Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2016


HIỆN TƯỢNG “ZIẾT” SỬ:
LỮ GIANG VÀ NHỮNG CÔNG TRÌNH
KHẢO CỨU CHÂN CHÍNH

Trần Quốc Đại

LGT - Một bài cũ (1999) nhưng vẫn phản ánh đầy đủ tình hình “ziết” sữ của người Việt nói chung, người gốc Việt ở hải ngoại nói riêng: Gian trá, vô học, độc ác và bất lương – NG/2016

Khoảng ít năm qua, tại hải ngoại xuất hiện một phong trào "Ziết" sử trên một số các tờ báo hải ngoại. Lữ Giang, tức Tú Gàn, là cây bút mới nổi trong giới này, đã nhận là người "ziết sử" chân chính và tố cáo kẻ khác là "phịa sử." Một vài tờ báo đã phụ họa với Lữ Giang. Tiến sĩ Trần Chung Ngọc, nguyên Giáo sư Vật lý tại Đại học Wisconsin mới về hưu, đã từng có bài về "ziết sử" để nhắc nhở Tú Gàn-Lữ Giang hay những kẻ dấu mặt giật dây. Tại sao là “ziết sử”? Ziết sử như thế nào để làm gì? Đó là những câu hỏi đặt ra cho kẻ viết bài này.
Lữ Giang là tác giả cuốn Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam. Bí ẩn nào? Phải chăng đó là những chuyện như ông cai này, đội nọ lái xe cho các "quan Thượng [thư]" thời Pháp thuộc ra sao, bưng tráp, cắp ô hầu các quan huyện quan phủ, giắt mối gái hay hối lộ cho chủ quan thế nào, ăn trộm sái nhị ra sao, hoặc các cụ Thượng hay quan lớn dâng vợ, đợ con cho quan Tây ra sao, tát đánh thế nào để vừa thu thuế vừa lột thắt lưng dân đen; vu cáo những người yêu nước là Cộng Sản như thế nào để thăng quan, tiến chức theo kiểu quan huyện Ngô Đình Diệm trong thập niên1920?

“Bí ẩn" phía sau những cuộc thánh chiến" hay "cuộc chiến Việt Nam" mà Lữ Giang muốn vạch ra là bí ẩn nào? Để trả lời câu hỏi đó, trước hết phải xét qua tài viết sử của Lữ Giang. Thứ nữa, thử xét đến một số những lỗi lầm tiêu biểu của Lữ Giang. Và chót hết, thử tìm hiểu xem tại sao Lữ Giang nhảy vào lãnh vực sử?
Lữ Giang bắt đầu lộ ngay chân tướng qua "Lời nói đầu" (tr. i-v), chứ không đợi qua trên 400 trang sách kế tiếp. Chỉ trong vòng vài chục trang đầu (tr. 12-33) Lữ Giang đã mắc phải không biết bao nhiêu điểm sai lầm (chẳng hạn, chi tiết về hòa ước 1862 trong trang 1 và trang 17) . Lữ Giang cũng đã không che dấu được xảo thuật "dẫn chứng đoạn chương," cắt bỏ những phần tài liệu quan trọng trong luận cứ của các học giả, rồi xoáy vào những điểm phụ để cong queo bào chữa cho một thiểu số tội nhân của lịch sử quốc dân Việt Nam. Xảo thuật này rất thường thấy trong sản phẩm của công an mật thám Pháp từng áp dụng để vu cáo nạn nhân của chúng. Sử gia Tư Mã Thiên gọi lối viết cưỡng từ đoạt lý, bất chấp hoặc cố tình bẻ cong sự thực này là "đao bút." Khi ngọn đao bút lọt trong tay kẻ quyền lực và nạn nhân chỉ có đời sống ngắn ngủi, vô phương tự vệ, thì nó cực kỳ nguy hiểm. Nhưng lịch sử là sự thật của ngàn đời không bị che mờ bỏi xảo thuật ấy.
Trong bài này, chúng tôi sẽ lược qua một số lỗi lầm căn bản của Lữ Giang. Sau này, nếu thì giờ cho phép, chúng tôi sẽ nói rõ hơn những kẻ đang gieo rắc hận thù tôn giáo ở hải ngoại này.


Tú Gàn aka Lữ Giang aka Nguyễn Cần
(Biệt danh do những nhà báo ở vùng Bolsa đặt: Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà)

*
*   *

1-      Về Nguồn Tài Liệu Nghiên Cứu của Lữ Giang

1.1- Trong phần Dẫn Nhập cuốn sách kể trên, Lữ Giang nhận đã "tìm đọc các tài liệu được coi là tương đối có giá trị tại các thư viện hay văn khố của Hoa Kỳ và Pháp" (tr. ii). Nhưng Lữ Giang tìm tài liệu ở văn khố Pháp nào? Lướt qua phần "Ghi chú" và "Tài liệu tham khảo" (tr. 474), người ta thấy Lữ Giang chỉ liệt kê được báo cáo của Tướng Casseville gửi Bộ Thuộc Địa Pháp ngày 11/7/1945, và ba tư liệu SPCE 371, 372 và 373 trong "Lưu Trữ Hải Ngoại" (AOM) của Pháp ở Aix-en Provence. Chỉ nguyên chi tiết này đủ chứng tỏ Lữ Giang chưa bao giờ đặt chân tới văn khố Aix-en Provence, và có lẽ cũng chẳng hiểu "AOM" là gì nữa.
"AOM" là tiếng viết tắt của Archives d'Outre-mer, tức văn khố Bộ Thuộc Địa hay Pháp quốc hải ngoại, trước kia đặt ở đường Oudinot, quận 7 Paris. Theo các thân hữu của chúng tôi, từ nhiều năm nay, AOM đã di chuyển xuống Aix-en Provence, gom với Dépôt des Archives d'Outre-mer (viết tắt là DOM) thành Centre des archives d'Outre-mer, tức Trung tâm Các Văn Khố Hải Ngoại, thường được các sử gia viết tắt là CAOM. Như thế, từ đầu thập niên 1990, danh hiệu "AOM" hay "DOM" đã ngừng hiện hữu. Nếu quả thực Lữ Giang từng đào bới các văn khố Pháp, thời gian nghiên cứu chắc chắn không thể trước thập niên 1990. Chỉ cần từng xin phép nghiên cứu tài liệu văn khố ở Aix-en Provence thôi, hẳn Lữ Giang đã thấy tên của văn khố này in rành rành ra đó. Dùng ký hiệu "AOM" để nhắc đến báo cáo của Tướng Casseville là bằng chứng cho thấy Lữ Giang có lẽ đã dựa vào tập Lá bài bí mật của de Gaulle: Hoàng tử Vĩnh Sang của Vũ Ngự Chiêu, nhưng lại cứ làm như bản thân mình đã tới Aix-en Provence để tham khảo tài liệu.
Có thể nói đó là "bí ẩn" đầu tiên, dù chưa hẳn cuối cùng, về chuyện Lữ Giang tìm đọc tài liệu ở "văn khố Hoa Kỳ và Pháp." Nếu ai có rảnh thì giờ, xin hãy so sánh các chi tiết của Lữ Giang nêu ra với nội dung các cuốn Việt Nam Niên Biểu, tập IA và I-B, hay tập III: Nhân Vật Chí của Chính Đạo (tức Vũ Ngự Chiêu) hẳn thấy rõ ngay. Thật vậy, cứ thử xét qua một vài chi tiết như việc từ chức của ông Ngô Đình Diệm năm 1933, việc hôn nhân của ông Ngô Đình Nhu năm 1943, hay văn thư đề cử Ngô Đình Khả làm Giám đốc trường Quốc Học Huế năm 1896 cũng đủ thấy Lữ Giang nhập nhằng như thế nào.
1.1.1. Về việc từ chức của Ngô Đình Diệm, Lữ Giang sử dụng những tài liệu nào mà có những nhật kỳ chính xác như "9/7/1933" (Ngô Đình Diệm ra Quảng trị thăm Nguyễn Hữu Bài), "12/7/1933" (Cụ Diệm của Lữ Giang nạp đơn xin từ chức) hay "22/7/1933" (Bảo Đại cử Thái Văn Toản thay Ngô Đình Diệm)? Thực tế mới chỉ có Vũ Ngự Chiêu công bố lần đầu tiên năm 1993 trong tập Nhân Vật Chí. (Xem Ngô Đình Diệm).
1.1.2. Về đám cưới giữa Ngô Đình Nhu và Lệ Xuân, Lữ Giang viết rằng "trong một tờ trình ngày 26/3/1943 gởi Toàn quyền Decoux, Khâm sứ Grandjean có nói rằng đây là một sự liên kết đáng lo ngại."(Lữ Giang, tr. 418) Tờ trình đó hiện ở đâu? Nội dung ra sao? Lữ Giang có thể trả lời không? Và nếu không thì phải chăng Lữ Giang chỉ cóp lại trong cuốn Nhân Vật Chí của Chính Đạo (ấn bản 1997, tr. 308) mà không nêu rõ xuất xứ? Nhưng đi đêm có ngày gặp ma. Lữ Giang đã bị lộ chân tướng khi tưởng tượng ra rằng Grandjean làm "tờ trình ngày 26/3/1943" về việc đám cưới của Ngô Đình Nhu với Lệ Xuân. "Tờ trình" có nghĩa một báo cáo chính thức, phải sử dụng những mẫu đặc biệt, được đánh số hẳn hoi. Còn tài liệu mà Chính Đạo sử dụng là "thư riêng", viết tay, của Grandjean gửi Decoux. Nếu Lữ Giang quả có tham khảo tài liệu trên thì liệu có thể trích đăng lại phóng ảnh lá thư đó chăng? Hoặc, thử tóm lược xem nội dung thư này ra sao?
1.1.3. Về tờ trình của Broni xin đề cử thông ngôn hạng nhất Ngô Đình Khả làm Giám đốc trường Quốc học (trong đó Broni nêu rõ công trạng của Ngô Đình Khả, ngoài việc phục vụ rất đắc lực cho Khâm sứ Pháp, còn từng cùng Nguyễn Thân ra Hà tĩnh đánh phá mật khu của cụ Phan Đình Phùng năm 1895, và mặc dù cụ Phan đã chết vì bệnh kiết lỵ bọn Nguyễn Thân, Ngô Đình Khả đã đào xác cụ lên mà đốt thành than, trộn với thuốc súng bắn đi), mới chỉ xuất hiện trong các tác phẩm của cựu Thiếu tướng Đỗ Mậu, Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, và tập Hồ Chí Minh: Con người & Huyền thoại của Chính Đạo (ấn bản 1997).
Ngoài ra, kho tài liệu "SPCE 371, 372, 373" tại "AOM" mà Lữ Giang nhắc đến là gì? Không thấy Lữ Giang giải thích rõ ràng.

1.2. Về tài liệu "tìm đọc ở văn khố Hoa Kỳ" thì chẳng thấy Lữ Giang nhắc đến văn khố nào, tài liệu nào. Trong phần thư mục thì chỉ thấy có tập tài liệu Pentagon Papers đề là 5 tập, in năm 1971.
Nhưng đây có thực là tài liệu "văn khố" không? Lại nữa, chỉ có những thư viện lớn mới tàng trữ bộ tài liệu Ngũ Giác Đài tỉnh lược do một Thượng Nghị sĩ Mỹ thu thập này. Tài liệu "văn khố" thứ thực là bộ US-Vietnam Relations, 1945-1965, gồm 12 tập, do Bộ trưởng Quốc phòng McNamara cho lệnh thu thập từ năm 1967. Chưa kể vài ba cuốn sách giá trị hạng hai, hạng ba bằng Mỹ ngữ khác nữa. Cho nên, tài liệu mà Lữ Giang trưng dẫn là tham khảo lại chỉ gồm phần lớn sách tiếng Việt giá trị không cao.
*
*    *
2. Lữ Giang Và Lịch Sử:
"Sách" của Lữ Giang chi chít những lỗi lầm về sử liệu cũng như lối "văn chương" cung văn quen thuộc.

