, nếu Ball vượt quá quyền hạn, trong các
phiên họp HĐ/ANQG Mỹ kế tiếp phải có ai đó chống lại. Sự thực hoàn toàn trái
ngược: Khi được Kennedy hỏi ý kiến, không một ai bài bác công điện tối ngày
24/8 của Ball. Cuối cùng, sau một loạt những cuộc hội họp sôi nổi, ngày 30/8
HĐ/ANQG Mỹ quyết định quay mặt cho các Tướng làm đảo chính (tức rút lại sự bảo
vệ chế độ Diệm). Ngoài ra, nếu ông Ball vượt quá quyền hạn, hẳn không
thể tiếp tục ngồi ở Bộ Ngoại Giao, và dưới thời chính phủ Johnson (1963-1969)
còn được giao trách nhiệm tìm hòa bình cho miền Nam.
Công
điện 243 là hậu quả trực tiếp đầu tiên của cuộc tấn công các chùa chiền. Trước
ngày này, cố vấn của Kennedy chia làm hai phe về vấn đề Việt Nam. Phe quân đội,
kể cả Bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, và CIA muốn tiếp tục ủng hộ ông
Diệm. Trong khi đó, phe dân
sự, gồm Bộ Ngoại Giao và Cố vấn An Ninh Quốc Gia, muốn tách rời ông Diệm khỏi
ảnh hưởng các anh em, nghĩa là phải đưa ông Thục, Nhu và bà Lệ Xuân rời nước.
Người đứng sau chủ trương “Diem must go” hay “không thể chiến thắng với
anh em ông Diệm” này là Tướng Roger Hilsman, Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao đặc
trách Viễn Đông vụ (mới thay W. Averell Harriman vì Harriman được thăng chức
Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách Chính trị vụ). Hilsman là một cựu chiến binh
Thế chiến thứ hai, chuyên viên về du kích chiến. Hilsman đã thảo công điện số 243
nói trên, và được Harriman chấp thuận. Mike Forrestal, một nhân viên Ban Tham
mưu HĐ/ANQG tại Bạch Cung, gửi cho Kennedy, đang nghỉ cuối tuần ở Hyannis Port.
Trong khi đó, XLTV Ngoại trưởng Ball gọi điện thoại cho Kennedy, trình bày về
công điện trên. Kennedy chấp thuận cho gửi qua Sài Gòn nếu các cố vấn cao cấp
đồng ý. Ball gọi Rusk ở New
York, Rusk đồng ý dù không thích lắm. Harriman gọi CIA, John McCone không có
mặt, nên Richard Helms, Phó Giám đốc đặc trách kế hoạch, đồng ý. Forrestal gọi
Thứ trưởng Quốc Phòng Gilpatric, cả Gilpatric và McNamara chấp thuận. Gilpatric
gửi một bản sao công điện cho Maxwell Taylor, cố vấn quân sự của Kennedy.
Taylor chống lại, nhưng McNamara không đồng ý với Taylor. Theo Robert Kennedy,
em trai Tổng thống Kennedy, sau này Kennedy hối tiếc, và cho việc gửi công điện
trên là một sai lầm.(McNamara, In
Retrospect, 52-5)
Ngay
trong ngày Chủ Nhật, 25/8, tại Sài Gòn, Cabot-Lodge triệu tập một phiên họp đặc
biệt với Tướng Harkins, Tư lệnh MACV, và John H. Richardson, trưởng lưới CIA.
Sau đó, điện về Oat-shinh-tân, đề nghị cho các Tướng xúc tiến việc đảo chính.
Lodge cũng tiết lộ đã thông báo cho các Tướng biết rằng Mỹ chỉ muốn loại Nhu,
vẫn giữ Diệm; nhưng về ông Diệm, tùy thuộc ở quyết định của các Tướng. (FRUS,
1961-1963, III, tài liệu 285)
Mặc
dù các cố vấn của Kennedy không nhất trí về đảo chính, và chính Kennedy không
muốn thay ngựa, cuối cùng Oat-shinh-tân cho Cabot-Lodge toàn quyền quyết định.
(Ibid., III: tài liệu 286)]
Tóm
lại, cuộc tấn công các chùa chiền đêm 20 rạng 21/8 là một dấu mốc cực kỳ quan
trọng trong liên hệ giữa anh em ông Diệm và chính phủ Kennedy. Mặc dù tự nó—và
toàn bộ cuộc tranh đấu của Phật giáo nói chung—chưa đủ lật đổ chế độ Diệm, cuộc
tấn công đêm 20 rạng 21/8 này chặt đứt mối liên hệ thiết thân suốt hơn 9 năm
trời giữa ông Diệm và nước Mỹ. Phản ứng của anh em ông Diệm và Lệ Xuân—qua cách
chụp mũ Cộng Sản để đàn áp, chống Mỹ để tự vệ (đồng hóa tham vọng cá nhân và
gia đình với chủ quyền “quốc gia”), hoặc móc ngoặc Hà Nội—đã tạo phản ứng
nghịch chiều. Trên con đường độc đạo của mình, anh em ông Diệm sống sót thêm
được hơn hai tháng nữa phải được coi như một phép lạ.
Khi không còn thể lấy giấy gói lửa được
nữa, trong tháng 10/1963, anh em ông Diệm-Nhu sai thủ hạ (Trần Hữu Duệ, một tay chơi
nổi danh Sài Gòn) dùng nữ sắc và rượu thịt gài bẫy quay phim con heo các đại
diện “khả kính” trong phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc. Hành động này không
những tự nó là một hình tội cản trở công lý, mà còn bộc lộ rõ “đạo đức” của anh
em ông Diệm-Nhu.
[Cuốn Nhật
ký Đỗ Thọ nhắc đến màn gài
bẫy này từ nhiều thập niên trước. Mới đây cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mưu
trưởng Lữ Đoàn Phòng vệ phủ Tổng thống, cũng
thú nhận trên báo Văn Nghệ
Tiền Phong tiểu xảo trên. Một
cựu sĩ quan thông dịch cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc hồi đó, hiện ngụ tại
Houston, Texas, đã tiết lộ với tác giả thủ đoạn này từ lâu. Vậy mà nhũng người
muốn che đậy tội ác cho họ Ngô—dù biết rõ hơn ai hết vụ dàn cảnh quay phim con
heo trên—vẫn cố vin vào “báo cáo” của phái đoàn LHQ (danh số A/5360, sau khi
các thành viên được trao tặng những tấm hình một đời khó quên ô nhục của mình)
để ngụy biện cho chính sách kỳ thị tôn giáo của anh em ông Diệm hay vụ tấn công
rạng sáng ngày 21/8/1963. Tội nghiệp cho bốn chữ “lương thiện trí thức!”].
PHÂN ĐOẠN II : Chính các Tướng đề nghị đảo chính
Cuộc đảo chính 1/11/1963 tiến triển theo
hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là kế hoạch đảo chính ngày 1/9/1963, và rồi
mới tới cuộc đảo chính ngày 1/11/1963.
1. Kế hoạch đảo chính ngày 1/9/1963:
Kế
hoạch đảo chính do chính các
Tướng đề nghị với viên chức
Mỹ từ tháng 6/1963. Người đứng ra tiếp xúc với tình báo Mỹ là Trung tướng André
Đôn. Tháng 6/1963, giữa cao trào tranh đấu Phật Giáo, Tướng Đôn cùng em rể là
Lê Văn Kim (lấy Gabrielle Trần Văn Đôn) đã yêu cầu đại sứ Nolting cho phép làm
đảo chính, nhưng Nolting giận dữ từ chối. Ngày 8/7/1963, ông Đôn lại tiết lộ ý
định với một sĩ quan CIA.
Khoảng đầu tháng 8/1963, André Đôn gia
nhập nhóm Tướng Minh, qua đường dây Tướng Kim. Từ vài năm trước, hai Tướng Minh
và Kim đã tìm cách đảo chính. Những ngày kế tiếp, nhiều người tham gia, ngoại
trừ Huỳnh Văn Cao (vì là thành phần tín cẩn của chế độ) và Tư lệnh Hải Quân.
Tại QĐ IV, dù Tướng Cao không được tiếp xúc, Tư lệnh Phó đồng ý. Tướng Nguyễn
Khánh, Tư lệnh QĐ II, đồng ý nhưng vẫn ở Pleiku, có lẽ để nếu cần sẽ phản lại.
Ngày
Thứ Sáu 23/8, nhân dịp anh em ông Diệm-Nhu tấn công chùa và bắt giữ tăng ni
trên toàn quốc, Tướng Đôn lại than phiền với nhân viên tình báo Mỹ, và hỏi ý
kiến về việc lật đổ chế độ. Tướng Kim, với cương vị phụ tá báo chí của Tướng
Đôn, cũng nối lại liên hệ với tình báo Mỹ. Gặp
Rufus Phillips, Giám đốc Phòng Cải Cách Điền Địa của cơ quan USOM, ngày 23/8,
Kim than phiền quân đội đã trở thành "tay sai" của Nhu: Chính ông Nhu
đã mưu mẹo để các Tướng yêu cầu ban hành thiết quân luật. Tướng Kim còn tiết lộ
ông Nhu đã cho lệnh Cao Xuân Vỹ dùng Thanh Niên Cộng Hòa tổ chức phản biểu tình
các học sinh, sinh viên dự trù vào ngày 25/8. (FRUS, 1961-1963, III, tài
liệu 174)
Việc
công khai đàn áp Phật giáo ngày 21/8 không chỉ tạo cho nhóm Tướng Minh thêm một
lý do để đảo chính mà còn khiến rất nhiều người thân cận chế độ xa lánh anh em
Diệm. Sáng Thứ Bảy 24/8, khi
Phillips đến nhà Bộ trưởng Phụ tá An Ninh Nguyễn Đình Thuần ăn sáng, ông Thuần
nói đến lúc vợ chồng Nhu phải ra đi. Theo
Thuần, ngày 23/8, ông Diệm viết
thư cho Lệ Xuân, yêu cầu từ nay đừng tuyên bố gì nữa. Đồng thời, cho Tướng
Bénoit Trần Tử Oai, Cục trưởng Tâm Lý Chiến, và Tổng Giám đốc Thông Tin biết
lệnh này. Theo Thuần, nếu Mỹ cả quyết, các Tướng sẽ hành động.(FRUS,
1961-1963, III, Tài liệu 273)
Đại
tá Đỗ Mậu (Giám đốc An Ninh Quân Đội), Tướng Nguyễn Khánh (Tư lệnh Quân đoàn
II), Trần Thiện Khiêm (Tham Mưu trưởng Liên quân), hay Nguyễn Văn Thiệu (Tư
lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, từng “rửa tội” để mua chuộc lòng tin của anh em ông
Diệm-Nhu) đều thay đổi thái độ. Ngày
22/8, Đại tá Đỗ Mậu gặp Tướng Đôn, xin gia nhập tổ chức đảo chính. (Mậu 1993,
tr. 614) Trưa ngày 24/8, Thiếu tướng Khánh yêu cầu được gặp một nhân viên CIA
để minh định không yểm trợ ông Nhu. Theo
Khánh, các tướng đã chán nhận lệnh của họ Ngô, và muốn biết Mỹ có yểm trợ hay
chăng. Nếu các nhà chính trị, trong trường hợp bị cắt viện trợ, muốn ngả theo
Cộng sản hay chủ trương trung lập, quân đội sẽ nổi dậy. Theo Khánh, Trần Thiện
Khiêm là đồng minh chắc chắn nhất của Khánh. (Ibid., III, tài liệu 284)
Trung
tá Phạm Ngọc Thảo—người thân của Tổng Giám Mục Thục, từng cứu giá chế độ trong
cuộc đảo chính hụt 11/11/1960, và đang giữ chức Thanh tra Ấp Chiến Lược, nhưng
sau này được Cộng Sản truy tặng chức liệt sĩ—cầm đầu một nhóm đảo chính khác.
Albert Thảo hợp tác với nhóm ông Huỳnh Văn Lang và cựu đảng viên Cần Lao trong
Liên Kỳ Nam-Bắc Việt cũ. Hai Tướng Khiêm và Raymond Khánh cũng có liên hệ;
nhưng cả hai lại nghi Albert Thảo là Cộng Sản nằm vùng, hoặc vì một lý do nào
đó, chỉ ậm ừ cho qua.
[Theo
tài liệu Mỹ, Albert Thảo đã vận động đảo chính từ nhiều tháng trước ngày 30/8,
và cũng báo cáo với cơ quan CIA tại Sài-gòn (CAS) về âm mưu đảo chính của hai
nhóm Trần Kim Tuyến, Huỳnh Văn Lang.(FRUS, 1961-1963, IV:40) Ngày Thứ
Sáu, 30/8, cơ quan CIA báo cáo rằng có 3 tới 5 tiểu đoàn theo Thảo. Lực lượng này đủ sức duy trì tình thế
từ 3 tới 4 tiếng đồng hồ, trong khi chờ đợi các Tướng nhập cuộc. Thảo muốn đảo chính trong vòng 1
tháng, hoặc sớm hơn. Thảo muốn
mời Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Chương, Trần Lê Quang, Vũ Văn Thái, Huỳnh Văn Lang,
Nguyễn Hữu Châu. Thảo cũng liên lạc với các lãnh tụ Đại Việt. Thảo nói muốn cầm
đầu ngành An ninh quân đội, tham gia chính phủ.(FRUS, 1961-1963, IV, tài
liệu 22)
Mới
đây, hồi ký Nhân chứng một chế
độ của ông Huỳnh Văn Lang,
nhất là tập III, đã trình bày khá đầy đủ về liên hệ giữa ông và Phạm Ngọc Thảo.
(Xem thêm Chính Đạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 307, 325). Tuy nhiên, trường hợp
Albert Thảo khá phức tạp. Albert Thảo là loại tình báo tam tứ trùng, vừa liên
lạc với Mỹ, Dinh Gia Long, các phe đảo chính, vừa có thể cung cấp tin tình báo
cho Cộng Sản. Không phải vô tình mà sau này Cộng Sản phong Albert Thảo làm liệt
sĩ.]
Ít
ai ngờ nhất là ngay Trần Kim Tuyến—người thân cận của ông Nhu, vừa nắm cơ quan
Mật vụ của chế độ, vừa lo kinh tài cho đảng
Cần Lao—cũng mưu đảo chính từ tháng 7/1963. Vì việc này, ông Tuyến bị đầy
đi làm Tổng Lãnh sự ở Phi Châu (Cộng Hòa Arab, rồi Morocco), nhưng vì gốc an
ninh tình báo nên các quốc gia trên không nhận, phải tạm lưu trú ở Hong Kong.
Tóm
lại, muốn đảo chính ông Diệm không chỉ có Tướng Minh, người nổi danh chống đối
chế độ. Hầu hết các Tướng
và Tư lệnh đơn vị, cùng những người “thân tín” của họ Ngô đều muốn ra tay.
