TRIỄN VỌNG QUAN HỆ VIỆT-MỸ
Nguyễn Quang Dy
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã bắt đầu chuyến
thăm Mỹ chính thức (29-31/5/2017). Đã có nhiều người bình luận và phỏng đoán về
sự kiện này. Có lẽ đây là một dịp tốt để nhìn lại quan hệ Việt-Mỹ trong bối
cảnh thế giới mới đầy biến động bất thường và bất định. Muốn hiểu hiện tại và
biết về tương lai, chúng ta không được quên quá khứ.
Trở về tương lai
Mỗi khi đề cập đến quan hệ Việt-Mỹ, người ta
thường nhớ lại quá khứ đau buồn khi Chiến tranh Việt Nam đã biến hai quốc gia
này thành kẻ thù. Nhưng nhiều người quên mất lịch sử trước đó khi hai quốc này
gia suýt nữa trở thành đồng minh. Ngày 16/7/1945, OSS đã cử nhóm “Con Nai”
(Deer Team) đến Tân Trào để giúp Việt Minh, sau khi cụ Hồ thỏa thuận với
Archimedes Patti (chỉ huy OSS tại Kunming). Hơn bốn thập kỷ sau Chiến tranh
Việt Nam, nay hai quốc gia lại đang cố gắng để trở thành đồng minh, như “trở
về tương lai” (back to the future). Vậy số mệnh trong tử vi của hai quốc
này là kẻ thù hay đồng minh? Các sử gia cần làm rõ và xác định xem vì sao đoàn
tàu Việt-Mỹ đã bị bẻ ghi đi chệch sang hướng khác, với những “hệ quả không
định trước”, và làm thế nào để đưa đoàn tàu này “trở về tương lai”.
Nếu đặt quan hệ Việt-Mỹ vào bức tranh lịch sử
đầy nghịch lý và trớ trêu đó, chuyến thăm Mỹ của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lần
này (cũng như các chuyến thăm của lãnh đạo hai nước trước đây) chỉ là những
điểm dừng chân của đoàn tàu Việt-Mỹ tại các nhà ga (cả ga chính và “ga xép”).
Thế giới hiện nay còn nhiều nghịch lý và điên rồ hơn trước, vì ngày càng nhiều
kẻ khùng đang cướp lái và bẻ ghi các đoàn tàu quốc gia. Trong khi có những
người tin rằng thế giới đang tiến gần đến “ngày tận số”, thì nhiều người
khác mất hết lòng tin vào cả hiện tại và tương lai, vì họ đã quên hoặc hiểu
nhầm quá khứ. Ảo tưởng và nhầm lẫn trong lịch sử đã phải trả giá rất đắt, nên
nếu lặp lại sai lầm một lần nữa thì thật là ngu xuẩn và điên rồ.
Có thể nói đoàn tàu Viêt-Mỹ đã vượt qua một
quãng đường dài, có lúc chạy nhanh, có lúc chạy chậm, có lúc thậm chí dừng lại
một chỗ vì lúng túng không biết chạy hướng nào trước ngã ba đường. Vấn đề không
phải là đường ray hay biển chỉ đường bị sai mà là do đầu óc của những người lái
tàu bị hồ đồ nhầm lẫn nên lầm đường lạc lối. Đoàn tàu đã rời ga “Đối tác
Toàn diện” gần bốn năm, nay đang hướng tới ga mới là “Đối tác Chiến lược
Toàn diện”. Nhưng không hiểu sao đoàn tàu Việt-Mỹ chạy mãi mà vẫn chưa tới
được cái ga đó (cứ như một nhà ga ảo). Có lẽ chuyến thăm Mỹ của ông Nguyễn Xuân
Phúc cũng chỉ tới được một cái “ga xép” dọc đường, chứ chưa tới được cái ga
chính, vì chủ nhân của Nhà Trắng đã thay đổi. Một năm trước đây khi ông Obama
còn làm chủ Nhà Trắng, chỉ cần Hà Nội dấn thêm một bước nữa là đoàn tàu Việt-Mỹ
có thể tới được cái ga đó rồi (nhưng nay cơ hội đó đã trôi qua).