2.1. Về cụ Phan Bội Châu
2.1.1. Lữ Giang viết:"Khi mới sinh ông ra, thân phụ ông đặt tên là Phan Văn San. Nhưng về sau, Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi lấy đế hiệu là Duy Tân, nên thân phụ ông phải đổi lại là Phan Bội Châu vì sợ phạm húy. Vì thế, ông mới có tục danh là San." (tr. 32) Chỉ nguyên câu ngắn ngủi này đã có bốn điểm sai:
2.1.1.1. Theo giấy tờ hộ tịch, Cụ Phan Bội Châu tên thực là Phan Đình Sang, nếu viết theo ngày nay là "San."
2.1.1.2. Cụ Phan sinh năm 1868 tại xã Đông liệt, huyện Nam đàn, tỉnh Nghệ an. Có tài liệu ghi cụ Phan sinh năm 1867 tại làng Đan nhiễm, tổng Xuân liễu (như người đã chú thích tập Tự Phán, nhưng chi tiết này khác với chi tiết trong cuốn Niên Biểu, và tài liệu văn khố Pháp). Lữ Giang đã sao y sai lầm này, và cũng không nêu rõ xuất xứ.
2.1.1.3. Vua Duy Tân lên ngôi năm 1907, mà Cụ Phan Bội Châu đã đi thi từ thập niên 1890. Làm gì có chuyện "thân phụ ông phải đổi lại là Phan Bội Châu vì sợ phạm húy" một ông vua chưa sinh ra đời, nói chi chuyện lên ngôi. Câu chuyện "sợ phạm húy" này là do Lữ Giang bày ra để chứng tỏ mình cũng biết tục lệ "phạm húy."
2.1.1.4. Phụ thân của cụ Phan cũng mất sớm. Làm thế nào phụ thân cụ Phan có phép lạ tái sinh sau năm 1907 để đổi tên cho Cụ? Lại nữa, đó cũng chẳng phải là chuyện "bí ẩn" gì đâu. Tìm mua cuốn Niên Biểu hoặc Tư Phán của cụ Phan sẽ rõ tại sao cụ nấn ná ở quê nhà, chưa muốn ly khai: Thân mẫu cụ mất sớm, trong khi phụ thân già, yếu, bệnh hoạn cần người hầu hạ.
2.1.1.5. Từ sự việc Lữ Giang trích dẫn cuốn Tự Phán, mà không biết chi tiết phụ thân cụ Phan mất trước ngày Hoàng tử Vĩnh San mới lọt lòng mẹ, và mãi tới năm 1907 mới được Pháp cho lên làm vua sau một cuộc khám nghiệm sức khoẻ để loại những ứng cử viên có bệnh "điên gia truyền", ai cũng thấy tài Lữ Giang cóp nhặt lời trích dẫn cuốn Tự Phán của một tác giả nào đó.
2.1.2. Về việc thi cử của cụ Phan Bội Châu, Lữ Giang viết: "Về sau nhờ sự vận động của quan tế tửu trường Quốc Tử Giám là Khiếu Năng Tĩnh, thầy học của ông, ông mới được đi thi lại. Năm 33 tuổi (1900), nhờ sự khuyến khích của thầy Khiếu Năng Tĩnh, ông thi đỗ Giải nguyên tại trường thi Nghệ an. Năm sau ông vào kinh thi Hội nhưng không đỗ. Từ đó ông bỏ khoa cử đi làm chính trị." (tr. 32) Đoạn văn này cũng đầy rẫy lỗi lầm.
2.1.2.1. Cụ Phan tuy nổi tiếng học giỏi từ nhỏ, nhưng đường công danh lận đận. Khóa thi Đinh Dậu (1897), can tội mang tài liệu vào trường thi, và bị cấm thi trọn đời. Từ đó lưu lạc ra Bắc Kỳ, rồi vào Huế làm thầy đồ trong nhà Cử Nhân Võ Bá Hạp. Rồi về quê thụ tang. Tế tửu Khiếu Năng Tịnh chẳng bao giờ là thầy dạy của Phan Bội Châu hồi nhỏ. Theo cụ Phan, nhân dịp dạy học ở Huế, cụ giao du với nhiều người nổi danh như Tế Tửu (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám là Khiếu Năng Tịnh, và Hoàng Giáp Tiến Sĩ Nguyễn Thượng Hiền. Chính Hoàng Giáp Hiền đã "điểm nhãn" cho Phan Bội Châu qua nhiều tác phẩm giá trị như Thiên Hạ Đại Thế Luận của Nguyễn Lộ Trạch; cùng những tác phẩm "mới" (tân văn) của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, cũng như giới thiệu cụ Phan với cụ Tăng Bạt Hổ, một chiến sĩ kháng Pháp đương thời. (Niên Biểu 1971, tr. 24).
Lời chứng này của cụ Phan Bội Châu bất cứ ai có chút hiểu biết về lịch sử cận đại Việt nam đều rõ. Ngoại trừ Lữ Giang!
2.1.2.2. Năm Canh Tý (1900), sau khi thụ tang ở quê, nhờ sự can thiệp của Tổng Đốc Nghệ An là Đào Tiến mà Cụ Phan Bội Châu được dự thi Hương, và đậu đầu trường Nghệ. "Bí ẩn" Khiếu Năng Tịnh chỉ là sản phẩm phịa sử của Lữ Giang.
2.1.2.3. Sau chuyến ra Bắc thất bại của cụ Phan (1902 hoặc 1903), lại chính Đào Tiến, Thượng thư bộ Lễ, cân nhắc cho Phan Bội Châu vào "tọa giám"-- tức ăn lương trường Quốc Tử Giám để chuẩn bị khóa thi Hội năm 1904. Làm gì có Khiếu Năng Tịnh nào ở đây như Lữ Giang bảo? Thử đọc cuốn Niên Biểu của cụ Phan đi thì rõ; đừng cóp nhặt của người khác, rồi bảo là đã "tìm đọc" tác phẩm trích dẫn, mà cương ẩu.
2.1.2.4. Mặc dù đã có ý hướng làm chính trị từ nhỏ, năm 1904 cụ Phan vẫn dự thi Hội, nhưng bị rớt chứ làm gì có chuyện "bỏ khoa cử đi làm chính trị" như Lữ Giang phịa.
2.1.2.5. Cụ Phan cũng vào tọa giám từ năm 1903, không phải đầu năm 1904 như Lữ Giang bày ra (tr. 33). Chi tiết cụ trở lại Huế vào đầu năm 1904, chỉ là trở lại Huế sau một chuyến vào Nam liên kết đồng chí. "Bí ẩn" cụ Phan chỉ vào tọa giám ở Huế năm 1904 thì chỉ phát sinh từ việc Lữ Giang đọc sách không kỹ, không tiêu.
2.1.2.6. Chắc Lữ Giang không biết, hoặc biết mà tảng lờ thêm một chi tiết sau này: Người Pháp và bọn quan lại Ki-tô như Ngô Đình Khả, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, v.. v... đã khai thác vụ cụ Phan trượt Tiến sĩ này mà bôi bác rằng cụ đi làm cách mạng vì không được chức Tiến sĩ!

2.2. Về việc cải cách năm 1932-1933:
Nhà nghiên cứu sử chân chính nào cũng nhìn cuộc cải cách năm 1932-1933 -- tức đưa Bảo Đại về nước, và tái lập chế độ quân chủ ở An-Nam (Trung Kỳ) -- là một thay đổi chính sách đối nội của Pháp, từ "đồng hoá" sang "hợp tác." Lý thuyết gia của cuộc cải cách này là Albert Sarraut và Pierre Pasquier. Bảo Đại, một ông vua trẻ vừa hơn 18 tuổi, được hấp thụ giáo dục Pháp và dưới sự kềm kẹp của Jean Charles, sẽ thủ diễn vở kịch "quân chủ lập hiến" để ngăn cản những ngọn gió chống đối và cách mạng sắt máu qua sự hình thành và nổi dậy tại nội địa của hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng (1930) và Đảng Cộng Sản Đông Dương (1930-1932). Mặc dù những bàn tay của bọn quan lại Việt gian nhúng ngập máu dân lành trong cuộc đánh dẹp suốt ba năm 1929-1932, nhưng người Pháp tự hiểu những cuộc cách mạng chống Pháp mới chỉ khởi đầu. Đưa Bảo Đại về nước, và "duy tân hoá" triều Huế là nhằm mục tiêu chiến lược trên. Nói cách khác, Bảo Đại chẳng có chút quyền lực nào, chỉ "rủ buông tay áo cho người Pháp cai trị".
Để vây quanh Bảo Đại những khuôn mặt tân học cho triều đình Huế có vẻ "tân thời", Pasquier cử Phạm Quỳnh làm Chánh văn phòng cho Bảo Đại. Về Bộ Hình, cử Bùi Bằng Đoàn, một người được coi như thanh liêm nhất. Còn Ngô Đình Diệm, cũng nổi tiếng thanh liêm, được chọn để làm dịu lại sự chống đối của phe Ki-tô giáo và cựu thông ngôn Nguyễn Hữu Bài, v.. v... Nhưng Ngô Đình Diệm chỉ thích"đi tu" hơn lấy con gái Nguyễn Hữu Bài hoặc tham chính, nên có thể (có thể thôi) bị Nguyễn Hữu Bài gài vào cái bẫy "trở lại Hiệp ước 6-6-1884 và qui ước 1885" giống như ấu vương Hàm Nghi ngày nào. Kết quả là thân bại danh liệt. Nếu không có những chuyển biến thế giới từ năm 1939, chẳng biết Ngô Đình Diệm đã lưu lạc tới đâu, cũng có thể đã an phận tu hành trong một nhà tu nào đó, thay vì bị thảm sát trong lòng một chiếc Thiết Vận Xa vào sáng ngày 2-11-1963.