Nhiệt thành, hăng say nhất trong việc
lật đổ chế độ Diệm là lực lượng sinh viên, học sinh. Như đã lược thuật, sinh
viên học sinh bắt đầu chú tâm đến thời sự sau cái chết của nhà văn Nhất Linh
vào tháng 7/1963. Tới tháng 8/1963, họ mới tìm được cơ hội nhập cuộc. Ngọn lửa
tranh đấu đầu tiên được thắp lên ở Huế, khi ông Diệm cách chức Viện trưởng Đại
học của Linh mục Cao Văn Luận. Ngày 15/8, sinh viên và học sinh Huế biểu tình,
chính quyền thả cả quân khuyển để đàn áp. Xô
xát dữ dội. Một số bị bắt. (Nguyễn Ngu Í 1964a:43) Hai ngày sau, trong lễ bàn
giao giữa Linh mục Luận và ông Nguyễn Hữu Thế, đến lượt các Giáo sư từ chức tập
thể: Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Y khoa (người đã từ chối chứng nhận các nạn
nhân cuộc thảm sát tối 8/5 trước Đài Phát Thanh Huế là do mảnh lựu đạn gây
nên); Bùi Tường Huân, Khoa trưởng Luật khoa; Tôn Thất Hanh, Khoa trưởng Khoa
học; Nguyễn Văn Trường, Ban Khoa học Sư phạm; Lê Tuyên. Tân Viện trưởng Thế
phải vào Sài-gòn báo cáo. Linh mục Luận cũng bỏ vào Đà-nẵng. Các giáo sư lại ký
kiến nghị yêu cầu đưa Linh mục Luận trở lại. (Nguyễn Ngu Í 1964b:28)
Chiều đó, sinh viên Huế cản đường Bộ
trưởng Giáo dục Trình khi ông Trình ra phi trường vào Đà-nẵng.Ngày Thứ Ba,
20/8, Viện trưởng Thế cho lệnh những buổi hội họp trong khuôn viên trường phải
xin phép trước.
[Thứ Hai, 19/8/1963: Sinh viên Huế hủy bỏ
một cuộc biểu tình vì sợ bị chụp mũ Cộng Sản (ngày kỷ niệm Cách Mạng tháng
8/1945)].
Tại
Sài Gòn, ngày 23/8—sau cuộc tổng tấn công chùa chiền và nhất là việc tân Đại sứ
Cabot-Lodge đến nhận nhiệm sở sớm hơn hạn định—sinh viên Y-Dược khoa biểu tình
đòi trả tự do cho Phật tử. Hai
ngày sau, Chủ Nhật 25/8, hàng ngàn sinh viên học sinh tụ họp trước chợ Bến
Thành, Sở Thú, bến Bạch Đằng v.. v... Một
nữ học sinh tên Quách Thị Trang bị bắn trọng thương, rồi qua đời trong Tổng Y
viện Cộng Hoà. Theo kết quả sơ khởi khoảng 500 sinh viên, học sinh bị bắt. Quân
đội và Cảnh sát thẳng tay
đàn áp. Hơn 200 xe đạp và xe gắn máy mà học sinh, sinh viên sử dụng để kéo đến
chỗ biểu tình bị bỏ rơi gần các khuôn viên đại học vào xế trưa. Từ đêm trước
các đơn vị quân đội, có cả tuần thám xa, đã kéo về thành phố ngăn chặn các ngả
đường. Các công sự phòng thủ, kẽm gai được giăng ra tại nhiều ngã tư và dọc
đường từ Bộ Ngoại Giao tới trường Luật, nơi cựu Ngoại trưởng Mẫu dự định đến
hội thảo. Theo tin ngoại giao Pháp những cuộc truy lùng, bắt giữ tiếp tục khắp
nơi. Các trường học phải đóng cửa để đề phòng bạo động.(CLV, SV, 17:84)
Mật
Vụ Miền Trung của Dương Văn Hiếu truy tầm và bắt giữ bất cứ ai bị nghi ngờ tham
dự đảo chính hay biểu tình. Các trại tù lớn nhất là trại Lê Văn Duyệt (nằm trong Quân trấn Sài-gòn, do Thái
đen cầm đầu), Võ Tánh (Chợ Bà Chiểu, do Nguyễn Thiện Giai cầm đầu), Sở Thú, bến
Bạch Đằng. (Ngày 18/9/1963, Tướng Minh khẳng định với quan chức Mỹ là trong
trại Lê Văn Duyệt có tới hai trại tù giam giữ người chống chế độ; FRUS, 1961-1963, IV:272-3) Theo
các nhân chứng, Mật vụ miền Trung tra tấn nạn nhân tàn nhẫn hơn cả VC hay Mật
thám Pháp. Có người chỉ vì ngồi chung xe một đồng nghiệp trùng tên với một nghi
can mà ông ta không hề quen biết, cũng bị bắt giam, lấy cung và tra tấn hơn ba
tháng. Nhiều nhân viên MACV và Tòa Đi sứ Mỹ cũng bị bắt vì tình nghi liên hệ
vào việc tổ chức đảo chính. (Phỏng vấn ông Phạm Chung, một nhân chứng từng
đi tù cả thời Việt Minh lẫn Diệm, năm 1999-2000)
Không khí Sài Gòn ngột ngạt kinh hoàng.
Tối
Chủ Nhật 25/8 ấy, thêm một biến cố khác xảy ra trong hậu trường chính trị. Nhân
dạ tiệc chào mừng Đại sứ Lodge tại tư dinh Quyền Ngoại trưởng Trương Công Cừu,
ông Nhu chính thức gặp mặt một sứ giả của Hà Nội. Đó là Mieczylslaw Maneli,
Trưởng đoàn Poland [Ba Lan] trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. (Maneli
1971, tr. 137-9). Theo
Maneli, từ mùa Xuân 1963, nhiều nhân vật ngoại giao đã yêu cầu Maneli gặp Nhu.
Trong số này có Đại sứ Pháp Lalouette, Đại sứ India Ram Goburdhun, Đại sứ
Italia d’Orlandi và Khâm sứ Vatican d'Asta. Họ cho biết đã nói với Nhu về
Maneli, và Nhu ngỏ ý muốn gặp. Ngay sau buổi gặp sơ khởi, Maneli vội báo cáo về
Warsaw, đồng thời thông báo với Đại sứ Liên Sô Tovmassian ở Hà-nội và Hà Văn
Lâu. Lâu và Đại sứ Liên Sô tán thành.
Tình
hình nghiêm trọng hơn khi trong bản tin phát thanh của đài V.O.A. vào lúc 8 giờ
sáng địa phương ngày Thứ Hai, 26/8, phát ngôn viên BNG Mỹ khẳng định quân đội
VNCH không đánh chiếm chùa chiền, mà chỉ có các lực lượng trực thuộc Phủ Tổng
thống, không thuộc quyền Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài
ra còn bình luận rằng viện trợ Mỹ có thể bị cắt.(Lodge không hài lòng về bản
tin này; FRUS, 1961-1963,
III, tài liệu 287)
Bài
phát thanh này khiến ông Nhu tin rằng Cabot-Lodge quyết định loại bỏ mình. Nhu
bèn hạ lệnh bắt giữ tất cả những người chống đối. (Ibid., III:637n2)
Ngày 27/8/1963, Đại sứ Lalouette báo cáo
về Paris rằng André Đôn tuyên bố Diệm đã lợi dụng và phản bội lòng tin của quân
đội, cuộc tấn công chùa và bắt giữ tăng ni Phật tử làm hoen ố danh dự quân đội. Lực lượng tấn công chùa là LLĐB của Lê Quang Tung và Cảnh sát của Cò
Túc [Tư?], dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Đính. Tung, Tư và Đính là ba trụ cột
của cuộc đảo chính do Ngô Đình Nhu cầm đầu.
Hiện
nay Nhu quyền thế nhất nước. Diệm chỉ còn là lãnh tụ thứ hai. Chân dung Diệm bị Thanh Niên Cộng Hòa gỡ bỏ tại công sở trong vài quận đô
thành. Chính Đính cho lệnh bắt giữ Vũ Văn Mẫu ngày hôm qua. Cũng có tin Hồ Tấn
Quyền, Tư lệnh Hải quân, đã bị bắt. (CLV, SV, 17:42)
Sau
một buổi họp mật, Lodge, Harkins cùng Richardson quyết định tạm thời không cho
Harkins tiếp xúc với các Tướng, để Conein và nhân viên CIA khác lo việc liên
lạc. Nhóm ông Đôn-Minh sẽ được
lưu ý là Mỹ không nhúng tay vào đảo chính; và khuyến cáo ông Đôn tránh đổ máu,
hoặc giảm thiểu đổ máu tối đa.
Tối
đó, Đại sứ Cabot-Lodge trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống Diệm. Theo Lodge, ông ta bảo thẳng ông Diệm
rằng tại Massachusetts người ta nghĩ Lệ Xuân là Quốc trưởng VNCH, và dân chúng
đọc những bài báo mà Lệ Xuân gọi những vụ tự thiêu là nướng thịt sư. Ông Diệm trả lời rằng đã nói với Lệ
Xuân vài lần, nhưng Lệ Xuân khẳng định là một Dân biểu có quyền phát biểu ý
kiến.
Khi
Lodge nêu vấn đề phóng thích những người bị bắt, ông Diệm nói đã thả gần hết.
Để chứng tỏ Phật tử là thiểu số trong nước, ông Diệm trưng dẫn một tài liệu do
chùa Xá Lợi xuất bản; theo đó, tại Việt Nam chỉ có hơn 1 triệu tăng ni, Phật
tử, và khoảng 2 triệu người liên hệ. Trước khi cáo từ, ông Diệm nhắc nhở Lodge
rằng Mỹ kiều phải biết giữ trật tự. (FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 292,
296)
Buổi
gặp mặt này chẳng có gì vui vẻ. Hôm sau, 27/8, Cabot-Lodge gặp ông Nhu. Ông Nhu
yêu cầu Mỹ phải ngưng những lời tuyên bố làm tổn hại quốc thể VNCH. Người Mỹ
nói quá nhiều, trong khi tại Việt Nam người ta nói quá ít. Về những lời tuyên
bố của Lệ Xuân trên báo Life ngày 16/8, ông Nhu nói vợ mình là một
Dân biểu, có quyền tự do phát biểu ý kiến. Ông Nhu còn tuyên bố đã chỉnh đốn
lại tình hình trước ngày Lodge tới Sài-gòn (dự trù vào 26/8). Nhờ vậy, không
còn cuộc tự thiêu nào.
Những lời biện bạch của ông Diệm về Phật
giáo trong buổi sơ kiến trình ủy nhiệm thư—như Phật giáo chỉ là thiểu số ở Việt
Nam, hay Phật giáo đã bị Cộng Sản xâm nhập—và giọng điệu khiêu khích của ông
Nhu trong buổi gặp mặt ngày 27/8, đẩy Lodge vào vị thế khó thể dung thứ ngay cả
với ông Diệm. Rồi đến buổi họp báo cùng ngày 27/8 của Tướng Tôn Thất Đính để
giải thích lý do tấn công các chùa chiền, huênh hoang tự nhận mình là “anh hùng
quốc gia,” đã bẻ gãy được âm mưu của Cộng Sản, Phật Giáo và “bọn phiêu lưu quốc
tế.” Ngoài ra, còn tin đồn tòa Đại sứ sẽ bị tấn công, chiếm đóng, âm mưu ám sát
cá nhân Cabot-Lodge, v.. v... Không còn là cái tát xiếc nữa mà đã trở thành
công khai thách đố, khiêu khích.
Thời
gian này, Oat-shinh-tân cũng cử Paul Kattenburg, Trưởng đoàn Việt Nam, qua Sài
Gòn thị sát tình hình. Khi tiếp
Kattenburg ngày 28/8, ông Diệm ra sức biện minh việc đàn áp Phật giáo. Trước khi từ biệt, ông Diệm nói với
người bạn quen biết đã 10 năm: "Cố giúp chúng tôi." Kattenburg
chua chát đáp: "Xin giúp chúng tôi nữa."
Trong
khi đó, nhân viên Tòa Đại sứ tiếp tục liên hệ với các Tướng làm đảo chính. Ngày
26/8, Conein gặp Tướng Khiêm, và một nhân viên CIA khác (Spera) gặp Tướng
Khánh, hứa Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ sau khi thành lập chính phủ mới. Ngày 27/8,
Conein hứa với Khiêm sẽ cho gia đình các Tướng an toàn ra ngoại quốc trong
trường hợp đảo chính thất bại, và sẽ cung cấp sơ đồ phòng thủ trại Long Thành
của LLĐB. Hôm sau, 28/8,
Conein giao cho Khiêm sơ đồ phòng thủ nói trên. Ngày 29/8, một nhân viên CIA
gặp cả hai Tướng Minh và Khiêm. Để trấn an các Tướng, Phillips tìm gặp riêng
Tướng Kim, xác định rằng Lodge đã phái nhân viên CIA trên đến gặp Minh và
Khiêm, và còn thêm rằng chính Tổng thống Kennedy cho lệnh. Khi Kim muốn người
Mỹ tiếp tay thảo kế hoạch, Lodge cũng đồng ý.(FRUS, 1961-1963, IV:79-80)
Viên chức Mỹ còn thu xếp để các nhóm và cá nhân chống chế độ hợp tác với các
Tướng.
Nhưng
nhóm Tướng Minh vẫn còn nghi ngại bị người Mỹ gài bẫy. Ngày 29/8, khi Trung tá
Conein tiếp xúc, ông Minh nói không tin Kennedy đồng ý cho làm đảo chính; ngoại
trừ trường hợp Mỹ tuyên bố ngưng viện trợ kinh tế cho chế độ Diệm. Lodge vội
gửi điện văn về Oat-shinh-tân, và ngày 30/8, Hội đồng ANQG Mỹ chấp thuận yêu
cầu của Tướng Minh.(Gravel, II: 238-239, 738-739; FRUS, 1961-1963, IV:21, 32-3)
Ngày 29/8 [30/8 VN], HĐ/ANQG Mỹ còn cho lệnh Tướng Harkins tiếp xúc với các
Tướng để họ hết hoài nghi, đồng thời nhấn mạnh Mỹ muốn loại bỏ vợ chồng Nhu,
nhưng không đề cập gì đến số phận ông Diệm.
Anh
em ông Diệm-Nhu đã đoán biết âm mưu của các Tướng nên điều động Lực Lượng Đặc
Biệt [LLĐB] của Lê Quang Tung vào thủ đô, chốt chặn các vị trí bằng thiết giáp.
Tối ngày 29/8, có tin ông Nhu sẽ bắt giữ các Tướng chủ chốt trong vòng 24 giờ.
Nhân viên CIA cấp tốc báo động cho Tướng Kim, nhưng việc này không xảy ra.