Những rào cản lớn
Chặng đường trước mắt của đoàn tàu Việt-Mỹ còn
nhiều trắc trở, với những rào cản hữu hình và vô hình (mà người ta sợ “nhạy
cảm” nên không nói ra). Rào cản lớn nhất có tên là Bắc Kinh. Cứ mỗi khi đoàn
tàu Việt-Mỹ định tăng tốc thì nó lại xuất hiện, làm cho đoàn tàu lắc lư phải
chạy chậm lại, hoặc dừng hẳn. Ví dụ, khi đoàn tàu Việt-Mỹ đang chạy tới ga
“Normalization” (hay “WTO” và “BTA”) thì lại có biển báo dừng lại, không phải
biển cấm vì tàu đi vào đường một chiều, mà là biển báo hiệu nguy hiểm vì “diễn
biến hòa bình”. Điều trớ trêu là Bắc Kinh ngăn cản Hà Nội kết bạn với
Washington, trong khi họ làm tình với nhau.
Mặc dù Hà Nội biết cái biển báo đó là của Bắc
Kinh, nhưng đoàn tàu vẫn phải chạy chậm hay dừng lại, không phải vì người lái
tàu Hà Nội sợ sai luật giao thông mà sợ sai “quy trình”, như sợ một bóng ma vô
hình. Cứ mỗi khi Hà Nội cử một lãnh đạo nào sang Washington, thì lại phải sang
Trung Nam Hải trước, như một tiền lệ “bất thành văn”. Cái bóng Bắc Kinh đã ám
ảnh đoàn tàu Viêt-Mỹ suốt 27 năm qua (từ 9/1990) khi những người lái Tàu Hà Nội
và Bắc Kinh gặp nhau bí mật tại Thành Đô để “bẻ ghi” đoàn tàu Việt-Trung chạy
theo hướng ngược lại. Từ “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”, Trung
Quốc trở thành “đối tác chiến lược toàn diện” với “16 chữ vàng”.
Đó là một bước ngoặt chiến lược nguy hiểm để “trở về tương lai” của mối
quan hệ “Bắc thuộc” (mà ông Nguyễn Cơ Thạch lúc đó đã cảnh báo).
Rào cản lớn thứ hai đối với đoàn tầu Việt-Mỹ là
Nhân Quyền, mà trước đây là vấn đề MIA đã từng cản trở quan hệ Việt-Mỹ suốt
thời hậu chiến. Điều trớ trêu là trong khi Washington chấp nhận chế độ cộng sản
Hà Nội mà biểu tượng là Tổng thống Obama đã tiếp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
trong “Phòng Bầu dục” của Nhà Trắng, thì Washington lại không thể bỏ qua hồ sơ
vi phạm nhân quyền, do sức ép của Quốc Hội và dư luận báo chí. Hiện nay, mặc dù
Tổng thống Donald Trump có thể bị nhiều người Mỹ lên án là vi phạm nhân quyền
hay vi phạm quyền tự do báo chí, nhưng vấn đề Nhân quyền vẫn là một “cục xương
mắc họng” trong quan hệ Viêt-Mỹ. Vì vậy không nên nhầm lẫn giữa hai vấn đề này.
Trong khi rào cản Bắc Kinh là một thực tế khách quan mà Hà Nội không làm gì
được (trừ phi “thoát Trung”), thì rào cản Nhân quyền là một vấn đề mà Hà Nội có
thể tháo gỡ bằng đổi mới thể chế.
Rào cản lớn thứ ba là sự “bất cập” của năng lực
lãnh đạo (trong ngoại giao cá nhân). Mặc dù ai cũng biết ông Donald Trump là
một Tổng thống bất bình thường, thậm chí có nhiều tai tiếng, nhưng nguyên thủ
nước nào cũng phải đến Washington gặp ông Trump, từ Thủ tướng Nhật Abe đến Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, thủ tướng Đức Merkel, thủ tướng Anh May, v.v. Đơn
giản vì Mỹ vẫn là siêu cường số một thế giới. Vì vậy, Thủ tướng Việt Nam muốn
đến Nhà Trắng gặp ông Trump cũng là điều dễ hiểu, vừa vì lợi ích quốc gia (để
đối phó với những vấn nạn hiện nay), vừa vì lợi ích cá nhân (để tăng cường vị
thế chính trị của mình).