Nhưng chỉ trong ít trang nói về cuộc đảo chính cung đình này (tr. 12-24), người ta có thể tìm thấy hàng chục lỗi lầm của Lữ Giang.
2.2.1. Năm 1932, triều đình Huế không hề có 6 bộ. Trước khi nói về cuộc "đại cải cách" năm 1932, Lữ Giang viết rằng triều đình Huế gồm 6 bộ: Đứng đầu nội các là bộ Lại (tức Bộ Nội Vụ), rồi đến bộ Hộ (tài chánh), Bộ Lễ (hay bộ Học), bộ Hình (Tư Pháp), Bộ Binh (Quốc Phòng) và bộ Công (Công Chánh).(tr. 11)
2.2.1.1. Nếu từng đi tìm "tài liệu văn khố Hoa Kỳ và Pháp", Lữ Giang phải biết rằng từ năm 1907, mặc dù triều đình Huế vẫn còn 6 bộ, nhưng bộ Binh đã bị ghép chung với Bộ Công để lo việc tạp dịch. Nhiệm vụ chính của các quan ở Bộ Binh chỉ là lo việc lương tiền cho các đội lính tập An-Nam, làm gì có "quốc phòng" ở đây. Nhiệm vụ "quốc phòng" giao cho các đội quân da trắng và mật thám Pháp, hay bọn lạp binh, khố đỏ, khố xanh. "Bí ẩn" này có gì khó tìm hiểu đâu.
2.2.1.2. Cũng vào thời gian này, người Pháp lập ra bộ Học, giao cho Cao Xuân Dục cầm đầu. Bộ Lễ hoàn toàn biệt lập với bộ Học chẳng có chuyện "Bộ Lễ hay bộ Học" như Lữ Giang tưởng tượng.
2.2.1.3. Lữ Giang viết rằng sau khi Duy Tân lên ngôi, Trương Như Cương được cử làm Thượng thư Bộ Lại kiêm Cơ Mật Viện trưởng. Đó là Lữ Giang bày ra thôi vì Trương Như Cương làm Thượng thư bộ Lại từ đời Thành Thái.
2.2.2. Trong một đoạn khác (tr. 15), Lữ Giang còn cho rằng Bảo Đại đã "hủy bỏ bộ [Binh] do đề nghị của Nguyễn Hữu Bài."(tr. 15)
2.2.2.1. Bảo Đại có quyền gì để hủy bỏ bộ Binh? Từ trước ngày quyết định cho Bảo Đại về nước làm bù nhìn, Pasquier đã soạn sẵn kế hoạch chi tiết tỉ mỉ rồi. Bảo Đại chỉ có một quyền duy nhất là làm bất cứ điều gì Khâm sứ Pháp sai bảo. Còn Nguyễn Hữu Bài thì ngày càng bị Pháp khinh bỉ, chán ghét, và chuẩn bị thay bằng những "con ngựa Việt gian" khác, uy quyền gì mà đòi này, đề nghị nọ. Chỉ có ông Tuần vũ thích đi tu mới ngốc nghếch nghe theo Nguyễn Hữu Bài xúi dại mà thân danh bại liệt, làm bể "bát cơm Pháp" mà cha là Ngô Đình Khả đã dày công hãn mã mới dành đoạt được làm của thừa kế cho dòng họ. (Xem Paris Xuân 1996 của Nguyên Vũ).
2.2.2.2. Lữ Giang đã sống với Cộng Sản một thời gian -- nếu không phải là nhân vật Lữ Giang từng tham gia hội Công giáo ‘quốc doanh’ và viết báo Nhân Dân về nhà thờ Phát diệm -- chắc biết các tài liệu trong nước về những cuộc thảm sát ở vùng Thanh Nghệ Tĩnh trong giai đoạn 1929-1933. Những thủ đoạn ác độc của bọn quan lại Việt gian -- như treo đầu lâu "giặc" lên những cọc tre để cảnh cáo người khác, bắt dân phải kiểm soát mật báo lẫn nhau, chịu chung trách nhiệm nếu có chuyện gì xảy ra, trói nạn nhân lại như giò để tra tấn, hãm hiếp phụ nữ và thiếu nữ -- được các tác giả Cộng Sản tả lại khá kỹ. Họ không phịa ra như Lữ Giang thường làm đâu, chỉ biết chưa hết đó thôi. Nay Lữ Giang lại phịa ra những câu như đòi bỏ bộ Binh vì không muốn triều đình bị mang tiếng đưa quân đi đánh các phong trào kháng Pháp của người Việt, rồi đặt để vào miệng Nguyễn Hữu Bài (tr. 15). Nhưng dù Lữ Giang có tô hồng, chuốt lục cho Nguyễn Hữu Bài cách nào đi nữa, thì cũng không thể biến một tên đại Việt gian -- bàn tay đẫm máu các nhà liệt sĩ ái quốc Việt Nam từ Bắc Kỳ vào tới Trung Kỳ trong suốt bao năm dài -- trở thành một "lãnh tụ vĩ đại" hay "thánh tử đạo." Nguyễn Hữu Bài hay Ngô Đình Khả và đồng đảng đã và sẽ mãi mãi được quốc dân Việt nhắc đến như những tên đại phản quốc (chỉ trừ trường hợp Nguyễn Văn Thuận, Giám mục cháu ngoại Ngô Đình Khả, tìm được máy bay, tàu chiến và đại pháo của một cường quốc nào tới đánh phá Việt nam, biến Việt nam thành một nước Phi Luật Tân thứ hai. Lúc ấy, những cái tên Petrus Ký, Ngô Đình Khả, Huyện Sĩ, Nguyễn Hữu Bài sẽ được giát vàng và được phong làm "thánh" hay "thần hoàng." Nhưng cả Hồng Y Nguyễn Văn Thuận tới Giáo Hoàng John Paul II cũng đã qua đời. Chỉ trơ lại những người như Lữ Giang và đồng bạn.
2.2.3. Đặt bút viết những hàng trên, Lữ Giang cũng chứng tỏ chẳng biết gì về các cuộc cải cách năm 1917 của Toàn quyền Albert Sarraut. Năm 1917, Sarraut thu nhỏ triều đình còn 4 bộ "kép", và Nguyễn Hữu Bài, sau khi làm tốt công tác lưu đầy cả hai cha con Thành Thái và Duy Tân cho Bửu Đảo vững tâm trên ngôi, được đặc cách làm Thượng thư Bộ Lại kiêm bộ Hộ. Hồ Đắc Trung nắm bộ Học (từ năm 1913), và Đoàn Đình Duyệt nắm Bộ Công và bộ Binh. Mãi tới năm 1929 mới tách bộ Lại và bộ Hộ, tức tăng tổng số triều thần lên năm bộ. (Dưới triều Bảo Đại, mới có bộ thứ sáu tức bộ Nông từ năm 1935). "Bí ẩn" này ít người biết, nhưng nếu từng tìm tài liệu văn khố Hoa Kỳ và Pháp, cũng chẳng khó khăn gì. Chỉ có Lữ Giang không biết.
2.2.4. Phạm Quỳnh chưa là Thượng Thư Bộ Học ngày 2-3-1933: Ở một đoạn khác, Lữ Giang phịa ra cảnh ngày 2-3-1933 Phạm Quỳnh đọc tuyên dụ "suy cử các Thượng thư mới", y hệt như chính mắt mình chứng kiến (tr. 16). Chẳng hiểu cóp nhặt ở đâu hay lại phịa ra cái "bí ẩn" này để bôi bác Phạm Quỳnh?
2.2.4.1. Trong lịch sử Việt Nam, "ngày 2-3-1933" chẳng có nghĩa gì cả. Có lẽ ở đây Lữ Giang muốn nói đến ngày 2-5-1933, là ngày Pasquier cho toàn bộ thượng thư cũ (ngoại trừ Thái Văn Toản) từ chức. Đây có thể là lỗi lầm kỹ thuật (xếp chữ), nhưng cũng có thể Lữ Giang đã sao cóp nguyên văn lỗi lầm của một tác giả nào đó.
2.2.4.2. Chắc chắn là Phạm Quỳnh chưa làm Thượng thư Bộ học ngày 2-3-1933, hoặc ngày 2-5-1933. Tài liệu văn khố Pháp và Việt khẳng định Phạm Quỳnh chỉ được cử làm Thượng thư Bộ học vào ngày 7-8-1933. Bất cứ ai từng tìm đọc "tài liệu văn khố và thư Viện Hoa Kỳ và Pháp" -- như ký giả lão thành Như Phong đang ra công làm việc ở Aix-en Provence -- có thể tìm ra chi tiết này. Các sử gia chân chính thì cho đây là chi tiết nhỏ, nên lướt đi, chờ công bố khi cần thiết. Chỉ có Lữ Giang, chuyên "tìm tài liệu văn khố" trong tác phẩm của người khác, mới để lòi ra hai cục bướu "bí ẩn"trên.

2.3. Lữ Giang và các hòa ước Pháp-Việt:
Bất cứ người Việt nào với một kiến thức phổ thông cũng hiểu biết rõ ràng về các hòa ước ký kết với Pháp. Trừ Lữ Giang, người trí thức Công Giáo kiệt xuất.
2.3.1. Hiệp ước Bảo hộ 6-6-1884 không "chia nước [Việt] ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ" như Lữ Giang bày đặt (tr. 17). Nghe đồn Lữ Giang từng làm thẩm phán trước năm 1975 ở miền Nam Việt Nam, nghĩa là cũng thuộc về giới luật học ở Việt Nam, với những người tài giỏi như quí ông Vũ Quốc Thúc, Mai văn Lễ v.. v... . Nhưng muốn bàn về các Hiệp ước thì phải thận trọng, cân nhắc từng chữ, từng câu. Sai một ly, đi một dặm. Người học luật còn phải thận trọng hơn ai hết.
Hiệp ước 6-6-1884 chẳng có chữ nào "chia" hay "cắt" "nước" làm hai khu vực, và cũng chẳng hề có chữ "Trung Kỳ". Theo văn bản Hòa ước trên, Đại Nam -- lúc này chỉ còn từ Bình thuận tới biên giới Hoa Nam -- nhìn nhận sự bảo hộ của Đại Pháp. Chỉ có thế. Những điều khoản về quyền lực của người Pháp tại Bắc Kỳ có sự khác biệt với các tỉnh từ Thanh hoá trở vào; nhưng chẳng có chương, đoạn hay câu, chữ nào "chia" Đại Nam thành "Bắc Kỳ" và "Trung Kỳ". "Bí ẩn" chia cắt này chỉ có Lữ Giang tốt nghiệp trường Luật, làm đến thẩm phán biết rõ mà thôi.
2.3.2. Nam Kỳ chưa trở thành thuộc địa của Pháp do "Hòa ước 9-5-1862"(tr. 17): Phần lớn học sinh ngày xưa đều biết rằng Hiệp ước 1862 chỉ nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, và mãi tới năm 1874 triều đình Huế mới ký Hiệp ước cắt nhượng hẳn sáu tỉnh miền Nam cho Pháp sau khi các cố đạo Pháp, đặc biệt là Puginier và Gauthier, xúi dục Francis Garnier hạ thành Hà nội và đánh chiếm vùng châu thổ Nhị hà (xem chi tiết trong Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, tập I của Vũ Ngự Chiêu). Chỉ có Lữ Giang cũng không biết, thế mới là điều “bí ẩn.”
2.3.2.1. Lữ Giang tạo ra một "bí ẩn" lịch sử rằng có tới "hai" hoà ước 1862. Hoà ước thứ nhất ký "ngày 9.5.1862", khiến "Nam Kỳ đã trở thành thuộc địa của Pháp" (tr. 17). Hoà ước thứ hai, ký "ngày 5.6.1862" theo đó triều Nguyễn nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.(tr. 10).
2.3.2.1. Chỉ có những trí thức bất thường mới nói đến hai hoà ước xuất hiện cách nhau chưa đầy một tháng; hòa ước thứ nhất thì nhường cả Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa, và Hiệp ước thứ hai thì Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp chỉ chịu cắt có ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, cùng một số điều khoản khác.
2.3.2.2. So sánh "hai hòa ước" trên của "bí ẩn" Lữ Giang, thì sau khi được cắt nhượng cả Nam Kỳ ngày "9-5-1862", chưa đầy một tháng sau, vào ngày 5-6-1862, Đề đốc Bonard đã ép buộc Phan Thanh Giản phải nhận lại ba tỉnh miền Tây. Như thế hai nhà thương thuyết Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp phải được vua Tự Đức khen thưởng hết sức, chớ ai lại nỡ lòng nào mà nghiêm khắc trách mắng là "tội nhân ngàn đời của lịch sử"? Phần ông Bonard trong "bí ẩn" Lữ Giang này cũng thật lạ lùng, sao đùng đùng mang trả lại ba tỉnh miền Tây làm gì khiến 5 năm sau Lagrandière phải mang quân đi chiếm lại.
2.3.2.3. Thực ra, cả vua Tự Đức lẫn ông Bonard đâu có hồ đồ, thiếu lý lẽ như thế. Kẻ hồ đồ chính là Lữ Giang, đã phịa ra hai cái hòa ước 9-5-1862 và 5-6-1862 bằng cách râu bà nọ cắm mép ông kia.
2.3.2.4. Tài liệu "văn khố Hoa Kỳ và Pháp" nào dám nói triều Nguyễn cắt Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa năm 1862? Chắc là tài liệu văn khố Pháp và Hoa Kỳ theo kiểu "Bảo Đại nói với Cụ Cao Xuân Vỹ vào năm 1982 tại California." (Ông Bảo Đại chết rồi, chẳng hiểu ông Vỹ có bằng chứng thành văn hay thành lời nào chăng? Ông Cao Xuân Vỹ từng được giao nắm Thanh Niên Cộng Hòa, rồi theo hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu đi trốn, nhưng không thoát, chẳng hiểu tại sao không bị bắt hay bị giết như hai anh em ông Diệm-Nhu? Nghe đồn ông Huỳnh Văn Lang, một tay Cần Lao hạng gộc, cũng định tấp tểnh làm nghề "ziết sử" và "bí ẩn" như Lữ Giang. Chờ xem.) Thực ra, nếu có chút thận trọng tối thiểu bình thường thì Lữ Giang đã lật sách của Tiến sĩ Nguyễn Thế Anh ra, tập sách dành cho sinh viên dự bị sử, và tránh được những lỗi lầm kể trên.

