Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2014


CHIẾN DỊCH HOÀNG DIỆU
VÀ SỰ THẬT VỀ KHO TÀNG BẢY VIỄN
(Hay Âm mưu Đánh tráo Lịch sử
của hai Luật gia Lâm Lễ TrinhNguyễn Văn Chức)

Trịnh Bá Lộc


Sau khi bị đẩy lui khỏi Đô Thành, Bảy Viễn rút quân về Rừng Sát, hy vọng có thể cố thủ cứ địa hiểm trở cũ của Bình Xuyên trước khi về đầu thú Pháp. Chỉ hai ngày sau khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước Tạm thời và trở thành Tổng Thống VNCH, Đại Tá Dương Văn Minh hoàn tất vẻ vang chiến dịch Hoàng Diệu.

Từ sau ngày đoàn quân chiến thắng trở về Thủ Đô, không hiểu vì sao, thỉnh thoảng trên báo chí và trên các sách phổ biến sau khi Đại Tướng Dương Văn Minh qua đời, có nhiều nghi vấn được tung ra về việc kho vàng và tiền mặt tịch thâu được của Bảy Viễn. Ngày 29/6/2008 vừa qua, phóng viên của Đài Phát Thanh Hải Ngoại tại Washington DC. có đặt câu hỏi này và được Ông Trịnh Bá Lộc, nguyên Sĩ Quan Tùy Viên của Đại Tướng Dương Văn Minh giải thích và làm sáng tỏ vấn đề như sau:

Câu hỏi:
Có dư luận cho rằng trong thời kỳ dẹp loạn Bình Xuyên, ÐT Minh đã tịch thu được rất nhiều vàng bạc và tiền mặt của Bình Xuyên, nhưng ÐT đã không giao số chiến lợi phẩm này lại cho chính phủ Ngô Ðình Diệm, mà lại tẩu tán làm của riêng. Thưa Ông, ông có biết gì về chuyện này không ?

Trả lời:
Dư luận này bộc phát lần đầu tiên là vào năm 1971, khi Sài Gòn bắt đầu chuẩn bị cuộc tranh cử Tổng Thống. Khi Đại Tướng Dương Văn Minh vừa mới có đủ chữ ký giới thiệu của số Dân biểu và Thượng Nghị sĩ, theo luật đòi hỏi thời đó, thì trong mục chuyện phiếm, rất châm biếm, nhưng vô trách nhiệm, của báo Hoà Bình do Cha Trần Du (?) chủ trương, tác giả VIP KK viết về tin đồn này.
Dân Biểu Dương Văn Ba tường thuật lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh và Bộ Tham Mưu chánh trị của ông biết. Giáo Sư Võ Văn Hải liền đề nghị cho tôi liên lạc thử với Thiếu Tá Đặng Văn Hoa, nguyên Chánh Văn Phòng của Trung Tướng Trần Văn Đôn trong thờì gian 1950-1960, để mượn tất cả các "cùi" (souches) chi phiếu trong chương mục Nha Tổng Giám Đốc Ngân khố, của văn phòng đặc biệt Phủ Tổng Thống, thời ông Diệm, do Giáo sư Hải phụ trách. Tôi liền nhớ ra các cùi chi phiếu này Thiếu Tá Đặng Văn Hoa đã giao lại tôi hồi tháng 11 năm 1963, nên tôi đã tìm và thấy trong một souche có ghi trị giá của nó, và bên cạnh có ghi rõ ràng như sau:" số tiền bán vàng tịch thâu của Bình Xuyên, Tổng Thống cho Cô Nhi Viện Quốc Gia Thủ Đức". Lập tức, luật sư Võ Văn Quan, đại diện Đại Tướng Dương Văn Minh, yêu cầu Báo Hòa Bình đăng bài đính chánh, và bài này có kèm theo phóng ảnh cùi chi phiếu nói trên.

Tôi cũng tự ý trao một bản cho ký giả Lê Hiền, báo Công Luận của Thượng Nghị Sĩ Tôn Thất Đính. Ngày hôm sau, nhật báo Công Luận đăng liền phía trên góc phải, và báo Hoà Bình cũng phải cải chánh, và đăng thư của Luật sư Quan bên cạnh mục thường xuyên của VIP KK.

Vào năm 2003 hoăc 2004 gì đó, sau khi Đại Tướng Dương Văn Minh qua đời, tập san "Con Ong" ở Houston, trong mục của VIP KK, lại đăng tải một bài tương tợ như thế. Lần này, chính Luật sư Nguyễn Văn Chức tự nhận mình là VIP KK.
Rồi Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh cũng bắt chước theo, bằng lời lẽ như sau: 

"...Với tư cách Bộ Trưởng Nội Vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường hợp tẩu tán kho vàng Bảy Viễn chứa trong một thùng kẽm lớn, theo phúc trình của Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tỉnh Trưởng Chợ Lớn, Phụ Tá Hành Quân cho Ông Minh trong cuộc tảo thanh Rừng Sát. Người viết có mời Tướng Minh đến để giải thích. Vì lý do chính trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư Lệnh Hành Quân bị giải tán, tướng Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tồng Thống, một chức vụ tượng trưng"...(Về Nguồn, Trang 85).

Làm sao tôi phản bác lại bây giờ? Báo Hoà Bình và Công Luận năm 1971 cũng như làm sao tôi tìm lại được các cùi chi phiếu cũ? Rời khỏi Saì Gòn không kịp chuẩn bị, gia đình tôi bốn người, chỉ có bốn giỏ nhỏ, vì đi bằng trực thăng của Air America, đâu có ngày giờ nghỉ đến các cùi chi phiếu không còn giá trị thực tiển nữa?
      


