MINH OAN CHO PETRUS TRƯƠNG
VĨNH KÝ
VỀ CÂU “Ở VỚI HỌ MÀ KHÔNG THEO HỌ”
VỀ CÂU “Ở VỚI HỌ MÀ KHÔNG THEO HỌ”
Winston Phan Đào Nguyên
Jean-Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1896)
Hai huy chương danh giá nhất:
Dũng Sĩ Cứu Thế của
Tòa thánh Công giáo La Mã (1863)
và Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ
Ngũ Đẳng của chính phủ Pháp (1886).
LGT - Nội dung bài viết dưới đây của tác giả Winston Phan
Đào Nguyên gồm hai luận đề: Luận đề đầu nhằm chứng minh rằng câu viết bằng chữ
Latinh “sic vos non vobis”, được Việt
dịch là “ở với họ mà không theo họ”
và được một số lớn các nhà nghiên cứu Việt Nam xử dụng rộng rãi từ cả thế kỷ
nay để binh vực cho thái độ “ở với” nhưng “không theo” thực dân Pháp của Petrus Ký, là dịch sai. Và vì dịch sai nên hàng chục tác giả (và số độc giả đồng
ý với họ) đã hiểu sai, do đó binh vực cũng sai luôn! Luận đề sau, như phần tiếp
nối logich của luận đề trước, là nhằm chứng minh rằng thật ra thì Petrus Ký đã
“không theo họ” (thực dân Pháp), mà cũng
chẳng “ở với” hay “theo ai” cả! Vậy thì hành trạng của
Petrus Ký là gì? Câu trả lời của tác giả là ông “chỉ làm một người có ích cho xã hội bằng cách làm tròn vai trò hay số
phần”.
Trong luận đề đầu, tác giả đã dày công nghiên cứu và
chứng minh một cách rất thuyết phục các luận điểm của mình, rằng ông Petrus Ký
CÓ “ở với họ” nhưng KHÔNG “theo họ”, mà cũng KHÔNG “không theo họ”. Phần nầy xứng đáng là
một mẫu mực làm việc để những nhà nghiên cứu cẩu thả, bênh vực một cách chủ
quan, thiên kiến (nhất là các tác giả đồng đạo Công giáo với Petrus Ký) phải
thấy hổ thẹn vì sự bất cập trí thức của mình chỉ vì “họ muốn ông Petrus Ký phải nói câu nầy cho hợp với tâm lý của họ” mà
thôi (lời của tác giả ở Mục 5.)!
Trong luận đề sau, tác giả cố gắng chứng minh rằng trong
một tình hình đất nước bị ngoại bang đô hộ mà hầu như người sĩ phu/trí thức dấn
thân nào cũng phải chọn lựa một chổ đứng, thì ông Petrus Ký (với những hành
động cụ thể và minh danh qua các Bản điều trần, qua việc làm Thông ngôn cho bộ
máy chính quyền đô hộ, …) lại KHÔNG theo ai cả! Lý do tác giả đưa ra là vì “phương châm” hành động và “triết lý sống” của chính bản thân Petrus
Ký ("tôi làm nhưng không phải cho
lợi ích của tôi") đã khiến ông độc lập, không “theo ai” cả (vì không có "họ", chỉ có xã hội).
Lý do nầy có vẽ không được thuyết phục lắm dù tác giả có
trưng dẫn một số văn bản làm chứng liệu, chủ yếu là một lá thư riêng mà Petrus
Ký gửi cho người bạn Pháp. Chưa đủ thuyết phục vì nó liên quan đến phần mổ xẽ và
phân tích tâm lý phức tạp của một con người dính dự đến quá nhiều hoạt động
ngang trái, gây nhiều tranh cải. Và nhất là không biện minh được vì sao một người
“không theo họ”, chỉ muốn đóng một “vai trò xã hội” độc lập lại lấy bốn quyết
định sau đây:
(1)
Không “ở với họ” và “không theo họ”,
chỉ “muốn có ích cho xã hội” Việt Nam nhưng tại sao Pétrus Ký lại:
Khẩn cầu quân Pháp hãy xâm lăng Việt Nam trong lá thư gửi cho Trung tá Hải quân
Jean Bernard Jauréguiberry cuối tháng 3 năm 1859 (Văn khố Hải quân Pháp, Paris: SUM Vincennes. Vũ Ngự Chiêu sưu tập).
(2)
Không “ở với họ” và “không theo họ”, chỉ
“muốn có ích cho xã hội” Việt Nam nhưng tại sao Pétrus Ký lại:
Trình bày những lý do chính trị và kinh tế để thuyết phục và thúc dục Thống
đốc Nam kỳ Duperré, thông qua viên Tham mưu trưởng Regnault de Premesnil, hãy
đánh chiếm Bắc Kỳ trong báo cáo dài 8 trang gửi ngày 28-4-1876. (Voyage au Tonkin en 1876, Bulletin de la
Société des Études Indochinoise, Saigo 1999).
(3)
Không “ở với họ” và “không theo họ”, chỉ
“muốn có ích cho xã hội” Việt Nam nhưng tại sao Pétrus Ký lại:
Từng công khai xác nhận trước Ủy Ban Cứu xét tác phẩm vai trò và mục tiêu “chưa
bao giờ đi lệch” của mình trong hoạt động văn hóa là “biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam” (Thư
"Kính gởi các vị trong Hội Đồng Thuộc Địa" đề ngày 12.1.1882).
(4)
Không “ở với họ” và “không theo họ”, chỉ
“muốn có ích cho xã hội” Việt Nam nhưng tại sao Pétrus Ký lại:
Không từ chối mà lại nhận lãnh ba huy
chương của Pháp (1883, 1886 và 1887) giữa lúc tương quan giữa hai quốc gia Việt-Pháp
lúc bấy giờ là nước thống trị và nước bị trị.
Do đó, chỉ với 4 hành động nầy mà thôi thì luận đề thứ nhì
của tác giả Winston Phan Đào Nguyên cần được đón nhận chỉ như một giả thuyết chưa
hoàn chỉnh, mở ngõ cho nhiều nghiên cứu (nhất là bằng chứng) bổ túc khác mới thật
sự thuyết phục được người đọc. Nhưng dù sao thì đây cũng là một bài viết giá
trị về Cung cách nghiên cứu và Lương thiện trí thức, vốn là hai điều hình như
càng lúc càng bị xói mòn trong giới nghiên cứu lịch sử cả ở trong lẫn ngoài
nước.
Petrus Ký là một
nhân vật lịch sử “ngang trái”, sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử bi thảm, khi
mà dân tộc hầu như hoàn toàn bị chấn thương trước cơn bảo xâm thực chính trị,
quân sự và văn hóa của Thực dân Pháp. Nhìn từ góc cạnh nào đó, cho một số người
nào đó, nhân vật Petrus Ký đúng là “giai nhân”; nhưng từ một góc cạnh khác, và
cho một số người khác, ông lại chính là “ác quỷ”. Có trường hợp Theo Giặc để giúp nước không, hay có trường hợp Chống Giặc thì hại nước
không? Thế xuất xử của Sĩ phu/Trí thức Việt Nam trong giai đoạn đó sẽ là những
án lệ bi hùng trước tòa án lịch sử!
Sưu tầm và tản mạn
thêm của Kevin Trần.
Có
lẽ một trong những người gây nhiều tranh luận nhất trong lịch sử Việt Nam là
ông Petrus Trương Vĩnh Ký (“Petrus Ký”). Hơn một trăm năm sau ngày ông
mất (1898), đến giờ này người Việt trong và ngoài nước vẫn còn bàn cãi về
ông. Nhưng có một điều về ông Petrus Ký mà hình như tất cả hai phía khen
và chê đều đồng ý là câu “sic vos non
vobis”. Đây là một câu bằng chữ Latin được cho là phương châm hay
tôn chỉ trong cuộc sống của ông và thường được dịch ra là “ở với họ mà không theo họ”.
Không
biết chính xác từ lúc nào, nhưng hiện nay hầu như trong tất cả các bài viết về
ông Petrus Ký đều có dẫn “sic vos non vobis” và cho rằng ông Petrus Ký đã dùng
câu Latin này để tự bào chữa cho sự hợp tác với Pháp của ông. Vì,
theo tất cả các bài viết nói trên, “sic vos non vobis” có nghĩa là “ở với họ mà
không theo họ” hoặc “theo họ nhưng không lệ thuộc họ”. Tuy có khác nhau
chút ít về hình thức, nhưng tất cả những câu dịch đều có nội dung giống nhau,
đại ý là Petrus Ký chỉ miễn cưỡng mà làm việc cho Pháp thôi chứ không hề “theo”
hay “lệ thuộc” người Pháp.
Một
thí dụ tiêu biểu nhất là bài viết về Petrus Ký trong Wikipedia hiện nay (2017):
“Pétrus Ký đã mượn câu cách ngôn Latinh‘Ở với họ mà không theo họ’ ("Sic
vos non vobis"), để biện minh cho việc nhận lời làm thông ngôn cho
Jauréguiberry.”1
Bài
Wikipedia nói trên cho biết đã dẫn câu này từ bài viết “Ở Với Họ Mà Lòng Không Theo Họ - Châm Ngôn Và Bi Kịch Cuộc Đời Trương
Vĩnh Ký” của tác giả Phan Thứ Lang
trong Tạp Chí Xưa & Nay tháng 12
năm 1997. Nguyên văn như sau:
"Và Pétrus Ký
đã đem câu châm ngôn Latinh 'Ở với họ mà không theo họ ' ("Sic vos non
vobis"), để biện minh cho sự hợp tác của ông với Pháp. Rồi mặc
những lời thị phi, ngày 20/12/1860, ông đã nhận lời làm thông ngôn cho
Jauréguiberry."2
Một
tác giả khác, Hồng Lê Thọ, trong bài
"Trương Vĩnh Ký - Một Trí Thức Buồn"
(1/9/2008) đang được lưu hành rất nhiều trên mạng, viết như sau về
"sic vos non vobis” và Petrus Ký trong chú thích số 27 của bài viết:
"(27) ngạn ngữ
la tinh, biện minh cho việc ra nhận lời làm thông ngôn cho Trung tá Hải quân
Jauréguiberry. Trong một thư khác viết bằng chữ La-ngữ gửi cho bạn là
bác-sĩ Chavannes, ông cũng bày tỏ rõ quan-điểm của mình: “Đây là việc tôi ở với
các anh chứ không phải vì theo các anh, đó chỉ là phận sự tôi phải làm và điều
này làm tôi an lòng”, ông nói: “sic vos non vobis, hoc (sic) est mea sors et
consolatio.” (Nguyễn Văn-Tố, Tựa cuốn Trương Vïnh Ký của Lê
Thanh, Bằng Giang, Sương Mù Trên Tác phẩm Trương Vïnh Ký, Văn Học tb, 1994.
tr.71)".3
Gần
đây nhất, trong Lời Giới Thiệu viết ngày 5/7/2016 cho cuốn "Petrus Ký - Nỗi Oan Thế Kỷ"4 của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu,
giáo sư Phan Huy Lê viết:
"Theo đó, cuối
đời, Trương Vĩnh Ký cũng tự thấy những mâu thuẫn trong cuộc sống của mình khiến
hậu thế khó hiểu khi căn dặn chôn mình trong một nhà mồ đơn sơ với dòng chữ
Latin “Sic vos non vobis” (Ở với họ mà không theo họ) ..."5
Có
lẽ giáo sư Phan Huy Lê bị ảnh hưởng bởi những dòng sau đây của tác giả Nguyễn Đình Đầu trong cùng cuốn sách
Nỗi Oan Thế Kỷ:
“Trước khi rời
cõi thế, Petrus Ký tự xây cho mình một nhà mồ vững chãi nhưng đơn sơ.