2.4. Về lá thư của Ngô Đình Thục van nài Decoux ngày 21-8-1944, và các tài liệu khác về họ Ngô:
Cuốn "Bí Ẩn" của Lữ Giang thoạt đọc thì có vẻ là ca ngợi dòng họ Ngô, từ Cụ Khả tới Cụ Diệm. Nhưng người tinh ý sẽ thấy Lữ Giang có vẻ hoặc "sỏ lá kềnh" dòng họ Ngô, hoặc không phân biệt nổi tôn ti trật tự của xã hội Việt Nam.
2.4.1. Ngô Đình Diệm là con Ngô Đình Khả, con nuôi Nguyễn Hữu Bài. Lữ Giang gọi Ngô Đình Khả là "Cụ" mà gọi Nguyễn Hữu Bài là "ông." (tr. 18), thế chẳng lẽ Nguyễn Hữu Bài, bố vợ của Ngô Đình Khôi, chỉ đáng vai con Ngô Đình Khả hay sao?
2.4.2. Lữ Giang còn phạm tội đại bất kính khi gọi Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm hay Ngô Đình Nhu là "Ông" mà gọi Cao Xuân Vĩ là "Cụ" (tr. 17). Ông Khôi, ông Nhu là anh em cùng vai vế với ông Diệm. Ông Vỹ chỉ là thuộc hạ hạng nhì, hạng ba của anh em họ Ngô. Gọi ông Vỹ là "Cụ" thì phải chăng ngầm bảo các ông Diệm, Khôi, Nhu chỉ đáng vai "con" ông Vỹ thôi sao? Nghĩa là "Cụ" Vỹ phải ngang hàng với "Cụ" Khả, và có thể còn là vai trên của bố vợ Ngô Đình Khôi là "ông" Nguyễn Hữu Bài nữa.
2.4.3. Một "bí ẩn" quan trọng hơn là việc Lữ Giang cố tình không đả động gì đến lá thư của Ngô Đình Thục, Giám mục Vĩnh Long, gửi Toàn quyền Jean Decoux ngày 21 tháng 8 năm 1944.
Thư này là một trong những tài liệu cơ bản để nghiên cứu về dòng họ ông Ngô Đình Diệm, từng được công bố từ năm 1989 trên báo Lên Đường ở Houston, rồi trích đăng trong nhiều sách ở hải ngoại, kể cả bản dịch sang tiếng Việt của Thiếu tướng Đỗ Mậu trong hồi ký Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (ấn bản năm 1993 của nhà Văn Nghệ), và in lại trong bộ sách Việt nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn thư của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang (1998). Trong thư, Ngô Đình Thục, Giám mục Vĩnh Long, khẳng định hai điều:
2.4.3.1. Thứ nhất, Ngô Đình Khả đã rất trung thành với Pháp, sẵn sàng vào nguy ra khổ không tiếc gì mạng sống để giúp Pháp thiết lập chế độ Bảo hộ. Một trong những công lao lớn nhất là phụ tá cho Nguyễn Thân đánh tan "loạn đảng" ("rebelles", nguyên chữ của Ngô Đình Thục) Phan Đình Phùng.
2.4.3.2. Thứ hai, Ngô Đình Thục tiết lộ rằng Đảng CSĐD từng thuê một sát thủ người Hoa ra tận Phan Rang ám sát Tuần vũ Ngô Đình Diệm, nhưng Diệm thoát chết, chỉ bị thương. (Vì lời trần tình này của Ngô Đình Thục trong thư, Vũ Ngự Chiêu đã đặt nghi vấn thực chăng Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt 6 tháng vào cuối năm 1945).
2.4.4. Trong tập Paris Xuân 1996, Vũ Ngự Chiêu (bút hiệu Nguyên Vũ) còn trích đăng một trang công điện báo cáo của Giám đốc Cảnh sát Pháp Arnoux về buổi điều tra ở Huế, theo đó, Ngô Đình Nhu thú nhận rằng Ngô Đình Khôi khẳng định chế độ bảo hộ Pháp là "bát cơm" (bol de riz) của dòng họ Ngô. Lữ Giang cũng lấy lại chi tiết Arnoux ra Huế năm 1944 từ sách của Vũ Ngự Chiêu, nhưng lờ đi ba chữ "bol de riz" mà Toàn quyền Decoux đã dùng bút gạch dưới. Sự cố tình bỏ quên này mới là một "bí ẩn".
2.4.5. Lữ Giang và vợ chồng Hoàng Ngọc Thành còn cả tiếng ca ngợi Ngô Đình Diệm và dòng họ Ngô yêu nước. Nhưng "yêu nước" gì mà Ngô Đình Khả cùng đồng đảng đào mả cụ Phan Đình Phùng lên, rồi trộn với thuốc súng mà bắn đi? Yêu nước Pháp chăng? "yêu nước" gì mà cả Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Nhu công khai tuyên bố chế độ Bảo hộ Pháp là "bát cơm" của dòng họ Ngô?
2.4.6. "Bí ẩn" về ngày sinh của Ngô Đình Diệm. Từ nhiều năm nay, Vũ Ngự Chiêu từng công bố ngày sinh nhật "27/7/1897" của Ngô Đình Diệm, khác với ngày sinh đã công bố chính thức là "3-1-1901". Tài liệu của Vũ Ngự Chiêu còn ghi nơi sinh của Ngô Đình Diệm là "Đại phong lộc" hay "Dai phuong" ở Quảng bình. Trong tập Paris Xuân 1996, Vũ Ngự Chiêu nhận xét rằng nếu giấy tờ hộ tịch của Ngô Đình Diệm là đúng, Diệm phải đứng vai anh Ngô Đình Thục. Nhưng có điều nghịch lý: Cách nào bà Phạm Thị Thân, mẹ ruột của Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, v.. v... lại có thể sinh ra hai người con trai trong vòng hai tháng. Nói cách khác, chi tiết trên khiến những người nghiên cứu mai hậu nên tìm hiểu thêm thực chăng đây chỉ do sự man khai hộ tịch (như ông Ngô Đình Luyện tiết lộ), hay Ngô Đình Diệm không phải là anh em cùng mẹ cùng cha với các ông Ngô Đình Thục, Nhu, Cẩn và Luyện. (Ngô Đình Khôi là con vợ cả của Ngô Đình Khả).
Lữ Giang đã đem bà Ngô thị Hiệp ra để tố cáo Vũ Ngự Chiêu là "lầm lẫn" về ngày sinh của Ngô Đinh Diệm trong khi Vũ Ngự Chiêu tố ngược là Lữ Giang sao cóp nhiều sử liệu vào các cuốn sách của mình mà không trưng dẫn xuất xứ.
2.4.6.1. Nhưng Bà Hiệp là em ông Diệm, có thể biết nhiều về gia phả dòng họ Ngô. "Có thể" thôi. Nhưng nếu đụng vào vấn đề bí ẩn của dòng họ, lời chứng của bà Hiệp cần phải được khảo nghiệm kỹ. Bà Hiệp có thể không nói hết sự thực. Bà Hiệp, là phận gái, không được cho biết hết các chi tiết oái oăm của cha mẹ, hay các anh em. Bà Hiệp cũng đã lớn tuổi, trí nhớ không còn minh mẫn nữa. Theo danh từ Luật học, bà Ngô Thị Hiệp là một thứ nhân chứng khó tin.
2.4.6.2. Nếu Lữ Giang hoặc ai đó muốn bác lại năm sinh 1897 của Ngô Đình Diệm thì phải về Phú Cam mà tìm cho được bản sao của cuốn sổ rửa tội hay khai sinh của Ngô Đình Diệm. Hoặc nhờ một người nào tìm hộ. Chưa làm được những chuyện ấy thì cũng chưa thể vội lên án Vũ Ngự Chiêu là phịa sử.
2.4.7. Ngô Đình Diệm có dùng nến đốt hậu môn để lấy khẩu cung nạn nhân hay chăng? Chi tiết ông Ngô Đình Diệm dùng nến đốt hậu môn tù nhân khi thẩm cung do nhà văn Hoàng Trọng Miên và ông Bùi Nhung thuật lại. Trong cuốn Miền Nam Giữ Vững Thành Đồng, Trần Văn Giàu cũng ghi lại lời chứng của Nguyễn Thi, một cán bộ CS tại Bình Thuận, về tội ác vi phạm nhân quyền của anh em họ Ngô cùng bầy Việt Gian quan lại của Pháp. Lữ Giang cho đây là loại tin đầu đường xó chợ, và dựa vào đó cáo buộc Vũ Ngự Chiêu là "phịa sử".
2.4.7.1. Việc Vũ Ngự Chiêu có phịa sử hay chăng thì đã quá rõ. Tài liệu rành rành ra đó: tác phẩm của các ông Trần Văn Giàu, Hoàng Trọng Miên và Bùi Nhung. Người viết sử không sử dụng tài liệu thì lấy gì làm chỗ y cứ? Chẳng lẽ phải theo kiểu Lữ Giang, khai sinh ra hai cái hoà ước 1862, hay bắt phụ thân Cụ Phan Bội Châu phải đổi tên con từ "San" qua "Châu" để tránh phạm úy vua Duy Tân vào thập niên 1890, tức từ ngày Hoàng tử Vĩnh San chưa chào đời?
2.4.7.2. Nếu muốn tranh cãi, Lữ Giang phải tìm cách bác bỏ những lời chứng của các ông Trần Văn Giàu, Hoàng Trọng Miên và Bùi Nhung bằng những tài liệu chứng cớ rành mạch.
Hoàng Trọng Miên là một tác giả thành danh trước Lữ Giang xa, và tập Đệ Nhất Phu Nhân của Hoàng Trọng Miên chứa nhiều dữ kiện lịch sử đáng giá. Lời chứng của Bùi Nhung cũng đáng tin, vì nếu ông Ngô Đình Diệm trong sạch, nhân từ thì tại sao Đảng CSĐD phải thuê sát thủ ra tận Phan Rang mà trừ khử đi, tại sao nghe lời Arnoux lập danh sách những người tình nghi là Cộng Sản để nạp cho Pháp lập công? Lời chứng này của Giám mục Thục rất đáng tin cậy, có thể sử dụng chung với các chứng từ của các ông Trần Văn Giàu, Hoàng Trọng Miên và Bùi Nhung.
Một lời chứng khác cũng nên nêu thêm: Đó là lời chứng của ông McNamara. Theo ông McNamara bà Lệ Xuân là "người vợ trên thực tế" của ông Diệm. Một ông anh chồng làm Tổng thống, từ nhỏ đã hay đòi đi tu, mà có liên hệ vợ chồng "trên thực tế" với em dâu khiến tất cả những gì chúng ta đã biết về ông Diệm cần phải xét lại. Muốn biết ông Diệm có ác hay thiện còn phải xét lại những việc làm khác nữa như cuộc xử bắn Tướng Ba Cụt, việc tiêu diệt đối lập, bắn giết Phật tử năm 1963, mưu toan lật đổ Bảo Đại ngay sau khi Bảo Đại vừa cứu nguy cho ông Diệm trước sự đe dọa của Tướng Hinh và Bảy Viễn. Hay chỉ vì nghi Tướng Dương Văn Minh, người hùng rừng Sát trước dư luận, không chịu giao nạp kho vàng của Bảy Viễn, bắt Tướng Minh ngồi chơi xơi nước vối cho tới năm 1963.
Lịch sử quốc dân vốn không ngả theo này hay phe kia, chỉ là tấm gương soi gáy ố máu. Những tác nhân lịch sử phải chịu trách nhiệm việc làm của họ trước tòa án quốc dân muôn đời. Lịch sử quốc dân không có bánh kẹo cho những kẻ gian ác, phục vụ ngoại bang chỉ vì quyền lợi bản thân, gia đình, dòng họ, đảng phái, tôn giáo của chúng. Cũng không thể chạy chọt, luồn lót theo kiểu các pháp đường VNCH ngày xưa, hay tại Việt Nam hiện nay.
Lữ Giang không đưa ra được chứng cớ nào để phản bác nên đã đánh phủ đầu kẻ khác là dựng "chuyện đầu đường xó chợ", lấy tin của Việt Minh hay Cộng Sản loan truyền ở Liên Khu IV. Đó là lý do khiến Nguyên Vũ phản ứng bằng cách nhắc đến những kẻ đã bán linh hồn cho quỉ, về nhục mạ tổ tiên, giết cả mẹ cha mà vẫn tin mình thánh thiện, cái ý tội (mens rea) của mình là "chân lý" và "việc tội" (actus reus) của mình sẽ khiến mình được phong thánh (xem Paris Xuân 1996, tr. 91, 98, 116-117). Tuy nhiên, không hẳn đây là một trực thoại của Nguyên Vũ với Lữ Giang. Bởi những người đọc sách nếu để ý hẳn sẽ thấy Vũ Ngự Chiêu không liệt kê tựa sách của Lữ Giang vào phần thư mục của các tác phẩm mới như Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, hay Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại?, 55 Ngày & 55 Đêm: Cuộc Sụp Đổ của VNCH. Không biết đây có phải là vì điều mà Vũ Ngự Chiêu - Nguyên Vũ bày tỏ trong cuốn tâm thư Paris Xuân 1996, đó là nỗi e ngại về những âm mưu xúi bẩy các phe phái, tôn giáo kình chống lẫn nhau ở hải ngoại?
Cuốn Paris Xuân 1996 của Nguyên Vũ có lẽ đã đủ để giải quyết một số thắc mắc của người đọc mà Lữ Giang cố tình "bí ẩn" hoá. Vũ Ngự Chiêu công bố các dữ kiện lịch sử, bất kể tác nhân đó thuộc tôn giáo, tổ chức chính trị, hay giai tầng xã hội nào. Ông cũng từng khẳng định không muốn ném thêm những nắm đất hay hòn đá lên huyệt mộ của những tội nhân lịch sử (như Petrus Key, Ngô Đình Khả, Nguyễn Thân, Nguyễn Hữu Bài, v.. v...?) "Thêm một lời bình luận về họ cũng bằng thừa" -- Đó là câu kết luận của Vũ Ngự Chiêu khi có người đặt vấn đề tại sao nhà Văn Hoá cho in bài của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, trong đó Giáo sư Quang gọi đích danh dòng họ Ngô là "ba đời Việt gian" trong cuốn Nhìn lại biến cố 11/11/1960, và bài trả lời báo Văn Nghệ Tiền Phong của Giáo sư Quang.