May thay, một tình cờ hiếm có, tôi đọc được Quyển “1945-1964 Việc Từng Ngày - Hai Mươi Năm Qua”, của Ông Đoàn Thêm. Tác giả ghi lại rất trung thực, một cách phi chánh trị. Nhờ chức vụ cao cấp mà Ông đảm nhiệm tại Phủ Thủ Tướng và Phủ Tổng Thống thời Đệ  Nhất Cộng Hòa, nên gần như tất cả những gì xảy ra trong thời gian này, dù nhỏ hay lớn đều được ông ghi lại một cách chính xác, và có kèm theo ngày tháng rõ ràng. Thí dụ như nơi trang 198, Ông ghi:
25-6-1956: - không biết ai đề nghị làm lễ Thánh Bổn mạng T.T. Ngô Đình Diệm.
Sách này xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn vào giữa thập niên 60, do Lãng Nhân đề tưạ, có đoạn viết: . . ."Soạn giả thừa biết rằng không thể nào kể hết các việc đáng chú trọng, và còn tự hạn chế vì phải thận trọng, nên chỉ ghi lại nếu thấy hội đủ những điều kiện sau:
- khi có ngày tháng đích xác;
- khi việc đã được nhiều người biết, đã xảy ra thật, hoặc ít nhất là được cơ quan ngôn luận loan truyền: nếu chỉ là tin đồn, soạn giả cũng ghi rõ"...

Và đây, điều quý giá mà tôi tình cờ đọc được nơi (2 dòng) cuối trang 191 và (3 dòng) đầu trang 192:

“3.3.1956 - Tổng số quân Pháp ở VN còn có trên 20.000, và sẽ triệt thoái dần.
- Thiếu-Tướng Dương-văn-Minh họp báo nói về các chiến-dịch miền Tây và sự hợp tác của Tướng Trần Văn Soái. Tướng Minh cho biết trong chiến-dịch Hoàng-Diệu, đã tịch thâu 20 kí vàng và 16 triệu 1/2 bạc, số tiền này sẽ dùng để xây cất một Cô-Nhi-Viện Quốc-Gia.”



Tôi đọc tới đọc lui nhiều lần hai trang này. Tôi sợ rằng mình nằm mơ. Tôi làm phóng ảnh gởi vài người bạn hỏi ý kiến, sợ mình hiểu lầm chăng? 

Như vừa trình với quí vị, Thiếu Tướng Dương Văn Minh đã công khai hóa chiến lợi phẩm này lối năm tháng sau khi hoàn tất chiến dịch Hoàng Diệu. Trước đó, vì tính cách giá trị to lớn, Ông phải tường trình lên các cấp chỉ huy theo hệ thống quân giai, với nhiều đề nghị khác nhau lên đến Tổng Thống VNCH đễ nhận quyết định tối hâu. Và chiến lợi phẩm bằng quí kim và tiền mặt đã phải được ghi rõ ràng trong báo cáo, nên không sợ bị thất thoát hoặc hư hại. Vào thời điểm nói trên, muốn tổ chức cuộc họp báo, các cấp chỉ huy trong quân đội, dù là Tư Lệnh Chiến dịch, đều phải được sự chấp thuận trước của Nha Chiến Tranh Tâm Lý Bộ Quốc phòng, và với giá trị to lớn của vụ vàng và tiền mặt tịch thu trong chiến dịch Hoàng Diệu, dùng để xây Cô Nhi Viện Quốc Gia, phải do quyết định của Tổng Thống VNCH.

Hồi tháng 9 năm vừa qua, tôi được đọc tác phẩm "Can Trường Trong Chiến Bại” của Đô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, cũng có một đoạn nói đến "Vụ Vàng Tiền Bình Xuyên" nơi trang 28, 29, 30, 31 nhưng dè dặt hơn.
Tôi viết thư và gởi cho tác giả xem những điều tôi nghiên cứu để phát biểu về vấn đề vàng Bình Xuyên. Tôi nghĩ rằng giữa hai quân nhân, giữa tình chiến hữu và nhứt là Ông đã từng là Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi Tùy Viên của Đại Tướng Dương Văn Minh, hai lần giữ chức vụ cao nhứt của đất nước, vị Đô Đốc này và tôi dễ thông cảm hơn là đối với các chính trị gia chuyên nghiệp, có nhiều định kiến.

Và đúng như tôi đã nghĩ, dù Đô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và tôi chưa hề quen biết, khi nhận điện thư của tôi là lúc Ông đang có mặt tại California vì việc hệ trọng, Ông vẫn tìm cách trả lời tôi ngày 10/6/2008:

“Anh Lộc thân,
Thành thật cám ơn anh Lộc đã làm việc hết sức chu đáo và vô cùng cảm động về sự chú ý đến Danh Dự của Quân đội, để cho tôi xem trước câu trả lời. Lý luận rất vững chắc. Sẽ có dịp hàn huyên thêm với anh”.
Thoại.

Vấn đề nơi đây là cách xử dụng chiến lợi phẩm vàng và tiền mặt, đã được phồ biến rộng rãi từ lâu, đáng lẽ VIP KK, tức Luật Sư Nguyễn Văn Chức, một chánh trị gia, và nhứt là Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh, Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút Tạp Chí Song Ngữ Anh-Pháp Human Rights-Droits de l'Homme từ 1996, Cố Vấn Mạng Lưới Nhân Quyền, phải biết từ lâu. Đáng lẽ họ phải làm việc có khoa học hơn, đàng này, lại làm một việc thiếu thận trọng, không công bằng và cẩu thả, thật không đúng tư cách của một Luật Sư, một Tiến sĩ Luật Khoa, Tiến Sĩ Giáo Dục.

Hơn nữa, nếu ông VIP KK Nguyễn Văn Chức bây giờ cũng chính là VIP KK của báo Hòa Bình ngày xưa, thì chắc chắn ông phải nhớ rằng chính tờ báo của ông đã phải đăng bài đính chánh, kèm theo vật chứng là phóng ảnh của các cùi chi phiếu. Thế mà ông vẫn diễn lại cái tuồng đặt điều vu khống, mà một lần, chính mình đã bị đímh chánh, thì không biết là vì lý do gì?

Tôi cũng xin được nói đôi điều về Ông Lâm Lễ Trinh:
- Ngày 13/4/1956, Ba Cụt bị bắt và trong phiên tòa xử án Ba Cụt, thì Thẩm phán Lâm Lễ Trinh được chỉ định diện Công Tố viên,
- Ngày 13/7/1956, Tướng Lê Quang Vinh bị hành quyết,
- Ngày 5/11/1956, L.S. Nguyễn Hữu Châu từ chức Bộ Trưởng Nội Vụ, Ông Lâm Lễ Trinh thay thế.
Như vậy, trong thời gian đó, ông Trinh đã là một nhân vật tên tuổi, đại diện pháp luật, chả lẽ ông không biết ít nhiều gì về cuộc họp báo ngày 3/3/1956?