Trên cửa chính có ghi câu thành ngữ bằng tiếng Latin Sic vos non vobis (Ở với họ mà không theo họ)...".6
Cả
hai tác giả Nguyễn Đình Đầu và Phan Huy Lê đều không cho biết lấy nguồn từ đâu
cho câu dịch này.7
Như
vậy, tạm gác qua những dị biệt nhỏ về cách dịch, gần như tất cả mọi tác giả
viết bằng tiếng Việt hiện nay đều cho rằng Petrus Ký đã tự bào chữa cho sự hợp
tác với Pháp của ông bằng một câu tiếng Latin “sic vos non vobis” có nghĩa là
“ở với họ mà không theo họ”.
Nhưng
sự thật có phải vậy không? Sau khi tìm hiểu, người viết bài này xin thưa
rằng không. Câu “sic vos non vobis” này có thể đúng là một phương
châm hay triết lý trong cuộc sống của Petrus Ký. Nhưng nó không hề là một
câu dùng để tự biện minh cho việc hợp tác với Pháp của ông. Lý do sẽ được
trình bày trong bài viết này.
1. Nghĩa Đen Của “Sic Vos Non
Vobis” Không Phải Là “Ở Với Họ Mà Không Theo Họ”
Lý
do đầu tiên và đơn giản nhất là vì “sic vos non vobis” chữ Latin theo nghĩa đen
hoàn toàn không có nghĩa “ở với họ mà không theo họ”.
“Sic
vos non vobis” là một nhóm chữ (cụm từ) đúng hơn là một “câu” Latin.
-
“Sic” có nghĩa là “như vậy” (so, thus, trong tiếng
Anh). Đó là lý do tại sao khi trích dẫn một chữ viết sai chính tả
hay sai sự thật, "sic" thường được dùng trong ngoặc đơn để cho biết
chính tác giả đã viết sai “như vậy”, chớ không phải do người trích dẫn sai.
-
“Vos” là đại danh từ ngôi thứ hai số nhiều (you, các
anh, các chị, các người), thường được dùng trong các “case” hay “cách” sau đây
trong văn phạm Latin: nominative (danh cách), accusative (đối cách) hoặc
vocative (hô cách).
-
"Non" là không.
-
"Vobis" là dạng dative (tặng cách) hoặc
ablative (ly cách) của vos (ngôi thứ hai số nhiều). Trong “sic vos non
vobis”, chữ vobis được dùng theo “tặng cách” hay dative case. Và phải
được dịch ra là “cho các anh (chị)” (for yourselves).
Do
đó, theo nghĩa đen từng chữ của nhóm chữ này, hoàn toàn không có động từ “ở” và
“theo”, cũng như chẳng có “họ”. Có thể tạm dịch là:
“như
vậy … các anh (chị) không phải cho mình ….” (so you … not for yourselves).8
2. Nguồn Gốc “Sic Vos Non Vobis” Và
Nghĩa Bóng Thông Dụng Ngày Nay
Nhưng để hiểu rõ và chính
xác hơn về “sic vos non vobis”, hãy tìm về quá khứ huy hoàng của chúng và nghĩa
bóng thông dụng ngày nay.
a) Từ Thơ Virgil
Chỉ
cần bỏ dăm ba phút trên google, ta có thể thấy ra ngay"sic vos non vobis" có một nguồn gốc
rất thú vị chứ không phải chỉ đơn giản là một câu "cách ngôn”, “châm
ngôn”, hay “ngạn ngữ” Latin như phần lớn bài viết tiếng Việt về Petrus Ký
cho biết. Nó không phải là một câu hoàn chỉnh, mà là một phần trong những
câu thơ của thi hào Virgil
thời đế quốc La Mã.
Theo
truyền thuyết, Virgil, vào khoảng năm 41 B.C., lúc đã nổi tiếng, có làm hai câu
thơ (distich) để ca ngợi hoàng đế Caesar Augustus (cháu của Julius Caesar), và
để hai câu thơ đó trước cổng cung điện của Augustus vào một đêm mưa trước
một ngày lễ hội của ông ta như sau:
Nocte pluit tota; redeunt spectacula mane:
Divisum imperium cum Jove Caesar habet.
Tạm
dịch:
Trọn đêm mưa bình minh cùng lễ hội
Quyền Caesar chia sẻ với thần Du. 9
Vì
là một người khiêm nhường, Virgil đã không viết tên mình là tác giả hai câu
thơ. Sau khi đọc được hai câu này, hoàng đế Augustus rất thích thú
và quyết tìm cho ra tác giả. Tuy nhiên, Virgil vẫn không nhận là của
mình. Cho đến khi một nhà thơ khác tên là Bathyllus thừa cơ hội
nhận là của mình và được Augustus khen thưởng thì Virgil mới tức mình viết thêm
những câu sau đây trên cánh cổng cung điện, trong đó ông cố tình để trống phần
sau của 4 câu có “sic vos non vobis”:
Hos ego versiculos, tulit alter honores:
Sic vos non vobis, ________________
Sic vos non vobis, ________________
Sic vos non vobis, ________________
Sic vos non vobis, ________________
Tạm
dịch:
Tôi làm thơ, nhưng kẻ nào hưởng lợi
Chẳng vì mình, __________________
Chẳng vì mình, __________________
Chẳng vì mình, __________________
Chẳng vì mình, __________________
Thắc
mắc không biết ai viết những câu trên, Augustus ra lệnh cho Bathyllus làm tiếp
phần để trống, nhưng Bathyllus không làm được. Đến lúc đó Virgil mới ra
mặt và hoàn tất các câu bỏ trống như sau:
Hos ego versiculos, tulit alter honores:
Sic vos non vobis nidificatis aves;
Sic vos non vobis vellera fertis oves;
Sic vos non vobis mellificatis apes;
Sic vos non vobis fertis aratra boves.
Tạm
dịch:
Tôi làm thơ nhưng kẻ nào hưởng lợi
Chẳng vì mình, lũ chim làm tổ mới
Chẳng vì mình, đàn cừu phải mang lông
Chẳng vì mình, làm mật những đàn ong
Chẳng vì mình, giống trâu bò cày cấy
Không
cần phải nói, sau đó trắng đen rõ rệt, Virgil càng được Augustus mến trọng hơn.
b) Cách Dùng Thông Dụng
Về Sau Hay Nghĩa Bóng Của “Sic Vos Non Vobis”
Và
sau đó theo thời gian, “sic vos non vobis” từ nguồn gốc ở những câu thơ của
Virgil đã thường được dùng để chỉ trường hợp:
i. Người này làm nhưng bị kẻ khác
hưởng lợi, nhất là trong hoàn cảnh bị đạo văn như Virgil.
ii. Người làm điều lợi cho người khác
chứ không cho chính mình. 10
Và
nghĩa chính xác của “sic vos non vobis” sẽ tùy thuộc vào hoàn cảnh mà nó được
xử dụng.11
Nhưng
hoàn toàn không có trường hợp nào mà “sic vos non vobis” có thể được dịch ra là
"ở với họ, mà không theo họ" như các bài tiếng Việt đã viết.
Và
cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng thông dụng sau đó của “sic vos non vobis” đều không
phải là “ở với họ mà không theo họ”.
Muốn
biết “sic vos non vobis” của Petrus Ký thật sự có nghĩa gì, ta phải xem
chính xác trong thời gian và hoàn cảnh nào ông Petrus Ký đã dùng nó. Muốn
vậy, phải trở lại với thời gian vài mươi năm khi câu này được dịch ra tiếng
Việt. Đó là thập niên 50 của thế kỷ trước.
3. Nguồn Gốc Câu Dịch “Ở Với Họ Mà
Không Theo Họ”
Tác
giả Phan Thứ Lang trong bài “Ở Với Họ Mà
Lòng Không Theo Họ - Châm Ngôn Và Bi Kịch Cuộc Đời Trương Vĩnh Ký” đã không
cho ta biết nguồn gốc của câu dịch này khi cho rằng Petrus Ký đã dùng nó
để “biện minh cho sự hợp tác của ông với Pháp” và rồi sau đó, mặc “thị
phi”, làm việc với Pháp từ năm 1860.
Và
tác giả Hồng Lê Thọ trong bài “Trương
Vĩnh Ký - Một Trí Thức Buồn” thì có dẫn đến hai nguồn là Nguyễn Văn Tố
trong Lời Tựa cho cuốn “Trương Vĩnh
Ký –Biên Khảo” của Lê Thanh và Bằng Giang trong “Sương Mù Trên Tác Phẩm
Trương Vĩnh Ký”.
Nhưng
trong bài Tựa của Nguyễn Văn Tố được in lại trong cuốn NOTK của Nguyễn Đình
Đầu, trang 361, không hề có một lời nào về “sic vos non vobis”. Thêm nữa,
trong cả một bài rất dài về Petrus Ký của Nguyễn Văn Tố trong Bulletin de la Société d’enseignement Mutual
du Tonkin (Tập San Trí Tri) năm 1937 (in lại trong NOTK, trang
371-410), cũng không thấy ông Tố nói gì về câu này.
Và
Bằng Giang trong “Sương Mù Trên Tác Phẩm
Trương Vĩnh Ký”12 hoàn
toàn không nói gì về "sic vos non vobis".
Gần
đây nhất, cả hai ông Phan Huy Lê và Nguyễn Đình Đầu cũng không cho biết lấy
nguồn câu này từ đâu.
Do
đó, mặc dù câu “ở với họ mà không theo họ”
được sử dụng lan tràn trong các bài viết về Petrus Ký, các tác giả của những
tác phẩm này dường như đã không chú ý lắm về nguồn gốc của nó. Điều này
làm cho người đọc có cảm tưởng rằng đây là một sự thật đã được chấp nhận, và
làm cho việc đi tìm nguồn gốc của nó thêm phần khó khăn.
a) Từ Sách “Chữ, Văn Quốc Ngữ” Của
Nguyễn Văn Trung
Tuy
vậy, người viết bài này có thể đoán ra là Hồng Lê Thọ đã lấy nguồn từ
giáo sư Nguyễn Văn Trung trong cuốn
"Chữ , Văn Quốc Ngữ - Thời Kỳ Đầu
Pháp Thuộc"13 ,
vì một lý do khá đơn giản: khác với Phan Thứ Lang, Hồng Lê Thọ đã hoàn tất nhóm
chữ “sic vos non vobis” của Petrus Ký bằng cách dẫn thêm một nhóm chữ Latin
khác theo sau: “sic vos non vobis, hoc est mea sors et consolatio"
(người viết nhấn mạnh chữ hoc, vì đây là một chữ trích dẫn sai sẽ được nói đến
sau).
Và
đây là câu phê bình của giáo sư Nguyễn Văn Trung về Petrus Ký trong cuốn sách
trên:
“Còn đối với chính
ông, ông cho rằng thái độ cộng tác với Pháp chỉ là ở với họ nhưng không phải cho họ như ông đã bày tỏ trong những lá
thư viết bằng Latinh cho một bạn thân của ông, bác sĩ Chavane (Sic vosnon
vobis, Hoc est mea sors et consolatio)”14 (người
viết nhấn mạnh chữ Hoc).
Trong
chú thích cho những dòng trên, giáo sư Trung cho biết ông đã dẫn câu này từ tài
liệu ở cuốn “Trương Vĩnh Ký, 1837-1898”
của Khổng Xuân Thu.15
Điều
cần lưu ý là giáo sư Trung đã trích dẫn sai câu Latin này từ sách của Khổng Xuân
Thu, bởi nguyên bản trong sách là Haec est mea sors et consolatio chứ không
phải Hocest ... Và vì Hồng
Lê Thọ đã viết sai chữ Hoc này y như giáo sư Trung, ta có thể đoán là ông đã
dẫn câu này từ cuốn "Chữ, Văn Quốc
Ngữ" của giáo sư Trung chứ không phải từ Khổng Xuân Thu.16
Nhưng
cũng từ đó, ta có thể qui nguồn gốc câu dịch tiếng Việt “ở với họ mà không theo
họ” về một nơi duy nhất, đó là cuốn "Trương
Vĩnh Ký, 1837-1898" của Khổng Xuân Thu. Hay nói cách khác,
Khổng Xuân Thu chính là người đã dịch “sic vos non vobis” ra tiếng Việt thành “ở với họ mà không theo họ” – câu mà tất
cả sách báo tiếng Việt từ hơn nửa thế kỷ nay đã dùng trong những bài viết hay
nghiên cứu về Petrus Ký - để cho rằng ông đã tự bào chữa cho việc hợp tác
với Pháp.