[Người báo tin có thể là ký giả Mỹ, hay
một nhân viên thân cận với Dinh Gia Long, vì nhân vật mà tên họ chưa được giải
mật này đã từng tiết lộ trước tin các chùa chiền sẽ bị tấn công đêm 20 rạng
21/8]
Ngày
30/8, ông Nhu triệu tập các Tướng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tuyên bố vụ rắc rối với
Phật giáo đã qua, nhưng những kẻ đứng sau lưng chưa bỏ cuộc. Nhiệm vụ của quân
đội là phải nghe lệnh chính phủ. CIA muốn Nhu ra đi. Có nỗ lực vận động báo chí
quốc tế chống lại VNCH. Nhiều viên chức Mỹ tại Sài-gòn xúi dục và cổ võ các
phóng viên, ký giả chống lại chính phủ Việt Nam. Đại sứ Lodge đã hiểu rõ tình
thế hơn, và Nhu có thể lèo lái ông ta. Theo Tướng Khiêm, ông Nhu còn tâm sự sẽ
theo bất cứ điều gì người Mỹ muốn và được Tổng thống Kennedy ủng hộ. Nhu nói thân
với Richardson, Trưởng sở CIA.(FRUS, 1961-1963, IV:90-2) Những lời tuyên
bố của ông Nhu ít nữa cũng có một tác dụng tâm lý: Những người âm mưu đảo chính
không khỏi lo âu về tâm ý thực sự của người Mỹ. Các Tướng còn phân vân chẳng
hiểu vợ chồng Nhu có ăn lương CIA hay chăng.
15
Tướng tham dự, kể cả Trần Văn Đôn, ,
Trần Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Nghiêm, Lê Văn Kim, Phạm Xuân Chiểu,
Trần Tử Oai, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Là, Trần Ngọc Tám, Nguyễn Giác Ngộ, Văn
Thành Cao, Mai Hữu Xuân, Huỳnh Văn Cao.
Quan trọng hơn nữa, nhóm Big Minh cảm thấy
chưa có đủ lực lượng, vì chưa thuyết phục được Tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh
Vùng III kiêm Tổng trấn Sài Gòn.
[Nỗ lực thuyết phục Đính đã bắt đầu sau
cuộc họp báo ngày 27/8 của Đính. Phe đảo chính dùng kế khích tướng, dèm pha
rằng Đính đã bị Nhu lừa, và chính phủ Diệm phải chịu ơn Đính mới đúng. Rồi xúi
Đính vào gặp Diệm, yêu cầu Diệm phong mình làm Bộ trưởng Nội Vụ. Diệm giận dữ
từ chối, bắt Đính lên Đà-lạt "nghỉ phép." Lợi dụng cơ hội, nhóm đảo
chính thuyết phục Đính ngả theo. Tuy nhiên, Đính chưa quyết định dứt khoát].
[Theo ,
mãi tới tháng 10/1963, Tôn Thất Đính mới đi tìm ông Minh. Sau một hồi chuyện
vãn, Đính đột ngột nói: “Đại ca, quê hương chúng ta đang bị nguy hiểm. Đại ca
bảo tôi phải làm gì?” Ông Minh ra chỉ thị cho Tướng Đính về đảo chính. Những
ngày kế tiếp, ông Minh tìm cách hòa giải giữa Tướng Đính và Kim vì sau cuộc đảo
chính hụt 11/11/1960, Đính đã cho lệnh bắt giữ Kim, lúc ấy đang là Chỉ Huy
trưởng trường Đà-lạt. (VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 361-2) Ngày 26/5/1964, ông Khánh nói với Cabot-Lodge rằng
sau khi nghiên cứu hồ sơ của Ngô Đình Diệm về cuộc đảo chính 11/11/1960, những
người chủ mưu có liên hệ chặt chẽ với Pháp và muốn ủng hộ Kim làm Thủ tướng.(FRUS,
1964-1968, I:381)].
Cuối
cùng, sau hơn 24 giờ cắt liên lạc với tình báo Mỹ, sáng Thứ Bảy, 31/8, ông
Khiêm mới báo cho Tướng Harkins biết rằng kế hoạch đảo chính vào ngày hôm sau,
1/9, bị tạm gác. Theo Khiêm, Big Minh vẫn chưa thực sự tin chính phủ Mỹ đồng ý
cho đảo chính vì cấp bậc của Conein quá nhỏ; cần những người như Harkins hay
Lodge xác định. Do đề nghị của Harkins, Khiêm hứa sẽ dàn xếp cho Harkins gặp
Tướng Minh. Đồng thời tiết lộ rằng André Đôn có kế hoạch yêu cầu ông Diệm cải
tổ chính phủ, đưa ba Tướng nắm các bộ Quốc Phòng, Nội Vụ và Tổng Nha Thông Tin;
Ngô Đình Nhu sẽ làm Thủ tướng hoặc điều hợp tổng quát.(Gravel, II:265; FRUS, 1961-1963, IV: Tài liệu
32, 33 [tr.65-6])
Chiều
đó, khi gặp Phillips, Lê Văn Kim nói Nhu và LLĐB của Lê Quang Tung phòng thủ kỹ
càng, khó thể hành động. Sẽ tiếp tục chuẩn bị, nhưng cần bí mật. Khi Phillips nói Khiêm đã gặp Tướng
Harkins và tuyên bố các Tướng đồng ý cho Nhu làm Thủ tướng; đổi lại, quân đội
được nhiều quyền hơn, Kim rất giận dữ. Kim hẹn gặp lại vào buổi tối. Khi gặp
lại, Kim nói Khiêm không báo cáo gì cho Minh về buổi gặp Harkins. Các Tướng
không bao giờ chấp nhận Nhu; họ chưa thể ra tay vì Nhu và Tung đã chuẩn bị, và
các Tướng thiếu phương tiện. (FRUS, 1961-1963, IV:64-6)
Lý do nào đi nữa, âm mưu đảo chính ngày
1/9 phải đình hoãn. Lúc 18G00 ngày 31/8, Lodge báo cáo về Oat-shinh-tân là các
Tướng chẳng có tinh thần hay tổ chức để thực hiện.
[Theo tờ Times of Viet-Nam, cơ quan ngôn
luận bán chính thức của vợ chồng ông Nhu, cuộc đảo chính này dự trù vào ngày
28/8, nhưng bị ông Nhu bẻ gãy bằng cách tuyên bố Thiết quân luật ngày 21/8; Times of Viet-Nam, 2/9/1963;
Công điện số 747, ngày 2/9/1963, Saigon gửi Paris; CLV, SV, 17:51]
Ngày
4/9, cơ quan CIA Sài-gòn nhận định về âm mưu đảo chính thất bại trên như sau: Hai bên “không thắng, không bại.”
Diệm-Nhu biết rằng Mỹ khuyến khích các Tướng làm đảo chính, và CIA nhúng tay
vào vụ này. Có thể họ biết gần hết những phương cách CIA đã thực hiện. Có thể
chính phủ VNCH nhận hiểu họ còn gặp khó khăn với các lãnh đạo quân đội, đa số
dân chúng, và chính phủ Mỹ. Diệm-Nhu đang thẩm giá sự kiện chính phủ Mỹ yểm trợ
một lãnh đạo khác và sẽ đi đường xa để khuyến khích, và yểm trợ lãnh đạo mới
ấy. Bước sắp tới, cả hai chính phủ VNCH và Mỹ phải đạt được thỏa thuận để Mỹ có
thể tiếp tục viện trợ, dù thay đổi đôi chút về hình thức cũng như việc thực
thi. (FRUS, 1961-1963, IV:92-3)
2. Cuộc đảo chính ngày 1/11/1963:
Sau
khi các Tướng tạm ngừng đảo chính, người
Mỹ chẳng có lựa chọn nào khác hơn tiếp tục liên hệ với chính phủ Diệm. Một mặt,
Oat-shinh-tân thực hiện kế hoạch “áp lực và thuyết phục” [Pressures and
Pursuasion Track].(Hilsman, To Move A Nation, tr. 508) để loại anh
em ông Diệm. Mặt khác, Cabot-Lodge vẫn mở cửa cho một giải pháp đảo chính.
a. Thục và Lệ Xuân ra đi:
Ngay
trong ngày 31/8, Cabot-Lodge điện về Oat-shinh-tân, yêu cầu chuyển sang áp lực ông
Diệm thay đổi nhân sự và chính sách Phật Giáo qua phương thức “áp lực và thuyết
phục.” Về nhân sự, cần ông Thục và bà Lệ Xuân rời nước; ông Nhu sẽ lo kế hoạch
ấp Chiến lược; và lập thêm chức Thủ tướng, giao cho ông Nguyễn Đình Thuần phụ trách. Về chính sách,
cần phóng thích sinh viên, học sinh, tăng sĩ và Phật tử, hủy bỏ Luật số 10, các
chùa chiền phải được giải tỏa và trùng tu, và chính phủ tỏ thái độ hòa hoãn với
Phật Giáo. Lodge yêu cầu đích thân Kennedy tuyên bố những điều kiện trên tại
Oat-shinh-tân.(FRUS, 1961-1963, IV:66-7) Lodge cũng thêm rằng có tin Nhu
đang bí mật tiếp xúc với Cộng Sản qua trung gian hai đại sứ Pháp và Poland [Ba
Lan], vì hai chính phủ này muốn một giải pháp trung lập giữa Bắc và Nam Việt
Nam. (Maneli đã tiết lộ với CIA việc tiếp xúc với ông Nhu; rồi ngày 30/8,
Đại sứ Lalouette cũng xác nhận với Lodge về việc Nhu móc nối với Cộng Sản).
Để tạo áp lực tâm lý, từ nay, Lodge không nói chuyện với anh em ông Diệm-Nhu
nữa nếu chưa tham khảo Bộ Ngoại Giao. Chính phủ Việt Nam, theo Lodge, đã hành
xử như “những kẻ dối trá và tội phạm” [has acted both as liars and
criminals].
Trong
buổi họp tại Bộ Ngoại Giao sáng Chủ Nhật, 31/8 (khoảng nửa đêm cùng ngày tại
Sài Gòn), Phó Tổng thống Johnson và các cố vấn của Kennedy không đi đến quyết
định rõ ràng nào. Đa số muốn cho
ông Diệm cơ hội chót, tức vẫn giữ ông Diệm, chỉ đưa ông Thục, và bà Lệ Xuân rời
nước; riêng ông Nhu sẽ chỉ còn lo kế hoạch ấp Chiến lược.(FRUS, 1961-1963,
IV:69-74, 80-1) Oat-shinh-tân chỉ thị Lodge tiếp xúc lại với ông Diệm, và
Kennedy sẽ dùng buổi họp báo ngày 2/9 tại Mỹ để áp lực (như Lodge đã đề nghị).
Nếu không thể dùng đường lối ngoại giao và chính trị để thuyết phục, Mỹ sẽ tạm
ngưng viện trợ. Ngoại trưởng Rusk còn cho lệnh Lodge, nếu cần, bảo thẳng ông
Diệm phải chứng tỏ cho người Mỹ thấy rằng chính phủ Kennedy “không thể đòi hỏi
quốc dân Mỹ bị giết để yểm trợ Bà Nhu trong khát vọng nướng thịt sư.”(Ibid.,
IV:76-9)
Ông
Nhu dường như bất chấp áp lực của Mỹ. Ngày 1/9, các báo thủ đô chạy tin lớn
trên trang nhất lời tuyên bố ngày 29/8 của Tổng thống Pháp de Gaulle—đề nghị
hai miền Bắc và Nam tham dự một hội nghị hoà bình, thống nhất, và trung lập hoá
miền Nam.(CLV, SV, 91:156) Thực ra, de Gaulle chỉ lập lại những gì đã từng nói
với Kennedy trong chuyến thăm Pháp từ 31/5 tới 2/6/1961. Nhưng ở thời điểm liên hệ Mỹ-Việt đang
căng thẳng này, đề nghị của de Gaulle mang một ý nghĩa đặc biệt. Nói theo Bộ trưởng Văn hóa Trương Công
Cừu, chính phủ Diệm “hiểu rõ mọi hàm ý của Paris.” Ông Nhu cũng đã cho Bản tin
Việt Tấn Xã ngày 30/8 đăng trên trang nhất trọn bài diễn văn của de Gaulle.
Thật
khó đoán de Gaulle có hàm ý gì. (Thời gian này, Trần Văn Hữu cũng chủ trương
trung lập, và có liên hệ với Bộ Ngoại Giao Pháp. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng cổ võ trung lập.) Chỉ biết lời
tuyên bố trên gây sôi nổi dư luận Mỹ. Ngày 30/8, New York Herald Tribune nhận định rằng de Gaulle muốn yểm trợ
Diệm, gây ảnh hưởng ở Việt Nam. Tờ New York Times cho rằng de Gaulle bày tỏ sự bất mãn
với chính sách Mỹ. Tờ Washington Post nghĩ de Gaulle muốn Pháp sẽ thay thế
Mỹ. Phía sau hậu trường, ngày 30/8 [31/8 tại Việt Nam], Đại sứ Pháp Hervé
Alphand giải thích với Ngoại trưởng Rusk rằng giải pháp trung lập có thể thực
hiện được vì hiện nay Mao Trạch Đông muốn chiến tranh, trong khi Hồ Chí Minh
muốn hòa bình, và Hồ vốn chống Trung Hoa. Rusk
không đồng ý, coi nền trung lập giả hiệu ở Việt Nam là điều nguy hiểm nhất, sẽ
tạo nên những khó khăn cho các nước lân bang, kể cả Indonesia. Alphand hứa sẽ
tuyên bố với báo chí rằng Pháp không có ý định dàn xếp với Diệm hay bành trướng
ảnh hưởng và làm hại Mỹ. Rusk đề nghị Alphand giải thích rằng lời tuyên bố của
de Gaulle phản ảnh quan điểm dài hạn của Pháp. Alphand cũng hết sức bệnh vực
ông Diệm. Theo Alphand, mặc dù Diệm không được ưa thích, nhưng chưa tìm được ai
thay. Rusk xác nhận không chống ông Diệm mà khó khăn chính là Nhu. Rồi hỏi ý
Alphand về việc cho Nhu qua Pháp; Alphand đáp không hiểu Nhu có chịu qua Pháp
nghỉ hưu hay chăng. (FRUS, 1961-1963, IV:59-61)
Tại
Sài Gòn, Đại sứ Lalouette cũng muốn hòa giải giữa ông Diệm và Cabot-Lodge. Nhân
dịp Lodge đến thăm xã giao, ngày 31/8, Đại
sứ Pháp ca ngợi ông Diệm là quốc trưởng có khả năng nhất ở Đông Nam á; nhưng
không là một nhà chính trị, không biết ăn nói, không biết cách gây thiện cảm
với báo chí, v.. v... Phần Nhu rất thông minh, phụ giúp Diệm đắc lực. Theo
Lalouette, ông Diệm có thể chiến thắng CS. Hiện
trạng tại Việt Nam là do giới truyền thông tạo nên. Báo chí đã tạo nên sự xúc
động quá mức ở hải ngoại hơn trong nước. Trong thời Pháp thuộc, nhiều sư tự
thiêu nhưng chẳng gây nên phản ứng gì trong dân chúng. Tình hình đã êm dịu dần. Phật tử được
phóng thích, Luật số 10 sẽ bị rút lại. Các chùa sẽ được sửa chữa do chính phủ
chịu phí tổn. Một lễ sẽ được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Lệ Xuân sắp rời nước
trong vài tháng để thăm India và Mỹ. Lalouette thêm rằng các viên chức Việt
muốn được nói chuyện với Lodge, nhưng Lodge đứng xa, nên họ lùi lại. Rồi
Lalouette đi thẳng vào vấn đề, hỏi: “Cần làm gì để hài lòng Mỹ?” Lodge
đáp: “Loại bỏ vợ chồng Nhu.” Lalouette nghĩ rằng chuyện này không
được, và đề nghị đưa một ai đó lên làm Thủ tướng, giảm bớt trách nhiệm của Nhu.