Thôi, cứ cho rằng ông không còn nhớ chuyện xưa nữa đi, nhưng sao ông lại viết rằng khi được chỉ định đích thân điều tra vụ "tẩu tán kho vàng Bình Xuyên, Ông đã mời Tướng Minh đến để giải thích...". Đặt chuyện như vậy thì rõ ràng Ông quá coi thường sự hiểu biết của độc giả giới quân nhân. Một vụ hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Quân Đội, có liên quan đến chiến lợi phẩm và một sĩ quan cấp tướng, không lẽ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và nhất là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, lại không biết? Và, nếu cần điều tra một việc như thế, thì Ông Diệm chỉ cần chỉ thị cho người thật sự được Tổng Thống tín nhiệm, là Ông Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống kiêm Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Trần Trung Dung hoặc Ông Nguyễn Đình Thuần, mới hợp luật và hợp quân pháp. Bộ Quốc Phòng VNCH có hai Nha trực thuộc, là Nha Quân Pháp và Nha An Ninh Quân Đội, hai Nha này có đầy đủ thẩm quyền và phương tiện về nhân sự để điều tra một việc hệ trọng như vậy.

Tới đây tôi xin được có một lời nói thẳng với Ông Trinh rằng: dù Ông là Bộ Trưởng Nội Vụ mà ông muốn mời Tướng Minh đến để giải thích việc gì, ít nhất Ông Trinh phi xin phép Bộ Quốc Phòng, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đâu cần phải làm lòng vòng như thế.
Rồi Ông Lâm Lễ Trinh còn viết thêm: “Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư  Lệnh Hành Quân giải tán, tướng Minh được cử làm Cố Vấn Quân sự tại Phủ Tổng Thống, một chức vụ tượng trưng…”
Ông Lâm Lễ Trinh quên rằng Ông bị mất chức Bộ Trưởng Nội Vụ ngày 18/10/1960, trong khi Bộ Tư Lệnh Hành Quân bị giải tán ngày 8/12/1962 để lấy quân số thành lập Bộ Tư Lệnh Lục Quân và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
Sau khi bị cách chức, ngày 8/4/64 Đại Sứ Lâm Lễ Trinh trở về Sài Gòn và tác phẩm của Ông Đoàn Thêm xuất bản lần đầu, năm 1965, tức là sau khi ông Trinh về nước, ông đã vô tình không hay biết. Tác phẩm này lại được tái bản tại Hoa kỳ nhiều năm trước khi Tiến Sĩ Trinh xuất bản Quyển Về Nguồn. Một Tiến Sĩ Luật khoa, đang viết lại một phần lịch sử của đất nước như ông Trinh, một lần nữa cũng không biết sự hiện hữu của một tài liệu có giá trị lịch sử như vầy?
Tôi đã mạng phép gởi phóng ảnh hai trang sách này đến Ông Hồng Phúc. Sách của Đoàn Thêm hiện lưu trữ tại thư viện thành phố Fort Smith, Arkansas (mả số 20075233).

Để kết thúc câu trả lời, tôi xin được nhắc nhở những người đang và đã vu khống kẻ khác, rằng: ngụy tạo sử sách cũng là làm chứng dối, và là một giáo dân, xin ông Francis Lâm Lễ Trinh nhớ lại lời Chúa đã dạy:  “18. Đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cấp, đừng làm chứng dối”. Mathieu  19 (?).



Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014


NHẤT HẠNH VÀ THẬP NIÊN KHAI SÁNG

Quán Như Phạm Văn Minh

 

Phần lớn các chúa Nguyễn là những người sùng đạo Phật và tôn quý giá trị truyền thống. Nguyễn Hoàng vào Hoành Sơn Nhất Đái, đã hỗ trợ việc phát triển Phật Giáo và xây cất chùa chiền ở phía Nam sông Gianh mà nổi tiếng nhất là chùa Thiên Mụ. Điều này cũng không có gì lạ vì các nhà Nho ‘tiến vi sư, thối vi tăng’. Thời loạn lạc, phân tranh Đàng Trong Đàng Ngoài, các võ tướng đóng vai trò quan trọng hơn, các nhà nho không còn tỵ hiềm với các vị sư nữa. Các nhà nho vào chùa, ngồi xuống tương đắc uống một chung trà với sư trụ trì vì ngôi chùa tượng trưng cho giá trị tâm linh của đất nước hay nói nôm na, cái Thiện của làng. Đạo Phật lại trở thành đạo đức truyền thống mà các Chúa có thể nương tựa vào để dựng nước.

Đời Chúa và vua Nguyễn, nhiều danh tăng ra sức chấn hưng cách hành trì Phật Giáo, nâng cao phần trí tuệ thay vì để những hình thức cúng bái cầu đảo lấn áp. Hai thiền sư Nguyên Thiều và Liễu Quán không những có công phát triển phái Thiền Lâm Tế mà còn “Việt hoá” hình thức tu tập.  Lâm Tế phản ảnh trung thực truyền thống Đốn Ngộ của Lục Tổ Huệ Năng ‘Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền’, hầu như huỷ bỏ tu tập hình thức mà chỉ trực tiếp “dĩ tâm ấn tâm”. Lâm Tế là tinh hoa của thái độ quyết liệt "Quách Nhiên Vô Thánh" của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Tuy nhiên thái độ triệt để này cũng có nhiều bất cập. Thí dụ trong khi có nhiều Tổ Sư xuất hiện, thì đại chúng Phật Tử vẫn mê mê mờ mờ trong tín ngưỡng cúng bái mê tín.

Khi thực dân Pháp đến Việt Nam, một tay cầm súng và tay kia cầm đuốc ‘khai hóa’, triều đình và dân chúng phải đối đầu với hai mặt trận cùng một lúc: quân sự và văn hoá. Các nhà nho đã làm hết sức họ, từ ‘khẳng khái cần vương’ như vua Duy Tân, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng đến "thung dung tựu nghĩa" như Hoàng Diệu và Phan Thanh Giản. Khi thấy "cái học nhà nho đã hỏng rồi", một mặt nhà nho phải duy tân như Phan Chu Trinh, mặt khác bạo động một cách vô vọng, không "thành công thì thành nhân" như Phan Bội Châu và Nguyễn Thái Học. Về mặt trận tư tưởng, các nhà nho, các nhà tân học cấp tiến hay cải lương, cho đến cả các trí thức đệ tứ quốc tế như Phan Văn Hùm, đều dồn nổ lực ủng hộ tư tưởng truyền thống còn sót lại để đối đầu với chủ trương cải đạo tập thể của thực dân Pháp và Hội Truyền giáo Hải ngoại. Có nhiều nguyên nhân khiến Phật Giáo phải đứng đầu gió trong nhiệm vụ đối đầu trên mặt trận tư tưởng mà hai lý do quan trọng nhất là sự sụp đổ của Nho giáo tạo ra hố thẵm văn hóa, và sự gắn bó của Phật giáo đối với mệnh nước nổi trôi kể từ khi lập quốc.