Hãy
xem tác giả Khổng Xuân Thu dịch “sic vos non vobis” thành “ở với họ mà
không theo họ” như thế nào.
b) Từ Sách “Trương Vĩnh Ký 1837-1898”
Của Khổng Xuân Thu
Đây
là một trong những cuốn sách xưa nhất về Petrus Ký bằng tiếng Việt sau “Trương Vĩnh Ký Hành Trạng” của Đặng Thúc
Liêng17 và
"Trương Vĩnh Ký - Biên Khảo"
của Lê Thanh18 .
Tác phẩm này độc đáo ở chỗ có những lá thơ tâm tình bằng tiếng Latin của Petrus
Ký gởi cho bạn ông là bác sĩ Alexis Chavanne và tiến sĩ Albert Kaempfen trong
hai năm 1887-1888 khi Petrus Ký đã “về hưu” ở Chợ Quán sau cái chết đột ngột
của Paul Bert.
Đây
là phần Khai Từ của tác giả Khổng Xuân Thu:
“Suốt cuộc đời của
Trương Vĩnh Ký, ta thường nghe tiên sinh nhắc đến câu cách ngôn Latinh sau đây:
sic vos non vobis (Ở với họ mà
không theo họ). Trong bức thư thắm thiết của tiên sinh gửi cho một
người bạn văn hóa - bác sĩ Chavanne - đề ngày tháng 10-1887, Trương công vẫn
còn nhắc lại với tất cả ý niệm chân thành của mình đối với thời cuộc. (Dẫn kỹ ở
chương “Chán Nản Chính Trị” ở đoạn sau)”.19
Và
trong chương “Chán Nản Chính Trị” ở
đoạn sau, trang 60, Khổng Xuân Thu cho biết:
“Tham vọng của ông
là tìm đủ cách để cho ích quốc lợi dân, dù có hy sinh đến địa vị, quyền lợi của
mình đi chăng nữa. Viết thư cho bác sĩ Chavanne, có đoạn: Điều duy nhất
và đơn độc (về chính trị) mà tôi tìm kiếm, là có ích đúng như câu châm ngôn La
tinh: Sic vos non vobis (Ở với
họ mà không theo họ). Đó là định mệnh của tôi và điều tự nhủ
chính bản thân tôi. Nguyên văn: Unum et uticum quaero, esse scilicet
posse utilem, quamvis dicendum sit: Sic vos non vobis … Hae (sic) est mea sors
et consolatio”20
Và
cuối cùng, trong phần Phụ Lục, trang 125, là bản dịch chính thức của lá thơ
Petrus Ký gởi cho Alexis Chavanne tháng 10, 1887:
“Điều độc nhất mà
tôi tiến đến là làm sao giúp ích, làm sao để thực hành câu “theo họ, nhưng không lệ thuộc họ” (Sic vos non vobis). Đó là số
phận của tôi, là điều an ủi cho tôi”.
Như vậy, trong cùng
một cuốn sách, Khổng Xuân Thu đã ba lần nhắc đến “sic vos non vobis” và dịch ra
hai lần là “ở với họ mà không theo họ” và một lần là “theo họ, nhưng không lệ
thuộc họ”21.
Theo
Khổng Xuân Thu cho biết, ông đã “may mắn” tìm được những lá thơ của Petrus Ký
trong ấn phẩm của Hội Nghiên Cứu Đông Dương (Bulletin de la Société des Etudes
Indochinoises) và đã dịch những lá thơ này từ tiếng Latin ra tiếng Việt với sự
trợ giúp của những linh mục (không cho biết tên). Với một thái độ khiêm
tốn rất đáng quí trọng, tác giả cho biết công việc dịch thơ của Petrus Ký rất
khó khăn vì trong những lá thơ bằng tiếng Latin thỉnh thoảng ông còn dùng cả
chữ … Hy Lạp22. Và chúng ta cũng cần nhớ rằng đây là
công trình làm việc một mình vào 60 năm trước. Do đó có những sai sót là
điều không thể tránh khỏi.23
Trở
lại với những lá thơ của ông Petrus Ký và câu “sic vos non vobis”. “Câu”
này, chỉ được thấy một lần duy nhất trong lá thơ Petrus Ký gởi cho Alexis
Chavanne tháng 10 năm 1887. Đây là nguyên văn tiếng Latin và hai phiên
bản dịch của Khổng Xuân Thu:
"…. Unum et
unicum quaero, esse scilicet posse utilem, quamvis dicendum sit: Sic vos
non vobis … Haec est mea sors et consolatio."
"Điều duy nhất
và đơn độc (về chính trị) mà tôi tìm kiếm, là có ích đúng như câu châm ngôn La
tinh: Sic vos non vobis (Ở với
họ mà không theo họ). Đó là định mệnh của tôi và điều tự nhủ
chính bản thân tôi."
“Điều độc nhất mà
tôi tiến đến là làm sao giúp ích, làm sao để thực hành câu “theo họ, nhưng không lệ thuộc họ” (Sic vos non vobis). Đó là số
phận của tôi, là điều an ủi cho tôi”.
Cả
hai câu dịch, theo thiển ý của người viết bài này, đều không chính xác, nếu
không nói thẳng là sai ý của tác giả.
-
Trước nhất, dịch giả Khổng Xuân Thu đã thêm vào trong câu dịch những chữ và ý
tưởng không có trong nguyên văn. Ở câu đầu, đó là phần
"đúng như câu châm ngôn La tinh" và ở câu sau là phần "để thực
hành câu". Trong nguyên văn tiếng Latin không hề có những dòng
trên.
-
Thứ hai, và cũng quan trọng nhất, như đã giải thích
trong phần trên của bài viết này, Khổng Xuân Thu đã dịch hoàn toàn sai nhóm chữ "sic vos non vobis", theo cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thay vì phải dịch với ý nghĩa thông dụng là
"chẳng phải vì lợi ích của mình"
hay “chẳng phải cho tôi” thì Khổng
Xuân Thu lại dịch là "ở với họ mà
không theo họ", làm cho hai phần trước và sau của câu không ăn khớp
với nhau. Trong khi phần trước nói về sự hữu dụng (có ích), thì phần sau
theo Khổng Xuân Thu lại nói về một thái độ chính trị. Và vì dịch sai
"sic vos non vobis" như vậy, cả câu dịch thành ra rất tối nghĩa.
-
Thứ ba, và có thể là lý do làm cho Khổng Xuân Thu dịch
sai “sic vos non vobis”, là vì Khổng Xuân Thu đã không chú ý và bỏ qua phần tối quan trọng trong câu là "quamvis dicendum sit",
có nghĩa là "tuy nhiên, cần phải nói (thêm) rằng". Đó chính là
nhịp cầu nối tiếp giữa "có ích" (utilem)
(useful) và "không phải
cho tôi" (sic vos non
vobis). Với nhịp cầu đó, tác giả đã bổ túc cho ý chính của câu và làm
cho hai phần trong câu hoàn toàn ăn khớp với nhau.
Câu
dịch gần đúng ý tác giả nhất, theo thiển ý người viết, phải là như vầy:
"Điều
duy nhất mà tôi theo đuổi là làm sao thành có ích, tuy phải nói thêm rằng: (ích
lợi đó) không phải cho tôi. Đó là số phần và là niềm an ủi của tôi."
Câu
dịch này cho thấy sự liên kết chặt chẻ giữa phần đầu (muốn thành có ích) và
phần sau (nhưng không phải cho mình). Nó nói lên triết lý sống vị tha,
bất vị kỷ, của Petrus Ký.
Trong
khi đó, như trên đã viết, hai câu dịch của Khổng Xuân Thu không có liên hệ gì
giữa "có ích" ở phần đầu và "ở với họ nhưng không theo họ"
ở phần sau của câu. Và rõ ràng nhất là đại danh từ "Họ" trong
trường hợp này được đem vào trong câu một cách rất bất chợt, tùy tiện, và không
có chút gì dính líu với cả câu văn.
Như
đã có nói trong phần trên, “sic vos non vobis” thường được hiểu với một trong
hai nghĩa chính, tùy theo trường hợp mà chúng được sử dụng. Trong trường
hợp này, nghĩa thứ hai, là "tôi làm
nhưng không phải cho lợi ích của tôi" là hợp lý nhất. Nghĩa thứ
nhất không phù hợp vì cả câu không nói gì về hoàn cảnh bị đạo văn hay bị cướp
công -- và cũng vì nếu bị đạo văn hay cướp công thì không ai nói rằng đó là số
phần và niềm an ủi của mình được.
c)
"Sic Vos Non Vobis" Trong Tài Liệu Tiếng Pháp Về Petrus Ký
Để
kiểm chứng là câu dịch của Khổng Xuân Thu không đúng với ý của ông Petrus Ký,
người viết đã tìm đến tài liệu chính gốc là những lá thơ bằng tiếng Latin của
ông Petrus Ký gởi cho hai bạn hữu Alexis Chavanne và Albert Kampfen đã được
giáo sư Raphael Barquissau sưu tập và dịch lại bằng tiếng Pháp trong tác phẩm “Correspondance inédite en latin de Pétrus
Trương –vĩnh-Ký”24
Điều
đáng chú ý là khi dịch lá thơ tháng 10, 1887 của Petrus Ký ra tiếng Pháp,
Barquissau đã để nguyên văn “sic vos non vobis” trong câu văn như sau:
"La seule et
unique chose que je cherche, c'est de pouvoir être utile, quoiqu'il faille
dire: 'sic vos non vobis'. Tel est mon sors et ma consolation."
Khác
với Khổng Xuân Thu, Barquissau đã dịch đúng như nguyên văn Latin và giữ phần “quamvis dicendum sit” tức “tuy nhiên
phải nói rằng” thành “quoiqu‘il faille
dire”. Barquissau cũng đã không thêm vào phần “đúng như câu” hay “để
thực hành câu” như Khổng Xuân Thu. Và nếu hiểu "sic vos non
vobis" theo nghĩa thông dụng là “không phải cho tôi”, thì câu của
Barquissau hoàn toàn hợp lý.
Một
điều thú vị mà người viết đã để ý tìm kiếm là trong các tài liệu bằng tiếng
Pháp về Petrus Ký không hề có bóng dáng “sic vos non vobis” với ý nghĩa "ở
với họ mà không theo họ" như trong sách báo tiếng Việt! Lý do có lẽ
rất đơn giản là vì như đã nói Petrus Ký chỉ dùng câu này để tâm tình với một
người bạn về triết lý sống của mình, chứ không phải để bào chữa hay tự biện
minh.25
4
. Triết Lý Sống Hay
Phương Châm "Không Phải Cho Tôi" Trong Những Lá Thơ Khác Của Petrus
Ký
Tóm
lại, khi dùng “sic vos non vobis” trong lá thơ gởi cho Alexis Chavanne tháng 10
năm 1887, Petrus Ký cho Chavanne biết triết lý sống hay phương châm của ông là
làm việc giúp ích cho xã hội chớ không phải cho tư lợi. Hay nói cách
khác, chúng cho thấy tinh thần bất vị kỷ của ông.