Tuy các cố vấn chủ chốt
của ông Trump như Cố vấn An ninh Quốc gia HR McMaster, ngoại trưởng Rex
Tillerson (trong nhóm “Axis of Adults”) có thể ủng hộ quan hệ đối tác Việt-Mỹ,
vì lợi ích chung của hai nước. Nhưng họ có thuyết phục được ông Trump coi Việt
Nam là “đối tác quan trọng” về kinh tế và chiến lược hay không, còn phụ thuộc
vào ông Phúc có chứng minh được điều đó hay không, bằng cách trực tiếp thuyết
phục ông Trump khi gặp gỡ. Ông Trump vốn thích “ngoại giao cá nhân” (personal
diplomacy) và hay hành động theo cảm tính, đôi khi thất thường nên rất khó
đoán. Trong khi ông Trump có thể tùy hứng thay đổi kịch bản có sẵn (script),
thì ông Phúc (và hầu hết lãnh đạo Việt Nam) lại quen dựa vào kịch bản một cách
cứng nhắc, nên dễ bị động và lúng túng. Vấn đề là ông Phúc làm thế nào để gây
ấn tượng cá nhân tốt đẹp với ông Trump (như các nguyên thủ khác vẫn làm). Điểm
mạnh của ông Trump lại là điểm yếu của ông Phúc (đã từng mang tiếng là “Thủ
tướng CLMV”).
Tuy nhiên ông Phúc có
thể dùng chiến thuật du kích làm ông Trump bất ngờ, như đề nghị mua thêm vũ khí
tối tân, hoặc lập luận rằng trong số 32 tỷ USD thâm hụt thương mại mà Mỹ nhâp
siêu từ Việt Nam (năm 2016), hầu hết là sản phẩm điện tử của hãng Samsung và Intel
(như điện thoại di dộng và linh kiện máy tính) sản xuất gia công tại Việt Nam.
Số hàng hóa “nhập siêu” này thực chất không phải là hàng Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ, mà là hàng Việt Nam gia công cho nước ngoài, để hưởng dịch vụ (chỉ
khoảng 5-8% gía trị hàng hóa). Nói cách khác, đây là một sự nhầm lẫn “oan” cho
Việt Nam, do khác nhau về cách thống kê.
Xung quanh chuyến đi
Trước khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang thăm
Mỹ (29-31/5/2017), Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thăm chính thức Bắc Kinh
(11/5/2017) nhân dịp dự diễn đàn quốc tế “Một Vành Đai một Con Đường”
(14-15/5/2017). Ông đã gặp Thủ tướng Lý Khắc Cường và Chủ tịch Tập Cận Bình, và
hai bên đã thông qua Thông cáo Chung về Biển Đông. Trong một động thái khác,
ngày 22/5/2017, đại sứ Mỹ Ted Osius đã trao cho Cảnh sát biển Việt Nam 6 tàu
tuần tra biển (Metal Shark) trong số 18 chiếc mà Tổng thống Obama đã cam kết 4
năm trước. Tiếp đó, ngày 24/5/2017, chiến hạm USS Dewey đã đi vào khu vực 12
hải lý quanh đảo Vành Khăn tại Trường Sa, mà không thông báo trước như thường
lệ “đi qua vô hại” (innocent passage). Đây là chuyến tuần tra FONOP đầu tiên,
kể từ khi ông Trump lên làm tổng thống.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là lãnh đạo đầu tiên
của một nước ASEAN đến Nhà Trắng gặp ông Trump, dù trước đó các lãnh đạo Châu Á
khác đã gặp ông Trump như Thủ tướng Shinzo Abe và Chủ tịch Tập Cận Bình. Để thu
xếp cho lãnh đạo nước họ gặp ông Trump và tháo gỡ những rào cản, người Nhật và
người Trung Quốc đã phải khôn khéo vận động (lobby). Việt Nam cũng không phải
là ngoại lệ. Mấy tháng qua, lãnh đạo Hà Nội đã chủ động bày tỏ mong muốn gặp
ông Trump, và cử các đoàn đi Mỹ vận động Quốc Hội và các thế lực ủng hộ quan hệ
với Việt Nam và duy trì tuần tra tại Biển Đông (FONOP). Theo Reuters, Viêt Nam
thuê một người vận động hành lang (lobbyist) với giá 30.000 USD/tháng.