Trung Quốc vào đầu thế kỷ 20 bỗng trở thành đồng hội đồng thuyền. Nho giáo ở Trung Quốc là nạn nhân của Liên Minh Thất Quốc, trở thành một nạn nhân đáng thương như nhân vật A Q  của Lỗ Tấn. Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cũng hành động vô vọng như các nho gia Việt Nam. Chủ nghĩa Tam Dân nửa nạc nửa mỡ như thuyết Dân quyền của Phan Chu Trinh. Bấy giờ, trí thức Trung Quốc cũng như trí thức Việt Nam sực tỉnh: Phật giáo đời Đường mà các Nho gia bấy lâu nay kèn cựa tranh dành ảnh hưởng có thể là con đê ngăn chặn các tôn giáo lấp ló sau chánh sách ngoai giao bằng tàu chiến, và đó là chưa kể con cọp Mác Xít lập ló ở miền Đông. Thái Hư Đại Sư lên tiêng kêu gọi chấn hưng Phật Giáo: Cách mạng giáo lý! Cách mạng giáo chế! Cách mạng giáo sản! Lịch sử Trung Quốc cho thấy những ngưới phá hoại chương trình chấn hưng không ai khác hơn là các nhà sư hủ hoá, đám thấy cúng chuyên môn ma chay và cầu đảo, sợ mất quyền lợi. Lời kêu gọi của Thái Hư được giới Nho gia và Tăng già Việt Nam hưởng ứng mạnh mẽ. Chính các nhà nho cải cách phát động phong trào chấn hưng Phật giáo, như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi và cả Phan Chu Trinh. Nhóm đệ tứ trong Nam của Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu cũng đồng tình việc chấn hưng Phật giáo như giá trị tâm linh của dân tộc để chống lại sự tấn công ào ạt của văn hóa phương Tây.  Mặc dù cụ Hồ có lúc lẫn trốn trong chùa khi bị mật thám Pháp lùng bắt, một số các nhà Mác Xit chính thống, như Hải Triều, vẫn còn xem Phật giáo là một triết lý trốn đời kiểu Hồn Bướm Mơ Tiên. Ở đâu cũng vậy, có những người bảo hoàng hơn vua, Mác Xít hơn Mác Xít.

Trong khi phái Nguyên Thiều phát triển mạnh ở Huế và miền trung, các đồ đệ của Liễu Quán vào tận các tỉnh miền Nam như Biên Hoà, Tây Ninh và Hà Tiên. Vào miền Nam, Phật giáo không còn giữ tánh ‘chánh thống’ của Phật giáo, ‘nhập thế’ hơn và phối hợp với tâm chất mộc mạc của người Nam, thành một tôn giáo quyện lẫn với các yếu tố xã hội và chánh trị. Cao Đài miền Đông và nhất là Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây là những biến tướng của Phật Giáo Việt Nam. Sự giản dị tối đa trong nghi lễ, không hình tượng, phái Liễu Quán biến thành Bửu Sơn Kỳ Hường mờ mờ ảo ảo sau bóng Phật Thầy Tây An. Hồ Huệ Tâm Tài, ái nữ của nhà văn Hồ Hữu Tường, cho thấy dấu tích của dòng Liễu Quán trong Phật Giáo Hòa Hảo.

Tuy vẫn có những Thiền Sư chứng ngộ trong dòng Nguyên Thiều và Liễu Quán, tuy nhiên vì "giáo ngoại biệt truyền" nên quần chúng chỉ còn theo nghi thức tịnh độ, cầu đảo. Đối với triều đình và chánh phủ Bảo hộ, Phật giáo chỉ còn được dùng như đồ trang điểm cho ông hoàng bà chúa vào các dịp lễ lạc. Quần chúng bình dân sùng bái Phật giáo như hình thức tín ngưỡng, mê tín nhiều hơn chánh tín. Các nghi lễ đầy mê tín trong khói hương nghi ngút khiến Phật giáo không xứng đáng trong vai trò nền tảng tâm linh của đất nước và dân tộc. Hàng ngũ trí thức được đào tạo trong giáo dục mới tại các đại học Sài Gòn, Huế và Đà Lạt, dù nặng lòng với truyền thống của dân tộc, cũng không còn kỳ vọng vào Phật Giáo, dù mất ngàn năm đã từng "che chở hồn dân tộc".

Thập niên khai sáng

Sở dĩ có lời giới thiệu dài dòng cho văn học thập niên 60 để thấy sự quan trọng của sự bùng vỡ ý thức của thế hệ trí thức trẻ, nhất là trí thức Phật tử, đối với việc tái khám phá những giá trị tinh thần truyền thống mà trước đó họ không muốn nhận, hay nghi ngờ không đủ yếu tố tồn tại trong thời đại duy lý. Một phần vì "lương sư" thì ít, "bất lương sư" thì nhiều, thành phần Tăng già ẩn cư trong thâm sơn, tiếp tục thực hành phương pháp "tâm truyền tâm". Tại miền Nam, các thầy cúng Cổ Sơn Môn hay Lục Hoà Tăng chỉ quanh quẩn trong sinh hoạt ma chay cầu đảo, biến Phật giáo thành tôn giáo của người chết. Một phần khác, các thành phần thân cận thực dân cố gắng cổ động sứ mệnh giáo rắc văn minh, công kích sở đoản của tam giáo như Nho giáo (Tống Nho) từ chương, bế quan toả cảng gây tình trạng lạc hậu, xem Phật giáo là tôn giáo ma quỷ.

Thanh niên nghi ngờ giá trị truyền thống, một số chưa tiêu hóa triết lý Tây phương, lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, như những cô hồn vất vưỡng thiếu cơ sở tâm linh nương dựa. 
Đầu thế kỷ chi có một trường đại học duy nhất ở Hà Nội. Sau năm 1956, có thêm đại học Huế và đại học Thiên chúa ở Đà Lạt. 