Muốn
kiểm chứng và thấy rõ hơn triết lý này của Petrus Ký, ta có thể tìm thấy nó
ngay trong những lá thơ khác của ông gởi cho Chavanne bằng tiếng Latin.
Trong
lá thơ tháng 2 năm 1887, Petrus Ký cho Chavanne biết là hiện tại ông hơi chán
ngán cuộc đời vì những sự ganh tị.26 Chavanne trả lời vào ngày
1 tháng 3 năm 1887, khuyên nhủ Petrus Ký nên trở lại giúp vua Đồng Khánh để vừa
giúp nước mà vừa giúp Pháp.
Petrus
Ký hồi âm ngày 8 tháng 4, 1887 và cho Chavanne biết ông đã chán ngán danh vọng,
vì nó không còn cám dỗ được “con sư tử già và mất hết sức mạnh” là ông.
Chavanne lại một lần nữa khuyên Petrus Ký trong lá thơ đề ngày “20 quintili
mense 1887”27: “Tổ quốc và nhất là nhân loại phải đi trước tất
cả".
Trong
thơ ngày 6 tháng 8 năm 1877, Petrus Ký viết cho Chavanne rằng ông không
đồng ý với Chavanne, vì:
“Thật tình
thì ta phải sống theo cuộc đời đã định; ta chỉ có thể có ích cho chính
chúng ta, cho những người tương tự, cho vạn vật trong thiên nhiên; và như
vậy ta mới hoàn thành được trách nhiệm đầu tiên của cuộc đời.”
"Vita enim
qualis in se est sumenda est talis; tantummodo sit fructuosa sive nobis ipsis,
sive nostris similibus, sive aliis Naturae entibus; sicque finem primordialem
adimpleret".28
Rồi
sau đó, như ta đã biết, trong lá thơ tháng 10, 1887, Petrus Ký cho Chavanne
biết ông chỉ muốn làm một người có ích cho xã hội mà thôi. Cũng ngay
trong lá thơ đó, bên dưới câu "sic vos non vobis" là câu sau đây để
chúc cho Chavanne, mà có lẽ cũng là điều ông muốn cho mình:
“Cầu Chúa cho ông
giữ sức khoẻ để ông luôn có ích cho chính ông, cho bạn hữu và cho xã hội, và để
ông phục vụ hữu hiệu cho chính phủ để cuối cùng vào một ngày nào đó ông có thể
nói rằng: Tôi đã đóng trọn vai trò của mình, tôi đã hoàn thành trách nhiệm của
mình”
“Te ergo
Deus conservet in potestate ut tibi, tuis amicis et societati diu ac semper
prosis, et Gubernio utiliter ac efficaciter servias ut tandem tibi ipsi possis
quodam die dicere: meas partes bene egi, officium meum adimplevi”29
Tóm
lại, nếu đọc tất cả những lá thư giữa Petrus Ký với Chavanne, ta sẽ thấy
những ý tưởng của hai người nhất quán và xuyên suốt dưới ngòi bút của họ.
Trong lúc Chavanne, một nghị viên Pháp, khuyên bạn Petrus Ký hãy trở lại
giúp cho Pháp và Đồng Khánh, vì “tổ quốc và nhân loại” vẫn còn cần ông, thì
Petrus Ký lại chỉ muốn trở về triết lý sống của ông là làm một người có ích cho
xã hội bằng cách làm tròn vai trò của ông trong đời mà thôi.
Điều
cần ghi nhận là trong tất cả những lá thơ giữa Petrus Ký và Chavanne không hề
có trạng huống nào có thể đưa đến việc Petrus Ký phân bua hay tự bào chữa với
Chavanne rằng ông ... "ở với họ mà không theo họ". Và nếu nghĩ
cho cùng thì tại sao Petrus Ký lại phải đi biện minh về việc cộng tác với Pháp
cùng một chính trị gia Pháp đang làm việc trong chính phủ Pháp và khuyến khích
Petrus Ký giúp Pháp?
Nếu
thật tình Petrus Ký muốn bào chữa cho việc hợp tác với Pháp của mình, chắc ông
đã chọn đối tượng là người Việt với một câu tiếng Việt. Và câu nói cũng
sẽ có điển tích gì đó kèm theo cho người Việt hiểu. Chứ có đâu lại đi
viết một câu bằng chữ Latin với điển tích La Mã trong một lá thơ tâm tình bằng
tiếng Latin cho một ông bạn bác sĩ người Pháp đang là một nghị viên Pháp!
Do
đó, sau khi đọc tất cả các lá thơ giữa Petrus Ký và Chavanne, những tài liệu
thuộc loại đáng tin tưởng nhất vì đây là những lá thơ tâm tình giữa bạn bè
không có mục đích nào khác, ta chỉ có thể kết luận rằng Petrus Ký đã dùng “sic
vos non vobis” với ý nghĩa là làm điều ích lợi cho người khác chứ không phải
cho mình. Và điều chắn chắn là không thể nào có thể hiểu ra thành "ở
với họ mà không theo họ" như lời dịch của Khổng Xuân Thu.
5. Lý Do Tại Sao Có Câu Dịch
"Ở Với Họ Mà Không Theo Họ"
Nếu
"sic vos non vobis" có ý nghĩa "không phải cho mình" như ta
đã thấy, thì tại sao Khổng Xuân Thu lại dịch là "ở với họ mà không theo
họ"? Có phải đơn thuần chỉ là dịch sai mà thôi chăng ?
Khó
trả lời cho câu hỏi này, nhưng nếu nhìn cách câu này được những người ủng hộ
ông Petrus Ký đón nhận nồng nhiệt thì ta có thể đoán được phần nào lý do.
Đó là vì họ muốn ông Petrus Ký phải nói
câu này cho hợp với tâm lý của họ. Xin được gọi đây là "mặc cảm Tôn Thọ Tường".
Theo
thiển ý của người viết, quan điểm "ở với họ mà không theo họ"
không khỏi bị ảnh hưởng bởi một thi sĩ tài hoa cùng thời và cùng làm việc với
Pháp như Petrus Ký là Tôn Thọ Tường.
Bởi
vì trước năm 1958 là năm mà câu "ở với họ mà không theo họ" ra đời
với tác giả Khổng Xuân Thu, hai bài thơ nổi tiếng sau đây của Tôn Thọ Tường
chắc chắn đã đi vào lòng nhiều người Việt:
Tôn Phu Nhơn Qui
Thục
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam vầy gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng
Từ Thứ Qui Tào
Hiếu đâu dám sánh kẻ cày voi
Muối xát lòng ai nấy mặn mòi
Ở Hán đã đành trang cội cả
Về Tào chi sá một cây còi
Chạnh lòng nhớ mẹ không nâng chén
Tấc dạ thương vua biếng giở roi
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy
Thân này xin gác ngoại vòng thoi
Qua
hai bài thơ này, Tôn Thọ Tường đã tự bào chữa cho việc theo Pháp của mình với
các bạn sĩ phu ngày xưa mà nay ở phía đối nghịch là: 1) thân gái phải theo
chồng, ông vì việc làm phải trung thành với chủ Pháp; 2) vì hoàn cảnh gia đình,
ông phải theo Pháp, nhưng hứa sẽ không giúp ích gì cho Pháp, cũng như Từ Thứ đã
hứa và đã không hiến kế gì cho Tào Tháo trong suốt thời gian ở phe Tào.
Với
hai bài thơ nổi tiếng trên, thật quá dễ dàng và tiện lợi để đem so sánh hoàn
cảnh của Từ Thứ "hàng" Tào nhưng không "giúp" Tào --
tức hoàn cảnh tự nhận của Tôn Thọ Tường -- và trường hợp Petrus Ký
"ở" với Pháp nhưng không "theo" Pháp. Nếu trong bài
thơ của Tôn Thọ Tường chỉ có Lưu và Ngụy, thì trong thế giới của Petrus Ký qua
quan điểm này, cũng chỉ có họ (Pháp) và ta. Vậy nên nếu Tôn Thọ Tường đã
hứa "Thân này xin gác ngoại vòng
thoi" thì Petrus Ký cũng nên hứa rằng "Ở với họ mà không theo họ".
Thế
nhưng chẳng những Petrus Ký không bao giờ nói vậy, như ta đã thấy, mà Petrus Ký
cũng không phải là Tôn Thọ Tường! Mọi sự so sánh giữa hai người do đó đều
khập khiễng.
Tôn
Thọ Tường là một nhà nho, một cậu ấm xuất thân từ thế gia vọng tộc, được nuôi
dưỡng với ý niệm "trung quân" là điều tối thượng. Cũng vì cái ý
niệm "trung thần bất sự nhị quân" này mà Tôn Thọ Tường suốt đời phải
tự bào chữa, phải biện minh cho mình - mà rồi vẫn bị các bạn nhà nho đồng thời
đả kích không thương tiếc, từ Phan Văn Trị đến Huỳnh Mẫn Đạt.
Petrus
Ký là một chủng sinh, sống từ nhỏ trong những tu viện ở bên ngoài Việt
Nam với đủ loại người từ các quốc gia khác, và lớn lên với đạo Thiên Chúa cùng
văn minh La Mã, Hy Lạp. Khi trưởng thành lại được đọc và biết đến những
tư tưởng dân chủ cũng như làm bạn với những nhà tư tưởng tiến bộ hàng đầu thế
giới thời bấy giờ. Cùng làm việc cho Pháp, nhưng Petrus Ký thì không hề
bị một nhà nho đồng thời nào đả kích.30 Cũng như sau đó được
dân chúng Nam Kỳ góp tiền đúc tượng đồng và tôn vinh là bậc thầy của cả miền
Nam.
Cho
nên không thể nào so sánh Petrus Ký với Tôn Thọ Tường.
Thế
nhưng vì cả hai đều là người Nam Kỳ, đều hợp tác với Pháp khoảng cùng thời
gian, cùng tháp tùng phái đoàn Phan Thanh Giản qua Pháp năm 1863, cùng viết
trên Gia Định Báo sau đó, nên sự so sánh và rồi đồng hóa về tư tưởng chính trị
là điều không thể tránh khỏi cho những người ủng hộ Petrus Ký.
Hơn
nữa, vì "ở với họ mà không theo họ" là một câu nghe rất thuận tai nên
những người ủng hộ ông đã nắm ngay lấy câu này để biện minh cho việc hợp tác
với Pháp của ông Petrus Ký và phát tán rộng rãi như đã nêu trên.
Điều
đáng tiếc là cũng vì câu dịch này mà ông Petrus Ký càng lúc càng bị hiểu lầm
nhiều hơn. Hay nói cách khác, ông đã bị những người ủng hộ vô tình vu oan
là ông đã tự bào chữa với một câu mà ông không hề nói.
6. Hậu Quả Của Câu Dịch “Ở Với Họ
Mà Không Theo Họ”
Một
cách rất trớ trêu, câu nói về triết lý sống đầy ảnh hưởng Tây Phương "sic
vos non vobis" của Petrus Ký lại được dịch ra thành một câu đầy màu sắc
chính trị Đông Phương là "ở với họ mà không theo họ". Từ câu
dịch này đã sinh ra không biết bao nhiêu là dị bản cũng như những sự thêu dệt,
làm cho hậu thế ngày càng hiểu lầm ông hơn nữa. Hãy nhìn lại những hậu
quả của câu dịch đó.
a) Biến Petrus Ký Thành Người Có Mặc
Cảm Phạm Tội Phải Tự Bào Chữa
Những
tác giả dùng câu "Ở với họ mà không
theo họ” đều là những người hết lòng kính phục Petrus Ký. Tất cả đều
dựa vào câu này để bào chữa cho việc ông hợp tác với Pháp mà dưới cái nhìn của
họ là một việc làm hoàn toàn sai trái. Giống như nhau, họ đã cho rằng
Petrus Ký tự cảm thấy phạm tội khi nhận lời làm việc với Pháp, và vì mặc cảm
phạm tội đó, nên đã phải tự bào chữa cho mình bằng câu nói trên .