Vẫn theo Lalouette, trong một hai năm nữa, chiến tranh du kích sẽ tàn đi. Việt
Cộng đang thất vọng, và tinh thần xuống rất thấp ở miền Bắc. Khi cuộc chiến
tranh du kích chấm dứt, sẽ có thể giao thương, gạo miền Nam, than miền Bắc. Sau
đó sẽ đi đến thống nhất. Khi Lodge từ biệt, Lalouette nói: Hãy trấn an dư luận
Mỹ và đừng đảo chính. (FRUS, 1961-1963, IV:58-9)
Lời
khuyên của Lalouette khó thay đổi định kiến của Lodge với chế độ Diệm, những
người mà Lodge đánh giá như “dối trá và tội phạm.” Chiều Thứ Hai, 1/9, Cabot-Lodge áp lực
ông Nhu phải thực hiện ngay lời hứa với Đại sứ Nolting từ ngày 10/8: Đó là bắt
Tổng Giám Mục Thục rời nước và Lệ Xuân ra đi. Phần ông Nhu cũng đồng ý rút lên
Đà Lạt.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 288, 325-6, 336-7, 339-41)
Ông Nhu chưa chịu buông xuôi, quyết đổ
thêm dầu vào lửa. Sáng ngày 2/9, ông Nhu tiếp Maneli ngay tại Dinh Gia Long.
Trưa đó, tờ Times of Vietnam đi một bản tin nẩy lửa, 8 cột, với tựa
"CIA Financing Planned Coup d' état" [CIA tài trợ kế hoạch đảo
chính], lên án Mỹ và CIA đã âm mưu tổ chức cuộc đảo chính vào ngày 28/8 nhưng
không bị Nhu bẻ gãy. Theo báo này, từ tháng 1/1963, các chuyên viên đảo chính
Mỹ—từng thành công ở Turkey, Guatemala, Đại Hàn, nhưng thất bại ở Iran và
Cuba—lũ lượt kéo tới Việt Nam. Mỹ đã tiêu từ 10 tới 24 triệu MK để thực hiện đảo chính, và quĩ mật này
Quốc hội Mỹ không hề hay biết. Kế hoạch đảo chính thoạt tiên dự trù vào ngày
28/8, nhưng phải ngưng lại vì Việt Nam đã ra tay trước, thiết quân luật từ ngày
21/8. Các ký giả quốc tế ở
Manila đã được “tin mật” rằng Diệm sẽ dừng lại ở Manila vào ngày 29/8, trên
đường lưu vong. Giờ mưu định đảo chính là 11 giờ tối ngày 28/8, nhưng sau đó
phải hoãn lại vì chính phủ Việt Nam biết rõ mọi chi tiết, và cương quyết chống
đến cùng, cho dẫu phải tử chiến trên đường phố Sài-gòn. Tổng thống de Gaulle,
vẫn theo báo này, tỏ ra rất bất mãn (indignant) vì một cuộc đảo chính
tương tự không dễ dàng thành công, chỉ làm lợi cho Cộng Sản. Với cuộc tranh đấu
của Phật Giáo, tờ báo Mỹ ngữ của ông Nhu thách đố các tu sĩ tiếp tục tự thiêu.
(CĐ số 747, ngày 2/9/1963, Sài-gòn
gửi Paris; CLV, SV, 17:51)
Sự
khiêu khích mới này khiến Cabot-Lodge khó tha thứ cho ông Nhu. Nhưng người Mỹ
thường tự hào họ là người của hành động [doers]; và, chẳng mấy quan tâm đến
những lời sỉ vả, nhục mạ thô tục mà người Á Đông ưa thích (kiểu Mao Trạch Đông
cho quân lính xếp hàng dài theo biên giới Nga, đồng loạt tụt quần trận, chổng
mông về phía phòng tuyến Nga).
Bởi
thế, Cabot-Lodge đẩy mạnh hơn kế hoạch “chuyển tiếp” của mình. Để tạo thêm áp
lực, Lodge khai thác tối đa hành động ve vãn Cộng Sản của ông Nhu, với sự tiếp
tay của Pháp.
Như
đã lược nhắc, từ đầu năm 1963, nếu không phải sớm hơn, ông Nhu đã tìm cách tiếp
xúc Cộng Sản (kể cả Phạm Hùng, đặc phái viên miền Bắc). Môi giới của ông Nhu là
Đại sứ Lalouette và có thể ngay chính Giáo hoàng John XXIII (1958-1963). Nhân
vật Maneli, Đại diện Ba Lan (Poland) trong Ủy Ban Quốc tế Kiểm soát Đình Chiến
(ICC), chỉ là mặt nổi phụ thuộc, để ông Nhu dằn mặt người Mỹ về khả năng “ve
vãn Cộng Sản” của mình. Nhưng đây lại là bằng chứng hiển nhiên duy nhất Lodge
có trong tay về sự “phản bội” [chiến lược chống Cộng] của ông Nhu.
[Sau
khi gặp ông Nhu ngày 25/8, Maneli thú nhận với Sở CIA Sài-gòn rằng Đại sứ Pháp
làm trung gian cho Nhu tiếp xúc Phạm Văn Đồng. (Ngày 30/8, nhân viên CIA tiết
lộ tin trên). Cabot-Lodge bèn nhờ một người bạn tiếp xúc với Maneli để khai
thác thêm tin tức. Theo nhân vật còn dấu tên này, từ nhiều tháng trước, Nhu đã
chủ trương trung lập hóa và thống nhất Việt Nam. Maneli yêu cầu một người [chưa rõ tên] làm
trung gian để gặp Nhu, nói Maneli sẵn sàng làm chim xanh giữa Nhu với Đồng. Nhu
đồng ý cho vợ đi dự Hội nghị Dân biểu Quốc tế để giữ sĩ diện. Trong khi đó, Nhu
tuyên bố với các Tướng rằng đừng sợ Mỹ cắt viện trợ, vì nếu thế, sẽ có những
nguồn tài trợ khác. Nhu cũng có thể liên lạc với Hà-nội, yêu cầu giảm bớt cường
độ chiến tranh, trong khi thương thuyết một thỏa ước vĩnh viễn.
Mật
báo viên trên thêm rằng Nhu muốn thương thuyết với Mỹ. Nếu Cố vấn chính trị
Trueheart của Tòa Đại sứ gặp Nhu, có thể có giải pháp.] (FRUS, 1961-1963,
IV:89-90)
Bởi thế, sau khi ông Nhu tiếp Maneli ngay
tại Dinh Gia Long vào sáng ngày 2/9 để nhờ bàn việc hiệp thương, thống nhất với
Phạm Văn Đồng, Lodge báo ngay về Oat-shinh-tân xin lệnh. (FRUS, 1961-1963,
IV:84-5) Chiều ngày 2/9 đó, Lodge đích thân vào Dinh Gia Long gặp ông Nhu. Để tăng cường áp lực, Lodge mang theo
cả Đại sứ Italia d’Orlandi và Khâm sứ Vatican d’Asta, vì hai người này là nhân
chứng trong các âm mưu “ve vãn Cộng Sản” của ông Nhu (mà theo hình luật đương
thời như Sắc Luật 47 ngày 21/8/1956 và 10/59 ngày 6/5/1959), sẽ bị kết án từ
chung thân khổ sai tới tử hình). (VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 340-1, 102,
151).
Khó
thể chối cãi việc ve vãn Cộng Sản, và trước đề nghị của Mỹ, Nhu đồng ý sẽ từ
chức, rút lên Đà-lạt sau khi bãi bỏ Thiết quân luật, tức sau khi số nhân viên
Mỹ tổ chức đảo chính đã rời Việt Nam. Nhu cũng muốn đài phát thanh Mỹ ở Việt
Nam ngừng đả kích chính phủ; và tuyên bố từ nay người Mỹ nào vào Việt Nam cũng
cần chiếu khán [visas]. Lệ Xuân sẽ rời Sài-Gòn ngày 17/9 để dự Hội nghị các Dân
biểu tại Yugoslavia. Thục sẽ rời nước trong một tương lai gần. Nhu cũng đồng ý
chính phủ sẽ có một Thủ tướng. Về kinh viện, Nhu muốn được vay dài hạn, với lãi
xuất thấp, hơn là viện trợ. Như thế người Mỹ tránh được trách nhiệm về những gì
người Việt làm.
Nhu
nói không thể rời nước vì lý do tiếp xúc với Việt Cọng; những cán bộ VC này đã
rất chán nản và muốn ngừng hoạt động (?). Sáu tháng trước, một Đại tá VC muốn
đào ngũ với 3 tiểu đoàn, nhưng Nhu khuyên
ông ta ở lại biên giới Lào chờ cơ hội thuận tiện. Một Tướng VC ở Miên cũng muốn gặp Nhu.
Không những VC đang thất vọng mà còn cảm thấy đang bị Bắc Việt lợi dụng. Nhu tiên
đoán trong tương lai BV phải tiếp tế bằng không quân. Tiếp vận đường biển đã bị
ngăn cản, và đường bộ cũng hầu như bất khả.(sic) Nếu tiếp tế bằng phi
cơ, sẽ bị phòng không bắn hạ.
Về
cuộc gặp gỡ Maneli, Nhu nói Maneli đã yêu cầu Nhu chú ý đến tuyên bố của de
Gaulle [ngày 29/8] và Hồ Chí Minh [ngày 29/5], rồi hỏi Nhu muốn chuyển lời gì
cho Phạm Văn Đồng. Nhu trả lời “Chẳng có gì cả.”
Nhu cũng nói Trung Cộng đề nghị bán 2 phi
cơ U-40.
Theo
đúng lớp lang dự trù, tại Mỹ, trong buổi phỏng vấn truyền hình với Walter
Cronkite trên đài CBS ngày 2/9, Kennedy tuyên bố chính phủ Diệm đã "xa rời
quần chúng," cần thu phục lại sự yểm trợ của mọi người, và thay đổi về
chính sách cùng nhân sự. Cuộc
chiến Việt Nam là của chính người Việt, Mỹ chỉ có thể tiếp sức. Diệm không thể
chiến thắng nếu tình trạng hiện tại không thay đổi. Việc đàn áp Phật tử,
Kennedy tiếp, rất không khôn ngoan. Không thể chiến thắng bằng đường lối này.
Kennedy hy vọng chính phủ [Diệm] phải thấy rõ rằng họ cần thực hiện những bước
để lôi kéo lại sự yểm trợ của đám đông trong cuộc chiến tối thiết này. Được hỏi
liệu chính phủ [Diệm] còn thời gian để lấy lại sự ủng hộ của đám đông, Kennedy
nói nếu thay đổi chính sách, và có lẽ với thay đổi nhân sự, vẫn có thể lôi kéo
được sự ủng hộ của quần chúng. Nếu chính phủ [Diệm] không thay đổi, cơ hội để
chiến thắng không được tốt. Về bài diễn văn của de Gaulle, Kennedy tuyên bố
không hiểu de Gaulle muốn gì. Tuy nhiên, cần lắng nghe những gì de Gaulle tuyên
bố vì de Gaulle không phải là kẻ thù của Mỹ. Kennedy cũng khen ngợi Cabot-Lodge
đã đặt quyền lợi quốc gia Mỹ lên trên sự nghiệp chính trị khi nhận chức Đại sứ
ở Việt Nam. (FRUS, 1961-1963, IV:tài liệu 50)
Trưa
hôm sau, 3/9, Kennedy phê chuẩn công điện chỉ thị cho Lodge gặp lại Diệm. Đồng
thời cho phép Lodge và Harkins, nếu các Tướng tiếp xúc trở lại, cần khẳng định
Mỹ không thay đổi lập trường.(FRUS, 1961-1963, IV:100-3) Tối đó [10G35
ngày 4/9 VN], McNamara, Rusk
và Bundy vội chỉ thị Lodge nối lại liên lạc trực tiếp với Diệm mà không cần qua
trung gian Nhu, vì mặc cả với Nhu chẳng khác nào nhìn nhận sự thăng tiến của
Nhu. Trong buổi gặp Diệm lần đầu, Lodge phải giải thích về ý định của Kennedy
qua bài diễn văn trên CBS: Kennedy rất mong chiến thắng và hy vọng rằng chính
phủ VNCH hiểu được tầm quan trọng của sự thay đổi nhân sự. Lodge cần chứng tỏ
sự bất bình của Mỹ về vấn đề đàn áp Phật giáo, vì sẽ làm hại nỗ lực chiến thắng
CS. Mỹ không muốn lật đổ chính phủ, nhưng sẽ tìm cách cải thiện nó. Sau khi
Lodge gặp Diệm, Harkins sẽ lại gặp Diệm và Thuần như thường lệ để lo việc chiến
tranh. (FRUS, 1961-1963,
IV:104-6)
Như
để trả lời Kennedy và Lodge, ngày 4/9 Nhu sai Đính họp báo lần thứ hai. “Anh
hùng quốc gia” Đính giải thích về danh từ "aventurier
internationaux" bị vấp mắc trong tuần trước, và khẳng định tất cả các
tướng lãnh Việt coi Ngô Đình Nhu như lãnh tụ, và tất cả đều tin cậy Nhu sẽ mang
đến chiến thắng CS.(Báo cáo ngày 5/9/1963, Lalouette gửi Couve de Murville;
CLV, 17:7; Đính 1998, tr.