Việc chánh phủ Ngô Đình Diệm bị quân nhân lật đổ là một động đất về chánh trị. Năm 1956, các nhóm võ trang như Bình Xuyên và các giáo phái như Cao Đài và Hòa Hảo bị đàn áp nặng nề. Hộ Pháp Phạm Công Tắc phải lưu vong trên Cao Miên, Ba Cụt bị xử tử. Chế độ tưởng như vững vàng không có gì lay chuyển được, nhất là có cả 16 ngàn cố vấn quân sự Mỹ đứng sau lưng làm bùa bảo vệ. Nho giáo chỉ còn thu hẹp trong hội Khổng Học, năm khi mười họa mới tổ chức một buổi diễn thuyết.

Việc đàn áp thô bạo các giáo phái ở miền Nam là lời cảnh cáo nghiêm khắc cho Phật giáo. Trừ ở miền Trung, cái nôi của Phật giáo, sinh hoạt "Phật sự" èo uột. Những bài nghiên cứu trong các tập san của hội Phật Học, Liên Hoa hay Từ Quang, ít độc giả. Chế độ đưa một chủ thuyết Nhân Vị thay thế vào. Trừ các tín đồ, it ai biết về lịch sử tín lý của giáo hội Thiên Chúa vào thời trung cổ, như toà án dị giáo Spanish Inquisition. Ít có người biết đến cuộc cách mạng Pháp 1789 đã mở đầu cho thế kỷ khai sáng ở Âu Châu và sự ‘nổi loạn’ của Tin Lành đối với giáo quyền La Mã. Không mấy ai biết đến tên Jean Calvin hay Martin Luther. Nếu vô tình hay cố ý phiêu lưu vào các lãnh vực này, chế độ không ngần ngại dùng những biện pháp mạnh để trừng trị, như trường hợp hai học giả Nguyến Hiến Lê và Thiên Giang đã dám nhắc tới thuyết tiến hóa của Darwin. Ai cũng phải hát câu thần chú  ‘xin thượng đế ban phép lành cho người’ dù có tin hay không tin. Giấc mộng cải đạo tập thể mà thực dân Pháp lao tâm khổ trí thực hiện nhưng vẫn thất bại, lần này có viễn tượng thành công. 

Thanh niên và trí thức có gia đình theo đạo Phật nhưng phải nói trớ ra là đạo "thờ ông bà" để tránh trở ngại trong sự nghiệp, thấm thía nỗi bơ vơ về mặt tâm linh. Ngó qua trời Tây, họ thấy toàn những triết lý hấp dẫn nhưng xa lạ: Plato, Aquinas, Descartes, hiện tượng luận, trí thức luận, hiện sinh; họ cám ơn các trí thức trẻ đi học ở Pháp về, phần lớn quy tụ ở Đại Học Huế. Tập san Đại Học Huế đã mở cho họ một cánh cửa nhìn ra thế giới tư tưởng bên ngoài.

Ngó về quê nhà, cửa ngõ đìu hiu, nghi ngút khói hương trong lễ nghi cúng bái mà họ biết là không thể chấp nhận được trong thời đại khoa học, dù họ biết là tự bản chất, Nho-Lão-Phật đã cung cấp nền tảng tâm linh cho dân tộc, là triết lý nhân bản của hai nền văn hóa cổ nhất của Đông phương. Đó là hố thẵm của tư tưởng mà thanh niên của thập niên 60 và 70 trãi qua. Mối ngờ vực vào câu thơ của Thiền Sư Mãn Giác ám ảnh họ:

 Mái chùa che chở hồn dân tộc
 Nếp sống muôn đời của tổ tiên. 
  

Hành Trình Khai Sáng

Biến cố tháng 11 năm 1963 không phải chỉ là sự thay đổi chánh quyền. Đối với thanh niên có gia đình theo đạo "thờ Ông Bà", đó là cuộc cách mạng văn hóa, bắt đầu thời kỳ khai sáng. Phật giáo không còn là mớ tín ngưỡng lỗi thời và mê tín nữa, mà là một lực lượng quần chúng có khả năng làm sụp đổ một chế độ. Lần đầu tiên trong nhiều năm, các thanh niên tân học hãnh diện xác nhận mình theo đạo Phật. Cách mạng 63 biến Phật Giáo thành một tôn giáo bình đẳng với Thiên Chuá Giáo về mặt luật pháp. Người cùng tử trong kinh Pháp Hoa đã tìm thấy viên ngọc quý trong nhà và các sinh hoạt văn nghệ và tư tưởng học thuật trong thập niên này đã cho thấy tại sao dân tộc chọn Phật giáo làm nền tảng tâm linh trong mấy ngàn năm qua. Một trong số các nhà sư "đợt sóng mới" đã khởi đầu phong trào giúp đạo Phật hiện đại hóa và đi vào cuộc đời. Đạo Phật không còn là đạo của người chết, ma chay cầu đảo mê tín, mà là một triết lý từ bi và trí tuệ cho người sống: nhà sư đợt sóng mới đó là Thích Nhất Hạnh.  

Trong khi cuộc tranh đấu 1963 bùng nổ, Nhất Hạnh đang nghiên cứu tại đại học Mỹ Columbia. Nhất Hạnh đóng góp những gì có thể làm được cho cuộc tranh đấu: tuyệt thực, phát tài liệu về việc Phật giáo bị đàn áp cho các đại biểu tại Liên Hiệp Quốc, và vận động cho Đại Hội đồng LHQ chấp nhận một phái đoàn sang điều tra tại chỗ. Khi chánh quyền bị quân đội cách mạng lật đổ, Nhất Hạnh được đại học Columbia đề nghị ông thành lập phân ban về Đông Nam Á Học. Tuy nhiên ông nhận được một điện tín khẩn từ linh hồn của cuộc tranh đấu: Trí Quang. Trí Quang viết vắn tắt: “Tôi đã già và bảo thủ, e rằng không cáng đáng nổi trách nhiệm mới. Xin trở về quê nhà giúp đỡ chúng tôi”. 