Nhưng
câu “ở với họ mà không theo họ” là câu đã đồng hóa Petrus Ký với Tôn Thọ
Tường. Và nó đã biến Petrus Ký thành một kẻ có mặc cảm phạm tội phải tự
bào chữa cho mình như Tôn Thọ Tường đã làm. Trong khi đó, Petrus Ký không
bao giờ nói câu này và chắc chắn sẽ không bao giờ tự bào chữa kiểu đó.
Hãy đối chiếu câu dịch này với một trong những triết lý sống của Petrus Ký để
thấy tại sao ông sẽ không bao giờ làm vậy:
“Hể làm người mở ra
làm việc gì thì phải làm cho hết sức hết lòng, được ấy là nhằm, mà không được
ấy là sái. Trong việc lớn cả thể, trước khi làm, phải xét trước xét sau
cho kỉ-cang cho cùng lý rồi hãy làm; làm thì làm cho sấn sước đừng có dụ dự, làm
cho hết sức mình; mà không được thì thôi, thì biết là Trời chưa cho mần nên: tận nhơn lực, tri thiên mạng.
Việc lớn hơn nữa, thì lại càng phải suy xét trước sau, tìm gốc ngọn, coi
mòi coi gièo cho chí-lý rồi đã hãy làm …”31
b) Biến Petrus Ký Thành “Quan
Vân Trường” Hay Chế Biến Lịch Sử
Hậu
quả kế tiếp của câu dịch “ở với họ mà không theo họ” là do tính chất không rõ
ràng của nó với những chữ như “ở”, “theo”, “họ”, các tác giả bào chữa cho
Petrus Ký đã tự động đi xa hơn bằng cách phóng tác và cho Petrus Ký làm những
việc mà ông không hề làm.
Như
Hồng Lê Thọ đã thêm chi tiết cho câu văn thêm đậm đà và đầy kịch tính: "Đây là việc tôi ở với các anh chứ không phải
vì theo các anh". Y như một câu đối đáp rất cứng cỏi của Petrus
Ký với một thượng cấp người Pháp, trong khi thực tế là ông đang tâm tình với
một người bạn. Mới nghe thì rất hào hùng nhưng suy nghĩ kỹ thì câu này
không có mấy ý nghĩa.
Trong
khi đó, tác giả Phan Thứ Lang đã vô tình chế biến lịch sử bằng cách viết thêm
là Petrus Ký đã dùng câu này để biện minh cho việc nhận lời làm thông ngôn cho
Jaureguiberry từ tận năm 1860:
"Và Pétrus Ký
đã đem câu châm ngôn Latinh 'Ở với họ mà không theo họ ' ("Sic vos non
vobis"), để biện minh cho sự hợp tác của ông với Pháp. Rồi mặc
những lời thị phi, ngày 20/12/1860, ông đã nhận lời làm thông ngôn cho
Jauréguiberry."32
Nhưng
có lẽ đi xa hơn cả là nhà văn Hoàng Lại Giang trong cuốn tiểu thuyết "Trương Vĩnh Ký - Bi Kịch Muôn Đời"33 . Giống như Hồng Lê Thọ và Phan
Thứ Lang, ông cho rằng khi Petrus Ký gặp Jauréguiberry, ông đã có những dằn
vặt, và "... cuối cùng
thì anh cũng tìm ra cho chính mình một phương châm hành động, một con đường đi
riêng: Cộng tác với họ, nhưng không theo họ" (trang 279).
Và
rồi ông cho nhân vật Petrus Ký trong sách tự biện minh với Phan Thanh Giản như
sau:
"Vậy mà có lúc
Quan Vân Trường đã về với Tào Tháo. Nhưng trong con người trung nghĩa này, luôn
ý thức "hàng Tào Tháo mà không theo Tào Tháo" (trang 377). Ông
cũng cho luôn Petrus Ký nói với vua Đồng Khánh rằng: "Thần hứa với mình,
phải học Quan Vân Trường: Theo họ nhưng không lệ thuộc họ" (trang 547).34
Đến
đây chắc ta cũng đã thấy hậu quả của câu dịch này! Từ một câu dịch sai,
những người đi sau càng lúc càng thêm thắt chi tiết, càng thêu dệt cho câu nói
càng lúc càng đi xa với câu dịch cũng như tạo ra những tình tiết tưởng chừng là
lịch sử. Điều đáng sợ là những tình tiết này càng lúc càng được đem vào
những bài viết tưởng chừng rất nghiêm túc về Petrus Ký, khiến những người đọc
về sau càng lúc càng khó phân chân giả.
c) Biến Petrus Ký Thành Một
Người Tự Mâu Thuẫn
Hậu
quả kế tiếp của câu “ở với họ mà không theo họ” là biến Petrus Ký thành một
người tự mâu thuẫn. Hãy nhìn xem những việc làm tiêu biểu của ông Petrus
Ký mà cả hai phe ủng hộ và chống đối đều dùng để biểu hiện sự mâu thuẫn
này.
i) Về Những Hành Động “Không
Theo” Pháp
Trước
nhất, ông đã sưu tầm và cho in rất nhiều tác phẩm thuộc loại “không có lợi” cho
Pháp như Cổ Gia Định Phong Cảnh Vịnh, Trung Nghĩa Ca, Hịch Văn Thân … vì trong
đó Pháp được gọi là “giặc”.35
Sau
đó, ông đã sẵn sàng phê bình những lãnh đạo Công Giáo ở Bắc Kỳ trong bản báo
cáo năm 1876 là họ đã lạm dụng quyền hành để hiếp đáp những người không có đạo,
tạo nên một không khí thù nghịch ở Bắc Kỳ.36
Với
những người Pháp, ông không bao giờ khúm núm rụt rè. Ông đã ăn miếng trả
miếng với thượng cấp Paulin Vial sau khi người bạn Paul Bert qua đời37,
cũng như đã yêu sách với đại tá hải quân D’Ariès từ những ngày đầu mới làm cho
Pháp38. Ông cũng đã gởi cho Đồng Khánh năm 1887 một tập tấu 24
điều về cách đối phó với Pháp.39
Nhưng
có lẽ điều nổi bật nhất là ông đã nhất quyết từ chối không vào công dân Pháp dù
được thúc đẩy nhiều lần.40
Những
việc làm trên đây cho thấy ông không khuất phục người Pháp và sự hợp tác của
ông với Pháp không phải lúc nào cũng suôn sẻ - như nhiều tác giả về ông đã nhận
xét - kể cả những sử gia miền Bắc là những người đã gay gắt lên án ông là tay
sai cho Pháp.
ii) Về Những Hành Động “Theo” Pháp
Thế
nhưng, theo nhiều tác giả khác, điển hình là linh mục Trương Bá Cần, nhận xét,
Petrus Ký “đã nhận cộng tác với
Pháp một cách hình như không đắn đo, không day dứt, không hối tiếc ...”41
Và
đó là sự thật, vì trong các tác phẩm của ông, bên cạnh những bài gọi Pháp là
giặc, là những bài viết, những lá thơ khen ngợi nước Pháp và nền văn minh Pháp
hay sự rộng lượng của chính phủ Pháp. Cũng như song song với những đối
kháng với Paulin Vial, với D’Ariès là sự giúp sức hết lòng với Paul Bert, với
Jauréguiberry.
Do
đó, với những hành động có vẻ trái ngược hay mâu thuẫn trong suốt đời mình, dường
như Petrus Ký không có một lập trường thống nhất, khi theo “họ”, khi lại về
“ta”. Nếu phân chia ra rõ rệt tất cả những gì thuộc về Pháp hay liên hệ
với Pháp là “họ” và tất cả những gì liên hệ tới Việt là “ta” thì có lẽ câu “ở
với họ mà không theo họ” của Khổng Xuân Thu có thể áp dụng được cho Petrus Ký.
Thế
nhưng nếu như Petrus Ký đã không bao giờ nói câu “ở với họ mà không theo
họ” thì ông cũng đã không bao giờ sống và làm như vậy, vì trong cuộc đời của
Petrus Ký không có “họ” và “ta” mà chỉ có con người và xã hội mà thôi.
7. Phương Châm Cuộc Đời Của
Petrus Ký Không Có “Họ” Mà Chỉ Có Xã Hội Và Con Người Với Vai Trò
Phương
châm trong đời hay triết lý sống của Petrus Ký mà ông đã nói ra và lập lại rất
nhiều lần trong những lá thơ gởi cho Chavanne như ta đã thấy ở phần trên
là: ông chỉ muốn làm một người có ích cho xã hội bằng cách làm tròn vai
trò hay số phần của ông mà thôi. (Unum
et unicum quaero, esse scilicet posse utilem, quam vis dicendum sit: sic vos
non vobis. Haec est mea sors et consolatio). Tuy chữ dùng có
lúc khác biệt, ý tưởng của ông lúc nào cũng rõ ràng: mỗi người phải làm tròn
vai trò hay số phần trong đời để làm cho xã hội của mình tốt đẹp hơn.
Với
một triết lý bất vị kỷ như vậy, không thể có sự phân biệt giữa "họ"
và "ta" trong thế đối đầu để rồi đi đến một chọn lựa là "ở với
họ mà không theo họ". Mà triết lý đó chỉ có hai yếu tố chính là xã
hội và những con người với vai trò riêng biệt trong xã hội đó.
a) Xã Hội Của Petrus Ký
Vậy,
"xã hội" của ông Petrus Ký là xã hội nào ?
Qua
một lá thơ cũng bằng tiếng Latin gởi cho Albert Kaempfen được Raphael
Barquissau đăng lại trong tập “Correspondance inédite en latin de Pétrus Trương
–vĩnh-Ký” nói trên, xã hội lý tưởng mà ông Petrus Ký hướng đến là một xã hội
không có biên giới, một xã hội chung của cả nhân loại (societatem humanam universalem),
một xã hội duy nhất mà khoa học công nhận.
Petrus
Ký đã viết như sau:
"Scientiarum
enim imperium limites non cognoscit, montibus maribusque separatos ac remotos
unit, communis laboris socios ex quatuor partibus mundi arcte admovet,
societatem nullam aliam quam Humanam (universalem) admittens. Hae sunt
verae personae ac partes suscipiendae viris eruditionis utiles sese reddere
societati cujus membra sunt."
"Lãnh vực
khoa học thật tình không có biên giới; dù ngăn cách bởi núi và biển, từ bốn góc
trời nó đã liên kết những người cùng chung việc làm đó, nó không chấp nhận một
xã hội nào khác ngoài xã hội chung của loài người. Đây là vai trò thật sự
phải làm của những người thông thái, làm người có ích cho xã hội mà trong đó họ
là những phần tử".42
Nhưng
ta có thể thấy ngay rằng Petrus Ký cũng rất thiết thực: đó cũng là xã hội mà
trong đó ông là một phần tử (societati
cujus membra sunt). Và đó không gì khác hơn là xã hội
"An Nam" của ông thời bấy giờ, trong đó có những đồng bào của ông
không phân biệt Bắc Trung Nam, không phân biệt lương giáo. Chính những
người đồng bào này mới là mối quan tâm lớn nhất trong đời ông.