418-20)
Trong
khi đó, khi Lalouette vào gặp, ông Diệm nói tình hình nghiêm trọng vì các sư
trẻ cực đoan đã thay thế những nhà sư lớn tuổi, khả kính cũ. (CLV, SV, d. 18) Nhu thì tiết lộ với
Lalouette là có thể dàn xếp
với Việt Cọng để chấm dứt chiến tranh, và để thực hiện việc này, Nhu sẽ yêu cầu
Mỹ triệt thoái một số quân. Thuật
lại với Lodge chuyện này xong, Lalouette nhấn mạnh rằng không thể thay
Diệm-Nhu, và Mỹ phải hợp tác với họ. (FRUS, 1961-1963, IV:111) Bởi thế,
ngày 4/9, Lodge xin phép được giải quyết mọi việc với Nhu trước khi gặp Diệm. Rusk đồng ý.(FRUS, 1961-1963,
IV:111)
Việc
này chưa xong, việc khác đã xảy ra. Ngày Thứ Năm, 5/9, nhân viên ngoại giao Tây
Germany trao cho sứ quán Mỹ bài phỏng vấn Lệ Xuân trên báo Der Spiegel. Theo Lệ Xuân, Lodge đang âm mưu loại
bỏ hoặc ám sát Lệ Xuân. Tổng
thống Diệm quá yếu, cần sự yểm trợ của Lệ Xuân. Những khó khăn hiện nay là do
báo chí bịa đặt và sự can thiệp của Mỹ. (Lệ Xuân nhìn nhận với một nhân viên Mỹ
là đã viết phần lớn bài phỏng vấn này; FRUS,
1961-1963, IV:Tài liệu 68)
Tối
5/9 [09G42 ngày 6/9 VN], Hilsman cho Lodge một vũ khí áp lực mới: Tiểu ban Viễn
Đông của ổy Ban Ngoại Giao Thượng viện tỏ ý nghi hoặc về khả năng lãnh đạo của
Diệm-Nhu, và sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Tiểu ủy ban muốn có một giải
pháp cho cuộc khủng hoảng hiện tại để có thể duy trì viện trợ. Thượng
viện Mỹ nghĩ rằng dân chúng Mỹ không muốn yểm trợ một chính phủ đàn áp dân
chúng và các tổ chức tôn giáo. Tiếp tục yểm trợ một chế độ như thế đi ngược lại
nguyên tắc căn bản dân chủ. Các
vấn đề khiến Thượng viện lưu tâm nhất là đường lối nguy hại của Diệm-Nhu, những
nguy hiểm Mỹ bị đồng hóa với những chế độ đàn áp dân chúng tại Việt Nam và các
nơi khác, những bài tường thuật trên báo chí về việc Nhu móc nối với Cộng Sản,
sự thất bại của Mỹ khi không thể thay thế Diệm-Nhu, sự vắng thiếu định hướng của
Mỹ. (FRUS, 1961-1963, IV:113) Ngay sau khi được công điện của Hilsman,
Lodge trao cho đại sứ Italia và đại diện Vatican đọc, nhờ họ gặp Nhu, bảo thẳng
Nhu rằng vợ chồng Nhu phải rời Sài Gòn trong 6 tháng. (Ibid.)
Sáng
ngày 6/9, trong khi chờ d’Orlandi và d’Asta chuyển lời của mình, Cabot-Lodge
sai nhân viên CIA vào gặp Nhu. ìng Nhu tuyên bố chẳng dính líu gì đến bài báo
trên Times of Vietnam ngày 2/9; và ông Diệm không ưa Trần
Văn Khiêm, nên không hề có việc cho Khiêm tái lập Sở Nghiên Cứu (Mật vụ). Đồng
thời, Nhu chỉ trích một số nhân viên Mỹ cấp thấp tung tin chống chính phủ. Được
hỏi về việc liên lạc với Hà-nội, Nhu nói Đại sứ Italia d'Orlandi và đại diện
India tại Ủy Ban Quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến, Goburdhun, đã yêu cầu Nhu gặp
Maneli. Maneli khuyên Nhu nên lợi dụng những lời tuyên bố của de Gaulle và Hồ
Chí Minh để thương thuyết với Hà-nội, và tự nhận đại diện cho Phạm Văn Đồng. Đề
nghị miền Nam bán gạo và bia cho miền Bắc, đổi lấy than đá. Tuy nhiên, Nhu chối
việc thương thuyết với Hà-nội, nói chỉ tiếp xúc Việt Cọng ở miền Nam. Nhu cũng
hoàn toàn chống lại trung lập.
Về
cuộc khủng hoảng Phật giáo, Nhu cho rằng mình bị biến thành dê tế thần. Từ sau
ngày 21/8, Nhu vẫn theo đuổi chính sách hòa hoãn. Nhu cũng tuyên bố không chống
Mỹ. Nhân viên CIA không tin lời Nhu, cho rằng Nhu dối trá. (FRUS, 1961-1963,
IV, Tài liệu 69)
Tối
đó, 6/9, d'Orlandi và d'Asta gặp Nhu, chuyển chỉ thị ngày 5/9 của Hilsman là vợ
chồng Nhu phải ra đi. Nhu bị xúc động mãnh liệt, nói muốn thảo luận với Lodge.
Hai đại diện của Lodge trả lời rằng không còn gì để “mặc cả.” Nhu chỉ có một
lựa chọn: Rời khỏi Việt Nam trong 6 tháng. Tùy Nhu muốn nhận hay chối từ. (FRUS,
1961-1963, IV, Tài liệu 63)
Ông Nhu mất hẳn bình tĩnh, tuyên bố:
Nhu nói thêm Lệ Xuân sẽ rời nước ngày 9/9
để nghỉ hè ở ẽu Châu trong hai hay ba tháng. Nhu không rời nước, chỉ từ chức,
không dính líu gì đến ấp chiến lược nữa. Một thời gian sau, sẽ xuất ngoại ba
bốn tháng. Khi từ chức Nhu sẽ nói thẳng ra là bị đuổi đi [kicked out].
(Ibid., Tài liệu 72)
Tại
Oat-shinh-tân, HĐ/ANQG họp liên tiếp trong ngày 6/9 [chiều và khuya ngày 6/9
tại Việt Nam] về chính sách đối với chế độ Diệm. Ai nấy đều đồng ý vợ chồng Nhu
phải ra đi. Kennedy cũng muốn Lodge liên lạc trực tiếp với ông Diệm, không nên
quá tin tưởng ở các trung gian. Để có nhiều yếu tố hơn trước khi quyết định số
phận chế độ Diệm—tức duy trì ông Diệm hay thay bằng một lãnh đạo mới, như
Nguyễn Ngọc Thơ, Dương Văn Minh, v.. v...—Kennedy gửi Tướng Victor Krulak và
Joseph Mendenhall qua Việt Nam để nghiên cứu tình hình tại chỗ từ ngày 6 tới
9/9/1963. (FRUS, 1961-1963,
IV:117-20)
Chiều
đó [8G42 ngày 7/9 tại VN], Rusk chỉ thị Lodge mở lại liên lạc với ông Diệm, yêu
cầu giải quyết ngay các vấn đề khẩn thiết như bãi bỏ Thiết quân luật, phóng
thích Phật tử và học sinh, sinh viên, bỏ kiểm duyệt báo chí, giải tỏa các chùa
chiền, v.. v... Thời gian là yếu
tố cực kỳ quan trọng. Rusk cũng yêu cầu Lodge nên cố tránh một cuộc đương đầu
hay giao tối hậu thư, mà phải giải thích cho ông Diệm biết nước Mỹ đang hoạch
định chính sách mới, trong khi chịu nhiều áp lực của báo chí, dư luận và Quốc
Hội. (FRUS, 1961-1963, IV:128-9) Tuy nhiên, Lodge chưa gặp ngay ông Diệm
mà có ý chờ ông Nhu thực hiện những gì đã hứa.
Hôm
sau, 7/9, do áp lực của Khâm sứ d’Asta và Cabot-Lodge, Tổng Giám Mục Thục lên
đường qua Roma cùng Giám mục Picquet. Có lẽ chẳng vui vẻ gì, ông Thục tuyên bố
ở Roma rằng CIA Mỹ đang bỏ ra 20 triệu Mỹ Kim để âm mưu đảo chính vào ngày 21/9
sắp tới. Thục còn khẳng định các sư không tự thiêu mà bị giết bằng búa. Chẳng
hiểu vì những lời tuyên bố này, hay một lý do nào đó, Giáo Hoàng Paul VI hủy bỏ
buổi triều kiến dự trù, mà cũng chẳng đề cập gì đến việc thăng cấp Hồng Y. Vì
mãi cuối tháng đó Công đồng Vatican II mới tái nhóm, ngày 11/9, ông Thục bay
qua New York để vận động cho Lệ Xuân vào Mỹ “giải độc”—đòi hỏi “công lý,” như
ông Diệm nói với Lodge; nhưng dưới mắt Cố vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy
là một hành động biểu lộ “sự điên rồ tập thể của một gia đình cai trị” [collective
madness in a ruling family] chưa hề thấy sau thời các Nga hoàng. (FRUS,
1961-1963, IV:175) Hồng y Spellman không chịu tiếp, nên chính phủ Mỹ phải
can thiệp cho Spellman gặp mặt ông Thục.
Bà
Lệ Xuân cũng rời Sài Gòn ngày 9/9 như ông Nhu đã hứa, để tham dự Đại hội nghị
sĩ quốc tế Yugoslavia và “giải độc.” Vì sứ mệnh nặng nề, Lệ Xuân mang theo một
đoàn tùy tùng, kể cả con gái là Lệ Thủy và một nữ bí thư. Nhưng ai nấy đều đoán
biết tham vọng chính trị của Lệ Xuân bắt đầu đi vào đoạn kết. Những lời nhục mạ
Phật giáo cùng cuộc tranh đấu bình quyền tôn giáo, xen kẽ với những lời đả kích
cá nhân Kennedy cùng viên chức Mỹ [“pinks”] của “Rồng Cái” trong những tuần
lễ kế tiếp chỉ mang lại sự bẽ bàng cá nhân và lòng khinh miệt, giận dữ với họ
Ngô. Phật tử trên thế giới và tình báo Mỹ cùng cha mẹ ruột Lệ Xuân sẽ dạy bảo
“Rồng Cái” thế nào là mặt trái của quyền lực—tức nỗi cay đắng, bẽ bàng của
những con sô cẩu [chó rơm] của Lão tử khi cuộc cúng tế đã qua.
[Thời
gian này, Mỹ bỗng mất một lá bài chính trị nuôi dưỡng bấy lâu. Tối Thứ Bảy,
7/9, Bộ trưởng Thuần gặp Rufus Phillips (nhân viên cao cấp USOM), tiết lộ ông
Nhu đang nắm hết quyền lực trong nước. Thuần muốn từ chức, nhưng không dám vì
sợ Nhu giết—ông Nhu nghi rằng Thuần đã bị Mỹ mua.(FRUS, 1961-1963,
IV:Tài liệu 76) Hôm sau, khi Trueheart đến thăm, Thuần lập lại những điều đã
nói với Phillips và tỏ ý không tin các Tướng dám hành động. [Theo ông Thuần, Trần Thiện Khiêm
trung thành với ông Diệm, nhưng có thể đang làm việc với Phạm Ngọc Thảo]. Thuần rất lo ngại cho tính mạng mình
vì trên danh sách thủ tiêu của Trần Văn Khiêm có tên Thuần. Trong tổ chức của
Khiêm có cả Đại tá Phước, tỉnh trưởng Vĩnh-long. Thuần đặc biệt quan tâm đến
việc Đại sứ Italia, d' Orlandi, tuyên bố rằng Thuần sẽ làm Thủ tướng. "Bộ
ông ta muốn tôi bị giết sao," Thuần than thở. Theo Thuần, Nhu đang muốn tiêu diệt
Thuần, nói với ông Diệm rằng Thuần là nhân viên của Mỹ; bởi thế Diệm thay đổi
thái độ với Thuần. LLĐB đã tung truyền đơn nói Thuần và Bộ
trưởng Tư pháp Bùi Văn Lương lĩnh của Mỹ hàng trăm ngàn Mỹ kim. Thuần đã mang
truyền đơn này vào than phiền với Diệm. Nhu
cũng tung tin đang được Lodge yểm trợ, và sẽ trở thành cố vấn chính trị của Lodge.
(FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 75) Trueheart nghĩ rằng Thuần đã bỏ hết
mọi hy vọng, chỉ lo toan cho tính mạng sống và sự an toàn của gia đình. Lá bài
Nguyễn Đình Thuần cũng chấm dứt từ đó.]
Chính sách “áp lực
và thuyết phục” của Mỹ vẫn tiếp tục. Ngày
8/9, David E. Bell, Giám đốc chương trình viện trợ Mỹ, tuyên bố trong một buổi
trực tiếp truyền hình rằng Quốc Hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Diệm không thay đổi
chính sách. Trong khi đó Thượng Nghị sĩ Frank Church và một số người khác chuẩn
bị nạp các dự thảo luật đòi cắt viện trợ cho Việt Nam.
b. áp lực Nhu rời nước:
Ngày
9/9, sau khi Lệ Xuân ra đi, Lodge mới gặp ông Diệm lần thứ hai sau ngày nhậm
chức. Hai người thảo luận nhiều vấn đề, đặc biệt là Lệ Xuân và Thục. (Lệ Xuân
từng đe dọa sẽ đưa vấn đề ra trước LHQ, và Nhu muốn yêu cầu Quốc Hội Mỹ điều
tra chính sách của Kennedy. Thục thì tuyên bố Mỹ đã trả 20 triệu MK để lật đổ
chế độ Diệm). Khi Lodge nói cần thay đổi nhân sự, như Nhu phải đi xa, ít nhất
đến cuối năm 1963, ông Diệm hỏi ngược lại tại sao Nhu phải đi khi cần người
trông coi ấp chiến lược.
Về
vấn đề Phật giáo và những người bị bắt giữ, ông Diệm nói hiện chỉ còn giữ 70 tù
nhân tham dự biểu tình. Ông Diệm cũng nói đại diện Việt Nam tại LHQ sẽ chứng
minh nhiều ngôi chùa đã biến thành "nhà chứa" [bordellos], cảnh sát
tìm thấy quần áo lót đàn bà, hình ảnh khiêu dâm, một nhà sư đã phá trinh tới 13
thiếu nữ. Chính phủ chỉ tảo thanh vài ba chục chùa trên tổng số 4,700 chùa. Tại
chùa Xá Lợi, những thành phần khiêu khích đã ném đồ vật lên đầu khách đi đường,
nên phải có thái độ. Học sinh, sinh viên bãi khoá vì chúng là Cộng sản. Khi
Lodge đọc cho ông Diệm một bản tin của Reuters,
dẫn lời tuyên bố của Tổng Giám Mục Thục rằng các
tăng sĩ không tự tử mà họ đã bị giết bằng búa, ông Diệm chỉ im lặng. Trong
báo cáo về Oat-shinh-tân, Lodge nhận xét ông Diệm nặng mang tinh thần Trung
cổ.(FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 77)
[Ngày Thứ Năm, 5/9, khi trả lời thư ngày
31/8/1963 của Tổng thư ký LHQ U Thant, ông Diệm cho rằng không hề có việc đàn
áp Phật giáo tại Việt Nam. Những
cáo buộc trên thuần là “sản phẩm tưởng tượng của thực dân.” Các nước Phi
và á châu đã bị “đầu độc bởi âm mưu quốc tế của phương Đông hoặc phương Tây chống lại VNCH.”
Diệm cũng khẳng định đã tìm ra một giải pháp cho vấn đề Phật giáo. (American
Foreign Policy: Current Documents, 1963, pp. 869-70; FRUS, 1961-1963, IV:112)
Ngày
này, phái đoàn Krulak và Mendenhall vừa hoàn tất chuyến tham quan (khoảng 24
giờ) Việt Nam. Họ được Lodge trình bày tóm lược buổi đối thoại với ông Diệm, và
ý định muốn bắt ông Nhu rời nước càng sớm càng tốt.