Ngày 20-21/4/2017, Ngoại trưởng Việt Nam Phạm
Bình Minh đã đến Mỹ để “tiền trạm”, gặp gỡ các quan chức chủ chốt của Chính
quyền và Quốc hội, trong đó có Ngoại trưởng Rex Tillerson và Cố vấn An ninh
Quốc gia H.R. McMaster. Trong dịp đó, ông McMaster đã trao cho ông Minh thư của
Tổng thống Donald Trup mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang thăm Mỹ. Đồng thời,
ông Minh cũng chuyển lời mời chính thức của Chủ tịch nước Trần Đại Quang mời
Tổng thống Donald Trump tham dự cuộc họp thượng đỉnh APEC tại Đà Nẵng (tháng
11/2017) và thăm Việt Nam. Ông Trump đã nhận lời và khẳng định sẽ tham
dự.
Mặc dù ông Trump đã
quyết định rút khỏi TPP, bỏ rơi chính sách xoay trục sang Châu Á của ông Obama,
và tỏ ra không tha thiết với vấn đề Biển Đông, nhưng trước chuyến thăm của ông
Phúc, Reuters (28/5/2017) nhận thấy một số dấu hiệu tích cực. Nhà Trắng gọi Việt
Nam “là một trong những đối tác quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á”.
Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Mỹ (Katrina Adams) nói rõ, “Quan hệ đối tác
Việt-Mỹ là một phần cốt yếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ tại khu vực châu
Á-Thái Bình Dương” (the US-Vietnam partnership is a critical component of
US foreign policy in the Asia-Pacific region). Theo Carl Thayer, Viêt Nam là “một
con bài quan trọng trong cấu trúc an ninh đa phương trong khu vực” của Mỹ,
nhất là trong bối cảnh ông Rodrigo Duterte “lánh xa Mỹ và xích lại với Trung
Quốc”.
Theo Carl Thayer, lúc
này Việt Nam gần với Mỹ còn hơn cả
hai nước đồng minh có hiệp ước quân sự với Mỹ là Thái Lan và Philippines. Việt
Nam cần tham gia nhóm các nước đối tác của Mỹ trong khu vực (mà Singapore là
đối tác số một). Theo Diplomat (5/2016) Việt Nam đang trở nên
quan trọng hơn trong chiến lược kiềm chế Trung Quốc bành trướng ảnh hưởng trong
khu vực. Các nhà phân tích cho rằng dưới thời Trump, Mỹ đã lặng lẽ rút lui khỏi
khu vực, để Trung Quốc tự do hành động bá quyền, làm phương hại cho các nước
như Việt nam. Sự nhân nhượng của Washington là một củ cà rốt to để đánh đổi lấy
sự giúp đỡ của Bắc Kinh nhằm đối phó với Bắc Triều Tiên, một việc Trump rất cần
nên sẵn sàng thỏa hiệp.
Đánh giá triển vọng
Hãy tham khảo một số đánh giá của những chuyên
gia quen biết.
Theo Alexander Vuving ( “What Vietnam Can
Offer America”, Alexander Vuving, National interest, May 27, 2017) vấn đề
sống còn của Việt Nam là làm thế nào cân bằng mối quan hệ với Bắc Kinh và
Washington. Đó là bối cảnh cho chuyến thăm Mỹ của ông Phúc. Vuving cho rằng
trong quan hệ với Mỹ có 3 vấn đề quan trọng nhất thiết phải đạt được. Thứ nhất
là phải đạt được một hiệp định thương mại và đầu tư có triển vọng. Thứ hai là
phải thỏa thuận được quan điểm về Biển Đông không chấp nhận hiện trạng. Thứ ba
là phải xây dựng quan hệ đồng minh Viêt-Mỹ trên cơ sở “đối tác chiến lược toàn
diện”. Tuy quan hệ đối tác phải mang tính chiến lược sâu sắc hơn, nhưng không
nhất thiết phải là cam kết quốc phòng.