Nhất Hạnh ngập ngừng vì trong thời gian qua, các nhà lãnh đạo đã từ chối những đề nghị "hiện đại hóa" của các tăng ni trẻ. Nhất Hạnh ra tập san Sen Hái Đầu Mùa, quy tụ các tăng ni trẻ đề nghị một số cải cách. Nhất Hạnh cũng lên Bảo Lộc lập ra Phương Bối Am làm quê hương tâm linh của những tăng ni cấp tiến (ngày xưa khi chưa có giấy, lá Bối được dùng để ghi lại kinh - Bối diệp viết chân kinh). Phương Bối Am đã nuôi dưỡng một vài nhân vật chủ chốt trong phong trào hiện đại hóa, ngoài Nhất Hạnh còn có thầy Thanh Từ, Lý Đại Nguyên (chủ bút tờ Sóng Thần sau này), thầy Thanh Tuệ (nhà xuất bản Lá Bối và sau đó An Tiêm), Từ Mẫn (hiện là cư sĩ Võ Thắng Tiết-nhà xuất bản Lá Bối) Thanh Văn (Giám Đốc trường Thanh Niên Xã Hội đầu tiên), các thầy Thanh Toàn, Đường Bổn. Một nhóm sinh viên là đệ tử đầu tiên của Thầy, trong đó có chị Cao Ngọc Phượng, hiên là sư cô Chân Không.

Tuy nhiên, cuối cùng Nhất Hạnh trở về vì hai lý do: (i) các nhà lãnh đạo có lẽ đã thấy nhu cầu chấn hưng Phật Giáo để đóng góp vào một hoàn cảnh chính trị và xã hội mới; và (ii), tuy chiến tranh vẫn còn hạn chế ở những vùng xa xôi, tuy nhiên sự thành lập của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và những lời tuyên bố mở rộng chiến tranh của Johnson và bộ trưởng Quốc Phòng MacNamara, cho thấy chiến tranh sắp sữa leo thang khốc liệt. Dưới mắt Nhất Hạnh, mọi vận động hòa bình phải qua trung gian của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mới mong có hiệu quả.

Nhất Hạnh về nước qua ngã Paris (để làm lễ thọ giới cho sư cô Trí Hải) và đặt chân trên quê hương vào ngày 16 tháng 12 năm 1963. Vào tháng 5 năm 1966, Nhất Hạnh theo lệnh của nhà lãnh đạo giáo hội, lại khăn gói lên đường qua Mỹ vận động hòa bình. Nhà sư mảnh khảnh này chỉ lưu lại trong nước chừng 2 năm rưỡi. Thế nhưng trong thời gian ngắn ngủi này, những công trình giáo dục, xã hội và văn hóa do Nhất Hạnh khởi phát thành một phong trào sinh hoạt văn hóa Phật Giáo chưa có thời chấn hưng nào có thể so sánh.  

Từ năm 1956 đến 1961, Nhất Hạnh đã đăng thơ và truyện trên nhiều tập san Phật giáo, nhưng phần lớn tập san chỉ lưu hành giới hạn, như tờ Phật Giáo Việt Nam và Từ Quang. Khi về nước lần này, Nhất Hạnh cùng với các tăng trẻ từ Phương Bối Am ra tờ tuần báo Hải Triều Âm và tập san Giữ Thơm Quê Mẹ. Tờ Hải Triều Âm phát hành mỗi tuần gần 50 ngàn số, con số kỷ lục. Link: http://thuvienhoasen.org/a21833/nguyet-san-hai-trieu-am-nam-1973-hoang-phap-nam-1973

Tài hoa của Nhất Hạnh quyến rũ nhiều văn nghệ sĩ Phật tử cũng như không Phật Tử, kể cả Phạm Duy. Độc giả chắc còn nhớ trong trường ca Mẹ Việt Nam, Phạm Duy có hát “chúng con xin nguyền giữ thơm quê mẹ”. Các bài tâm ca như kẻ thù ta đâu có phải là người, viết theo lá thư của Nhất Hạnh gởi mục sư Martin Luther King “In search the enemy of men”. 

Về mặt tư tưởng, với ba tác phẩm Đạo Phật Đi Vào Cuộc ĐờiĐạo Phật Ngày Nay và Đạo Phật Hiện Đại Hóa, Nhất Hạnh đã cho thanh niên và trí thức Phật Tử thấy khía cạnh khác của Phật Giáo. Đó là khía cạnh trí tuệ, ngoài khía cạnh tôn giáo dành cho đại chúng. Đạo Phật không phải chỉ có hình thức cầu đảo cúng bái, không còn là tôn giáo tiêu cực, không phải là tôn giáo tránh đời. Trong một sớm một chiều, thanh niên trí thức nghệ sĩ đua nhau học Thiền, làm thơ Thiền, thực tập Thiền. Nẻo Vào Thiền Học và Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức là hai tác phẩm gối đầu giường của thanh niên sinh viên trong quá trình trở về nguồn, trở vế nền tảng tâm linh của dân tộc. Thanh niên sinh viên công khai hãnh diện tự nhận mình là Phật tử, không còn úp mở nói là "đạo ông bà" như trước. 
Ngoài việc phát khởi văn nghệ Phật giáo, Nhất Hạnh còn khởi công thành lập Trường Cao Đẵng Phật Học, tiền thân của Đại Học Vạn Hạnh. Trước đó, trường Đại Học Văn Khoa chỉ có chứng chỉ Lịch sử Triết học Đông phương, trong khi triết lý Tây phương lại chiếm một phần lơn chương trình Văn Khoa. Ngay cả các môn Triết học Đông phương thì cũng do các giảng sư Linh Mục đảm nhiệm (Kim Định, Bữu Dưỡng, Thiện Cẩm). Tôi không có ý nói là các linh mục này không đủ khả năng giảng dạy (cả ba Linh mục trên đều là học giả có khả năng) tuy nhiên, tôi chỉ muốn nói là chánh quyền đã cổ võ cho lý thuyết Nhân Vị trên cơ sở thần học Thiên Chúa giáo mà ở Tây Phương chỉ là một lý thuyết "hạng nhì" không mấy người biết tới (ai có biết tên sách của Mounier!).