Trong
phiên họp ngày 10/9 tại Bạch Cung, hai bản báo cáo của Krulak và Mendenhall
khiến Kennedy và các cố vấn nhức đầu. Hai báo cáo này khác nhau như ngày với
đêm, bộc lộ rõ đường ranh phân chia trong giới cố vấn thân cận của Kennedy.
Tướng Krulak cho rằng cuộc chiến vẫn tiến triển tốt đẹp, và cuộc khủng hoảng
chính trị hiện tại không ảnh hưởng gì đến quân nhân hay vùng nông thôn.
Mendenhall kết luận rằng không thể thắng với anh em ông Diệm-Nhu, và người Việt
bắt đầu thiếu lòng tin cả chính phủ Mỹ.Nhiều người tại Huế và Sài-gòn nói Cộng
Sản còn [tốt] hơn cả chế độ Diệm. Nhiều người Việt không dám nói chuyện với Mỹ
kiều, lo sợ bị bắt giam. Tại sáu tỉnh miền Trung Mendenhall đi qua, các sĩ quan cao cấp yểm trợ
ông Diệm, nhưng sĩ quan cấp dưới bất mãn. Các cấp tỉnh trưởng, quận trưởng còn
trung thành, nhưng mọi công chức cấp dưới chống đối. Tình hình quân sự có vẻ
suy thoái trong tháng 8/1963. (FRUS, 1961-1963, IV:144-5)
Kennedy
phải chua chát hỏi Krulak và Mendenhall rằng thực chăng hai người cùng thăm một
xứ. Sau khi nghe thêm thuyết trình của Rufus C. Phillips và John Mecklin mới từ
Sài Gòn về, Kennedy tạm thời chưa có quyết định rõ ràng về ông Diệm, dù số phận
ông Nhu đã được định đoạt.
[Mecklin đề nghị nếu muốn làm đảo chính,
cần chuẩn bị trước để đưa quân chiến đấu vào miền Nam, vì các chính phủ kế tiếp
có thể suy yếu hơn Diệm. Phillips không đồng ý, vì sức mạnh của Nhu đã được
phóng đại quá mức, trong khi đánh giá thấp những người chống đối. Nhu khiến
người ta sợ và trọng, nhưng không trung
thành. Hơn nữa, dùng lời không đủ thuyết phục họ Ngô. Không cần phải cắt hẳn
viện trợ mà cắt những chương trình nào đó có hậu quả tâm lý nhắm vào Tung và
Nhu. Phải sẵn sàng đương đầu những khó khăn do Nhu gây ra, và trút trách nhiệm
sự thoái hóa trong cuộc chiến chống Cộng, nếu xảy ra, lên đầu Nhu. Không nên
nghi ngờ các Tướng. Các Tướng chưa làm đảo chính vì họ không có lính trong tay,
chưa có kế hoạch và chưa tin tưởng ở sự yểm trợ của Mỹ. Có thể dùng quân Mỹ
trong trường hợp khẩn cấp như bảo vệ thân nhân Mỹ, nhưng dùng quân Mỹ để đánh
VC là một lầm lẫn nghiêm trọng; IV:249-51]
Ngày
11/9/1963, ông Nhu lại thả thêm một quả bom khiêu khích Cabot-Lodge: Times of Vietnamloan tin bọn
phiêu lưu quốc tế sắp chuẩn bị vòng thứ 2. Trong
khi đó, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình của giáo phận Sài Gòn ra thư luân lưu nói
về thông điệp ngày 26/8/1963 của Paul VI (Paulius P.P. VI): Người giáo dân
lương thiện phải trung thành với chế độ đang cầm quyền, bất kể sự chính thống
của chế độ.(CLV 46:292-7)
Chẳng hiểu có bị ảnh hưởng bởi hai
biến cố trên hay không, lúc 14G00 ngày 11/9, Lodge gửi công điện yêu cầu có
biện pháp mạnh với chính phủ Diệm. Đã đến lúc phải dùng biện pháp trừng phạt [effective
sanctions] hữu hiệu để lật đổ Diệm và thành lập chính phủ mới; và yêu cầu
nghiên cứu gấp việc ngưng viện trợ, di tản thân nhân viên chức Mỹ để tránh rắc
rối.
Là
một cựu chiến binh Thế chiến thứ hai, Lodge cho rằng các sĩ quan trẻ không báo
cáo hết sự thực về ảnh hưởng của biến cố Phật giáo đối với quân đội—họ không
muốn làm thượng cấp phật ý. Đa số sĩ quan trẻ đều xuất thân từ thành phố, nói
chung là có học, không thể dửng dưng nhìn hay nồng nhiệt ủng hộ chính phủ bắt
giữ cha, chú, anh chị em họ. Ngay các binh sĩ cũng vậy. Mức độ đàn áp học sinh,
sinh viên rất thô bạo. Có thể vài ba cán bộ Cộng Sản đã xâm nhập, nhưng sinh
viên, học sinh không phải
là Cộng Sản. Tin đồn mới nhất là các công chức cũng sắp xuống đường. Và chắc
chắn các đoàn biểu tình sẽ chúi mũi dùi vào Mỹ nếu Mỹ không có thái độ. Con
thuyền quốc gia miền Nam đang chìm đắm, và để cứu vãn tình thế, bất cứ biện
pháp trừng phạt nào có thể sử dụng phải được thực thi, như tạm ngưng viện trợ.
Nếu muốn loại bỏ [get rid of] Nhu, nên lấy việc ngưng viện trợ để đạt
mục tiêu này. Lodge cũng đề nghị phải lôi cuốn [induce] những người muốn
cầm quyền, như Big Minh; và chấm dứt ngay tình trạng “chờ đợi” vì thành phần ưu
tú trong xã hội sẽ hết ý chí nếu chưa bị chế độ thủ tiêu. (FRUS, 1961-1963,
IV:171-4)
Ngay
chiều 11/9 [rạng sáng 12/9 tại Việt Nam] Kennedy triệu tập một phiên họp tại
Bạch Cung để thảo luận về công điện của Lodge. Đa số ủng hộ việc cô lập Nhu.
Tuy nhiên, Kennedy chưa có quyết định rõ ràng về việc thay đổi chính phủ cùng
những biện pháp răn đe như ngưng viện trợ, di tản Mỹ kiều. Bộ Ngoại Giao Mỹ cho
Lodge biết quyết định trên, nhưng giải thích thêm rằng đang chuẩn bị kế hoạch
di tản thân nhân viên chức Mỹ, cô lập Nhu dần dần kể cả việc cung cấp viện trợ
trực tiếp cho các địa phương và đơn vị.
Rusk
còn chỉ thị Lodge gặp Diệm trình bày về thái độ của Quốc Hội Mỹ và nhất là
những lời phát biểu của Lệ Xuân. Tại
Belgrade, Lệ Xuân tuyên bố rằng Kennedy là một chính khách, nên thường hòa phục
dư luận. Theo Lệ Xuân, nếu những
dư luận đó không đúng, giải pháp đứng đắn nhất không phải là đầu hàng mà phải
nói lên sự thực. Lời tuyên bố này khiến Kennedy muốn tìm cách bắt Lệ Xuân im
lặng.(IV: 195-6) Hôm sau, 13/9, Lodge đề nghị chẳng cần gặp Diệm thường xuyên
khi không có đề nghị mới. Đồng thời xin nghiên cứu phản ứng trong trường hợp
Ngô Đình Nhu yêu cầu Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam như Lalouette và Thompson đã tiết
lộ.(IV:205-6) Ngày 14/9, Lodge vẫn chưa muốn gặp Diệm về Lệ Xuân vì, theo
Lodge, khi gặp nhau ngày 9/9, Diệm nói Lệ Xuân sẽ họp báo ở New York để đòi
công lý, và có vẻ ủng hộ Lệ Xuân.
Ngày
12/9, Lodge cũng viết thư
riêng cho Rusk, yêu cầu chuyển thẳng cho Kennedy, xin Lansdale thay Richardson.
Theo Lodge, người Việt vẫn nghĩ rằng Richardson thân thiết với Nhu, dù thực tế
Richardson là một viên chức Mỹ xuất sắc, tận tụy. (IV:205) Nhưng ngày 24/9, Lodge cho Rusk biết
McCone không đồng ý.
Ngày
12/9, McCone cũng đưa ra một kế hoạch, theo đó tiếp tục yểm trợ Phó TT Thơ để
đạt một thỏa ước với Phật giáo, bãi bỏ thiết quân luật, cách chức Ngô Trọng
Hiếu, thay Nhu bằng một ủy ban tư vấn gồm những người như Trần Quốc Bửu, Trương
Vĩnh Lễ, Trần Ngọc Liễn. Đặt LLĐB dưới sự chỉ huy của Bộ TTM.
Trong
khi đó, ngày 12/9, Harkins báo cáo Cộng Sản đã xâm nhập vào phong trào tranh
đấu Phật Giáo. Và bây giờ, tới sinh viên. Harkins cũng tin rằng đang thắng
trận. (IV:194-5) Ngay chiều đó [6G00 ngày 13/9 VN], HĐ/ANQG thảo luận về công
điện của Harkins. McCone khẳng định cơ quan CIA không có tin tức nào về việc
này. (IV:199) McNamara muốn Harkins báo cáo chi tiết rõ ràng hơn. (Ibid)
Harriman, Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách chính trị vụ, cũng viết thư cho
Lodge, yêu cầu phê bình về công điện của Harkins. (IV:209)
Ngày
Thứ Bảy, 14/9, Oat-shinh-tân chỉ thị cho Lodge tạm thời đình hoãn tiền viện trợ
kinh tế $18.6 triệu MK cho Nam Việt Nam.
Ngày 16/9, Lodge biện minh về việc dùng áp
lực viện trợ như sau: Mỗi ngày người Mỹ chi tiêu 1.5 triệu Mỹ kim ở Việt Nam.
Lodge muốn rằng viện trợ đó không tự động được giao cho Việt Nam, bất kể thái
độ của Việt Nam đối với Lodge, người đại diện Tổng thống Mỹ tại địa phương.
Lodge muốn anh em ông Diệm phải hiểu rằng mỗi lần gặp Lodge, anh em họ Ngô phải
mang mặc cảm xin ân huệ của Lodge. Với ông Diệm, thuyết phục vô giá trị, vì đưa
ra ý kiến gì, ông Diệm lập tức bị ông Nhu tẩy não. (IV:215-6)
Ngày
15/9, Rusk cho lệnh Lodge phải tạm ngưng đảo chính trước khi Oat-shinh-tân có
quyết định rõ ràng. (IV:212)
Cơ quan CIA cũng trình lên Kennedy một báo
cáo về “Vấn đề Nhu” [Problem of Nhu]. Theo trưởng phòng sưu tầm và
nghiên cứu CIA, Nhu giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi cuộc chiến chống
Cộng; nhưng từ ngày 8/5, Nhu khiến cuộc tranh đấu của Phật giáo bùng nổ lớn, và
có khả năng tạo nên một cuộc khủng hoảng chính phủ. Nhu là vật cản trở bất cứ
giải pháp nào vì Nhu có ảnh hưởng lớn trên ông Diệm, Nhu nắm Mật vụ và Lực
lượng Đặc biệt, Nhu chống Mỹ, liên hệ với Cộng Sản Bắc Việt, và dân chúng muốn
Nhu phải ra đi. Ngay các Tướng Harkins và Krulak cũng muốn thấy Nhu ra đi. Theo
Krulak nhiều sĩ quan cao cấp sẽ ngả theo Hà Nội nếu Nhu lên cầm quyền.
Nhu
đã loại bỏ dần những nhân vật ảnh hưởng quanh Diệm, như Nguyễn Đình Thuần, Võ
Văn Hải, v. v.. Vì thế Diệm tin rằng cuộc tranh đấu của Phật giáo do VC xen
vào. Điều này khiến Diệm bị mất giá trị dưới mắt những người như Ngoại trưởng
Vũ Văn Mẫu, Tướng Lê Văn Kim, v.. v...
Nhu có tinh thần chống Mỹ, cáo buộc Mỹ là
thực dân, phong kiến, đang muốn biến Nam Việt Nam thành chư hầu. Nhu tung tin
một số viên chức Mỹ nằm trên danh sách sẽ bị thủ tiêu. Nhu nói rằng Mỹ phải
giảm áp lực vì đang đe dọa nền độc lập của Nam VN. Nhu liên tục nói dối với
Lodge và chánh sở CIA Sài-gòn về vai trò của mình trong cuộc tấn công chùa
chiền.
Nhu thường nói nếu Mỹ cắt viện trợ sẽ có
nguồn viện trợ khác. Nếu không có viện trợ, Nhu sẽ tìm cách thương thuyết với
Hà-nội. Tin Nhu bắt đầu thương thuyết với Hà-nội lan truyền rộng rãi, khiến
tinh thần binh sĩ hoang mang. Nhu tin rằng chỉ có Nhu mới cứu được Việt Nam. Cả
Thuần và Hải đều nói Nhu nghiện thuốc phiện từ hai năm qua.
Tướng Harkins tin rằng nếu Nhu ra đi, tình
hình Việt Nam sẽ sáng sủa hơn. Tướng Krulak tường thuật rằng các sĩ quan sẽ hân
hoan thấy Nhu ra đi. Liên đoàn trưởng Nhảy Dù [Cao Văn Viên] rất muốn thấy Nhu
ra đi. Đại tá Hoàng Văn Lạc nói Nhu không thể tồn tại quá 24 giờ nếu Mỹ tuyên
bố ngưng yểm trợ. Trần Quốc Bửu cũng nghĩ rằng Nhu phải ra đi. Theo Võ Văn
Hải, Diệm khó thể phục hồi
được lòng tin của dân chúng nếu Nhu còn ở trong nước.
Trưởng
Sở Sưu Tầm đồng ý với Tòa Đại sứ Sài-gòn rằng Nhu không được ưa thích, bị ghét
bỏ, sợ hãi và không được tin cậy trong mọi giai tầng công chức, quân đội, trí
thức thành phố. Sự thù ghét Nhu bấy lâu ngày một gia tăng khiến người ta chỉ
trích chế độ đàn áp. Hughes cũng đồng ý với MACV rằng Nhu có thể thương thuyết
với Hà-nội và đại đa số quân đội không chấp nhận Nhu. (FRUS, 1961-1963,
IV:212-5)
Trong
khi đó, phe đảo chính cũng bắt đầu nối lại liên lạc. Ngày Thứ Hai, 16/9, Trần
Thiện Khiêm mời một nhân viên CIA tới gặp, tuyên bố vẫn tiếp tục dự định đảo
chính. Theo Khiêm, các Tướng nóng lòng hơn khi thấy thêm nhiều chứng cớ về việc
Nhu móc nối Cộng Sản. Tuần lễ thứ hai của tháng 9, các Tướng đòi Diệm nhường
cho 4 ghế Bộ trưởng Quốc Phòng, Nội Vụ, Chiến tranh Chính trị, và Giáo dục. Các
Tướng đề nghị Big Minh, André Đôn hay Raymond Khánh làm Bộ trưởng Quốc Phòng
(hy vọng là André Đôn sẽ được nhận), Tôn Thất Đính nắm Bộ Nội vụ (để Diệm dễ
chấp nhận), Trần Tử Oai hay Lê Văn Kim nắm Bộ Chiến tranh Tâm lý, và Trần Văn
Minh (nhỏ) hay Phạm Xuân Chiểu nắm bộ Giáo Dục. Ông Diệm tuyên bố sẽ cứu xét, nhưng
chưa quyết định, chờ tới sau ngày bầu cử Quốc Hội [27/9/1963]. Khiêm còn tiết lộ Nhu nói với một số
Tướng (như Big Minh, Lê Văn Nghiêm) về những cuộc tiếp xúc với Maneli. Theo
Nhu, Maneli đã mang tới đề nghị của Phạm Văn Đồng về việc hiệp thương giữa Bắc
và Nam; và Nhu đang nghiên cứu đề nghị trên, sẽ thông báo cho các Tướng biết
thêm những bước kế tiếp. Nhu còn nói Lalouette từng đề nghị tương tự.