Hãy
đọc những gì Petrus Ký viết trong bản báo cáo sau chuyến đi Bắc Kỳ năm 1776:
"trên thực tế,
tôi luôn cảm thấy nhức nhối vì tấn thảm kịch mà nhân dân Bắc Kỳ bất hạnh đang phải gánh chịu
... tôi cho rằng, họ không đáng phải chịu bất hạnh hơn bất cứ dân tộc nào khác43
Thêm
nữa, trong một cuốn bản thảo viết tay của Petrus Ký đóng dấu Cơ Mật Viện đề
ngày 15/4/1886 có một bài viết đầu đề là "Trương -Vương Vấn Đáp" đề cập đến một cuộc trao đổi chính kiến
giữa Petrus Ký (Trương) và Đồng Khánh (Vương). Theo bài viết đó,
cách giải quyết cho tình hình chính trị của Việt Nam mà Petrus Ký đề nghị với
Đồng Khánh là như sau:
"ngoài thì xử
trí đối với ngoại quốc cho êm, trong thì đâu đó cho bằng yên, nhân dân an cư lạc nghiệp thì là gốc, ấy là hữu
nhân, ấy là đắc chúng".44
Tương
tự, năm 1887, sau khi đã về lại Sài Gòn và dù không còn làm trong Cơ Mật Viện,
Petrus Ký vẫn gởi cho Đồng Khánh một tập tấu 24 điều, trong đó có điều 23 như
sau:
" ... Lo làm
sao cho dân siêng năng làm giàu, không để người
Pháp làm gầy nước ta, thu phục lòng dân ta, thời cái chính sách tự cường há
chẳng nghiêm du ?"45
Thậm
chí khi viết cho người bạn Pène Siefert vào tháng 4 năm 1886 với những nhận xét
về vua Đồng Khánh, Petrus Ký vẫn cho ta thấy sự quan tâm của ông với người dân:
“Sống giữa những người dân, ông ta (Đồng Khánh)
bằng sự quan sát của mình đã có thể thông cảm được tình trạng khốn khổ của dân chúng trong nước”.46
Do
đó, qua những câu viết này, và qua những việc làm của ông mà ta sẽ thấy, cái xã
hội của người dân An Nam hay đồng bào của ông là những người mà Petrus Ký quan
tâm đến chứ không phải là triều đình Huế hay chính phủ thuộc địa Pháp.
Mục đích tối hậu của ông luôn luôn là làm cho đời sống của người dân hay xã hội
An Nam của ông tốt đẹp hơn.
b) Vai Trò Của Petrus Ký
Cũng
theo Petrus Ký thì mỗi phần tử trong xã hội đều có một vai trò. Đó là số
phần mà tạo hóa đã định đoạt:
“Số mạng người ta
hay tin là việc Trời đã tiên định rồi, không ai đổi đặng. Mà chính nghĩa
nó là làm vầy: Khi sinh mỗi người ra, thì đấng Tạo-hóa đã tùy bổn tánh mà liệu
cho sau sẽ làm những việc vừa bổn tánh nó…. Hãy nhớ lại hôm trước tôi có lấy
con cờ tướng cùng vai tuồng con hát mà ví cho mà nghe . Vậy thì biết mỗi
con cờ đều có việc hay việc giỏi nấy cả, mỗi con hát đều có phiên thứ vai tuồng
khác nhau, đều có cái sở trường riêng cả”.47
Và
vai trò của ông để làm cho xã hội tốt lên, như ông đã tự nhận rất nhiều lần, là
làm cầu nối giữa hai dân tộc Pháp và Việt:
-
"Tôi không làm gì khác ông viết, ngoài việc trở
thành cầu nối giữa hai dân tộc vừa gặp gỡ nhau trên đất Nam Kỳ . Tôi
không thể làm gì khác ngoài giúp cho hai dân tộc này hiểu nhau và thương mến
nhau, cũng chính vì thế mà tôi tiếp tục chuyển ngữ từ tiếng An Nam sang tiếng
Pháp và từ tiếng Pháp sang tiếng An Nam, tôi bị thuyết phục rằng một ngày nào
đó, phía sau các con chữ sẽ là các tư tưởng và sớm thôi, chúng tôi sẽ đến được
với nền văn minh đẹp đẽ của các ông."48
-
"Tôi tính sẽ tiếp tục nghiên cứu và phụng sự cho
sự thông tuệ của hai đất nước - hai mối lo duy nhất trong đời tôi"49
-
"Về phần mình, tôi chỉ chuyên chú vào những ấn
phẩm nào mà theo tôi là có thể góp phần đem lại lợi ích cho cả người Pháp và
người An Nam đang cùng chung sống, và tôi tự lãnh lấy nhiệm vụ thắt chặt mối
quan hệ này bằng sự hiểu biết, khiến cho cuộc gặp gỡ trở nên nhanh chóng và hấp
dẫn; tôi hy vọng rằng rồi họ sẽ yêu mến lẫn nhau ..."50
Chẳng
những chỉ nói những điều này với người Pháp, Petrus Ký còn viết bằng tiếng Việt
trong thơ gởi cho Trần Tử Ca về chuyến ra Huế tham chính của ông:
" ... Nên tôi
mới lãnh đi ra điều đình việc cả hai nước. Ấy là cái phận cái chức khó
nhứt trong đời; vì làm việc như mai dong, đứng giữa gánh cả hai vai nặng nề hết
sức .."51
Tóm
lại, ta có thể thấy phương châm sống khiêm nhường và bất vị kỷ của Petrus Ký là
làm tròn vai trò của mình trong xã hội để giúp ích cho xã hội chứ không
phải cho mình, theo đúng như câu “sic vos non vobis” mà ông đã viết cho bác sĩ
Chavanne bạn ông.
8. Đối Chiếu Việc Làm Trong Đời Của
Petrus Ký Và Phương Châm Làm Tròn Vai Trò Trong Xã Hội
Và
nếu ta nhìn lại cuộc đời của Petrus Ký và đối chiếu với phương châm trên, ta sẽ
thấy rằng ông đã sống và làm đúng như vậy. Thay vì nhìn dưới lăng kính
thù địch "họ" và ""ta" theo câu "ở với họ mà
không theo họ", nếu nhìn những việc làm của Petrus Ký với mục đích làm cho
xã hội của ông tốt đẹp hơn thì ta có thể lý giải được hầu như tất cả những gì
ông đã làm trong đời.
Trước
nhất, về chính trị, Petrus Ký đã có một chọn lựa rõ ràng minh bạch là cộng tác
với Pháp, dựa vào Pháp để học hỏi từ họ, với mục đích cuối cùng là đưa nước nhà
ra khỏi những bế tắt dưới thời Nguyễn và đem lại đời sống tốt đẹp hơn cho đồng
bào ông.
Cần
phải phân biệt rõ ràng xã hội hay người dân Việt Nam với triều đình nhà
Nguyễn.52 Phải thấy rằng triều đình nhà Nguyễn không phải là
một đại diện cho người dân hay xã hội An Nam thế kỷ 19. Vì không phải là
một nhà nho, và vì hấp thụ tư tưởng dân chủ Âu Châu, Petrus Ký đã nhìn thấy
triều đình nhà Nguyễn -- với chế độ cai trị thối nát, với tệ nạn tham nhũng,
giặc giả liên miên -- mới chính là kẻ
thù của người dân Việt Nam, như ông đã viết trong Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi.
Trong
khi đó, Petrus Ký lại có được cái may mắn là thấy tận mắt một xã hội dân chủ,
văn minh vào bậc nhất thế giới thời đó tại nước Pháp với chuyến đi theo sứ bộ
Phan Thanh Giản năm 1863. Ở đó, Petrus Ký đã có cơ hội làm bạn và học hỏi
thêm về những tư tưởng dân chủ, dân quyền - từ những nhà trí thức tiến bộ
hàng đầu thế giới như Émile Littré, như Victor Hugo, như Léon Gautier - những
tư tưởng mà trước đó ông đã được đọc trong sách của Rousseau, Montesquieu,
Voltaire.53 Ông chắc chắn đã thấy ra rằng ngoài
sức mạnh khoa học, nước Pháp và xã hội Pháp còn có được sự tự do, sự tôn trọng
quyền con người mà những xã hội Á Châu chưa hề có.
So
sánh xã hội Pháp với xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn, ông Petrus Ký đã chọn
việc dựa vào Pháp để học hỏi nhằm tiến tới một xã hội Việt Nam tốt đẹp
hơn. Và ông đã chọn chính phủ Pháp thay vì những ông vua nhà Nguyễn.
Đương
nhiên, “chính phủ Pháp” hay chính quyền thuộc địa Pháp có khác nhau, cũng như
chính sách thuộc địa có lúc này lúc khác, như Paul Bert có khác Paulin Vial,
hay Jauréguiberry không phải là D’Ariès. Và do đó, ta có thể hiểu được
tại sao Petrus Ký ủng hộ Paul Bert nhưng chống lại Paulin Vial, tại sao ông
đồng ý làm việc với Jauréguiberry nhưng yêu sách với D'Ariès. Tất cả đều
vì mục đích tối hậu là làm cho đời sống người dân và xã hội của ông tốt đẹp
hơn.
Vậy,
về chính trị, Petrus Ký rõ ràng đã chọn mô hình của Pháp thay vì mô hình quân
chủ phong kiến nhà Nguyễn. Nếu có khi ông tỏ vẻ chống đối Pháp thì
đó là vì ông chống đối những chính sách hay những cá nhân đem lại những điều bất
lợi cho xã hội An Nam chứ ông chưa bao giờ chống lại chế độ bảo hộ của Pháp.
Muốn
biết rõ ràng hơn về quan điểm chính trị này của Petrus Ký, hãy đọc đoạn văn mà
ông tự thú nhận là đã "lạc đề" trong cuốn Cours d'Histoire Annamite:
"... chúng tôi
không thể quên rằng, người An Nam của nước Pháp hay người An Nam của Nam Kỳ và
của Bắc Kỳ chúng tôi đều có cội nguồn chung. Dầu cho có bị rẽ phân bởi
vận mạng chính trị, chúng tôi cũng sẽ mạnh dạn chống lại cái cơ chế chính trị
sai lầm, trái nghịch với nền kinh tế chánh trị lành mạnh, cái cơ chế chánh trị
coi dân như đàn trâu, bầy bò, của những ông vua. Cái cách cai trị ấy chỉ
là một sự khoét đẽo vụng về và tội lỗi của bọn quan lại tham nhũng và hám chức,
đối với một dân tộc.
Chúng tôi không ngại
thú nhận là trong khi đó, sự tổ chức chánh trị tốt đẹp của những dân tộc Tây
Phương mà đứng đầu là dân tộc Pháp, đã cám dỗ tâm trí chúng tôi, đã chinh phục
lòng yêu chuộng kính mến và trung thành của chúng tôi, cũng như nó biết gây cảm
tình với những sắc dân mà nước Pháp đã sáp nhập vào bá quyền của nó.
Những dân chúng ấy bắt phải sững sốt mà thấy mình được tự do như vậy, được bình
yên như vậy, được bảo bọc như vậy, là nhờ những người chủ mà trước kia mình coi
là những kẻ thù (kể cũng là lôgich).
(Tôi xin lỗi về cái
nghị luận lạc đề này mà sự khảo sát những sự kiện lịch sử đã dẫn đến.
Người ta đâu nỡ trách tôi, nếu một cảm giác u buồn, chua chát xâm chiếm lòng
tôi, khi tôi nhìn thấy xứ sở này đã ra thân như thế nào, mà đáng lẽ nó đã có
được như thế nào rồi).54
Trong
khi đó, về văn hóa hay chính xác hơn về đạo đức ông đã chọn đời sống đạo đức
của phương Đông. Đó là lý do ông đã không ngừng dạy dỗ phổ biến văn hóa
đạo đức phương Đông qua những sách vỡ của ông cũng như sống một cuộc đời hoàn
toàn phương Đông từ cách ăn mặc đến việc từ chối vào dân Tây .