Đến khi bộ Thiền Luận ba quyển của Đại sư Suzuki được Trúc Thiên và Tuệ Sĩ dịch ra tiếng Việt, thế hệ thanh niên có gia đình theo đạo Phật biết tên những thiền sư như Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, Triệu Châu, Lâm Tế… Trần Nhân Tôn, Tuệ Trung ... và bắt đầu hiểu tại sao trong hai ngàn năm qua, Phật Giáo đã là nền tảng tâm linh vững chắc của dân tộc. Đó là chưa kể đến các triết gia tại Đại Học Vạn Hạnh, quy tụ quanh tập san Tư Tưởng, như Tuệ Sĩ, Ngô Trọng Anh, Chân Pháp, LM Lê Tôn Nghiêm và nhất là Phạm Công Thiện, đã cho trí thức thấy rõ Hố Thẵm Triết Lý Tây Phương và Hoàng Hôn của Những Thần Tượng. Công mở đầu thời khai sáng này trước tiên phải là công của Nhất Hạnh.  

Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964

Tiếng gọi
 Sáng hôm nay
 tới đây
 chén trà nóng
 bãi cỏ xanh
 bỗng dưng hiện bóng hình em ngày trước
 bàn tay gió
 dáng vẫy gọi
 một chồi non xanh mướt
 nụ hoa nào
 hạt sỏi nào
 ngọn lá nào
 cũng thuyết Pháp Hoa Kinh 
 

Beckoning 
 This morning’s dawn
 And I am here
 A cup of steaming tea
 A green lawn
 Your sudden image
 from long ago
 Your hands or the wind
 beckoning
 the shining of the tree’s new bud
 flower leaf and pebble
 all recite
 the Sutra of Lotus

Một trong tập truyện kể lại quá trình xây dựng Phương Bối Am, tựa làNẽo Về Của Ý, đã quyến rũ nhiều trí thức và nghệ sĩ và đã có một người xuất gia sau khi đọc tác phẩm này. Bản dịch Fragrant Palm Leaves do nhà xuất bản Parallax xuất bản vào năm 1998 cho thấy quá trình chứng ngộ của Nhất Hạnh trước khi nhà sư này dấn thân vào cơn gió bụi lịch sử. Đọc xong tôi nhớ đến câu thơ của Thái Hư: Phồn hoa ngã bất hoài vinh nhục.  

Nhất Hạnh và Trịnh Công Sơn: Thơ Nhạc Phản Chiến   
                  
Tình yêu là thiên thu. Triết lý là vĩnh cửu và lịch sử chỉ là một sát na trong dòng sông vô thường. Nhưng nếu không có Ca Khúc Da Vàng, Trịnh Công Sơn (TCS) cũng chỉ là một trong những nhạc sĩ tài hoa khác trong lịch sử âm nhạc Việt Nam. Ca Khúc Da Vàng giúp anh chiếm một địa vị duy nhất trong trái tim của từng người Việt Nam, những người biết thương xót trước đau thương và phẫn nộ với bất công.

Từ năm 1964 trở đi, khi chiến tranh bắt đầu leo thang, phản ứng của thế hệ thanh niên thập niên 60 tại miền Nam rất rõ ràng. Trong dịp kỷ niệm 10 năm chia cắt đất nước, Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn tổ chức một đêm không ngủ lớn chưa từng thấy. Sau các buổi thuyết trình và hội thảo, sinh viên lên tiếng yêu cầu chánh phủ hai miền Nam Bắc tìm một biện pháp thương thuyết để giải quyết chiến tranh và chấp nhận việc chia cắt đất nuớc tạm thời. Nói như TCS, họ kêu gọi hai bên "chối từ chém giết anh em".

Vào ngày 20 tháng 8 năm 1964, Tổng Hội Sinh Viên Huế công khai chống hiến chương Vũng Tàu của Tướng Khánh và cương quyết bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, tuyên bố là dù chọn con đường chiến tranh hay hòa bình, nhân dân hai miền sẽ phải đóng vai trò quyết định.
 Chính chúng ta phải có mọi quyền
 Quyết chối từ chém giết anh em
 Chính chúng ta phải nói Hoà Bình
 Đứng lên đòi thống nhất anh em

Người đầu tiên phát động văn nghê phản chiến ở miền Nam là Nhất Hạnh. Khi tháp tùng phái đoàn sinh viên Vạn Hạnh đi cứu trợ các vùng thượng nguồn sông Thu Bồn vào năm Giáp Thìn, Nhất Hạnh chứng kiến tận mắt tình cảnh khốn khổ của người nông dân sống trong gọng kềm quốc-cộng. Khi được hỏi là họ ủng hộ "phe nào", người nông dân trả lời:  
 Tôi không theo quốc gia
 Tôi không theo giải phóng
 Tôi chỉ theo người cho tôi sự sống

Bài thơ Ruột Đau Chín Khúc của Nhất Hạnh đăng trên tờ Thiện Mỹ ngày 9 tháng 2 năm 1965, đã mở màn cho những phong trào văn nghệ hoà bình.
Hình ảnh và ngôn ngữ của văn nghệ phản chiến lúc đó, như trong 10 bài Tâm Ca của Phạm Duy, còn nhẹ nhàng như những "Giọt mưa trên lá, nước mắt mẹ già, lả chả đầm đìa trên xác con lạnh giá". Bài “kẻ thù ta đâu có phải là người; giết người đi thì ta ở với aicảm hứng từ bức thư ngỏ của Nhất Hạnh gởi Mục Sư Martin Luther King, có tánh cách triết lý. Hòa bình chỉ là những ước mơ "Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng giàhay "đến bao giờ tôi nói được những điều tôi ước mơ".
Cũng thế, hình ảnh trong các bài hát phản chiến đầu tiên của TCS như bài Đại Bác Ru Đêm vẫn còn hiền lành, pha một chút lãng mạn.
 Đại bác đêm đêm dội vào thành phố
 Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe

Nhưng đến khi hỏa châu không còn cháy sáng trên núi mà càng ngày càng đến gần vòng đai tỉnh lỵ, khi tên của các trận đánh lớn càng lúc càng dồn dập: Chu Prong, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả, chiến khu D. Rồi Tết Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa ở Quảng Trị, Xuân Lộc, hình ảnh trong Ca Khúc Da Vàng càng thêm hãi hùng. Nạn nhân chiến tranh không còn là những người lính bất hạnh bắt buộc phải cầm vũ khí “nếu không giết đối phương thì cũng bị đối phương giết” mà có xác người còn thơ ngây, có xác người già yếu, nằm chết vội vàng dọc theo biên giới, dưới mái hiên chùa, trong giáo đường thành phố.