Ba
Tướng chủ mưu đảo chính là Minh, Khiêm và Khánh. Các Tướng Kim, Chiểu và những
người khác chỉ được tham khảo, nhưng không thiết lập kế hoạch. Cho tới hiện
tại, kế hoạch của họ chưa bị lộ. Phần Tôn Thất Đính đã được Nhu chỉ thị chĩa
súng vào Conein để dọa Conein. Đính tuyên bố đã được Mỹ cho 20 triệu đồng để
làm đảo chính, nhưng Đính từ chối, và báo cáo với Nhu. [Hồi ký Tướng Đính không
nói đến việc này] Khiêm cũng khẳng định các Tướng không theo Nhu nếu Nhu ngả
theo Bắc Việt hay muốn trung lập. ( FRUS,
1961-1963, IV:239-40)
Hai
ngày sau, Thứ Tư 18/9, một sĩ quan Mỹ đến gặp Tướng Minh tại trại Lê Văn Duyệt. Ông Minh tuyên bố
VC tiếp tục đoạt tiên cơ, kiểm soát nhiều dân chúng hơn chính phủ. 80 phần trăm dân chúng không hiểu nên
theo chính phủ hay VC. Diệm-Nhu tiếp tục bắt giữ đối lập, học sinh, Phật tử,
các nhà giam chật ních. Hai doanh trại trong căn cứ Lê Văn Duyệt đầy tù nhân. Học sinh, sinh viên đang
ngả theo VC. Tham nhũng, hối mại quyền thế tràn lan. Hầu hết tỉnh trưởng và
quận trưởng là đảng viên Cần
Lao, họ bắt dân phải hối lộ khi nhận được viện trợ Mỹ. Tiền này chuyển vào
quĩ đảng Cần Lao. Tổng
Giám Mục Thục nhúng tay vào “bất cứ việc gì ngoại trừ việc đạo.” Trái tim của
binh sĩ không dồn vào chiến tranh, Tướng Minh nhấn mạnh. Các sĩ quan trung cấp
đều trông đợi đảo chính. (FRUS,
1961-1963, IV:272-3; VNNB,I-C:
1955-1963, tr. 353-5).
Được
hỏi ý kiến về nhận xét của Tướng Minh, Harkins không đồng ý. Theo Harkins, Big
Minh đã bị nghi ngờ từ năm 1960, và không được nắm binh quyền. Minh không làm
gì cho nỗ lực chiến tranh mà chỉ than phiền, và tìm cách đảo chính. Những lời
nhận xét của Minh khó thể kiểm chứng. (FRUS, 1961-1963, IV:274-5, tài
liệu 139)
Như để chứng tỏ thiện chí, ngày Thứ Hai,
16/9, Diệm hủy bỏ lệnh thiết quân luật.
Trong
khi đó, tại Oat-shinh-tân, ngày Thứ Ba, 17/9, HĐ/ANQG Mỹ quyết áp lực Diệm phải
tuân theo chính sách của Mỹ. (Phillips chống lại việc đưa quân Mỹ vào Việt Nam
để thực hiện đảo chính). Kennedy
chỉ thị cho Lodge là đã chấp thuận một kế hoạch tổng quát để thực hiện những
cải cách về nhân sự và chính sách tại Nam Việt Nam, nhưng chưa thấy cơ hội tốt
để loại bỏ chính quyền hiện tại. Dẫu vậy, Kennedy đồng ý cho Lodge quyền được
tạm ngưng giao viện trợ để tăng cường áp lực khi thương thuyết, miễn hồ không
cắt hoàn toàn viện trợ. Đồng thời, Oat-shinh-tân tham khảo Lodge về 13 điểm cần
làm ngay, như tạo tinh thần hòa giải, phóng thích Phật tử và sinh viên học
sinh, kiểm duyệt báo chí, việc sử dụng Lực lượng Đặc Biệt. Ngoài ra, tìm cách đưa vợ chồng Nhu
khỏi nước, thí dụ như đi nghỉ dài hạn khoảng 6 tháng. Kennedy còn thông báo sẽ
gửi McNamara và Taylor qua Việt Nam để thị sát tình hình. Kennedy nhấn mạnh rằng cần ý kiến của
Lodge trước khi những sách lược trên được thực thi. (CAP 63516 ngày 17/9; FRUS, 1961-1963, IV:252-4)
Lodge phản đối việc cử phái đoàn McNamara và Taylor, sợ rằng dư luận nghĩ Mỹ
tiếp tục yểm trợ Diệm. (Ibid., IV:255) Nhưng thực ra, có lẽ vì McNamara
và Taylor là hai người chống lại kế hoạch thay anh em ông Diệm-Nhu mà nhóm
Harriman và Forrestal cùng Bộ Ngoại Giao chủ trương. (Ibid., IV:251,
256) Hôm sau, 18/9, Rusk cho Lodge biết chuyến đi của McNamara cần thiết để các
chuyên viên quân sự nhận định tình hình tại chỗ. (Ibid., IV:Tài liệu
128)
Tối
18/9, ông Nhu dàn xếp mời vợ chồng Cabot-Lodge dự dạ tiệc, cùng Goburdhun (đại
diện India trong UBKSQT), và XLTV Ngoại trưởng Cừu. Ông Nhu lập lại nhiều lần rằng các
Phật tử đã bị giết mà không phải tự tử. Ngoại
trưởng Cừu cùng một luận điệu. Khi ông Nhu đề cập đến vấn đề dự thảo Nghị quyết
của TNS Church, Lodge nói đã có thêm 4 Nghị sĩ bảo trợ dự thảo này. Nhu vừa nói
nói sẽ có hành động “vì sĩ diện của Kennedy,” thì bị Lodge ngắt lời, nói vấn đề
không phải là sĩ diện của Kennedy mà là khả năng chung của Mỹ và VNCH để thực
thi chính sách chống Cộng. Từ tháng 5/1963, điều gây nguy hiểm cho chính sách
chống Cộng ấy là dư luận xấu, khiến tạo nên những mối nghi ngờ như thực chăng
chính sách ấy xứng đáng để yểm trợ. Rồi Lodge đề nghị Nhu nên rời nước một thời
gian, ít nữa cho tới tháng 12, sau khi việc chuẩn chi [cho tài khóa] đã hoàn
tất. Ông Nhu cố biện bạch rằng
nếu ra đi, không ai trông coiThanh Niên Cộng Hòa, một lực lượng cần
thiết cho chiến thắng. Khi chia tay, Lodge lập lại nhiều lần là muốn Nhu trả
lời càng sớm càng tốt. Theo Lodge, Nhu là “một tâm hồn lạc lõng, một con người
bị ma ám, kẹt giữa cái vòng quái ác. Những Cơn Giận Dữ đang săn đuổi ông ta.” (Ibid.,
IV, Tài liệu 129)
Trưa
hôm sau, 19/9, Times of Vietnam lại tố cáo những kẻ muốn giao số mệnh
Việt Nam vào bàn tay CIA. Theo báo này, những thành phần chủ trương đảo chính
gồm nhân viên USIS (Sở Thông tin Mỹ), đài Tiếng
Nói Hoa Kỳ (VOA), viên chức
trẻ trong Tòa Đại sứ Mỹ và cơ quan USOM (Kinh tế). Tuy nhiên phe quân sự chống
lại. Các nhóm thân đảo chính muốn sử dụng VNQDĐ
và Đại Việt của Nguyễn Tôn
Hoàn. Trong khi đó, Ủy ban Tương trợ Phật giáo tìm cách móc nối với các giáo
dân Ki-tô ở Huế. Những cuộc vận động này do Thích Trí Quang, đang tị nạn tại
tòa Đại sứ Mỹ và có liên hệ với Cộng Sản, cùng sự yểm trợ của những tên "phiêu
lưu ngoại quốc." Không
khí thủ đô VNCH trong ngày 19/9 cực kỳ nghiêm trọng. Có tin đồn Nhu ra đi, Tướng Đính bị
thất sủng, và sẽ có đảo chính.
Ngày
19/9 này, Đại sứ Italia d’ Orlandi mật báo rằng Thuần tuyên bố chiến trường
ngày một bất lợi và Thuần muốn rời nước. Báo cáo tin trên về Oat-shinh-tân,
Lodge nhận xét: Tình hình ngày thêm tồi tệ ở Sài Gòn. Bây giờ chúng ta có cả
chứng từ của Bộ trưởng Quốc phòng và vị Tướng số 1—không phải là sản phẩm của
xưởng sản xuất tin đồn.” (FRUS, 1961-1963, IV:261n5) Lodge còn báo cáo
trực tiếp lên Kennedy rằng anh em ông Diệm-Nhu đang băn khoăn dò đoán thái độ
Mỹ, nên Lodge tiếp tục giữ thái độ xa cách, lạnh nhạt, đồng thời nghiên cứu
những biện pháp “răn đe” [sanctions], nhưng chỉ sử dụng khi đã chắc chắn
có kế hoạch đảo chính. Đại cương có thể tạm ngưng viện trợ về kỹ thuật và giao
thông. Mục đích chính là tập cho viên chức Việt thói quen phải xin Lodge viện
trợ, nhờ thế có thể thực hiện được những việc nhỏ. [Ngày 25/9, Ball đề nghị tạm
ngưng chương trình PL 480. (Ibid., IV:290-1)]
Về
dự thảo ngày 17/9 của Kennedy, theo Lodge, Diệm không muốn chứng tỏ tinh thần
hòa hoãn. Diệm muốn khủng bố [terrorize] Phật tử và sinh viên, học sinh.
Chắc chắn Diệm không chịu trả LLĐB về Bộ Tổng Tham Mưu, vì như vậy khác
nào tự trói hai tay. Về thay đổi chính phủ, thực ra dân chúng chỉ oán ghét họ
Ngô. Bộ trưởng thì chỉ có Trương Công Cừu là “gia nô” [the most shameless
sycophant I have ever seen]. Lodge cũng nhắc đến nhận xét của Tướng Minh
ngày 18/9, và đề nghị xin được tiếp tục thúc dục nếu
Minh muốn đảo chính. (Ibid., IV: Tài liệu 130, 131)
c. Phái đoàn McNamara-Taylor:
Ngày
17/9, Kennedy quyết định gửi Bộ trưởng Quốc Phòng McNamara cùng Tướng Taylor,
Cố vấn quân sự, qua thăm Việt Nam để tường trình thêm. Bốn ngày sau, Kennedy
gặp riêng McNamara để thảo luận, rồi ngày 23/9, Kennedy chính thức ký chỉ thị
chi tiết những điểm cần tìm hiểu. Kennedy còn thêm rằng phái đoàn phải gặp Diệm
hai lần; đòi hỏi cải tổ; nhưng đừng đe dọa cắt viện trợ vì sẽ không hữu hiệu. (Ibid.,
IV:280-2) Ngày này, McNamara và Taylor lên đường ngay.
McNamara,
tưởng nên lập lại, không muốn thay đổi chế độ Diệm. Taylor cĩng vậy. Nhưng chuyến
viếng thăm Nam Việt Nam vào hạ tuần tháng 9, đầu tháng 10/1963 của McNamara và
Tướng Taylor đóng chặt hơn những chiếc đinh trên nắp quan tài Đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngày
25/9/1963, như để chào đón phái đoàn McNamara-Taylor báo Times of Vietnam đả kích lời phát biểu đòi cắt giảm
viện trợ của Nghị sĩ Church và một số dân biểu khác. Theo báo này khoản tiền viện trợ cần
cắt là 1,440,000 Mỹ Kim chi dụng cho các nhân viên CIA và 360,000 phụ chi khác
để chuẩn bị đảo chính. (CLV, SV, d. 14)
Chưa
có tài liệu nào chứng tỏ McNamara có được đọc bài báo trên hay không, và phản
ứng ra sao.
Một trong những người đầu tiên McNamara
gặp ở Sài Gòn là học giả “Smith” [P. J. Honey]. Giáo sư Honey nói tiếng Việt thành
thạo, từng qua Việt Nam năm 1953 và 1960, lúc ấy là giảng viên Trường Nghiên
cứu Đông Phương và Phi Châu ở London. Theo Honey, khi tới Việt Nam vài tuần
trước, ông ta nghĩ rằng người Mỹ có thể tìm cách làm việc chung với anh em ông
Diệm. Nhưng Honey đã lầm. Vài năm qua, ông Diệm đã già nua và chậm chạp quá mức.