Tóm
lại, với mục đích tối hậu là làm cho xã hội của ông tiến bộ hơn, Petrus Ký đã
chọn những gì tốt đẹp nhất theo ông nhận xét từ cả hai phía Đông Tây. Với
mục đích đó, ông đã ủng hộ những người Pháp tiến bộ muốn làm điều tốt cho nước
ông như Paul Bert và sẵn sàng đối phó với những người có máu thực dân như
Paulin Vial hay D’Ariès. Với mục đích đó, ông đã sẵn sàng đả kích những
người cùng đạo với ông trong khi lại bênh vực những kẻ khác đạo. Với mục
đích đó, ông đã ủng hộ những quan lại nhà Nguyễn có óc cải cách như Phạm Phú
Thứ trong khi sẵn sàng lên án những kẻ khuynh loát triều đình nhà Nguyễn như
Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường . Với mục đích đó, ông đã chép lại tội
ác của thực dân Pháp khi dân chúng gọi là giặc, trong khi lại ca tụng đất nước
Pháp văn minh và những người bạn trí thức Pháp. Với mục đích đó, ông đã
khuyên Paul Bert vây quanh Đồng Khánh với các nhà nho, trong khi trong sớ tấu
cho Đồng Khánh ông khuyên vua nên đề phòng người Pháp.
Nếu
ta hiểu cái mục đích tối hậu của Petrus Ký là làm cho xã hội của ông tốt đẹp
hơn bằng cách đóng trọn vai trò gạch nối hay trung gian của ông thì ta sẽ hiểu
được tại sao ông làm những việc có vẻ như là mâu thuẫn. Ở thời nay, ta có
thể phê bình sự lựa chọn của ông là đúng hay sai, nhưng ta không thể nghi ngờ
được cái mục đích tối hậu này của ông.
Và
mục đích tối hậu của Petrus Ký là cho xã hội chứ không phải cho chính ông hay
gia đình ông. Lịch sử đã chứng minh là ông làm việc cho Pháp với mức
lương cao nhất thời đó, nhưng ông đã chết nghèo vì tiền làm ra được ông dùng để
in thêm sách học. Ông đã từ chối làm giàu dù học trò của ông, những người
làm việc cho Pháp cùng thời hay sau ông đều phát lên giàu có nhờ dựa vào thế
của Pháp. Ông cũng đã từ chối không làm quan chức gì mà chỉ nhận là thầy
giáo mà thôi, cho đến khi chết trên phần mộ cũng chỉ đề đơn giản là Giáo Sư
Ngôn Ngữ Đông Phương.
9. Kết Luận
Người
viết bài này bắt đầu khởi sự tìm hiểu về “sic
vos non vobis” với một mục đích rất đơn giản là tìm hiểu nghĩa đen của chúng.
Và ở thời đại internet ngày nay, người viết đã không mấy khó khăn để nhận ra
rằng “sic vos non vobis” hoàn toàn không có nghĩa “ở với họ nhưng không theo
họ” như ta vẫn thường biết. Từ khám phá đó, người viết đã tìm đọc
thêm nhiều tài liệu về Petrus Ký cũng như của Petrus Ký để đưa đến bài
viết này. Quả nhiên Petrus Ký đã dùng “sic vos non vobis” để nói lên
triết lý sống của ông với một người bạn, nhưng đó là một ý nguyện cao đẹp bất
vị kỷ để phụng sự xã hội, chứ không phải là một câu để tự bào chữa như chúng ta
đã tin tưởng từ bao lâu nay.
Điều
may mắn là Petrus Ký đã viết rất nhiều, và những sách báo viết về ông cũng rất
nhiều, nên người viết có thể tham khảo trực tiếp những nguồn tài liệu quí báu
đó. Tuy nhiên, phải nhìn nhận là rất khó khăn để tìm hiểu con người thông
thái này. Ở vào thế kỷ 19, trong khi những người có học thức cùng thời
với ông, những nhà nho, còn miệt mài với sách đèn thi cử, thì Petrus Ký đã là
bạn tâm giao với những trí thức lớn nhất thời đại. Ở vào thời mà “trung
quân” mới là “ái quốc” và vẫn còn là mục đích cho các người cùng thời thì ông
đã đàm luận về nhân loại, xã hội, khoa học bằng Latin, bằng Pháp Văn, bằng Anh
Văn, với các bạn trí thức người Pháp của ông. Sự hiểu biết của ông càng
rộng thì những gì ông viết đòi hỏi rất nhiều thì giờ để hiểu và suy ngẫm.
Nhưng
cũng chính vì sự “đi trước thời đại” hàng trăm năm này mà ông Petrus Ký đã rất
cô đơn ở ngay chính trong xã hội của mình. Nếu đến hơn trăm năm sau mà
những người thương mến ông nhất còn chưa hiểu được ông, còn cho là ông đã tự
biện minh, tự bào chữa, thì quả nhiên ông đã không lầm khi viết rằng:
Cuốn
sổ bình sanh công với tội
Tìm
nơi thẩm phán để thừa khai
Chú thích
1.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng_V%C4%A9nh_K%C3%BD.
Trung tá Hải Quân Jean Bernard Jauréguiberry thay đô đốc Rigault de
Genouilly làm chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha ở Nam Kỳ từ 1859 đến
1860. Phần nhiều tài liệu cho rằng Petrus Ký bắt đầu làm việc với Pháp
dưới quyền Jauréguiberry.
2.
Được in lại trong Đặc San Petrus Ký Úc Châu 2004, trang
65-69. Có thể tìm trên mạng: https://petruskyaus.files.wordpress.com/2015/07/e1bb9f-ve1bb9bi-he1bb8d-mc3a0-lc3b2ng-khc3b4ng-theo-he1bb8d-phan-the1bba9-lang.pdf.
4.
Nguyễn Đình Đầu, “Petrus Ký - Nỗi Oan Thế Kỷ”, Nhà Xuất Bản Tri Thức, Nhã
Nam 2016. Từ đây về sau gọi tắt là “NOTK”.
5.
NOTK, trang 6.
6.
NOTK, trang 39.
7.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của người viết thì nhà mồ của ông Petrus
Ký không có ghi “sic vos non vobis” như Nguyễn Đình Đầu cho biết, mà chỉ
có 3 câu tiếng Latin sau đây: 1) Miseremini Mei Saltem Vos Amici Mei; 2) Fons
Vitae Eruditio Possidentis; và 3) Omnis Qui Vivit Et Credit In Me Non Morietur
In Aeternum. Có thể đọc được các câu đó trong những hình ảnh trên trang
nhà của “Dòng Dõi Petrus Ký”:http://gilbert.tvt.free.fr/ddpk/crbst_27.html
8.
Từ đây về sau những câu dịch chữ Latin trong bài là của người viết, trừ
khi có chú thích rõ là của người dịch khác.
9.
Jove hay Zeus là Jupiter, trong tiếng Việt có người dịch là Du Bích Tiên
trong một cuốn sách về thần thoại Hy Lạp xuất bản tại miền Nam trước 1975: “Ba
Mối Tình của Thần Du Bích Tiên”. Chú ý là trong câu này Virgil, cũng như
người đương thời, gọi Caesar Augustus là Caesar.
10.
The Bank of England, Ngân Hàng Anh Quốc, dùng câu này từ thời của
William Paterson, một trong những người sáng lập ra Ngân Hàng. Trong ngân
hàng hiện có tượng của Paterson và câu Sic Vos Non Vobis, được hiểu là : ‘Thus
you labour, but not for yourselves’. Đây là câu đại diện cho triết lý của
nhà băng này.
11.
Còn có một trường hợp nữa nhưng rất hiếm thấy là “cho anh nhưng không
phải của anh”, “for you but not yours”.
12.
Nhà Xuất Bản Văn Học, 1994.
13.
Nguyễn Văn Trung, "Chữ, Văn Quốc Ngữ - Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc",
Nam Sơn, Sài Gòn, 1975. Đây là cuốn sách phê phán Petrus Ký rất nặng
nề. Tuy vậy, sau 1975, giáo sư Trung đã thay đổi cách nhìn về Petrus
Ký. Để biết rõ hơn về cách nhìn mới này của giáo sư Trung, có thể đọc
"Hồ Sơ Về Lục Châu Học" của ông trên trang nhà nguyenvantrung.free.fr
14.
Chữ, Văn Quốc Ngữ, trang 116.
15.
Khổng Xuân Thu, "Trương Vĩnh Ký, 1837-1898" Tân Việt, Sài Gòn,
1958, từ đây về sau gọi là “KXT”.
16.
Haec (this) dùng cho giống cái (feminine) đi liền với mea (my) và sors
(fate) cũng như consolatio (consolation) đều là giống cái, trong khi hoc là
neutral trong văn phạm Latin.
17.
Nhà In Xưa Nay, Sài Gòn, 1927.
18.
Nhà Xuất Bản Tân Dân, Hà Nội 1943.
19.
Dù nói vậy, Khổng Xuân Thu không cho ta thấy bằng cách nào mà ông biết là
“suốt cuộc đời … ta thường nghe tiên sinh nhắc đến câu … sic vos non vobis”.
20.
Chú ý là tại đây Khổng Xuân Thu đã viết sai là Hae thay vì Haec. Có
thể là lỗi sắp chữ! Ông cũng lại sơ sót khi viết rằng đây là câu trích trong lá
thơ đề ngày 9-6-1888, trong khi chính xác là thơ đề tháng 10, 1887 (Xbre
1887) như trong nguyên tác và như Khổng Xuân Thu đã dẫn đúng trước đó trong
phần Khai Từ.
21.
Do hai cách dịch này, ta có thể truy ra nguồn từ trong phần Chán Nản
Chính Trị hay trong phần Phụ Lục của cuốn sách. Nhưng cả hai cách dịch
đều từ một nguồn Khổng Xuân Thu.
22.
Ngoài ra, ông Petrus Ký còn dùng rất nhiều chữ Hán và Anh ngữ trong những
lá thơ viết cho Chavanne.
23.
Một thí dụ điển hình là cũng cùng trong một lá thơ gởi cho Alexis
Chavanne tháng 10 năm 1877, Khổng Xuân Thu dịch “Hispaniam” là “Tân Gia Ba”
thay vì là bán đảo Iberia hoặc đơn giản hơn là“Tây Ban Nha”.
24.
“Correspondance inédite en latin de Pétrus Trương –vĩnh-Ký”,
Publication de la Société des Etudes Indochinoises, Saigon 1934. Tưởng cũng nên
giới thiệu thêm về Raphael Barquissau. Ông là người Pháp sinh ở Reunion
và từng là cựu giáo sư trường Chasseloup Laubat ở Saigon. Ông cho biết đã
được gia đình ông Petrus Ký cho sao chép lại các lá thơ bằng chữ Latin này của
Petrus Ký và đã gom lại thành ấn phẩm nói trên. Ông cũng là người dịch
thơ của vua Đồng Khánh gởi Trương Vĩnh Ký ra Pháp Văn.
25.
Các tác giả miền Bắc như Mẫn Quốc trong bài viết "Trương Vĩnh Ký,
Một Nhà Bác Học Trứ Danh Đã Ngang Nhiên Đóng Vai Đặc Vụ Tình Báo, Làm Tay Sai
Đắc Lực Cho Giặc Pháp", Nghiên Cứu Lịch Sử số 60, tháng 3/1964, trang
39-45, in lại trong NOTK, trang 489-500, cho thấy họ cũng có những lá thơ này
của Petrus Ký, nhưng các tác giả này hoàn toàn không có câu nào nhắc đến “sic
vos non vobis”.
26.
Đây là thời gian sau khi Paul Bert chết và Petrus Ký lui về Chợ Quán.
27.
Barquissau đã chú thích về khoảng Chavanne ghi ngày tháng này như sau:
“Ignorance ou oubli des usages latins”.
28.
Khổng Xuân Thu dịch câu văn đó của Petrus Ký ra thành như sau: “Phải sống
theo cuộc đời đã vạch sẵn. Chỉ nên giúp ích cho chúng ta, cho đồng bào,
cho mọi vật trong Thiên nhiên. Phải làm trọn cái cứu cánh đầu tiên.”