Nhưng có một biến cố làm TCS xúc động nhất là khi Nhất Chi Mai tự thiêu hiến thân làm đuốc cho Hòa Bình trong ngày Phật Đản năm 1967. Hai câu thơ Sống mà không được nói. Chết mới được ra lời đã làm TCS cảm hứng bài Hãy Sống Dùm Tôi. Nhất Chi Mai nhắc đến vụ tự thiêu của một giáo sĩ Quaker người Mỹ, Bill Morrison, vào ngày 2 tháng 11 năm 1965 trước cổng Ngũ Giác Đài. Morrison tẩm xăng đầy người, một tay bật diêm quẹt, tay bên kia dơ cao đứa con hai tuổi. Đến nay vẫn chưa ai biết là Morrison cố ý quăng đứa con ra ngoài biển lửa hay đó chỉ là một phản xạ khi lửa bắt đầu thiêu đốt thân ông. Ngôn ngữ bài Hãy Sống Dùm Tôi vừa đau đớn, vừa quyết liệt và phẫn nộ.
 Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi
 Thịt da này dành cho thù hận, cho ngông cuồng, cho tham vọng của một lũ điên.
Link: http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/hay-song-gium-toi-khanh-ly.0CAOtw2iGJ.html

Cho tham vọng của một lũ điên là lời kết án còn nặng hơn lời kết án trong Gia Tài Của Mẹ, gọi những người chủ chiến của cả hai miền là"một bọn lai căng, một lũ bội tình". Tuy nhiên, giống như triết lý bất bạo động của Gandhi, TCS không hề kết án hay nặng lời với ai. Chống đối hành động bạo tàn mà không kết án người hành động bạo tàn. Cho phép tôi dùng từ ngữ tiếng Anh cho rõ nghĩa hơn, chống đối "the DEEDchớ không oán hận "the DOER". Tôi nghĩ không phải là anh không có những giây phút tuyệt vọng "Ta ơi đừng tuyệt vọng", khi chứng kiến chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, nhưng luôn hy vọng những chủng tử từ bi nơi con người. Anh luôn mong muốn "lũ con cùng cha, quên hận thù", mong tất cả có một đời sống "không thù hận"

Cũng như Nhất Hạnh, anh bị cả hai bên đối xử tồi tệ. TCS kể là khi Khánh Ly đệm bài Gia Tài Của Mẹ vào các tình khúc khác để hát tại một phòng trà ở Đà Lạt, Sơn kể: "các toa biết không, sau bài hát có một người đi lên sân khấu, chỉ mặt moa và nói: Anh ở ngoài Bắc mới nhảy dù vào Nam phải không? Sau đó moa mới biết ông ta là Nguyễn Phú Đức, quan sát viên của VNCH tại LHQ". Chị Trần Tuyết Hoa, một người bạn trong phong trào sinh viên Phật Tử tranh đấu, kể lại trong hồi ký "40 năm âm nhạc TCScho biết là sau khi Ca Khúc Da Vàng được trình diễn tại trung tâm Quảng Đức, một sinh viên thân MTGP đánh tiếng là các anh trong mật khu "không hài lòngvới hai chữ "nội chiếntrong Gia Tài Của Mẹ. Các anh trong mật khu không hài lòng thì mặc các anh, bài Gia Tài Của Mẹ đã trở thành Đồng Dao lan tràn hang cùng ngõ hẽm trên khắp thành phố miền Nam.  

Vào khoảng đầu năm 1967, anh Trần Viết Ngạc đến rủ tôi đi gặp TCS. Ngạc có liên hệ với nhóm Việt Nam Việt Nam của Lê Văn Hảo ở đại học Huế, và nhóm dân tộc tự quyết với thi sĩ Thái Ngọc San. Anh vừa là đồng nghiệp vừa có chút liên hệ gia đình. Tôi không tin vào vận may của mình, tự nhiên có cơ hôi được gặp nhạc sĩ mà những bản tình ca như Nhìn Những Mùa Thu Đi, Diễm Xưa, Mưa Hồng, Như Cánh Vạc Bay đã từng làm say mê cả thế hệ thanh niên mới lớn như chúng tôi. Chúng tôi hẹn đi ăn trưa ở một quán ăn bình dân trước trường Đại Học Văn Khoa cũ ở đường Nguyễn Trung Trực.

Trong quán ăn bình dân, khách ăn thì cứ ăn, dưới sàn chuột chạy thì cứ chạy. Các sinh viên công chức nghèo đều biết quán này. Sau đó chúng tôi về nhà anh Trần Đại Lộc, người phụ trách chương trình Sinh Hoạt Nhạc Trẻ của Phong Trào CPS để ngủ trưa. Chúng tôi nằm trên bộ ván ngựa nghe băng Ca Khúc Da Vàng mà TCS thâu trong băng nhựa lớn. Khi nghe đến câu "Khi đất nước tôi không còn chiến tranh, mẹ già lên núi tìm xương con mình" tôi còn nhớ cảm giác lạnh lẽo như đang ở trong nhà mồ. Lúc đó tôi ở trong một phòng nhỏ ở Trung Tâm Quảng Đức. TCS nhờ tôi xin thầy Thiện Minh tổ chức đêm nhạc tại trụ sở Tổng Vụ Thanh Niên. Chuyện đó không có gì khó khăn vì tôi bắt đầu thân thiết với anh Hoàng Văn Giàu, một đệ tử thân tín của Thầy. Sau đó mọi chuyện xảy ra trở thành lịch sử. Ca Khúc Da Vàng được hát khắp ngang cùng ngõ hẻm, đã trở thành Đồng Dao, trở thành nhịp đập của cả thế hệ trẻ ở miền Nam. Tôi là một trong số ít người may mắn được nghe Ca Khúc Da Vàng đầu tiên và có được ấn bản đầu tiên in tay và chữ ký của TCS.

Ước vọng của TCS là tất cả có được "một đời sống không mang thù hận". Như trong kinh Bát Đại Nhân Giác, rất khó mà không ghét kẻ thù của mình. Nhưng nhớ đến lá thư của Nhất Hạnh gởi cho Martin Luther King: kẻ thù ta đâu có phải là người! 

Để kết thúc, tôi xin dẫn hai câu thơ của Tô Thùy Yên
 Này chén rượu hồng xin rưới xuống
 Giải oan cho cuộc bể dâu này

Quán Như - 30.08.2007
(Nguồn: Chuyenluan.net )