Lời chỉ trích chế độ trở thành công khai, từ giới quân đội tới dân sự. Việc ông
Diệm đánh phá Phật Giáo làm cho dân chúng sửng sốt. Tất cả những yếu tố trên
khiến Honey nghĩ rằng không còn cách nào khiến chế độ cởi mở hay thay đổi quan
điểm của ông Diệm. Đã đến lúc nước Mỹ phải quyết định liệu có thể thắng được
với chế độ Diệm hay chăng; riêng Honey cảm thấy câu trả lời là không.(Ibid.,
IV:293-5; In Retrospect,
tr. 74) Theo William P. Bundy, người theo McNamara qua Việt Nam, lời chứng của
Honey ảnh hưởng lớn trên McNamara. (Ibid., IV:293n2)
Tại
Sài Gòn, ngày Thứ Sáu, 27/9, Richardson nói với McNamara rằng khủng hoảng Phật giáo kết tinh những
bất bình ngủ yên bấy lâu. Việc bắt giữ tập thể học sinh, sinh viên (kể cả con
em công chức, quân nhân) là điều xấu. Việc lùng bắt trong đêm khiến dân chúng
ghét chế độ hơn. Nguyễn Đình Thuần đã hai lần từ chối chức Tổng thư ký Hội đồng
chính phủ; dù Diệm nói trên thực tế Thuần sẽ hành xử như Thủ tướng. Vì vậy
Thuần đang bị canh chừng—gia đình họ Ngô coi Thuần như người của Mỹ. Thuần thấy
không ai có đạo đức giống Diệm, nhưng nếu họ Ngô tiếp tục cầm quyền sẽ dẫn đến
“đại họa” [disaster]. Muốn cứu đất nước cần áp lực Diệm cải tổ, với điều
kiện tiên quyết Nhu phải ra đi. Nhu khởi xướng cuộc tấn đánh các chùa. Đừng
đánh giá bằng quan sát phiến diện, dân chúng đang tức giận. Hồ Tấn Quyền cũng
không thể thuyết phục được chính cha mình về giá trị của chính phủ. Dân chúng
ghét Lệ Xuân và em Lệ Xuân (Khiêm). Nếu Nhu định lên thay Diệm, chắc chắn sẽ có
chiến tranh. Công An, Mật Vụ không những chỉ bắt giữ mà còn bắt cóc dân chúng,
ngày cũng như đêm, chẳng khác gì Kadar ở Hungary. Quản nhiệm tờTự Do, tờ
báo bị nghi thân Mỹ, cũng đã bị bắt. Các Bộ trưởng đều ứ đến cổ, muốn từ chức,
nhưng sợ hậu quả. Trong nhà cựu Ngoại trưởng Mẫu có tới 36 nhân viên an ninh
khi ông Mẫu sắp rời nước. Thuần có tên trong danh sách bị ám sát của Khiêm—một
tên điên và ẩn ức tình dục. Bộ trưởng Kinh tế, một tín đồ Ki-tô cuồng tín, nói
đêm qua mất ngủ vì những lời tuyên bố chống Mỹ của Nhu. Chỉ có CS hưởng lợi. (FRUS,
1961-1963, IV:301-3)
Trong
thời gian ở Việt Nam, McNamara cũng được dịp chứng kiến cuộc bầu cử Quốc Hội
nhiệm kỳ thứ ba (1963-1967). Một trong những ứng cử viên độc lập là Nguyễn Trân
bị loại. Không một ứng cử viên đối lập nào được tranh cử. Cũng may, mãi tới
ngày 7/10 mới công bố kết quả, bằng không McNamara sẽ thấy được rõ hơn nền “dân
chủ” ở miền Nam: Trong số 123 người mới đắc cử, có 60 dân biểu đương nhiệm (25
người cũ thất cử). 96 người được chính quyền ủng hộ đắc cử: 55 người thuộcPhong
Trào Cách Mạng Quốc Gia (CMQG),
19 phụ nữ mà tất cả đều thuộc Phong
Trào Liên Đới Phụ Nữ (LĐPN).
Phạm Văn Thùng và Trần Sanh Bửu bị hai người Việt gốc Hoa đả bại. Đây là hai
Dân biểu gốc Hoa đầu tiên. Theo chính phủ Diệm, 92.82% cử tri đi bầu. (IV: Tài
liệu 155) Hai vợ chồng ông Nhu đều đắc cử trên 99 phần trăm dân số tại hai tỉnh
mà Cộng Sản đã kiểm soát hầu hết vùng nông thôn.
27/9:
CIA báo cáo rằng anh em họ Ngô
không còn biết lý lẽ nữa [no
longer “rational.”](IV:298)
Buổi thảo luận với ông Diệm tại Dinh Gia
Long chiều ngày Chủ Nhật, 29/9, có lẽ là thùng nước đá lạnh đổ lên thiện cảm
của McNamara và Taylor nói riêng, chính phủ Kennedy nói chung. McNamara cố xen
vào những lời độc thoại của ông Diệm về thành quả tốt đẹp của chế độ mình, nói
thẳng rằng những biện pháp đàn áp Phật tử gây trở ngại cho nỗ lực chiến tranh.
McNamara cũng đề cập đến những lời tuyên bố "vô trách nhiệm" của Lệ
Xuân, như gọi quân nhân Mỹ là những tên lính đánh thuê bé nhỏ [little
soldiers of fortune]. Ông Diệm, dĩ nhiên, hết sức bào chữa cho Lệ Xuân,
cũng như việc bắt giữ sinh viên, học sinh và tấn công các chùa đêm 20 rạng
21/8. Lệ Xuân, theo ông Diệm, đã bị đả kích tàn nhẫn mấy tháng qua và có quyền
tự vệ, dù đôi khi quá đáng. Sinh viên học sinh đã bị những tay gây rối xúi dục,
sau khi bị bắt đã hối cải đồng thanh ca tụng chế độ. Về việc đàn áp Phật giáo,
McNamara “lạnh cóng” khi nghe ông Diệm nói rằng “lỗi lầm” của ông trong vụ Phật
giáo là “đã quá tử tế [too kind] với Phật giáo.” (McNamara, In Retrospect, tr.
76) Ông Diệm còn khoe đã giúp đỡ Phật giáo, số chùa tăng gấp đôi dưới chế độ
Diệm. Rồi lập lại những gì báo chí thân chính đã viết: các chùa chiền trở thành
chốn hành lạc tập thể, bất cứ ai cũng có thể trở thành tăng ni nếu cạo đầu và
mặc áo màu vàng; một trong ba nhà sư tị nạn tại USOM là cựu cảnh sát viên đã bị
cách chức vì thiếu khả năng, sống lang thang cho tới hai ba tháng trước rồi tự
xưng là tăng và xin tị nạn. (FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 158; Gravel,
II:216). McNamara hiểu rằng ông Diệm không chịu nhân nhượng điều gì, và hình
như nghĩ rằng cứ giải thích với người khác về những vấn đề tại Việt Nam là mọi
chuyện được giải quyết. (McNamara, In
Retrospect, tr. 75-7; FRUS,
1961-1963, IV:321)
[Sau khi đổ vào miền Nam hơn 2 tỉ Mỹ kim
suốt 9 năm dài để duy trì chế độ họ Ngô, các quan chức Mỹ đang đối diện chứng
nhức đầu quen thuộc của Toàn quyền Pierre Pasquier ba chục năm trước: Anh em họ
Ngô tìm mọi cách bảo vệ quyền lợi của gia đình mình bằng mọi giá, bất kể thủ
đoạn. (Xem Vũ Ngự Chiêu,Các vua cuối nhà Nguyễn, Tập III)].
McNamara
và Taylor cũng tìm cách gặp nhóm Tướng Minh. Từ ngày 26/9, Trần Thiện Khiêm đã
gặp nhân viên CIA để duy trì đường dây liên lạc. Theo Khiêm, cuộc tiếp xúc này
do lệnh của “Big” Minh. Khiêm nói thêm rằng cũng biết phe dân sự đang âm
mưu đảo chính, và Diệm đã cử Trần Kim Tuyến làm đại diện ở Cộng Hòa Ả Rập. (FRUS,
1961-1963, IV:Tài liệu 149.(IV:291-292)
Buổi tối ngày 29/9, Tướng Taylor và
McNamara “tình cờ” gặp Tướng Minh tại sân quần vợt tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, và
muốn gợi chuyện vào lúc nghỉ giữa hiệp. Big Minh chỉ trao đổi những câu xã
giao, và hẹn gặp Taylor bất cứ lúc nào tại văn phòng. (Swords and Plowshares,
tr. 297-8) Tuy nhiên, mãi tới ngày 1/10, Taylor mới mượn cơ hội đến chào từ
biệt để nghe Big Minh tâm sự rằng “quê hương đang bị xiềng xích và chẳng có
cách nào tháo ra.”(FRUS, 1961-1963, IV:326-7)
Theo
đúng lịch trình, McNamara và Taylor gặp ông Diệm lần thứ hai trước buổi dạ tiệc
tại Dinh Gia Long.(Swords and Plowshares, tr. 298) Nhưng thái độ ông
Diệm đã rõ: McNamara chẳng thể khuyên bảo ông Diệm được điều gì.
Ngày Thứ Hai 30/9, McNamara và Taylor gặp
Phó Tổng Thống Thơ. Ông Thơ nhận định rằng nỗ lực Mỹ ở Việt Nam cần có 3 đặc
tính: mau chóng, hữu hiệu, và thông minh. Mỹ mới có hai đặc tính đầu, còn thiếu
đặc tính thứ ba—chưa dùng sức mạnh một cách thông minh. Thể chế cảnh sát trị ở
miền Nam tạo nên nhiều bất mãn. Tình trạng bất mãn không chỉ ở thành thị mà lan
tràn ở vùng thôn quê. Chỉ có từ 20 tới 30 ấp chiến lược được an toàn. Không thể
thuyết phục mà cũng không nên cắt viện trợ. Nếu đưa quân Mỹ vào VN để làm đảo
chính thì quá “khờ dại.” Vấn đề này có thể tìm hỏi Vũ Văn Mẫu. (FRUS,
1961-1963, IV:321-3; Gravel, II:249) (ý kiến của ông Thơ, người được Mỹ trù
tính đưa lên thay ông Diệm nếu có đảo chính, rất có ảnh hưởng với McNamara.
Nhưng McNamara không nhắc gì đến cuộc gặp ông Thơ trong hồi ký Inretrospect, mà chỉ mượn tỉ lệ
ước lượng 50-50 chiến thắng Cộng Sản của
Honey khi bàn về việc giữ ông Diệm; tr. 78)
Ngày
30/9 này, McNamara còn gặp Khâm sứ Vatican d’ Asta, gốc Sicilian, người hiểu
biết rõ về gia đình họ Ngô. Theo d’ Asta, công an-mật vụ tra tấn nạn nhân. Hiện
nay ông Diệm và Giáo hội xa cách nhau dần. Giới trí thức nghĩ rằng ông Diệm vẫn
còn chỗ dụng, nhưng gia đình Diệm phải ra đi. Nhiều người nghiêng về phía trung
lập hay ngả theo VC. Nếu
ông Nhu nắm trọn quyền, việc đầu tiên ông Nhu sẽ làm là yêu cầu Mỹ triệt thoái,
rồi thương thuyết với Cộng Sản, vì ông Nhu nghĩ rằng mình sẽ trở thành lãnh tụ
của cả Việt Nam. D’ Asta đề nghị phải thay ông Nhu ngay. Vẫn theo d’ Asta,
không một giáo sĩ nào dám trái ý Tổng Giám Mục Thục. Ông Thục đã khiến họ sợ hãi. Không thể
lý luận với Nhu, Lệ Xuân, hay Thục. Điều duy nhất phải làm là ép Nhu ra đi. Dân
chúng không hiểu thái độ người Mỹ ra sao. Chính phủ Mỹ không có một chính sách
rõ ràng nào. (FRUS, 1961-1963, IV:tài liệu 160; In Retrospect, tr. 74-5)
Cũng
trong ngày Thứ Hai, 30/9, William H. Sullivan, cố vấn Liên Hiệp Quốc của Bộ
Ngoại Giao, báo cáo về những cuộc tiếp xúc với XLTV Đại sứ Pháp, Trưởng đoàn Canada trong
UBQTKSẦC về vấn đề liên hệ Bắc-Nam. Họ nghĩ rằng việc Ngô Đình Nhu móc nối với
Hà Nội chỉ là tin đồn, tuy nhiên chẳng phải không thể xảy ra. Miền Bắc đang gặp
khó khăn kinh tế, muốn hiệp thương. Ngoài ra họ muốn trục xuất Mỹ để giảm bớt
ảnh hưởng và áp lực của Trung Cộng. Ông
Nhu có hai lý do để bắt tay miền Bắc: Nhu tin đủ khả năng đả bại VC, và muốn
đuổi người Mỹ. Nhu đã thảo luận với Đại sứ Lalouette vấn đề này, hy vọng sẽ
thương thuyết vào cuối năm. Tuy nhiên, ông Nhu lại tiết lộ với ký giả Joseph
Alsop, bởi thế người Pháp không còn tin Nhu nữa. (FRUS, 1961-1963,
IV:tài liệu 161)
Ngày
1/10, như đã lược nhắc, Tướng Taylor đến chào từ biệt Big Minh. Theo ông Minh,
cuộc chiến gặp nhiều khó khăn. Ông
Minh ngại rằng chiến thắng cuối cùng chưa có dấu hiệu gì. Vấn đề Phật giáo, đây
là cuộc tranh chấp giữa Phật giáo và Ki-tô. Các viên chức tỉnh đã nhường cho
Ki-tô giáo nhiều đặc ân. Những cuộc biểu tình của sinh viên, học sinh phản ảnh
sự bất bình của cha mẹ. Có thể Cộng Sản đã phần nào xúi dục, nhưng căn bản là
sự bất công thấm nhập mọi giai tầng xã hội. ìng Minh cảm thấy quê hương bị
xiềng xích khó nỗi cựa quậy. Tướng Taylor đề nghị ông Minh có thể liên lạc với
mình qua Tướng Harkins bất cứ lúc nào. (IV:326-7)
Ngày
2/10, McNamara và Taylor bay về Mỹ, và vắn tắt thuyết trình với Kennedy về
chuyến tham quan Việt Nam. Hai
người đề nghị phải áp lực Diệm thay đổi. Quân
lực VNCH phải hoạt động mạnh hơn ở vùng IV để củng cố các ấp chiến lược. Đồng
thời, tuyên bố sẽ rút 1,000 quân vào cuối năm. Về chính trị, ép Diệm phải cải cách,
và sẽ dùng cách ngưng viện trợ vài ba chương trình làm áp lực. Không đồng ý đảo
chính, nhưng đề nghị nên tìm một lãnh đạo mới. (Gravel, II:216; US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 12, tr. 554-73; FRUS, 1961-1963, IV:336-46 [tài
liệu 167])
Chiều
đó, HĐ/ANQG họp bàn về báo cáo McNamara-Taylor. Kennedy chấp thuận tất cả đề
nghị của McNamara và Taylor, nhất là việc triệt thoái 1,000 quân vào cuối năm
1963. Tuy nhiên, thời hạn rút quân không được công bố. Bạch Cung ra thông cáo
về chuyến qua Việt Nam của McNamara và Taylor như sau: Tình hình quân sự có
tiến triển, có thế rút 1,000 quân. Tình hình chính trị nghiêm trọng. Mỹ tiếp
tục chống lại những hành động đàn áp tại miền Nam. Nhưng chính sách của Mỹ vẫn
là giúp dân chúng tại đây đả bại xâm lăng và xây dựng một xã hội hoà bình, tự
do. (Gravel, II:188; FRUS,
1961-1963, IV:Tài liệu 167, 169, 170 (Record of Action No. 2472,
2/10/1963); In Retrospect,
tr. 79-80) [Sau này là NSAM 263 ngày 11/10/1963; US-Vietnam Relations, Bk 12,
tr. 578]
[Thứ Sáu, 4/10/1963, Đại sứ Pháp tường
trình về báo cáo McNamara-Taylor: Mỹ đang đối diện sự nguy hiểm là, theo
Sullivan, Ngô Đình Nhu sẽ chờ cơ
hội mà Mỹ sẽ đặt ở Nam Việt Nam một guồng máy quân sự đủ mạnh và ông ta đủ
quyền lực để đề nghị với Bắc Việt một cuộc ngưng bắn mà điều kiện sẽ là sự
triệt thoái quân Mỹ. (CĐ số 5614-18, 4/10/1963; CLV)]
Houston, 6/10/2001