2.5. Những Lỗi Lầm Khác của Lữ Giang:
Sau đây là một số những "bí ẩn" khác của Lữ Giang:
2.5.1. Lữ Giang tưởng tượng ra rằng Pháp tấn công Đại Nam năm "1851." (tr.8) Chẳng hiểu "bí ẩn" này nó nằm ở văn khố nào vậy? Thực ra Pháp bắt đầu tấn công Đại Nam năm 1859.
2.5.2. Lữ Giang bảo hai Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết "đã đổi di chiếu, phế bỏ Dục Đức, đưa em của Dục Đức là Lạc Quốc Công, húy là Hồng Dật, lên làm vua lấy niên hiệu là Hiệp Hòa."(tr. 8)
2.5.2.1. Lữ Giang có mất công đào bới hết tài liệu văn khố cũng không tài nào tìm ra "bí ẩn" hai Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết "đã đổi di chiếu, phế bỏ Dục Đức". Bởi người sửa đổi di chiếu là chính tự Dục Đức.
2.5.2.2. Lữ Giang cũng bảo rằng Hoàng tử Hường Dật, em thứ 29 của vua Tự Đức, là "em của Dục Đức." Chú út của gia đình vua Thiệu Trị mà biến thành "em" của Hoàng tử cháu là Dục Đức thì quả thực là "bí ẩn" hay "bí tích" kỳ lạ.
2.5.3. Lữ Giang viết rằng "sợ Tôn Thất Thuyết lộng hành, vua Hiệp Hoà đổi Nguyễn Văn Tường qua làm Thượng thư Bộ Binh còn Tôn Thất Thuyết làm Thượng thư Bộ Lại."(tr. 9) Nhưng Nguyễn Văn Tường chẳng bao giờ nắm bộ Binh cả, mà được cử giữ bộ Hộ. Lữ Giang thử tìm Đại Nam Thực Lục hay cuốn Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, tập I: Đại Nam Mất Tự Chủ, 1858-1884 (1999) (tr. 340) mà đọc thì rõ.
2.5.4. Lữ Giang "bí ẩn" rằng "ngày 22.5.1885 Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Quảng trị rồi sau đó đến Quảng bình và ra hịch Cần Vương giúp vua." Chỉ một câu này đã có 3 lỗi quan trọng:
2.5.4.1. Tôn Thất Thuyết không đưa vua ra Quảng trị ngày "22-5-1885." Mãi đêm ngày 22 rạng 23 tháng 5 Ất Dậu (tức đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 7-1885), Tôn Thất Thuyết mới đánh úp đồn Mang cá và tòa Khâm Huế; sau thất bại chạy ra Quảng trị. Lữ Giang "bí ẩn" ra được cái ngày 22-5-1885 này quả thực là hi hữu. Trong phần "Tài liệu tham khảo" Lữ Giang có dẫn cả hai tác giả Phạm Văn Sơn và Trần Trọng Kim. Tác giả Trần Trọng Kim dùng ngày tháng âm lịch, nhưng tác giả Phạm Văn Sơn dùng ngày tháng dương lịch. Đọc kỹ sách Phạm Văn Sơn thôi đã đủ tránh được những lỗi lầm râu bà này (22 tháng 3 âm lịch) cắm cằm ông kia (năm 1885)" này!
2.5.4.2. Vua Hàm Nghi cũng chẳng chạy tới Quảng bình được vì lính Tây và khố đỏ đổ bộ xuống Đồng hới, ngăn chặn đường rút ra Bắc. Phạm Văn Sơn cũng có nói như thế, Lữ Giang có thực đã đọc Phạm Văn Sơn không?!
2.5.4.3. Hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi được ban hành trước khi vua lên đường ra Hà tĩnh, không phải sau khi tới Quảng bình.
2.5.5. Lữ Giang "bí ẩn" ra rằng Tướng Millot của Pháp mang lon "Thống tướng" (tr. 9), và giữa chức "Thống đốc Quân Vụ" (tr. 5).
2.5.5.1. Quân đội Pháp làm gì có chức Thống tướng (kiểu Việt Nam Cộng Hòa). Tướng thì chỉ có ba bậc: Thiếu (hai sao), Trung (ba sao) và Đại tướng (bốn sao). "Thống" thì chỉ có "Thống chế."
2.5.5.2. Tướng Millot chẳng bao giò được giữ chức "Thống đốc quân vụ" như Lữ Giang nói. Thoạt tiên, Millot chỉ được giao chức Tổng Tư lệnh đội quân viễn chinh Pháp, sau đó, từ tháng 12/1883, kiêm giữ thêm quyền hành về dân sự.
2.5.6. Lữ Giang bảo rằng năm 1879, Bộ trưởng Thuộc địa Jauréguiberry mang chức Thượng tướng (tr. 4)
2.5.6.1. Jauréguiberry là một sĩ quan Hải quân, nếu lên đến hàng tướng thì phải có cấp bậc Đề Đốc, Phó Đô đốc hay Đô đốc, cách nào mà được phong chức "Thượng tướng"?
2.5.6.2. "Thượng tướng" là quân hàm của Bắc Việt, tức chức vụ giữa Trung tướng và Đại tướng. Chẳng lẽ Lữ Giang khám phá ra "bí ẩn" rằng Đô đốc Jauréguiberry, Bộ trưởng thuộc địa Pháp trong thập niên 1870, được ban phép lạ để tái sinh vào năm 1949, xin ông Hồ Chí Minh phong cho chức Thượng tướng (dưới quyền Võ Nguyên Giáp và không ghi vào hồ sơ), rồi cưỡi một cái máy thời gian mà ngược về dĩ vãng, hầu tổ chức cuộc xâm lăng Đại Nam?
2.5.7. Lữ Giang nói rằng đến năm 1882, chính phủ Pháp mới cho Thống đốc Nam Kỳ là ông Le Myre de Vilers đưa quân ra Bắc bảo vệ các thương gia Pháp" (tr. 4). Lý do "bảo vệ các thương gia Pháp" này do Lữ Giang "bí ẩn" ra thôi vì lý do thực chính là vì triều Huế không tôn trọng Hiệp ước 1874, và tranh chấp với Trung Hoa. Không tin cứ tìm sách của Cao Huy Thuần hay của Giáo sư Nguyễn Thế Anh mà kiểm chứng lại.
2.5.8. Bourée và Lý Hồng Chương chẳng ký kết một "hiệp ước" nào cả như Lữ Giang nói (tr. 4). Họ chỉ có một qui ước tạm thời (memorandum) phân chia vùng ảnh hưởng giữa Pháp và nhà Thanh. Lữ Giang có hiểu "Memorandum" là gì không?
2.5.9. Lữ Giang "bí ẩn" ra chức "Toàn quyền" của Harmand (tr. 4).
Chức Toàn quyền (Gouverneur général) tại Đông Dương chỉ có từ năm 1887. Chức vụ của Harmand là "Commissaire général civil", có thể dịch là Tổng đại biểu, chịu trách nhiệm vấn đề dân sự ở Đại Nam, nhưng vẫn dưới quyền Thống đốc Sài gòn.
2.5.10. Lữ Giang, qua việc tóm tắt nội dung "hiệp ước" 1883 (tr. 5), chứng tỏ chẳng hiểu gì hoặc chưa đọc bản văn "tạm ước" này. Tạm ước Harmand, ngoài việc chấp nhận sự bảo hộ của Pháp, còn có điều khoản đặt Trú sứ (résident) từ Đèo Ngang trở ra. Vì những điều khoản quá đáng của Tạm ước này, Paris mới cho Patenôtre điều đình Hiệp ước 6-6-1884.
2.5.11. Lữ Giang viết: "Triều đình Huế thất thế phải chấp nhận sửa đổi lại Hòa ước 23.8.1883. Jules Patenôtre, Lãnh sự của Pháp ở Bắc Kinh... " (tr. 5-6). Chỉ vỏn vẹn ba dòng chữ, Lữ Giang đã "bí ẩn" tới bốn lần:
2.5.11.1. Việc triều Huế ký Hòa ước 6-6-1884 thì có gì mà phải do thất thế hay không. Thực ra, Hòa ước 6-6-1884 dễ thở cho triều đình Huế hơn tạm ước Harmand nhiều.
2.5.11.2. Tạm ước Harmand ký ngày 25-8-1883, giữa lúc quan tài vua Tự Đức chưa kịp chôn. Nó không được ký vào ngày "23-8-1883" như Lữ Giang tưởng tượng ra. (Ở một đoạn trên, Lữ Giang ghi đúng ngày 25-8-1883. Nhưng trong trang 5, Lữ Giang hai lần lập lại "hòa ước ngày 23.8.1883". Có thể nói đó là lỗi chính tả khi đánh máy không?)
2.5.11.3. Jean Patenôtre là Đặc sứ Toàn quyền, chức vụ cao gấp bội chức "Lãnh sự" như Lữ Giang bảo.
2.5.12. Hoà ước 1884 cũng chẳng hề "chia Việt Nam thành ba miền với ba chế độ cai trị khác nhau".(tr. 6)
2.5.12.1. Trong bản văn Hiệp định, chẳng có chữ nào là "Việt Nam". Chỉ có tên "Đại Nam" trong bản chữ Hán, và "An-Nam" trong bản tiếng Pháp.
2.5.12.2. Trong Hiệp định chẳng có điều khoản nào "chia" Việt Nam thành "ba miền". Chỉ có điều khoản tái xác nhận Hiệp ước 1874 (tức cắt Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa), và nhìn nhận chế độ Bảo hộ trên phần đất còn lại của Đại Nam. Phải nhiều năm, cho tới thập niên 1890, việc phân chia "hành chánh" giữa Bắc Kỳ và An-Nam mới đưa vào văn bản, qua việc hủy bỏ chức Kinh lược Bắc Kỳ và ủy quyền cho Thống sứ Pháp. Chính vì thế mà Nguyễn Hữu Bài mới mớm cho vua Duy Tân, và rồi Ngô Đình Diệm ý tưởng đòi trở lại với Hòa ước 1884 đó.
2.5.13. Lữ Giang "bí ẩn" rằng vua Đồng Khánh chết ngày "28-1-1888." (tr. 10) trong khi Đồng Khánh thực ra chết ngày 28-1-1889, ít tháng sau ngày vua Hàm Nghi bị đầy qua Algérie. Ở một đoạn khác Lữ Giang "bí ẩn" rằng Richaud, thay Toàn quyền Constans vào tháng 8/1888, "đã bắt vua Thành Thái ký giấy nhượng cho Pháp hải cảng Đà Nẵng, hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng để làm nhượng địa" (tr. 7). Nhưng Vua Thành Thái, làm vua từ 1889 tới 1907, làm sao trở ngược về năm 1888 mà cắt nhượng ba thị xã trên cho Richaud!?
2.5.14. Lữ Giang cho Thành Thái lên ngôi năm 18 tuổi (tr. 10). Điều này có nghĩa Thành Thái sinh vào khoảng năm 1871, và Hoàng tử Dục Đức có con khi mới 11, 12 tuổi. Thực sự, vua Thành Thái lên ngôi khi mới 10 tuổi.
2.5.15. Lữ Giang viết: "Tháng 9 năm 1897, Cơ Mật Viện được thay thế bằng Nội Các" (tr.7). "Bí ẩn" này chẳng hiểu Lữ Giang mò mẫm ở đâu ra? Rõ ràng Lữ Giang cũng chẳng hiểu nghĩa chữ "Nội Các" là gì nữa. Việc này hoàn toàn không có.
2.5.16. Lữ Giang tìm được "bí ẩn" là Diệp Văn Cương đã lấy công chúa Thiện Niệm, chị ruột của Dục Đức trước khi vua lên ngôi.(tr. 10)
Thực ra, Diệp Văn Cương chỉ lấy Thiện Niệm làm vợ nhỏ sau khi đã giúp Bửu Lân lên ngôi. Lữ Giang phải đi tìm cuốn Các Phú Hộ Lừng Danh Nam Kỳ của Hứa Hoành mà đọc để hiểu thêm về gia đình Diệp Văn Cương.
2.5.17. Lữ Giang cho rằng năm 1907, Pháp khám phá ra Thành Thái đã ngầm liên lạc với phong trào Đông Du để cầu viện Nhật giúp đỡ nên ép vua thoái vị (tr. 11). Thực ra, các quan chức Pháp đã cho lệnh điều tra xem Thành Thái đã "rửa tội" hay chưa. Đó mới là bí ẩn thực sự của lịch sử.
2.5.18. Lữ Giang bảo Toàn quyền Broni và Khâm sứ Levecque ép Thành Thái thoái vị và nhường ngôi cho Hoàng tử Vĩnh San.(tr. 11) "Bí ẩn lịch sử" này thực sự chỉ nằm trong văn khố mang tên Lữ Giang mà thôi. Giáo sư Nguyễn Thế Anh có một bài viết rất chi tiết về việc thoái vị của vua Thành Thái mong Lữ Giang chịu khó tìm đọc.
2.5.19. Lữ Giang cho rằng vua Duy Tân, sau khi bị bắt, bị đầy qua Réunion ngày "10-5-1916." (tr. 11) Thực ra, Paris chỉ quyết định đày vua Duy Tân và Thành Thái qua Réunion sau một thời gian tạm giam ở Vũng tàu.
*
*     *
3. Lữ Giang ngụy tạo lịch sử làm gì?
Lữ Giang có thể là một mặt hàng ngụy hoá che đậy một âm mưu nào đó không?
3.1. Những tài liệu "văn khố" và "thư viện" mà Lữ Giang "đã tìm đọc" này vốn được các học giả Việt, như Vũ Ngự Chiêu, công bố khá đầy đủ từ năm 1983.
3.2. Trong tập Paris Xuân 1996, dưới bút danh Nguyên Vũ, Vũ Ngự Chiêu đã gửi gấm cho thế hệ tương lai nhu cầu tìm về dòng lịch sử quốc dân với một lương tâm trong sáng. Tiếc là Lữ Giang đã không đọc.
3.3. Phải chăng mục tiêu của Lữ Giang là xúi dục những cuộc "thánh chiến" bỏ túi ở Hải ngoại, đẩy giới Thiên Chúa Giáo vào các cuộc tranh luận vô nghĩa với những học giả không Thiên Chúa Giáo? Tại sao bỗng dưng đương sự lại mở màn cho cái gọi là "Thánh chiến" ở hải ngoại? Tại sao Lữ Giang khích động cho bằng được những cuộc tranh luận giữa Phật tử và Thiên chúa giáo, khiến những người như Nguyễn Mạnh Quang và Trần Chung Ngọc phải nhập cuộc? Phải chăng những tác phẩm trung thực đến phũ phàng như cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư hay Bài Thơ Cho Con của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, và cuốn Công Giáo Chính Sử của Trần Chung Ngọc đã được gợi hứng từ chủ trương “ziết sử” của những người như Lữ Giang, Tôn thất Thiện, Lâm lễ Trinh, Nguyễn lý Tưởng, Nguyễn văn Chức, Nguyễn gia Kiểng, Lê xuân Khoa, Huỳnh văn Lang hay vợ chồng Hoàng ngọc Thành?
Câu trả lời xin nhường cho chính quí vị, các vị lãnh tụ tôn giáo, những bậc trí thức, quí vị trong giới truyền thông, và toàn thể quí vị đồng hương.
Xin các đấng thần linh hãy phù hộ cho cộng đồng hải ngoại chúng ta.