Theo Minxin Pei (“The TPP’s Second Act”,
Minxin Pei, Project Syndicate, May 24, 2017), quan điểm đồng thuận cho rằng
thực tế ông Trump đã nhân nhượng và trao Đông Á cho Trung Quốc tuy có cơ sở,
nhưng lại bỏ qua một thực tế địa chính trị cơ bản. Đó là nhiều nước Đông Á đã
dựa dẫm ỷ lại vào vai trò đứng đầu của Mỹ nên không đầu tư cho an ninh kinh tế
và quốc phòng của mình. Nay không còn dựa dẫm được vào Mỹ để duy trì hòa bình
và thinh vượng, họ đang đứng trước các sự lựa chọn rất khó khăn, và phân hóa
làm 3 nhóm.
Nhóm thứ nhất chọn cách ngả theo Trung Quốc, bao
gồm một số nước như Thailand, Malaysia, Cambodia, Laos. Nhóm thứ hai chọn chiến
lược đề phòng rủi ro (hedging strategy), gồm các nước như Australia, South
Korea, Singapore. Nhóm thứ ba chọn chiến lược tự lo cho mình (self-help strategy)
gồm các nước như India, Japan, Vietnam, Indonesia.
Để lấp lỗ trống do Mỹ rút khỏi TPP, Nhật phải
dẫn đầu TPP11, thuyết phục các nước Châu Á xiết chặt hàng ngũ, không khuất phục
Trung Quốc. Muốn vậy, Nhật phải có chính sách sẵn sàng chấp nhận phí tổn cao
hơn để giữ cho Nhật và các đối tác khác thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc. Nếu Hàn
Quốc và Indonesia tham gia TPP11, thì cán cân sẽ thay đổi.
Theo Jonathan London (“High Stakes for
Vietnam Prime Minister’s Visit to Washington”, Jonathan London, CSIS
CogitAsia, May 29, 2017), chuyến thăm của ông Phúc có ý nghĩa quan trọng trên 3
lĩnh vực. Thứ nhất là thương mại. Mỹ và Việt Nam có nhiều lý do để mở rộng và
đa dạng hóa quan hệ thương mại. Điều này sẽ giúp Việt Nam tránh được tình trạng
sử dụng những công nghệ rẻ tiền, gây ô nhiễm cao, có hại cho người lao
động, đồng thời khuyến khích Chính phủ bỏ những dự án nhiệt điện gây ô nhiễm và
thay bằng những dự án mới dựa trên công nghệ và đầu tư của Mỹ, ví dụ như khai
thác nguồn khí đốt ngoài khơi.
Thứ hai là vấn đề an ninh. Làm thế nào để Mỹ và
Việt Nam (cùng các nước khác) có thể đảm bảo cho môi trường an ninh hàng hải ở
Đông Á, phù hợp với luật quốc tế. Trước những dấu hiệu Bắc Kinh đang theo đuổi
những mục đích ngược với lợi ích của Mỹ, thì lợi ích an ninh của Việt Nam và Mỹ
ngày càng song trùng, hơn với bất cứ nước nào khác. Hai nước cần tiếp tục
hợp tác về an ninh, như vừa rồi Mỹ đã chuyển giao cho Việt Nam 6 tàu tuần tra
biển. Vì Trump quan tâm đến mua bán vũ khí, nên đây có thể là một lĩnh vực dễ
hợp tác.
Thứ ba là một khía cạnh không đo đếm được nên dễ
bị bỏ qua, liên quan đến vai trò của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, liệu ông ấy có
vị thế quan trọng như thế nào trong sự phát triển kinh tế và chính trị của Việt
Nam. Trong khi có vẻ thiếu khí thế và tiếng nói về vấn đề nhân quyền, ông Phúc
lại là người có ý tưởng cải cách. Vừa rồi, khi Ban Tuyên giáo kêu gọi đối thoại
với giới bất đồng chính kiến, một bầu không khí chống lại tư tưởng bảo thủ lại
trỗi dậy. Theo các nhà quan sát, đây là một tín hiệu xấu cho tương lại cải cách
ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, không biết chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng có ý
nghĩa gì tốt đẹp.