(KXT, trang 120)." Cũng bởi câu dịch hơi tối nghĩa này mà ông Nguyễn
Văn Trấn trong tác phẩm “Trương Vĩnh Ký - Con Người Và Sự Thật" (TPHCM,
1993) đã thắc mắc như sau: "Cứu cánh đầu tiên hay là khởi đầu của cứu cánh
- hỏi người dịch - ? Thường nghe nói le commencement de la fin, mà)
(trang 208). Theo ý kiến người viết, Khổng Xuân Thu dịch “finem primordialem"
hay "fin primordiale", "primordial end" là "cứu cánh
đầu tiên" hình như không được chính xác . Đây có lẽ là từ ngữ trong
thần học Thiên Chúa Giáo. Có lẽ nên dịch primordialem là “đầu tiên của
cuộc đời” hay "nguyên thủy" thay vì chỉ “đầu tiên”. Còn finem ở
đây có lẽ nên dịch là mục đích hay trách nhiệm dễ hiểu hơn là “cứu
cánh”.
29.
Câu này được Khổng Xuân Thu dịch như sau: “Cầu Thượng Đế cho ngài luôn
luôn bảo tồn quyền hạn mà ngài sẽ luôn luôn giúp ích cho bản thân, cho bằng
hữu, cho xã hội và ngài sẽ giúp ích và có hiệu quả cho chính phủ mà một ngày
kia Ngài sẽ tự hào: ‘Tôi đã làm tròn nhiệm vụ của mình’” (KXT, trang 123)
30.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung, trong cuốn “Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp
Thuộc”, một cuốn sách xuất bản trước 1975 lúc ông đang công kích Petrus Ký nặng
nề nhất, cũng phải thú nhận rằng “chưa tìm thấy một tài liệu nào bày tỏ thái độ
của sĩ phu thời đó với T. vĩnh Ký.", trang 115.
31.
Bất Cượng Chớ Cượng Làm Chi, Guilland et Martinon, Saigon 1882, trang 3-4
32.
Dù như ta đã thấy, Petrus Ký viết câu này trong thơ cho Chavanne tháng 10
năm 1887, gần 30 năm sau!
33.
Nhà Xuất Bản Văn Hóa Và Thông Tin, 2001. Dù là một tiểu thuyết,
Hoàng Lại Giang đã dùng rất nhiều tài liệu có thật và điều này đã làm cho nhiều
người nghĩ rằng tất cả những chi tiết trong sách này là lịch sử.
34.
Việc dùng cả hai phiên bản dịch này cho thấy Hoàng Lại Giang đã dùng toàn
bộ những câu dịch của Khổng Xuân Thu.
35.
Nhưng mặc dù vậy, chính quyền thực dân Pháp vẫn cấp giấy phép và đôi khi
bỏ tiền ra xuất bản những tác phẩm này!
36.
Báo Cáo Gửi Đô Đốc Qua Trung Gian Của Ông Regnault De Premesnil, Tham Mưu
Trưởng (28/4/1876), in lại trong NOTK, trang 244-249, 245.
37.
Trương Vĩnh Ký Trả Lời Paulin Vial, NOTK, trang 269.
38.
NOTK, trang 242-243.
39.
Theo Mai Hanh “Tìm Hiểu Thực Chất Vấn Đề Trương Vĩnh Ký Trong Lịch
Sử Việt Nam”, Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 58, tháng 1/1964, in lại trong
NOTK,
40.
Trương Vĩnh Ký Viết Cho Pène Siefert, NOTK, trang 276.
41.
Trương Bá Cần, “Cuốn Sổ Bình Sanh Của Trương Vĩnh Ký”, NOTK, trang
590.
42.
“Correspondance inédite en latin de Pétrus Trương –vĩnh-Ký”, Publication
de la Société des Etudes Indochinoises, Saigon 1934, trang 23.
43.
Báo Cáo Gửi Đô Đốc Qua Trung Gian Của Ông Regnault De Premesnil, Tham Mưu
Trưởng (28/4/1876). In trong NOTK trang 244-249, phần trích bên trên ở
trang 246-247.
44.
Câu này được trích lại trong bài của Mai Hanh, "Tìm Hiểu Thực Chất
Vấn Đề Trương Vĩnh Ký Trong Lịch Sử Việt Nam", Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử,
số 58, tháng 1/1964, trang 15-28, Chú Thích số 1: "Tập Bản Thảo của
Trương Vĩnh Ký - Thư Viện KHoa Học Trung Ương. Tất cả bài viết được
in lại trong NOTK, trang 443-465.
45.
Cũng trong bài của Mai Hanh in lại trong NOTK, trang 451.
46.
Ernest Millot, “Le Tonkin, Son Commerce Et Sa Mise En Exploitation”,
Librairie Coloniale, Paris 1888, trang 242-243: “Vivant au milieu du
peuple, il a pu par des observations personnelles arriver à apprécier aussi
l'état misérable de la population”.
47.
Bất Cượng Chớ Cượng Làm Chi, Guilland et Martinon, Saigon 1882, trang
3-4. Tưởng cũng nên trích thêm một đoạn trong cuốn “Kiếp Phong Trần” của
ông (Guilland et Martinon, Saigon 1882) để thấy rõ thêm quan niệm về vai trò
của mỗi phần tử trong xã hội của Petrus Ký:
“Trương: - Là mỗi người đều có một cái sở trường riêng, ai cũng có; còn vật mỗi vật mỗi có ích riêng cả. Mà đâu nó theo thứ nó đó. Hãy xem trong bàn cờ tướng thì hiểu mau. Trước có 5 con chốt đứng giăng, kế sau 2 bên 2 con pháo; sau nữa, ở giữa có tướng, 2 bên 2 con sĩ, 2 con tượng, 2 con ngựa, 2 con xe. Trong ấy đều nhờ nhau cả. Tướng một mình thì làm gì được? Phải có tả hữu vây cánh mà đỡ mà che, là sĩ, tượng, xe, pháo, ngựa. Lâu rốt hết là con chốt, đến chừng nó qua được nước người ta nó mạnh là dường nào? Khi nó đứng đầu, nó lại đỡ cho những con chạy thối về, người ta không dám ăn. Vậy hết thảy con nào đều cũng có tài nghề riêng con nấy; mà tới phiên tới thứ nó mới ngó thấy sức nó cho. Vì vậy người ở đời, vang danh phú quý, vinh hiển, cao quờn lớn chức, cùng là hèn mọn, bần tiện, vô danh, cô thế độc một, cũng chả biết lấy đâu làm chắc: còn trong tục lụy biết ai công hầu? Nên có khác nhau chăng là vì một chữ thì.”
“Trương: - Là mỗi người đều có một cái sở trường riêng, ai cũng có; còn vật mỗi vật mỗi có ích riêng cả. Mà đâu nó theo thứ nó đó. Hãy xem trong bàn cờ tướng thì hiểu mau. Trước có 5 con chốt đứng giăng, kế sau 2 bên 2 con pháo; sau nữa, ở giữa có tướng, 2 bên 2 con sĩ, 2 con tượng, 2 con ngựa, 2 con xe. Trong ấy đều nhờ nhau cả. Tướng một mình thì làm gì được? Phải có tả hữu vây cánh mà đỡ mà che, là sĩ, tượng, xe, pháo, ngựa. Lâu rốt hết là con chốt, đến chừng nó qua được nước người ta nó mạnh là dường nào? Khi nó đứng đầu, nó lại đỡ cho những con chạy thối về, người ta không dám ăn. Vậy hết thảy con nào đều cũng có tài nghề riêng con nấy; mà tới phiên tới thứ nó mới ngó thấy sức nó cho. Vì vậy người ở đời, vang danh phú quý, vinh hiển, cao quờn lớn chức, cùng là hèn mọn, bần tiện, vô danh, cô thế độc một, cũng chả biết lấy đâu làm chắc: còn trong tục lụy biết ai công hầu? Nên có khác nhau chăng là vì một chữ thì.”
48.
Thơ gởi cho Stanislas Meunier, in lại trong NOTK, trang 275
49.
Thơ gởi cho Alexis Chavanne, in lai trong NOTK, trang 270
50.
Thơ gởi cho Ronmanet du Caillard, trích lại trong bài phát biẻu của Lê
Thành Ý, in lại trong NOTK, trang 334
51.
Thơ gởi Đốc Phủ Ca, NOTK trang 278-282, 281. Lá thơ này NOTK cho là
từ cuốn “Trương Vĩnh Ký - Con Người Và Sự Thật” của Nguyễn Văn Trấn nhưng chính
trong sách này Nguyễn văn Trấn cho biết đã lấy lá thơ từ cuốn sách “Trương Vĩnh
Ký - Người Là Ai” của Phạm Đình Tân (trang 165).
52.
Có lẽ cũng cần nêu ra là chủ nghĩa dân tộc hay khái niệm quốc gia chưa có
ở Việt Nam vào thời gian đó. Khái niệm "trung quân" hay
"cần vương" vẫn còn là khái niệm chính thời đó. Sự lựa chọn đối
với những nhà nho thời đó chỉ có thể là theo triều đình nhà Nguyễn hay theo
Pháp.
53.
Như ông đã bàn luận với Léon Gautier trong KXT, trang 141.
54.
Xin chép lại nguyên văn đoạn quan trọng này để thấy quan điểm chính
trị ít khi được bày tỏ của Petrus Ký. Đoạn tiếng Việt bên trên lấy từ
Trương Vĩnh Ký -Con Người Và Sự Thật của Nguyễn Văn Trấn, trang 49-50.
Nguyễn Văn Trấn không cho biết ai là người dịch nên có lẽ đó chính là
ông. Đoạn văn tiếng Pháp lấy từ Cours D’Histoire Annamite, Imprimerie du
Gouvernement, Saigon 1875, trang 251-252, như sau:
"... nous n’oublierons point qu‘Annamites de la France, ou Annamites de la Cochinchine et du Tonquin, nous avons des origines communes. Bien que séparés par les destinées politiques, qui fait du peuple le bétail des rois, qui n’est que l’exploitation maladroite et criminelle d’une nation par la caste des fonctionaires avides at ambitieux.
Tandis, nous n’hésitons par à l’avouer, que la belle organisation politique des peuples de l’Occident, et du peuple francais en prèmiere ligne, à seduit notre esprit, a conquis notre estime, notre respect et notre dévouement, comme elle a su gagner la sympathie des populations que la France a annexées à son empire, étonnées de trouver tant de liberté, tant de protections, tant de sécurité chez de maitres qu‘elle avait logiquement considérés comme des ennemis. (1)
(1) Je demande pardon de cette digression, que la contemplation des faits historiques m’a arrachée. On ne m’en voudra point, si un sentiment de tristesse amère me domine, lorsque je considère sont devenus ces pays et ce qu‘ils auraient pu être".
"... nous n’oublierons point qu‘Annamites de la France, ou Annamites de la Cochinchine et du Tonquin, nous avons des origines communes. Bien que séparés par les destinées politiques, qui fait du peuple le bétail des rois, qui n’est que l’exploitation maladroite et criminelle d’une nation par la caste des fonctionaires avides at ambitieux.
Tandis, nous n’hésitons par à l’avouer, que la belle organisation politique des peuples de l’Occident, et du peuple francais en prèmiere ligne, à seduit notre esprit, a conquis notre estime, notre respect et notre dévouement, comme elle a su gagner la sympathie des populations que la France a annexées à son empire, étonnées de trouver tant de liberté, tant de protections, tant de sécurité chez de maitres qu‘elle avait logiquement considérés comme des ennemis. (1)
(1) Je demande pardon de cette digression, que la contemplation des faits historiques m’a arrachée. On ne m’en voudra point, si un sentiment de tristesse amère me domine, lorsque je considère sont devenus ces pays et ce qu‘ils auraient pu être".
Winston
Phan Đào Nguyên
Nguồn: Tác giả
gửi cho viet-studies ngày 12-4-17