31/7/1999
Trần Quốc Đại


Thứ Năm, 16 tháng 6, 2016


NHÓM KHỞI xướng “CUỘC CÁCH MẠNG NHÂN VỊ”:
NGÔ ĐÌNH DIỆM, NGÔ ĐÌNH NHU
VÀ SỰ TRỔI DẬY CỦA ĐẢNG CẦN LAO
(Vanguard of the “Personalist Revolution”:
Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu and the Rise of the Cần Lao Party)

Edward Miller
  
LỜI GIỚI THIỆUNăm 2010, Văn Phòng Sử Gia (Office of The Historian) thuộc Sở Công Vụ (Bureau of Public Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có tổ chức một cuộc Hội thảo quốc tế tại George C. Marshall Conference Center tại Washington DC trong hai ngày 29 và 30 tháng 9 năm 2010 với chủ đề “Kinh nghiệm Hoa Kỳ tại Đông Nam Á, 1946-1975” (The American Experience 
in Southeast Asia, 1946-1975).
Trong buổi sáng ngày thứ nhì của buổi Hội thảo, đề tài được thảo luận là “Với Bạn Hữu Như 
Thế: Hoa Kỳ và Đồng Minh” (With Friends Like These: The United States and its Allies) với 
ba diễn giả. Một trong ba diễn giả là Giáo sư Edward Miller thuộc Đại học Darmouth 
College (Hanover, New Hampshire) với bài thuyết trình có tựa đề là “Nhóm Khởi Xướng 
‘Cuộc Cách Mạng Nhân Vị’: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Sự Trổi Dậy của Đảng 
Cần Lao” (Vanguard of the “Personalist Revolution”: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu 
and the Rise of the Cần Lao Party).
Phần thuyết trình của Giáo sư Miller gồm phần trình bày miệng và một xấp hình ảnh được phân phát cho cử tọa. Dưới đây là bản Việt dịch từ bản chép lại (transcript) chính thức được đăng trên trang Web của Office of The Historian – Photo và caption Internet.


[…] Đề tài của tôi hôm nay là một trong những đảng phái chính trị nổi tiếng và ô nhục nhất 
[the most famous and infamous] trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Tên chính thức của đảng nầy 
Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Tên dịch tiếng Anh chính thức là “The Revolutionary 
Personalist Labor Party”. Nhưng đối với người Việt và người nước ngoài, đảng nầy được biết 
đến đơn giản là Đảng Cần Lao. Đảng Cần Lao là một phần chủ chốt của bộ máy an ninh của 
chính quyền Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam vào khoảng giữa năm 1954 và năm 1963. 
Điều kiện để gia nhập đảng  dựa trên lòng trung thành với Diệm và gia đình họ Ngô. 
Sự tồn tại của đảng Cần Lao đã được chính thức thừa nhận, nhưng hầu hết các đảng viên gi
bí mật đảng tịch của mình, phần lớn vì các đảng viên Cần Lao được dùng làm mật báo viên 
cho chế độ trong toàn bộ nhà nước, quân đội, và các định chế khác của Việt Nam. Đảng cũng 
có những chức năng khác. Đảng thúc đẩy ý thức hệ chính thức của chính phủ Diệm, được gọi 
chủ nghĩa Nhân Vị, đảng kiểm soát một mạng lưới các lợi ích kinh doanh. Đảng thực hiện 
một loạt các nhiệm vụ chính trị và tình báo bí mật.
Thật ra, tất cả những điều này đã được biết đến và thừa nhận từ lâu trong giới học thuật về 
chiến tranh Việt Nam và về giai đoạn Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, cho đến nay, các sử gia đã 
không dành nhiều nỗ lực để thực sự điều tra đảng nầy và để làm giống như bóc những lớp vỏ 
phía sau lớp màn bí mật che đậy đảng nầy. Vì vậy, bài viết này là một nỗ lực sơ bộ để làm 
điều đó. Trong cố gắng làm điều này, tôi đã sử dụng một số tài liệu của Mỹ , trong đó có một 
số tài liệu trong các tập FRUS [ Foreign Relations of the United States ]. Đặc biệt là tập 
“Việt Nam” cho giai đoạn 1958-1960 có rất nhiều tài liệu thú vị, tài liệu có nhiều tiết lộ về 
đảng Cần Lao và tổ chức của đảng. 
Các tập biên niên FRUS của Bộ Ngoại Giao Mỹ và hình bìa của “CIA and The House of Ngo”
Ngoài ra, còn có một số tài liệu giải mật gần đây rất có giá trị. Thomas Ahern , một sử gia CIA, 
đã công bố một nghiên cứu về mối quan hệ của Cục CIA với anh em nhà Ngô. Nghiên cứu nầy 
được gọi là CIA and the House of Ngo[CIA và Nhà Ngô]. Tài liệu nầy có sẵn để chúng ta tải 
về miễn phí trên trang web FOIA của CIA [ http://www.foia.cia.gov/ ]. Nó đã được giải mật 
khoảng một năm trước đây. Nhờ vậy, tôi đã lấy thông tin từ đó.
Nhưng như Erin đã nêu rõ [Erin Maham, Sử gia cao cấp của Bộ Quốc Phòng Mỹ - Chủ tọa buồi 
Hội thảo], tôi cũng đã lấy thông tin từ các nguồn khác không phải tngười Mỹ. Có rất nhiều 
nguồn tiếng Pháp trong các văn khố quân sự và ngoại giao Pháp v đảng Cần Lao. Người Pháp 
đã thực sự duy trì một mạng lưới tình báo rất tốt ở Nam Việt Nam sau năm 1954. Tôi cũng đã sử 
dụng rất nhiều tài liệu tiếng Việt, trong đó có hồi ký của những cựu đảng viên đảng Cần Lao. 
Và như Erin cho biết, điều này được rút ra từ ​​một dự án sách lớn mà tôi đang viết v toàn bộ lịch 
sử của chính quyền Diệm.
Còn v những gì tôi sẽ trình bày hôm nay, tôi sẽ nói thật ngắn gọn về nguồn gốc của đảng Cần Lao trong cuối thập niên 40s và đầu thập niên 50s, và sau đó tôi sẽ tập trung vào giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1960, những năm mà quý vị có thể nghĩ đến như những năm hình thành của đảng Cần Lao.
[Liệu mọi người có xấp tài liệu phát tay chưa? Có rồi - Tôi đã in ra - Tốt rồi, thật tuyệt vời.]
 
Về những nguồn gốc của đảng Cần Lao, có người đôi khi gợi ý rằng đảng Cần Lao là tạo phẩm của 
CIA hoặc của vài cơ quan khác của Chính phủ Mỹ. Điều này thì đơn giản là không đúng sự thật. 
Đảng Cần Lao nổi lên khỏi những hoạt động chính trị của Ngô Đình Nhu trong cuối thập niên 40s 
những năm đầu thập niên 1950s. Trong thời gian này, Diệm không ở Việt Nam. Ông ta đang sống 
lưu vong, tự nguyện sống lưu vong tại Mỹ và châu Âu. Tuy nhiên Nhu, em trai của ông ta, ở lại Việt 
Nam và tiến hành các hoạt động khác nhau với danh nghĩa của Diệm. Một hoạt động mà Nhu đã 
tham gia là thành lập một nhóm ở thành phố Đà Lạt vùng cao nguyên tại miền Nam Việt Nam 
khoảng năm 1949. Nhóm này, về cơ bản, bắt đầu như một nhóm nghiên cứu triết học, [bức 
ảnh lớn trên một mặt của xấp tài liệu phát tay là một bức ảnh của nhóm đó]. Trong bức ảnh nầy, 
quý vị sẽ thấy Ngô Đình Nhu. Quý vị cũng sẽ thấy một linh mục người Pháp tên là Cha Ferdinand 
Parrell. Parrell và Nhu đều rất quan tâm đến triết thuyết Nhân Vị vốn liên quan đến, trong số 
những người khác, một triết gia Pháp tên là Emmanuel Mounier. Và thuyết Nhân Vị sau đó sẽ trở 
thành học thuyết chính thức không chỉ của đảng Cần Lao mà còn của chính phủ Diệm nữa. Vậy thì, 
cho những vị nào biết về lịch sử của chính phủ Diệm thì hẵn cũng biết rằng thuyết Nhân Vị đã 
được biết đến như một điều gì đó rất sâu sắc, rất khó hiểu. Nhưng điều đó không có nghĩa là thuyết 
nầy vô nghĩa hoặc rối rắm. Tôi nghĩ rằng thuyết Nhân Vị đã có một ý nghĩa nào đó cho Diệm và 
Nhu và cho các đảng viên thuộc vòng trung ương, và do đó nó  quan trọng.
Một mặt, thuyết Nhân Vị rất chống Cộng sản. Nó phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tập sản của Marx. Nhưng nó cũng phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tự do, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân tự do. Và do đó, những nỗ lực của Mounier trong việc xây dựng học thuyết Nhân Vị này là, về cơ bản, một nỗ lực để chia đều sự khác biệt, để cố gắng tìm một chủ nghĩa trung dung, một lý tưởng cộng đồng. Vấn đề là chuyển hóa quan điểm trung dung đó, hoặc một con đường thứ ba đó, thành một chương trình hành động tích cực. Đây là điều mà chính phủ Diệm luôn luôn gặp khó khăn khi thực hiện. Tuy nhiên, tôi cho rằng thuyết Nhân Vị là quan trọng để đặc biệt hiểu được những suy nghĩ của Ngô Đình Nhu trong giai đoạn khởi đầu này.

Ngoài chuyện triết lý này, Nhu cũng rất bận rộn trong việc xây dựng mạng lưới nhân sự trong những năm đầu của thập niên 50s. Nhu và Cha Parrell cuối cùng đã mở rộng nhóm nghiên cứu này thành một hoạt động trên toàn Đông Dương. Họ đã tổ chức một loạt các sự kiện lớn hơn, các sự kiện công cộng tại Hà Nội và Sài Gòn và tại các thành phố khác, và những sự kiện này đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người Việt chống Cọng nổi tiếng. Và sau đó, Nhu thiết lập các mối quan hệ với nhiều người trong số các người chống Cọng nầy và đã có thể tuyển dụng một vài người trong số họ vào đảng Cần Lao.
Tổ chức trở thành đảng Cần Lao đã không thực sự thành hình mãi cho đến năm 1953. Và vào thời điểm lần đầu tiên xuất hiện, nó đã thực sự chỉ là một liên minh lỏng lẻo. Có những người trí thức, các nhà hoạt động chính trị, một ít sĩ quan trong Quân đội Quốc gia Việt Nam. Có rất nhiều người Công giáo trong đảng Cần Lao vào thời điểm này, nhưng thực sự cũng có rất nhiều người không-Công giáo nổi bật. Và một trong những điều thú vị về đảng Cần Lao là nó trở nên tương đối nhiều người Công giáo hơn sau năm 1954.
 