Vì vậy, hy vọng Nhà Trắng, Quốc hội, và các lãnh
đạo khác trong chính quyền có tiếng nói rõ ràng và tha thiết để biểu lộ cam kết
thúc đẩy quan hệ song phương với Việt Nam. Xét cho cùng, chỉ có người Việt Nam
mới tự quyết định được tương lai của mình. Nếu nhìn xa hơn, bỏ qua chuyện chính
trị trước mắt, thì Việt Nam và Mỹ có nhiều lợi ích lâu dài để xây dựng một quan
hệ vững mạnh, đặc biệt là về lĩnh vực thương mại và quốc phòng.
Theo David Brown (“Vietnam’s Premier Phuc
Enters the US Cobra Den”, David Brown, Asia Sentinel, May 29, 2017), TPP là
công cụ để Hà Nội tháo gỡ sự ách tắc về ý thức hệ. Còn đối với quan hệ Viêt-Mỹ,
TPP là chất keo kinh tế để gắn kết một quan hệ đối tác chiến lược bền vững. Tuy
ông Trump đã rút khỏi TPP, nhưng Hà Nội vẫn hy vọng đạt được một hiệp định
thương mại song phương với Mỹ tương tự như TPP (ưu tiên cao nhất của ông Phúc).
Biết đâu một ngày nào đó, Việt Nam sẽ trở thành cầu nối để đưa Mỹ trở lại sân
chơi TPP.
David Brown cho rằng bản thân cuộc gặp ông Trump
30 phút tại Phòng Bầu dục là một sự kiện quan trọng, vì 3 ý nghĩa. Thứ nhất,
Ngoại trưởng Phạm Bình minh và Đại sứ Phạm Quang Vinh đã thu xếp để ông Phúc
trở thành thủ tướng đầu tiên của ASEAN được ông Trump tiếp đón tại Nhà Trắng.
Thứ hai, Hà nội có lý do để hy vọng đàm phán thương mại song phương như TPP sẽ
có kết quả. Thứ ba, món quà của Hà Nội mà ông Phúc đem đến cho ông Trump có thể
là đề nghị mua một số vũ khí tối tân của Mỹ. Đây sẽ là cái chốt của cuộc gặp.
Trong khi ông Phúc có thể bám vào kịch bản có sẵn, thì ông Trump lại hay nói
nhiều và tùy hứng, nên không loại trừ tình huống bất ngờ, có thể lái quan hệ
Viêt-Mỹ theo một hướng khác.
Thay lời kết
Tuy các nhà quan sát có
thể phân tích nhưng rất khó dự đoán kết quả của sự kiện ngoại giao này, liệu có
xảy ra trục trặc hay sai sót nào không. Đây vừa là một cơ hội vừa là thách thức
và rủi ro đối với ông Phúc, vì Donald Trump là một bài toán đố khó tìm lời
giải. Là một lái buôn (dealer) đầy cá tính, Donald Trump không phải là Bill
Clinton hay Barack Obama. Ông ấy muốn phủ nhận mọi di sản của chính quyền
trước. Đối với một tổng thống khác, kết quả gặp gỡ tùy thuộc nhiều hơn vào sự
chuẩn bị (homework) và làm việc nhóm (teamwork). Nhưng đối với ông Trump, nó
tùy thuộc nhiều hơn vào ngoại giao cá nhân và tương tác cá nhân (là một điểm
yếu của ông Phúc). Cuộc gặp gỡ này có thể là một màn trình diễn của hai nhân
vật có cá tính, như trong một chương trình “truyền hình thực tế” (reality
television show).
Hiện nay, lo ngại lớn
nhất của Việt Nam là liệu Mỹ và Trung Quốc có trở nên quá gần gũi và do đó
không đếm xỉa đến lợi ích của Việt Nam hay không. Đối với Việt Nam lúc này, lựa
chọn đối sách khả thi là rất khó, nên phải chơi cờ thế (gambit) bằng đề phòng
rủi ro (hedging). Vì vậy, Việt Nam đang tăng cường hợp tác chặt chẽ với Nhật
(chơi “lá bài Nhật”) và chuyển sang “phương án B” về TPP (còn gọi là TPP11). Vì
Mỹ đã rút khỏi TPP nên Nhật trở thành động lực chính đối với TPP11, cũng như
đối với Việt Nam trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Vì vậy, sự kiện ngoại giao
song phương Việt-Mỹ này còn có ý nghĩa đa phương.
NQD. 30/5/2017