Đảng kỳ của đảng Cần Lao theo hồi ức của một nhân vật thời đó nhớ lại,
với 3 ngôi sao tượng trưng cho tín điều “Tam Vị Nhất Thể” (Chúa ba Ngôi)
của thần học Công giáo La Mã, vốn là tư tưởng chủ đạo của thuyết Nhân Vị -
Nghị định số 116-BNV/CT do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Nguyễn Ngọc Thơ ban hành tại
Sài Gòn ngày 2-9-1954 “cho phép thành lập Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng 
Đó là tình hình lúc bấy giờ, vào mùa xuân năm 1954, khi CIA lần đầu tiên bắt đầu dính dự với đảng Cần Lao. Trạm CIA tại Sài Gòn đã liên lạc với Ngô Đình Nhu kể từ năm 1951, nhưng lúc đầu Trạm CIA xem Nhu chủ yếu chỉ như một nguồn thông tin về chính trường Sài Gòn. Chỉ đến vào mùa xuân năm 1954, ngay trước khi Ngô Đình Diệm nắm quyền lãnh đạo của vùng đất sẽ trở thành miền Nam Việt Nam, thì Trạm CIA mới đề xuất nâng cấp quan hệ với Nhu. Nhân vật chủ chốt ở đây là cá nhân một sĩ quan của Trạm tên là Paul Harwood, người đứng đầu phân ban hoạt động bí mật. Harwood tìm hiểu về đảng Cần Lao từ Nhu và ông ta đề nghị giúp Nhu biến nó thành một công tác chuyên hoạt động chính trị bí mật. Và điều này đã bắt đầu một thời kỳ dài của CIA dính d với đảng Cần Lao và các bộ phận liên hệ, vốn kéo dài, lúc có lúc không, cho đến những năm đầu thập niên 1960s.
Một trong những lý do mà CIA quyết định dính dự với đảng Cần Lao là tại thời điểm đó, Nhu đang chuẩn bị để tái tổ chức lại đảng Cần Lao hầu làm cho nó có tính cơ cấu hơn và trở thành một công cụ chính trị mạnh mẽ hơn. Và những gì Nhu làm là tạo ra ba bộ phận mới gắn kết với đảng Cần Lao. Vì vậy, tôi chỉ muốn nói ngắn gọn về ba bộ phận nầy và lãnh đạo của chúng.

■ Một vài quý vị có thể quen thuộc với t chức đầu tiên của ba bộ phận này, vốn là một tổ chức được gọi là Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (PTCMQG). PTCMQG là một tổ chức chính trị nổi; nghĩa là, nó hoạt động một cách công khai. Đó là một tổ chức vận động quần chúng. Nó được cho là phương tiện mà chế độ này có thể sử dụng để tranh thủ người dân Việt bình thường ủng hộ chính phủ. PTCMQG sử dụng những kỹ thuật tuyên truyền và tâm lý khác nhau để thực hiện điều này, tổ chức nhiều cuộc biểu tình ủng hộ chế độ, các bài phát biểu, các buổi tuyên truyền. Và cuối cùng nó đã xây dựng được một mạng lưới về tận nông thôn xuống đến cấp làng xã. PTCMQG đã đóng một vai trò quan trọng trong một hoạt động gọi là Chiến Dịch T Cộng, vốn là một chiến dịch vận động khối lượng lớn quần chúng, được ra mắt vào năm 1955.
Bề ngoài, PTCMQG là một đảng chính trị độc lập, nhưng trong thực tế, Phong Trào được điều khiển bởi đảng viên cấp cao của đảng Cần Lao và nó thực sự là một tổ chức ngoại vi của đảng Cần Lao. Nhân vật chủ chốt của PTCMQG là một người tên là Trần Chánh Thành. [Và nếu quý vị nhìn vào mặt trái của xấp tài liệu, quý vị sẽ thấy ảnh của ông ta trong đó]. Thành vừa là Chủ tịch của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia vừa là Bộ trưởng Bộ Thông Tin của chế độ Diệm. Vì vậy, ông ta cơ bản chuyên viên tuyên truyền cao nhất trong những năm đầu của chế độ. Giống như những người anh em nhà Ngô, ông ta gốc miền Trung Việt Nam. Điều thú vị là ông ta không phải người Công giáo. Một điều thú vị khác về Thành là ông ta nguyên là một cựu quan chức Việt Minh. Ông ta đã gia nhập Việt Minh vào năm 1945. Ông ta đã thực sự phục vụ trong vài năm như một quan chức trong chính phủ của Hồ Chí Minh trước khi vỡ mộng. Cuối cùng, ông ta v Sài Gòn trong những năm đầu thập niên ‘50s và đó là nơi ông móc nối được với Nhu và trở thành một đảng viên sáng lập của đảng Cần Lao.
Trong hai năm 1955 1956, Thành xây dựng hệ thống tuyên truyền sâu rộng ở Nam Việt Nam, và trong quá trình đó, quyền lực của ông ta trở nên rất mạnh. Rất nhiều báo cáo tại Nam Việt Nam trong năm 1955 cho Thành là nhân vật quyền lực nhất tại Nam Việt Nam không phải là một thành viên của gia đình họ Ngô. Vì vậy, dù sao thì có một lúc, ông ta trở nên khá có thế lực.

Tổ chức chi nhánh thứ nhì của đảng Cần Lao mà Nhu thiết lập trong năm đầu tiên Diệm cai trị
một nhóm gì đó mà tên tiếng ViệtLiên Kỳ B Nam-Bắc Việt, đơn giản rút ngắn Liên Kỳ. Liên 
Kỳ rất khác Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia. Một điều rõ ràng Liên Kỳ nhỏ hơn nhiều. Đó là 
một tổ chức bí mật. Nó chỉ gồm các đảng viên đảng Cần Lao, và nó được trao cho một số trách 
nhiệm liên quan đến các hoạt động nội bộ của đảng. Điều quan trọng nhất của những trách nhiệm 
này  kinh tài. T đầu năm 1955, Liên Kỳ bắt đầu xây dựng một mạng lưới kinh doanh do đảng Cần 
Lao kiểm soát, và cuối cùng phát triển thành một đế chế kinh doanh khá đáng kể, đến mức mà đảng 
Cần Lao đã tham gia vào rất nhiều, nếu không phải hầu hết, các doanh nghiệp và các ngành 
công nghiệp lớn ở miền Nam Việt Nam.
Người được Nhu chọn để điều hành Liên Kỳ là Huỳnh Văn Lang. [Một bức ảnh của ông ta cũng xuất hiện trên xấp tài liệu]. Ông ta còn rất trẻ. Ông ta chỉ khoảng 26 tuổi vào năm 1955 nhưng đã có vài phẩm chất giúp tiến cử ông ta với Nhu. Ông ta là một người Công giáo. Ông xuất thân từ đồng bằng sông Cửu Long. Ông ta có một bằng cấp cao về kinh tế. Ông vừa du học ở nước ngoài v nên hấp dẫn Nhu. Trước đây, ông ta không phải là đảng viên của đảng Cần Lao. Tuy nhiên, ông ta đã tham dự hội thảo Đà Lạt. [Nếu quý vị lật lại tấm ảnh của buổi hội thảo, nhìn qua hết bên trái của bức ảnh, người đó chính là chàng thanh niên Huỳnh Văn Lang]. Vì vậy, ông ta thực sự có hiểu biết điều gì đó về thuyết Nhân Vị, điều nầy làm Nhu thấy hấp dẫn .
Lang vẫn còn sống. Tôi phỏng vấn ông ta hai năm trước đây. Ông ta giải thích cho tôi làm thế nào ông ta đã xây dựng mạng lưới kinh doanh Liên Kỳ này. Tôi sẽ không làm quý vị chán với các chi tiết đẫm máu [gory details] ở đây, nhưng về cơ bản, ông ta đã có một việc làm – ông ta đã có một việc làm ban ngày trong vai trò là người đứng đầu của Viện Hối Đoái, và ông ta đã có thể rót tiền mà Viện Hối Đoái thu được như tiền phạt các giao dịch tiền tệ bất hợp pháp chẳng hạn. Ông ta đã có thể rót số tiền này vào các hoạt động của Liên Kỳ. Và trong quá trình đó, ông ta đã có thể xây dựng được mạng lưới các doanh nghiệp nầy.

Tổ chức cuối cùng mà Nhu thiết lập vào giữa những năm 1950s dưới sự bảo trợ của đảng Cần Lao là khá kín đáo có tên là Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội. Tổ chức này được thành lập như một cơ quan chính thức của Chính phủ Nam Việt Nam, vì vậy nó thực sự - một lần nữa - không phải là một bí mật về mặt cơ chế. Đó là một cơ quan mở. Không giống như các bộ phận khác của đảng Cần Lao, cơ quan này đã gần như luôn luôn được gọi bằng tên tiếng Pháp của , và đặc biệt là gọi bằng cách xếp những mẫu tự tiếng Pháp của mình, S-E-P-E-S [Services d' Etudes Politiques Et Sociales], phát âm là "xê-pê".
Các nhiệm vụ chính thức của SEPES rà soát các ứng viên xin vào làm việc cho chính phủ. Nhưng trong thực tế, SEPES có một bản toát yếu rộng hơn nhiều; thực hiện đủ loại nhiệm vụ bí mật. SEPES tiến hành hoạt động gián điệp và tình báo liên quan đến Bắc Việt Nam, hoạt động phản gián chống lại cán bộ đặc vụ Cộng sản tại miền Nam Việt Nam. Việc giám sát nhà nước Việt Nam, giám sát bộ máy hành chánh, và giám sát quân đội thì chủ yếu do SEPES thực hiện. Rà soát các đảng viên mới của đảng Cần Lao, đào tạo và cải tạo tư tưởng, cũng như thực hiện các loại kinh tài - ví dụ, bán giấy phép nhập khẩu và xuất khẩu. Và cuối cùng, SEPES cũng đã tham gia vào việc bắt giữ - điều tra, câu lưu, tạm giữ những ai bị nghi ngờ kẻ thù của chế độ, bao gồm một mạng lưới các nhà tù đặc biệt.
Người đứng đầu SEPES là một cá nhân tên là Trần Kim Tuyến. Ông được nhiều người biết đến chỉ đơn giản như là “Bác sĩ Tuyến. Ông là một người Công giáo Bắc Việt Nam. Ông vốn là một cựu chủng sinh Công giáo. Ông đã từng học y khoa. Ông chưa bao giờ thực sự hành nghnhư một bác sĩ, nhưng vì ông đã học y khoa nên tất cả mọi người gọi ông là Bác sĩ Tuyến. Về thể chất, tầm vóc của ông rất nhỏ. [Tấm ảnh trên tập kèm theo có lẽ không hoàn toàn phản ảnh đúng với ôngy]. Hình như ông cân nặng dưới 45 . Nhưng ông đã tỏa một cái bóng lớn trên cảnh quan Nam Việt Nam. Ông là một nhân vật rất có thế lực trong một giai đoạn. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên, ông đã tham gia vào những âm mưu chống Cộng trong vùng Công giáo ở Bắc Việt Nam. Đó là lần đầu tiên ông ta gặp anh em nhà Ngô. Sau đó, ông đã được họ tuyển dụng vào năm 1954 rồi bổ nhiệm đứng đầu SEPES năm 1955.
Từ trái: Trần Chánh Thành - Huỳnh Văn Lang - Trần Kim Tuyến
Tóm lại, đóba bộ phận chủ chốt của đảng Cần Lao do Nhu thiết lập. Tôi chỉ muốn có hai nhận xét về ba tổ chức nầy. Trước hết, điều quan trọng là cần nhận ra rằng ba tổ chức này chỉ hoạt động ở phần phía Nam của Nam Việt Nam, tức là Nam Kỳ cũ, về cơ bản các khu vực chung quanh Sài Gòn và Đồng bằng sông Cửu Long. Điều này là các phân b của đảng Cần Lao miền Trung Việt Nam thì lại dưới trướng của Ngô Đình Cẩn, một trong những anh em nhà Ngô, và lát nữa, tôi sẽ nói thêm về điều nầy.
Điểm khác tôi muốn nhận xét ở đây là CIA đã có mối quan hệ với tất cả ba bộ phận này. Bắt đầu với Paul Harwood và tiếp tục với những người kế nhiệm của ông ta, CIA đã tài trợ và huấn luyện cho Trần Chánh Thành và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia. Họ cũng hỗ trợ cho Trần Kim Tuyến và SEPES một phần vì họ muốn cộng tác trong lãnh vực thu thập tình báo với SEPES. CIA cũng đã có một mối quan hệ với Huỳnh Văn Lang. Mối quan hệ nầy hình như không liên quan đến việc hỗ trợ vật chất, nhưng họ chắc chắn biết ông ta là ai và đã tiếp xúc với ông ta.

Như vậy, CIA chắc chắn đã dính d với đảng Cần Lao. Mặc dù vậy, CIA không đạt được những gì họ muốn t đảng Cần Lao. Và công trình nghiên cứu của Thomas Ahern mà tôi đề cập trước đây thực sự đã trình bày điều này khá rõ ràng. Và dĩ nhiên câu hỏi điều này đặt ra là tại sao? Tại sao không xãy ra như cách CIA muốn? Cơ quan này kết luận rằng tại vì Nhu có những ưu tiên khác, rằng ông ta không thực sự quan tâm đến việc hợp tác với họ. Quan điểm của tôi là tôi không nghĩ rằng điều nầy hoàn toàn đúng. Tôi nghĩ rằng, trên thực tế, các quan chức Mỹ và Ngô Đình Nhu đã thực sự không phải khác xa nhau về mục tiêu cho đảng Cần Lao. Tôi nghĩ cả hai bên đều đồng ý rằng xây dựng đảng Cần Lao thành một tổ chức hoạt động chính trị bí mật là một mục tiêu cả hai đều mong muốn. Đối với Nhu, xây dựng được shỗ trợ của quần chúng cho chế độ là một điều tốt. Năm 1958 - đây chính là một tài liệu trong tập [FRUS] đầu tiên - Elbridge Dubrow, đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam, nói rằng, xin trích dẫn, ông ta "không phản đối chuyện đảng Cần Lao giúp điều hành đất nước và phối hợp kỷ luật với phát triển."
Vì vậy, vấn đề ở đây không phải là người Mỹ thì đang cố gắng thúc đẩy những lý tưởng dân chủ trong lúc Nhu thì lại độc tài toàn trị. Tôi nghĩ rằng vấn đề liên quan đến vài đặc tính của đảng Cần Lao và cách thức mà Nhu lập đảng. Và nói rất ngắn gọn, tôi nghĩ rằng có hai loại vấn đề với đảng Cần Lao. Một là ý thức hệ; hai là một loạt các vấn đề v tổ chức. Về những vấn đề ý thức hệ, không có bằng chứng cho thấy học thuyết Nhân Vị có sức hấp dẫn rộng lớn ở Nam Việt Nam. Và trên thực tế, không thực sự bất kỳ bằng chứng nào cho thấy bất cứ ai, ngoài Diệm và Nhu và một vài người khác - một số nhỏ những người ủng hộ chế độ, là có thể thực sự hiểu được những gì Nhu trình bày về thuyết Nhân Vị.
Thực tế là tôi đã không tìm ra được nhiều tài liệu của đảng Cần Lao trong kho lưu trữ tại Sài Gòn, tuy nhiên, một tài liệu tôi đã tìm ra, vốn phát hành từ năm 1960, là một tài liệu huấn luyện coi như các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Nhân Vị. Và [trong đó] dường như gợi ý rằng điều quan trọng là các đảng viên cần một khóa học bồi dưỡng bởi vì không ai trong tổ chức thực sự hiểu triết lý chính thức của chủ nghĩa Nhân Vị là gì cả. Vì vậy, tôi nghĩ rằng ý thức hệ là một vấn đề đối với đảng Cần Lao.

Ngoài các vấn đề ý thức hệ, còn có những vấn đề tổ chức. Ngay từ đầu, đảng Cần Lao đã bị bao vây bởi tình trạng bè phái. Các phe phái khác nhau của đảng cạnh tranh ác liệt và gay gắt [fierce and bitter] với nhau. Tình trạng bè phái này không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Đúng ra, nó là một hàm s của cách thức mà Nhu lập đảng. Đôi khi, có người gợi ý rằng đảng Cần Lao được tổ chức theo nguyên tắc của Lênin. Người ta nghĩ rằng mặc dù thực tế Nhu là một người chống Cộng nhưng thực sự đã vay mượn chiến lược tổ chức của Lênin. Tôi không nghĩ rằng điều này là đúng. Trong một đảng theo kiểu của Lênin, cuối cùng, quý vị sẽ có một tổ chức rất tập trung. Đảng Cần Lao không bao giờ có một bộ chính trị hay một ủy ban trung ương. Trong nhiều trường hợp, Nhu đã làm điều ngược lại. Ông ta đã thành lập các bộ phận khác nhau vi cách làm thế nào để về cơ bản, sẽ bảo đảm những tổ chức nầy chống lại nhau.
Vì vậy, ba bộ phận mà tôi đã đề cập ở trên đã có mối quan hệ với rất nhiều tranh chấp gần như ngay từ đầu. Ví dụ, bắt đầu từ khoảng năm 1956, Trần Chánh Thành thấy mình là đối tượng của một chiến dịch bôi nhọ, mà cuối cùng được truy trở lại từ Bác sĩ Tuyến và SEPES. Thành bị chỉ trích trên báo chí do Tuyến điều khiển. Điều nầy làm n ra một cuộc chiến mà về cơ bản kéo dài cho đến năm 1960. Kết quả là Thành bị lật đổ khỏi vị trí người đứng đầu của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia. Ông xoay sđể vẫn cònm Bộ trưởng Thông Tin cho đến năm 1960, nhưng vào thời điểm đó, cuối cùng, Tuyến cũng đã qua mặt ông Trần Chánh Thành bị gửi đến nhiệm sở mới của mình như là Đại sứ Nam Việt Nam tại Tunisia, vốn ít hấp dẫn một cách đáng kể hơn so với vị trí cũ của mình.
Huỳnh Văn Lang cũng đã đối diện với một cuộc chiến với Bác sĩ Tuyến. Năm 1958, Nhu nói với Lang rằng Nhu sẽ giải tán Liên Kỳ. Lang điều tra và phát hiện ra rằng Nhu đang giải quyết một số khiếu nại của Bác sĩ Tuyến chống lại Lang. Vì vậy, đã có rất nhiều tranh chấp trong các tổ chức do Nhu thành lập.
Hai anh em thủ lãnh đảng Cần Lao:
Ngô Đình Nhu (1910-1963) trái, và Ngô Đình Cẩn (1911-1964)
Thêm vào tình trạng nầy là một cuộc tranh chấp to lớn khác để kiểm soát đảng Cần Lao, diễn ra trong nội bộ gia đình họ Ngô. Và ở đây, hai kẻ đối kháng là Ngô Đình Nhu một bên và người em khác tôi đã đề cập trước đó, Ngô Đình Cẩn. Kể từ năm 1954, như tôi đã đề cập, đảng Cần Lao đã có sự phân chia quyền lực theo địa lý. Nhu điều hành phía Nam và Ngô Đình Cẩn là lãnh tụ tối cao miền Trung. Lúc đầu, Cẩn đồng ý là chỉ điều hành miền Trung Việt Nam, nhưng khoảng 1957, ông ta bắt đầu xâm nhập vào lãnh thổ của Nhu. Ông ta gửi người trung thành với mình như các tỉnh trưởng để tiếp quản các tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long. Ông ta cũng mở rộng bộ máy bí mật của mình ở phía Nam. Cẩn gửi các cán bộ của mình vào Sài Gòn và họ bắt đầu thực sự cạnh tranh và xung đột với một số người của Nhu. Một số thành viên của nhóm Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị bỏ tù vài tháng một tỉnh trưởng ủng hộ Ngô Đình Cẩn, và Trần Kim Tuyến và SEPES thực sự phải thu nhỏ tổ chức lại, giới hạn hoạt động lại để nhường chỗ cho Cẩn.
Nhưng, trong dài hạn, nỗ lực của Cẩn tìm cách một mình kiểm soát hết đảng Cần Lao đã không thành công. Vào khoảng năm 1960, ảnh hưởng của Cn rơi sâu xuống dốc và Nhu mạnh mẽ trở lại. Và điều này rất quan trọng đối với lịch sử tiếp theo của chế độ Diệm vì Nhu rất có thế lực, thực sự trở thành một nhân vật nổi bật trong chế độ từ năm 1960 trở đi. Tôi sẽ không nói v những lý do của sự trở lại này. Nhưng nếu chúng ta muốn khám phá nó trong phần vấn đáp, chúng ta chắc chắn có thể thảo luận điều đó. Nhưng chúng ta dư sức nói rằng những tác động lâu dài của sự trở lại này là rất quan trọng đối với chế độ Diệm. Những sự ganh đua giữa các anh em họ Ngô sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến chế độ, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ vào năm 1963.

Đ kết luận, tôi chỉ xin nêu ba điểm.
Điểm đầu tiên là, như tôi đã chỉ ra, đảng Cần Lao là một tổ chức hết sức bè phái. Và điều này có ý nghĩa lớn đối với cách chúng ta hiểu nền chính trị Nam Việt Nam trong giai đoạn Diệm. Trái ngược với quan điểm phổ biến, đảng Cần Lao không siêu-tập trung kiểu Leninit. Đã có những phân hóa giữa các bộ phận của đảng Cần Lao khi Nhu thiết lập đảng. Và sau đó, ngoài sự phân hóa trên, lại có sự cạnh tranh giữa Nhu và Cn.
Điểm thứ hai ở đây là cách ứng phó của Cơ quan Tình báo Trung ương CIA đối với đảng Cần Lao cần phải được hiểu trong ánh sáng của tình hình bè phái nói trên. CIA chắc chắn ý thức được có các tranh chấp trong đảng Cần Lao, nhưng dường như CIA đã hiểu rất chậm rằng những tranh chấp đó đã ảnh hưởng và phá hoại cái tham vọng họ dành cho đảng Cần Lao.
● Điểm cuối cùng,một cách nào đó cũng là điểm quan trọng nhất, liên quan đến những tác động lâu 
dài đối với lịch sử của chế độ Diệm từ những phát hiện về đảng Cần Lao. Trong bài thuyết trình này, 
tôi sẽ không thảo luận về năm 1963 và các sự kiện dẫn tới sự sụp đổ của chế độ Diệm, nhưng ở đây, 
tôi sẽ cung cấp cho quý vị chỉ một sự kiện thú vị về thời kỳ đó. 
 
Năm 1963, tôi chắc chắn rằng tất cả quý vị đều biết, đã có một cuộc khủng hoảng lớn tại Nam Việt 
Nam và đã có rất nhiều âm mưu đảo chính đng diễn ra chống lại chế độ Diệm. Có ba âm mưu đảo 
chính tiến nh vào mùa thu năm 1963 được coi là đặc biệt có thực chất hoặc nghiêm trọng. Âm 
mưu đầu tiên, tất nhiên, là âm mưu đã thành công. Âm mưu này được lãnh đạo bởi các tướng hàng 
đầu trong quân đội miền Nam Việt Nam. Những kẻ cầm đầu âm mưu này là tướng Trần Văn Đôn và 
Trần Văn Minh [Dương Văn Minh?]. Họ không phải là đảng viên đảng Cần Lao. Tuy nhiên, để âm 
mưu thành công, họ phải tuyển mộ những sĩ quan quân đội là đảng viên Cần Lao. Và sỉ quan Cần 
Lao quan trọng nhất trong số này là một vị tướng tên là Tôn Thất Đính, người chỉ huy vùng Sài Gòn. 
Vậy thì âm mưu đầu tiên đã có một yếu tố Cần Lao quan trọng trong đó.
Hai âm mưu khác cũng đang được tiến hành vào mùa thu năm 1963, một âm mưu do Huỳnh Văn Lang, cựu giám đốc của Liên Kỳ, lãnh đạo. Và âm mưu kia thì được lãnh đạo bởi không ai khác hơn là Bác sĩ Tuyến, người vào năm 1963 đã hoàn toàn thoát ra khỏi Nhu. Vì vậy, tôi nghĩ rằng điều này cho thấy đảng Cần Lao là thực sự quan trọng trong lịch sử của chế độ Diệm, nhưng quan trọng theo cách - theo cách chính trị mà tôi không nghĩ rằng chúng ta đã hiểu, và hy vọng chúng ta sẽ học hỏi thêm khi có nhiều nghiên cứu được thực hiện về chủ đề này.

[Xin cảm ơn nhiều. Vỗ tay]

Dịch tVanguard of the “Personalist Revolution”: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu and the Rise of the Cần Lao Party” của Edward Miller, 2010.
● Sưu tầm, Nhấn mạnh và Hình ảnh thêm vào của Kevin Trần


THE AMERICAN EXPERIENCE IN SOUTHEAST ASIA, 1946-1975
With Friends Like These: The United States and its Allies
East Auditorium, George C. Marshall Conference Center
Washington, D.C. 
September 30, 2010

·         Chair: Erin Mahan, Chief Historian, Office of the Secretary of Defense
·         Edward Miller, Dartmouth College, “Vanguard of the “Personalist Revolution”: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu and the Rise of the Cần Lao Party
·         Effie Pedaliu, University of the West of England-Bristol, “When ‘More Flags’ Meant ‘No European Flags’: The U.S., Its European Allies and the Vietnam War, 1964–74
·         Andrew Wiest, The University of Southern Mississippi, “Anatomy of a Flawed Alliance: The Nature of the U.S. Alliance with the Republic of Vietnam Armed Forces during the Vietnam War
·         Commentator: Fred Logevall, Cornell University